Tối hôm đó, Khương Trầm Ngư về tới nhà, kể chuyện này với phụ thân và huynh trưởng, Khương Hiếu Thành trợn tròn mắt, kinh hãi nói: “Muội nói gì?
Muội và Họa Nguyệt cùng công chúa đến Càn Tây cung thăm Tiết Minh, còn đồng ý giúp nàng ta cứu Tiết Thái?”.
Khương Trầm Ngư gật đầu. Khương Hiếu Thành suýt nữa nhảy dựng lên, phản ứng đầu tiên chính là: “Muội điên rồi à? Muội biết rành rành hoàng thượng bây giờ muốn trừ bỏ tận gốc Tiết gia, muội còn cướp người trong vuốt hổ?
Muội chán sống rồi phải không?”
So với sự kích động của Hiếu Thành, Khương Trọng thâm trầm mưu kế vẫn bình tĩnh hơn nhiều, trầm ngâm nói: “Trong gia tộc Tiết thị, Tiết Hoài tuy là thần tướng, nhưng tuổi đã già; Tiết Minh tuy là hoàng hậu, nhưng đã bị phế truất, Tiết Hoằng Phi tuy thiện chiến, nhưng chỉ là nghĩa tử… Đúng là chỉ còn lại Tiết Thái. Có điều, tuổi vẫn còn quá nhỏ, khó nói được tương lai ra sao. Tại sao con phải giữ lại huyết mạch Tiết thị cho bằng được?”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, nói rành rọt, dứt khoát hai tiếng: “Lập địch”.
“Lập làm kẻ địch của ai?”.
“Khương gia, Cơ gia, còn có… hoàng thượng”.
Khương Trọng bỗng ngộ ra: “Hóa ra là thế… Con muốn dùng Tiết gia để kiềm chế Cơ gia, không để họ tiếp tục lớn mạnh?”.
“Chính là thế, trong ba đại thế gia, hễ Tiết gia diệt vong, chỉ còn lại hai nhà Khương, Cơ, cho dù nhìn từ mặt nào, Khương gia chúng ta cũng không phải là đối thủ của Cơ gia, mà hoàng thượng vừa không tín nhiệm cũng chẳng gần gũi chúng ta, suy yếu chỉ là chuyện sớm muộn. Tuy hoàng thượng coi trọng Cơ thị, nhưng có tấm gương tày liếp thế mạnh lấn chủ của Tiết gia, ngài chắc chắn sẽ không để cho Cơ gia lớn mạnh. Cho nên, từ điểm này mà nói, chúng ta thực ra cũng giống như hoàng thượng, đều cần một mắt xích để kiềm chế Cơ gia. Thử hỏi, hiện nay còn có thứ gì thích hợp hơn đứa con côi của họ Tiết?”.
Lúc này, đến Khương Hiếu Thành cũng hiểu ra, ánh mắt bắt đầu sáng lên, nhưng vẫn u mê hỏi: “Tiết Thái còn nhỏ thì có thể làm được gì? Sao có thể kiềm chế được Cơ Anh? Huynh không tin”.
Khương Trầm Ngư cười nhạt một tiếng: “Nếu như hoàng thượng ban Tiết Thái cho Cơ Anh thì sao?”.
Khương Hiếu Thành ngẩn ra một lát, rồi nhảy lên nói: “Sao có thể?”.
“Sao lại không thể? Nếu như hoàng thượng không giết Tiết Thái, vậy thì đối với ngài mà nói, còn có chỗ nào an toàn hơn, cũng nguy hiểm hơn ở bên cạnh Kỳ Úc hầu? Ngài ban hắn cho Cơ Anh, bởi vì ngài tín nhiệm Cơ Anh, cho nên mới giao mối lo lắng cho thần tử mình tín nhiệm nhất, tin rằng người đó nhất định sẽ trông chừng Tiết Thái cẩn thận, không để hắn tự ý làm bừa; nếu như hoàng thượng không tín nhiệm Cơ Anh, vừa hay có thể mượn việc này để thử thách lòng trung thành của Cơ Anh, xem xem công tử đối đãi với Tiết Thái ra sao, là bồi dưỡng hắn thành tài, hay là vùi dập hắn?”.
“Nhưng hoàng thượng không có lý do gì để không giết Tiết Thái cả!”.
Ánh mắt Trầm Ngư sầm xuống, giọng chắc nịch: “Vậy chúng ta hãy tìm cho ngài một lý do không thể không giữ Tiết Thái lại.”
Khương Trọng ngần ngừ rất lâu, cuối cùng mới than thật khẽ: “Kế này tuy hay, nhưng vi phụ luôn cảm thấy không ổn. Bởi vì, nếu là do chúng ta ra mặt cứu Tiết Thái, há chẳng phải tuyên bố với hoàng thượng, chúng ta không trung thành với ngài? E rằng không đợi Cơ gia lớn mạnh, hoàng thượng đã khai đao với chúng ta trước rồi…”.
Khương Hiếu Thành bỗng mở miệng cười ha ha. Khương Trọng nhíu mày, nói: “Con cười cái gì, Hiếu Thành?”.
“Lo lắng của cha thật buồn cười, chỉ dựa vào chúng ta, có thể cứu được Tiết Thái sao?”.
Gương mặt già nua của Khương Trọng trong giây lát tối sầm lại, thằng nhãi này quả nhiên ngốc đến sẽ mức phá đám người nhà mình.
Khương Trầm Ngư biết ý, vội vàng xoa dịu: “Cha đừng giận, điều ca ca nói đúng là sự thực. Chuyện của Tiết Thái đương nhiên chúng ta không thể ra mặt, kỳ thực, Trầm Ngư đã nghĩ đến lựa chọn tốt nhất”.
“Ai?”.
Khương Trầm Ngư nói: “Kỳ Úc hầu”.
Khương Trọng lắc đầu: “Không thể nào, cho dù hoàng thượng có lý do tha cho Tiết Thái, Cơ gia cũng không vì lý gì mà cứu nó, một khi Tiết thị bị diệt, trong triều sẽ không có người đối kháng với Cơ gia, y hà tất làm chuyện thừa thãi, tự gây phiền phức cho mình?”.
“Cha có muốn… đánh cược với con một lần không?”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, hai mắt sáng rỡ, kiên định lạ thường, cũng tự tin lạ thường, “Con gái đặt cược vào công tử, chàng nhất định sẽ cứu Tiết Thái!”.
Cùng với câu nói này, mọi việc đã được định đoạt.
Ngày hôm sau, một phong thư được cung kính đưa đến phủ hầu gia, giờ Mùi, cỗ xe ngựa thêu hình Bạch Trạch y hẹn xuất hiện tại phía ngoài Thanh Cương tự cách kinh thành mười dặm.
Rèm xe khẽ vén lên, quả nhiên là Cơ Anh bước ra. Hai nhà sư dẫn đường cho chàng đến thẳng sân sau chùa mới khom mình lui ra.
Trong sân, dưới bóng cây cổ thụ, trên mặt bàn đá là một bình trà mới vừa châm.
Đôi bàn tay thon thả nhấc ấm trà kỳ lân hoa lê hoa cúc trên lò lên, dùng ngón cái, ngón trỏ nâng chén, ngón cái ấn nắp, nhấc ấm lên, gạt nhẹ một cái men theo khay trà, gạt bỏ những giọt nước bám đáy ấm, lại rót trà mới pha màu xanh nhạt vào trong chén.
Khi thực hiện một loạt động tác này, tay áo màu tím nhạt nhẹ nhàng phất phơ, tư thế mỹ lệ tựa tiên nữ, chẳng khác người trong tranh.
Cơ Anh chăm chú nhìn người đó, bất động.
Người đó quay đầu lại mỉm cười với chàng, nói: “Bình sinh vu vật chi vô thủ tiêu thụ sơn trung thủy nhất bôi (1) . Chẳng hay loại trà Ngưỡng Thiên Tuyết Lục ngâm trong mai tuyết lâu năm này có hợp khẩu vị của công tử không?”.
Dưới những gốc mai nhấp nhô, chỉ thấy người đó eo Sở tóc Vệ mày ngài mi xanh, dịu dàng yểu điệu, khiến người ta ngắm nhìn mà kinh ngạc. Không phải ai khác, đó chính là Khương Trầm Ngư.
Cơ Anh “chà” một tiếng, chợt mỉm cười: “Trà ngon như thế, Anh đương nhiên phải tạ lĩnh.”
Khương Trầm Ngư đưa tay ra mời, lại đẩy chén trà đã rót đến trước mặt chàng. Tuyết đã ngừng rơi, trời cao xanh ngắt, chỉ cảm thấy ở nơi này, hồng trần thế tục hết thảy đều cách xa. Hai người cứ thế mặt đối mặt, lặng lẽ thưởng trà, một lúc lâu không ai nói gì.
Cuối cùng, vẫn là Trầm Ngư lên tiếng trước: “Trầm Ngư vượt phận, mạo danh gia phụ để hẹn công tử tới đây, dám mong công tử lượng thứ”.
Cơ Anh cười nhàn nhạt: “Tiểu thư hẹn Anh tới, tất có chuyện, đã là có chuyện, là ai hẹn cũng có quan hệ gì đâu?”.
Khương Trầm Ngư không tiếp lời ngay, nàng cúi xuống nhìn chén trà trong tay, lại im lặng một lúc, cuối cùng hít một hơi thật sâu tựa như đã hạ quyết tâm, ngẩng đầu lên nói: “Công tử có biết tên của Thanh Cương tự này là từ đâu mà có không?”.
Cơ Anh hơi ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Nếu như ta nhớ không nhầm…
chùa này là do Băng Ly công tử đặt tên”.
“Không sai, cái tên này, thậm chí cả hoành phi trước chùa, cũng đều từ Tiết Thái mà ra. Năm Băng Ly công tử lên bốn, cùng người nhà ra ngoài du xuân, không cẩn thận đi lạc trong núi, đương lúc đói đến sắp ngất đi, ngẫu nhiên gặp một giai nhân. Giai nhân này soi đèn đưa hắn đến đây, hòa thượng trong chùa phát hiện ra một đứa trẻ bị ngất ở ngoài cửa, liền cứu hắn. Sau khi tỉnh dậy, hắn cảm cái ơn đó, nhớ đến người kia tự xưng là Thanh Cương, bàng hoàng tỉnh ngộ, hóa ra nàng là Thanh Cương nữ – yêu quái cuối cùng trong “Sơn hải kinh”(2) bèn tặng chùa này cái tên đó”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, ngừng lại một lát mới tiếp: “Đứa trẻ bốn tuổi có thể có được duyên kỳ ngộ như thế, thật khiến chúng ta hâm mộ”.
Cơ Anh cười nói: “Cho dù là duyên kỳ ngộ, nếu chẳng phải một kỳ nhân như hắn, thì cũng không thể thành giai thoại”.
Khương Trầm Ngư chỉ khối đá bên cạnh nói: “Vậy công tử có biết gốc tích của khối đá ‘Bão Mẫu’ này?”.
“Đương nhiên, nói ra vẫn là có liên quan đến Băng Ly công tử. Hắn được tăng nhân trong chùa cứu sống, sau đó ngày ngày ngóng người nhà đến tìm, nhớ nhung ơn mẹ, viết thành bài ‘Bão mẫu ngâm’ vang danh bốn nước, khối đá này được đặt tên như vậy là để kỷ niệm bài thơ đó của hắn”.
“Anh anh trĩ nhi, phát sơ phúc ngạch. Thực mẫu chi nhũ, nhân mẫu hỉ lạc.
Kiệt kiệt đồng tử, kỵ trúc cao ca. Mẫu hoán quy gia, yếm mẫu hà trách. Lãng lãng thanh sam, dị hương chi khách. Tụ khai bào liệt, ức mẫu châm hạp. Thương thương lão ông, lệ vô hà già, mộ tiền khô thảo, dĩ một hành xa…” (Trẻ thơ non nớt, tóc vừa để chỏm. Uống sữa của mẹ, vì mẹ mừng vui. Ngây thơ con trẻ, cưỡi tre hát vang. Mẹ gọi về nhà, chê mẹ trách móc. Áo xanh sáng ngời, lữ khách tha hương, áo rách tả tơi, nhớ đường kim mẹ. Ông già tóc bạc, lệ tràn khóe mi, cỏ khô trước mộ, đâu nào dấu xe). Khương Trầm Ngư thong thả nói, “Thuở sơ sinh bám lấy mẫu thân, thuở còn thơ lại chê mẫu thân phiền hà, khi trưởng thành rời xa mẫu thân, già rồi trở về khó mà gặp mẫu thân… Sáu mươi tư chữ ngắn ngủi đã nói hết một đời của một cặp mẹ con. Mà hắn khi đó chỉ mới bốn tuổi”.
Lần này đến lượt Cơ Anh trầm ngâm.
Trà trong ấm sôi ùng ục, đẩy nắp ấm kêu lục cục, thoảng có cơn gió thổi qua núi rừng, xào xạc xào xạc. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn chàng, trong mắt chất chứa muôn vàn tình cảm, tựa như cân nhắc vạn điều, cuối cùng mới kết thành một câu: “Công tử, xin ngài,… cứu hắn”. Nói rồi, nàng quỳ xuống.
Cơ Anh nhìn nàng, đáy mắt dường như bình tĩnh, nhưng lại có sự mơ hồ khó che giấu, cuối cùng khẽ thở dài một tiếng.
Khương Trầm Ngư cắn môi nói: “Công tử tai mắt vô số, tất nhiên đã biết chuyện hôm qua ta cùng tỉ tỉ và công chúa đến lãnh cung thăm hoàng hậu. Khi ngài nhận được thư mời hẳn đã đoán được chúng ta tìm ngài là vì việc gì. Công tử vốn có thể không đến, nhưng công tử đã đến, có nghĩa là chuyện này có thể thành, đúng không?”.
Cơ Anh đưa mắt nhìn khối đá có tên “Bão Mẫu”.
“Công tử, ngài mô᪄ìn, bỏ mặc không cứu, như vậy há chẳng phải là làm cho học sĩ trong thiên hạ sờn lòng sao?”.
Cơ Anh đáp: “Mời tiểu thư đứng dậy”.
Khương Trầm Ngư không đứng lên, tiếp tục nói: “Nếu là người khác, ta cũng sẽ không cầu xin. Nhưng duy chỉ có ngài, chỉ có ngài, ta biết ngài có thể cứu hắn, cho nên mới to gan mở miệng. Công tử, với hoàng thượng mà nói, Tiết Thái chẳng qua chỉ là một đứa trẻ ranh trong nhà một kẻ nghịch thần, nhưng đối với thiên hạ mà nói, lại là chí bảo kỳ trân, chém đầu hắn sẽ không thể có được một kẻ thứ hai”.
Cơ Anh dường như bị câu cuối cùng làm lay động tâm tư, trên gương mặt lóe lên một thoáng dị thường, khi nhìn nàng, trong ánh mắt dường như chất chứa thêm rất nhiều thứ, những thứ đó sáng lóa, nhảy nhót, cuối cùng ngưng kết thành sự tiếc thương: “Nàng nói không sai, Tiết Thái đúng là chỉ có một…”. Cơ Anh nhắm mắt rồi lại mở mắt ra, đứng dậy nói: “Đời người trăm năm, thù nước hận nhà, đối với dòng sông lịch sử mà nói, chẳng chỉ là một hạt thóc giữa biển xanh, chớp mắt đã biến mất. Nhưng văn thái phong lưu lại có thể lưu danh muôn đời, trường tồn mãi mãi. Anh tuy bất tài, cũng không thể nhìn Hòa bích Tùy châu tan thành cát bụi. Ta nhận lời nàng, Khương tiểu thư, ta sẽ cứu Tiết Thái”.
Ta sẽ cứu Tiết Thái.
Năm tiếng này, từng tiếng cương nghị, vang lên rành rọt.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, nhìn chàng chằm chằm, trong mắt loang loáng ánh lệ.
Canh bạc này… nàng thắng rồi.
Bởi vì, công tử chuộng tài, mà Tiết Thái chính là ngọc chất lương tài trăm năm khó gặp. Cái nàng cược chính là tấm lòng quý trọng nhân tài của công tử, mà chàng quả nhiên không phụ sự kỳ vọng của nàng, cuối cùng đã nhận lời cứu giúp.
Nàng biết, kỳ thực với địa vị thân phận của chàng, với hoàn cảnh của chàng, cần quá nhiều hy sinh mới có thể đồng ý chuyện này, tuy nàng đoán được chàng sẽ mềm lòng, nhưng vẫn cảm động vì sự mềm lòng này.
Công tử à, không hổ là công tử mà nàng vẫn ngưỡng mộ nhung nhớ bấy lâu… khoan dung đại độ như thế, vứt bỏ tu lợi như thế, phẩm đức hoàn mỹ không tì vết như thế, chỉ có chàng…
Nhưng, nhưng, nhưng mà…
Mây mù trùng trùng giăng bủa, Khương Trầm Ngư nghĩ, có lẽ nàng sắp khóc đến nơi rồi. Trong lòng như bị dao cứa, một nơi nào đó đang ứa máu, bởi vì cảm động, bởi vì yêu thương, càng bởi vì hổ thẹn: Công tử, chàng cứu Tiết Thái tuy là đại nghĩa, Khương Trầm Ngư ta lại là vì tư tâm. Bởi vì, nếu Tiết gia bị diệt, Cơ gia tất thịnh, Khương gia sẽ suy, cứ như vậy liên hôn hai nhà Khương, Cơ sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại.
Mà ta làm sao có thể trơ mắt nhìn hôn sự này chết yểu?
Cho nên, ta chỉ có thể nhân khi mối hiểm nguy này chưa xuất hiện mà triệt để phá hủy, nắm chặt không buông.
Công tử, ta không thể buông tay. Nếu ta buông tay là sẽ mất chàng!
Ta phải gả làm vợ của chàng, nương tựa bên nhau, sống đến bạc đầu. Nhưng tất cả đều phải được xây dựng trên cơ sở bình bẳng. Ta không cần với cao Cơ gia, cũng không muốn những kẻ khác coi thường, cho rằng ta không xứng với chàng.
Ta muốn chàng coi ta là vinh quang, ta muốn rực sáng vô song đứng cạnh bên chàng, ta muốn tất cả người trong thiên hạ đều nói: Trầm Ngư của Khương gia và Kỳ Úc của Cơ gia đúng là một cặp trời sinh!
Cho nên, ta chỉ có thể làm ra chuyện đê tiện này.
Ta chỉ có thể cản trở tiền đồ của chàng như thế này. Xin lỗi, công tử, xin lỗi…
Bởi vì yêu chàng, vì ta yêu chàng, vì… ta yêu chàng một cách vừa cố chấp vừa hèn mọn như thế…
Khương Trầm Ngư cụp mắt, hàng mi không ngừng run rẩy tựa cánh bướm, trong lòng cố nén nỗi bi thương.
Nhưng chính lúc đó, nàng nghe thấy Cơ Anh nói: “Hóa ra nơi này có cây hạnh…”.
Nàng ngẩng đầu, thấy Cơ Anh đứng cạnh bàn, chăm chú nhìn một gốc hạnh cách đó không xa, khi ấy đông lạnh vừa qua, tiết trời vẫn chưa hoàn toàn ấm áp, cành cây trơ trụi, không hề đẹp mắt. Nhưng dường như chàng lại nhìn thấy cảnh tượng tươi đẹp hoa xuân nở rộ vạn vật tốt tươi, ánh mắt trở nên vô cùng vô cùng dịu dàng.
Trong lòng nàng run lên, không kiềm được hỏi: “Công tử thích hoa hạnh ư?”.
“Ừ”. Sau âm mũi trong, mềm đó, lại nhấn mạnh bổ sung một câu, “Vô cùng thích”.
Hóa ra công tử thích hoa hạnh, không biết tại sao, cảm thấy có chút kỳ lạ, nàng luôn cảm thấy công tử tao nhã cao quý như thế, đáng lẽ sẽ thích một loại hoa nào đặc biệt hơn mới đúng.
“Có chút bất ngờ, ta tưởng rằng công tử thích hoa anh đào”.
“Lẽ nào nàng thực sự thích cỏ Ngu mỹ nhân?”. Cơ Anh hỏi ngược lại, xem ra chàng cũng nhớ đến câu đối trong canh thiếp đó.
Khương Trầm Ngư mỉm môi cười nói: “Lãnh diễm toàn khi tuyết, Dư hương tạc nhập y” (4).
“Hóa ra nàng thích hoa lê…”. Cơ Anh nhìn cây hạnh đó chậm rãi nói: “Thật tốt, qua một tháng nữa, hai loài hoa đều nở”.
Trong lòng Khương Trầm Ngư thoáng xao động, bèn nói: “Tháng tư hàng năm, đế đô đều có lễ thưởng hoa long trọng, vạn sắc nghìn hương, trong đó Hồng viên là đẹp nhất. Năm nay công tử, liệu có muốn… đi cùng ta không?”.
Cơ Anh dường như sững người một lát, khiến nàng trong chốc lát có cảm giác hối hận vì mình đã đường đột, mình chủ động mời một nam tử đi thưởng hoa như thế, liệu có quá… bạo dạn chăng?
Nhưng công tử đúng là công tử, hiển nhiên, chàng tuyệt đối không để người khác khó xử, đặc biệt là làm nữ tử khó xử, thế nên chàng nhếch khóe môi, dịu dàng nói: “Đây là vinh hạnh của Anh”.
Trái tim của Khương Trầm Ngư nhảy thình thịch mấy nhịp, sự bất an và bối rối trong nháy mắt đã lui đi, thay vào đó là một tình cảm dịu dàng khó tả thành lời. Nàng nhìn nam tử đứng trước mặt, chỉ cảm thấy toàn thân chàng từ đầu xuống chân, không chỗ nào là không hoàn mỹ, mọi thứ đều phù hợp với tâm ý của nàng, khiến nàng vui mừng. Còn một tháng… một tháng nữa, nàng sẽ có thể cùng công tử sánh vai đi ngắm hai loài hoa mà họ thích nhất.
Đến lúc đó, lê trắng hạnh đỏ, chiếu rọi lẫn nhau, tất sẽ giống như chàng và nàng, liên câu hợp bích, hoa nở đã rực rỡ lại càng thêm rực rỡ…
Mười ngày sau, quân chủ Bích quốc Chiêu Doãn đóng quân ở phía bắc sông Hoài đang chuẩn bị tấn công chính điện vào đại quân của Tiết Hoài, đột nhiên nhận được thư do quân chủ Yên quốc – Chương Hoa gửi tới, trong thư cầu xin cho Tiết Thái, khẩn thiết xin giữ lại tính mạng của hắn.
Đế vương thiếu niên đọc xong phong thư đó, ngọn lửa phẫn nộ bùng lên trong đôi mắt, xé bức thư thành hai mảnh, khiến cho đám tướng lĩnh bên cạnh nhất loạt quỳ sụp, miệng hô vạn tuế.
Lồng ngực y phập phồng nhấp nhô, qua một thời gian rất dài, mới từ từ bình tĩnh trở lại, mở miệng nói: “Các ngươi lui hết ra, trẫm muốn yên tĩnh một lúc”.
Đám tướng lĩnh lục tục lui ra, trong doanh trướng chỉ còn lại mình y. Ánh mắt y lóe sáng, gọi: “Điền Cửu”.
Một bóng đen từ trên mái nhà bay xuống, phủ phục dưới đất, thưa: “Có”. “Chuyện này là thế nào?”. Chiêu Doãn ném bức thư xuống trước mặt hắn.
Điền Cửu nhặt hai mảnh giấy lên, ghép lại đọc một lượt, thấp giọng nói: “Nghe nói Khương quý nhân và công chúa từng đến lãnh cung thăm hoàng hậu”.
Chiêu Doãn cười lạnh: “Ngươi cho rằng hoàng hậu viết thư cầu xin Yên vương? Nếu nàng ta thực sự có thể liên hệ với thế giới bên ngoài, đám thị vệ trong cung đều không cần sống nữa”.
Điền Cửu biết hoàng thượng đang nổi giận, một câu trả lời không thận trọng sẽ vạ lây muôn người, lập tức đáp: “Thiên hạ đều biết Yên vương yêu thích Tiết Thái, vì thân phận đặc biệt, không thể thu nhận làm nghĩa tử mà hắn tuổi còn quá nhỏ, không thể chiêu nạp làm con rể, vì chuyện này Yên vương nuối tiếc đã lâu. Hẳn là nghe được chuyện về Tiết thị, nên mới đặc biệt cầu xin…”.
Chiêu Doãn trầm ngâm, cuối cùng “hừ” một tiếng.
Điền Cửu dè dặt nói: “Hoàng thượng định làm thế nào?”.
“Trẫm còn có thể làm thế nào? Bức thư này bề ngoài là khách sáo cầu xin, kỳ thực là uy hiếp. Yên vương rõ ràng biết nước ta nội loạn, tuy e ngại bang giao hai nước nên không tiện vọng động, nhưng trong lòng không chừng đã nghĩ nên chia bát canh này như thế nào! Nếu ta không nhận lời giữ lại Tiết Thái, e là ngày mai hắn sẽ tuyên bố giúp Tiết Hoài thảo phạt tên hôn quân là ta!”. Sắc mặt Chiêu Doãn cực kỳ khó coi, y đảo mắt, biểu tình càng u ám hơn.
Điền Cửu không dám tiếp lời, đành cúi thấp đầu.
Yên lặng như thế một lúc, Chiêu Doãn chợt nhếch môi cười nói: “Cũng được. Các ngươi đều hy vọng trẫm giữ lại nó, vậy thì trẫm giữ lại nó thôi”.
Điền Cửu vẫn cẩn thận giữ yên lặng như trước, hắn theo Chiêu Doãn đã bảy năm, quá hiểu cách của vị chủ tử này, nếu thực sự trừng mắt trợn mài giận vẫn còn tốt, sợ nhất là bộ dạng nửa cười nửa không như lúc này, mỗi lần hoàng thượng có dáng vẻ này, tức là có người sắp gặp xui xẻo.
“La Hoành”. Chiêu Doãn truyền gọi đại thái giám thân cận: “Thay trẫm tuyên chỉ, nói Tiết Hoài tuy làm phản, tội liên lụy đến con cháu, nhưng trẫm niệm ân xưa, đặc biệt mở một con đường sống, miễn tội chết cho Tiết Thái, ban hắn làm nô lệ cho Cơ Anh, mong công tử hãy thay trẫm quản giáo cẩn thận”.
La Hoành hơi do dự một lát: “Hoàng thượng…”.
“Cái gì?”.
“Ban Tiết Thái cho Cơ Anh, liệu có thỏa không…”.
Chiêu Doãn cười nhạt với La Hoành, mày mắt cong cong: “Thế ban cho ngươi chắc?”.
La Hoành đột nhiên toát mồ hôi lạnh, không dám nhiều lời vội vàng lĩnh chỉ lui ra.
Chiêu Doãn ra quyết định này xong, sắc mặt dễ coi hơn rất nhiều, xua tay ngầm bảo Điền Cửu có thể ẩn thân rồi, thế là bóng đen trên mặt đất loáng một cái đã mất tăm.
Y chầm chậm ngồi xuống, chầm chậm giở địa đồ hành quân trên bàn ra, truyền Phan Phương vào yết kiến. Không lâu sau, Phan Phương đã đến. Chiêu Doãn vẫy Phan Phương đến bên bàn, nói: “Ái khanh, chúng ta đã đến sông Hoài, mà giặc Tiết cũng sắp đánh đến sông Hoài, theo khanh, chúng ta sẽ giao binh ở đâu?”.
Phan Phương chỉ vào một thành nhỏ bên sông, nói: “Đương nhiên là Lạc thành”.
“Chính là nơi bêu đầu Tiết Túc?”.
“Thưa vâng”.
“Tại sao?”.
“Thứ nhất, thành này tuy nhỏ, nhưng là chốn trọng địa của nhà binh, xưa nay đều là nơi các lộ quân mã phải tranh đoạt thành cao mười trượng, ba mặt giáp sông, dễ thủ khó công, thành này nếu mất, coi như thua một nửa”.
“Còn thứ hai?”.
“Hai là…”. Phan Phương chỉ vào một nơi được khuyên đỏ trên địa đồ, “hầu gia đã bố trí thiên la địa võng trong thành, thần dám lấy đầu ra đảm bảo, chỉ cần giặc Tiết vào thành, chắc chắn sẽ chết!”.
Ánh mắt Chiêu Doãn sáng lên, không suy xét kỹ nguyên nhân, đứng dậy vỗ vỗ vào vai Phan Phương, nói: “Được, đợi diệt giặc Tiết xong, trẫm sẽ mời tướng quân ba chén, để cảm tạ trời cao đã ban một viên hổ tướng như ngươi cho Đỗ Bích”.
Phan Phương quỳ sụp xuống: “Hoàng thượng chém Tiết Túc là báo thù cho người vợ chưa cưới của vi thần, vi thần dù gan óc lầy đất, cũng khó báo đáp hoàng ân! Đến nay, thần chỉ còn một tâm nguyện chưa hoàn thành!”.
“Nói”.
Phan Phương cắn răng, giọng nói gần như nghẹn ngào: “Chính là nỗi oan của gia phụ…”.
Chiêu Doãn gật đầu: “Ngươi yên tâm, trận này đại thắng, trẫm ắt sẽ trả lại công bằng chính tôn”.
“Tạ ơn hoàng thượng”. Phan Phương dập đầu thật mạnh ba cái.
Chiêu Doãn đưa tay đỡ Phan Phương đứng dậy, cười nói: “Trận này thành công, thiên hạ ai chẳng biết ngươi… Lệnh tôn trên trời có linh thiêng, cũng sẽ ngậm cười nơi chín suối. Ngươi chớ để trẫm thất vọng…”.
Nhìn vẻ cảm động toát lên trên gương mặt Phan Phương, Chiêu Doãn mỉm cười, nhưng đôi mắt vẫn lạnh băng không gợn nét cười, y nghĩ, người này bề ngoài là thần tử của trẫm, nhưng bên trong vẫn là người của Kỳ Úc.
Nhưng không sao, nếu có một ngày không thể không chọn lựa, người này sẽ biến thành người của trẫm. Chỉ là, nếu như có thể vẫn hy vọng sẽ không có ngày đó.
Chiêu Doãn cười, ánh mắt chợt hoang lạnh.
Quân của Tiết gia cắm trại bên ngoài Lạc thành, ai ai cũng nhìn ra nơi đây sẽ diễn ra chiến dịch then chốt quyết định thắng bại, có thể đoạt được Lạc thành hay không có lẽ sẽ quyết định được thắng thua sau cùng. Một bên là Tiết Hoài danh tướng trăm năm có một, bảo đao chưa cùn, một bên là đế vương thiếu niên đắc ý, hành xử quyết đoán. Ai thắng? Ai thua? Không chỉ người Bích quốc tâm trí thấp thỏm, mà đến ba nước xung quanh cũng chú ý sát sao, thầm cảm thấy bất an.
Nhờ vào mạng lưới tình báo rộng lớn của hữu tướng phủ, Khương Trầm Ngư và phụ thân, huynh trưởng đã nhanh chóng biết tin về chiến dịch.
Nghe nói, quân của Tiết gia dọc đường thuận lợi đánh đến sông Hoài, khi nhìn thấy trên tường thành Lạc thành bêu đầu Tiết Túc, vị thần tướng tuổi gần lục tuần, tóc đã điểm sương đó đã rơi lệ. Nhưng cho dù kích động, cho dù hận chỉ muốn lập tức báo thù cho con trai, nhưng kinh nghiệm cầm quân lâu năm và chút lý trí cuối cùng đã mách bảo ông lệnh cho quân sĩ cắm trại ngoài thành, tạm thời án binh bất động.
Mà trong trận công thành trước đó, nghĩa tử Tiết Hoằng Phi vì cứu ông, vai trái trúng tên, đương phải dưỡng thương. Nhìn thấy nghĩa phụ rơi lệ, đau lòng đến mức không ăn nổi cơm bèn khuyên nhủ: “Người xưa đã mất, người sau này còn có thể tìm. Nghĩa phụ đại nhân an tâm, ngày công phá Lạc thành, hài nhi nhất định sẽ treo thủ cấp của Chiêu Doãn lên tường thành, để bẩm với anh linh của nghĩa huynh trên trời!”.
Khi ấy, Khương Trọng nói: “Đứa con nuôi này còn hữu dụng hơn cả con đẻ của Tiết Hoài, Tiết Túc nếu tốt được bằng một nửa hắn, Tiết gia có lẽ cũng không đến ngày hôm nay…”.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư lại lay động, giọng có chút thê lương: “Lời này nói ra, Tiết Hoằng Phi… chắc chắn là không sống được”.
Khương Hiếu Thành không cho là vậy: “Hắn đi theo lão tặc Tiết Hoài, mười năm nay bàn tay đẫm máu vô số, vốn đáng giết, cha và muội muội thương tiếc loại người này làm gì?”.
Khương Trọng lắc đầu than: “Tiết Hoằng Phi thiếu niên anh tài, văn võ song toàn, lại một lòng trung thành với Tiết gia, nếu con có một nửa tài năng của hắn, vi phụ ta cũng không đến nỗi lo lắng thế này”.
Ba ngày sau, Tiết Hoài hạ lệnh bắt đầu công thành.
Khi mà ai ai cũng nghĩ trận đại chiến này chắc chắn sẽ đánh đến mức trời long đất lở, nhật nguyệt tối đen, máu chảy thành sông, thây chất đầy đồng, sinh linh lầm than, thì nó đột nhiên kết thúc.
Và còn kết thúc bằng một cách bất ngờ nhất, giản đơn nhất.
Trong thư phòng, khi ám vệ thuật lại sự tình, giọng nói cũng không còn bình tĩnh như trước, mà mang theo không ít kích động: “Chính lúc trận đánh diễn ra kịch liệt nhất, Tiết Hoằng Phi vai trái còn quấn băng đã thúc ngựa chạy đến bên Tiết Hoài, vừa hét lớn ‘Nghĩa phụ, con đến giúp người’, vừa rút bảo đao bên hông ra, một đao vung lên, đầu người rơi xuống…”.
“Đầu của ai?”. Ba người trong thư phòng đồng loạt thất kinh hỏi.
“Tiết Hoài”.
Đáp án này không khác gì sét đánh giữa trời quang, Khương Hiếu Thành u u mê mê một lúc mới hiểu ra, nhảy dựng lên nói: “Ngươi nói gì? Tiết Hoài? Tiết Hoằng Phi chém đầu Tiết Hoài? Tiết Hoằng Phi chém đầu… của Tiết Hoài?”.
Y liên tiếp lặp hai lần, đến khi nhìn thấy ám vệ gật đầu, vẫn không dám tin.
Đến Khương Trọng cũng hỏi đầy vẻ kinh ngạc: “Tại sao Tiết Hoằng Phi lại làm như vậy?”.
“Hắn đột nhiên làm loạn giữa trận, một đao chém rơi đầu Tiết Hoài, tất cả đều bị biến cố này làm cho ngây dại, toàn bộ đều dừng tay. Hắn lại nhảy lên xe chém gãy quân kỳ chữ Tiết, hét lớn: ‘Đồ Bích mênh mông, quy về thiên mệnh, giặc Tiết tạo phản phải giết không tha’. Quân của Tiết gia mới sực tỉnh, biết hắn đã bán đứng họ, dùng mưa tên bắn chết hắn. Tiết Hoằng Phi trước khi chết ngửa mặt cười lớn: ‘Phụ thân, mẫu thân còn có các huynh đệ tỉ muội của ta, Thắng nhi rốt cuộc đã báo thù cho mọi người rồi!’”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày hỏi: “Báo thù?”.
“Đúng thế. Bọn thuộc hạ vừa mới điều tra ra, hóa ra hắn vốn không phải tên là Hoằng Phi, mà là Chu Thắng, con trai của thành chủ Lạc thành – Chu Khang. Chu Khang là người chính trực, không nịnh bợ a dua, đắc tội với Tiết gia, bốn mươi chín mạng người Chu gia đều chết dưới tay Tiết Túc. Để báo thù, Chu Thắng nhận giặc làm cha, nhẫn nhục mười năm, cuối cùng đã được coi trọng, nhân lúc Tiết Hoài không phòng bị, một nhát đâm trúng…”.
Tim Khương Trầm Ngư nhói một cái, những chuyện trước đây nghĩ không ra trong khoảnh khắc này toàn bộ đều được giải đáp. Khi nàng đoán định hoàng thượng dám đích thân chinh phạt, tuyệt đối đã nắm chắc phần thắng, hóa ra quân cờ ngầm của ngài chính là Tiết Hoằng Phi. Nghĩ đến người này nhẫn nhục mười năm, không kìm được cảm khái: “Hắn vốn là người Lạc thành, cuối cùng đã chọn Lạc thành là nơi kết thúc tất cả”.
Khương Hiếu Thành nói: “Chẳng trách ngày đó Kỳ Úc hầu dặn dò đưa đầu Tiết Túc đến Lạc thành, ta lại cho rằng y chỉ đơn thuần là muốn thay hoàng thượng thị uy, bây giờ nghĩ lại, rõ ràng là đưa cho Tiết Hoằng Phi, à không, Chu Thắng một chỉ thị ngầm – một đầu đổi lấy một đầu”.
“Hay cho câu một đầu đổi lấy một đầu”. Khương Trọng khen ngợi. “Tiếc thay cho một nhân vật như thế!”.
Khương Trầm Ngư lắc đầu nói: “Hắn đúng là một nhân tài, nếu được triều ta sử dụng, ắt sẽ làm nên nghiệp lớn. Nhưng người như vậy, sống chỉ vì một mục đích duy nhất là báo thù, đến nay thù lớn đã báo, lại thêm Tiết Hoài tuy là kẻ thù, nhưng mười năm làm cha con, ít nhiều cũng có tình cảm, hắn tự tay giết chết người đề bạt hắn coi trọng hắn, e rằng đối với hắn mà nói, cái chết lại là sự giải thoát tốt nhất”.
Khương Trọng đứng ngẩn hồi lâu, lại nhìn nàng, thần sắc trở nên phức tạp: “Sự cố chấp cương nghị của Chu Thắng tuy khiến người ta xúc động, nhưng tài trí của Cơ Anh lại khiến người ta run sợ. Ngày đó, hoàng thượng bỗng nhiên đối chọi với Tiết gia, ta còn cho rằng việc lần này quá gấp gáp, gần như lỗ mãng, bây giờ nhìn lại, bọn họ rõ ràng đã tính toán kỹ từng bước. Đầu tiên là lấy cớ thái hậu bệnh nặng để cách ly, lại bắt giam hoàng hậu, nổi giận chém quốc cữu để khích Tiết Hoài; cuối cùng lợi dụng nghĩa tử được Tiết Hoài tín nhiệm nhất, một chiêu rút củi đáy nồi, nhẹ nhàng mà phá tan cơ nghiệp trăm năm của Tiết gia. Những thứ mà chúng ta nhìn thấy rõ ràng chỉ có ngần đó, còn những thứ mà chúng ta không biết còn nhiều hơn nữa… Làm quan cùng triều với những người như thế, đúng là có chút đáng sợ…”.
Khương Hiếu Thành cười hì hì, nói: “Không sao không sao, dù sao chúng ta cũng sắp kết thành thông gia rồi, chỉ cần thành người mình, tất cả đều dễ nói, đúng không, muội muội? Muội muội như hoa như ngọc, băng tuyết thông minh của ta, lẽ nào không xứng với Kỳ Úc hầu sao?”.
Khương Trầm Ngư mỉm cười, không nói gì, nhưng cảm giác bất an trong lòng càng lúc càng dâng lên. Nàng sớm đã biết công tử tài trí vô song, bây giờ nghĩ lại, lại thấy chàng cơ trí gần như yêu ma. Công tử thông minh như thế, lẽ nào thực sự nhìn không ra màn kịch nhỏ của nàng sao? Hay là, rõ ràng đã nhìn ra rồi, nhưng vẫn có ý không bóc trần? Khi mình bày binh bố trận, có phải kỳ thực là đang từng bước rơi vào cạm bẫy không thể đoán định nào đó không? Nàng bỗng cảm thấy có chút sợ hãi. Bên tai nghe thấy tiếng ca ca nói: “Cho dù thế nào, kết cục này cũng không tồi. Tiết Hoài đã chết, nỗi lo trong tâm đã trừ, hoàng thượng sẽ mau chóng về triều, đến lúc đó, lập tức sẽ bàn đến hôn sự của Trầm Ngư”.
Trong lòng nàng lại run rẩy, mí mắt giật không ngưng, khi tâm thần còn bất định, bên ngoài có a hoàn gõ cửa, là tiếng Ác Du: “Tam tiểu thư, tam tiểu thư…”.
“Có chuyện gì?”.
“Hoàng Kim Bà đến rồi, bây giờ đang ở ngoài đại sảnh, phu nhân hỏi tiểu thư có qua một chút không”.
Khương Hiếu Thành bước qua mở cửa phòng, cười nói: “Xem cái gì?”.
Hoàng Kim Bà đứng bên cạnh giải thích: “Sáng sớm tôi đến phủ hầu gia, họ đưa ra ba ngày để nhà ta chọn lựa, xem xem ngày nào là tiện nhất. Ba ngày này đều là ngày tốt, lần lượt là mùng bảy tháng tư, mười lăm tháng năm và hai mươi ba tháng bảy. Theo ý kiến của tôi, càng sớm càng tốt, nhân dịp hoàng thượng thắng trận, nhân không khí vui vẻ thu xếp xong hôn sự. Chọn ngày mùng bảy tháng tư đi, còn hai mươi ngày nữa, hoàn toàn tặng kịp thư lễ, nến lễ, pháo lễ”.
Khương phu nhân gật đầu, nói: “Ta cũng ưng ngày này!” “Trầm Ngư, ý con thế nào?”.
Khương Trầm Ngư cúi đầu: “Xin mẫu thân làm chủ”.
Khương phu nhân cười nói: “Vậy được, vậy phiền Hoàng Kim Bà đưa tin, chúng ta chọn ngày mùng bảy tháng tư”.
“Tôi đi ngay đây”. Hoàng Kim Bà hoan hỉ cáo từ.
Hoàng Kim Bà đã ra về, hai a hoàn Hoài Cẩn, Ác Du liền tiến lên vừa cười vừa hành lễ, nói: “Chúc mừng tiểu thư, chúc mừng phu nhân!”.
“Khéo miệng lắm”. Khương phu nhân cười vang thưởng cho hai a hoàn, quay lại thấy Khương Trầm Ngư sắc mặt buồn bã như đang nghĩ ngợi gì, bèn đẩy nàng một cái, hỏi: “Nghĩ gì thế chuyện vui như thế, sao con lại có vẻ mặt đó?”.
Khương Trầm Ngư khẽ nói: “Mẹ… con hơi sợ…”.
Khương phu nhân ôm nàng, đến trước cửa sổ, nói: “Ngốc ạ, sợ cái gì chứ?
Con gái lớn thì phải gả chồng, hơn nữa nhà chồng tốt như thế, trượng phu tốt như thế, nhân duyên tốt cầu còn không được, con sợ cái gì?”.
“Con sợ”, có lẽ giọng nói của mẫu thân quá dịu dàng, lại có lẽ cảnh sắc hoa xuân hé nở bên ngoài cửa sổ quá diễm lệ. Khương Trầm Ngư chìm đắm trong xúc cảm dịu dàng, nói ra những lời thật lòng nhất, “Con sợ công tử cưới con là họa không phải là phúc”.
Khương phu nhân sững người: “Gì cơ?”.
“Bởi vì con là con gái của Khương gia”. Khi nói câu này, trên gương mặt Khương Trầm Ngư hiện lên vẻ bi thương, vẻ bi thương đó nhàn nhạt nhưng quấn chặt, lau cũng không hết.
“Nếu liên hôn lần này có thể khiến hai nhà Khương, Cơ cùng hưởng vinh hoa thì tốt, nếu không, hễ hai nhà nảy sinh xung đột con sợ là con sẽ hy sinh công tử, chọn nhà mẹ đẻ”. Giống như lần này nàng có ý giữ lại Tiết Thái để khống chế chàng, dùng tiền đồ của chàng để thanh toán cho tiền đồ của Khương gia. Chuyện này có lần thứ nhất, thì sẽ có lần thứ hai, lần thứ ba, và vô số lần khác.
Nàng rất sợ hãi, nàng sẽ hết lần này đến lần khác đứng về phía gia tộc, lựa chọn phản bội chàng, phản bội tình yêu mà nàng tự hào.
“Sao có thể như thế được?” Khương phu nhân an ủi, “Liên hôn vốn là chuyện hai bên đều có lợi, sau khi con trở thành thê tử của hầu gia, hầu gia và cha con sẽ càng đồng tâm hiệp lực phò tá hoàng thượng, sao có thể nảy sinh xung đột? Đừng nghĩ nhiều quá, con ấy, nên nghĩ thoáng ra, có thời gian rảnh rỗi nghĩ những chuyện này chi bằng nghĩ xem làm thế nào để thành tân nương đẹp nhất”.
Mẹ không biết gì cả… Khương Trầm Ngư trong lòng bi ai, thầm nghĩ, mẹ của nàng cái gì cũng không biết. Cho nên, cho dù thân như mẹ con, cũng không thể nào thực sự đồng tâm. Tâm sự của nàng mẹ không hiểu, nên lời an ủi của bà không hề có tác dụng với nàng.
Ai ai cũng nói Khương Trầm Ngư tốt bụng, nhưng tại sao nàng lại chẳng có nổi một người bạn tốt tri kỷ? Có phải vì… trái tim của nàng cất giấu quá sâu, không dám cũng không chịu để lộ ra với người khác? Vậy thì, công tử có phải cũng như vậy không? Công tử có ba nghìn môn khách, người hầu vô số nhưng, chàng cũng không có bằng hữu…
Ngoài cửa sổ, mưa bỗng rơi lất phất. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn những hạt mưa bụi đó, khẽ nói: “Mưa rồi… Đây là mưa đông, hay là mưa xuân?”.
Khương phu nhân cười đáp: “Bây giờ là tháng ba, đương nhiên là mưa xuân rồi. Mùa xuân năm nay đến sớm hơn năm ngoái”.
“Vậy.” Khương Trầm Ngư lầm bầm, “sau trận mưa này, hoa hạnh và hoa lê đều sắp nở rồi…”.
“Hừ? Hẳn là sẽ nở… Sao đột nhiên con lại hỏi chuyện này?”.
Khương Trầm Ngư nhếch khóe môi, lần này là cười thật: “Con và công tử đã hẹn nhau đi ngắm hoa”.
Khương phu nhân đầu tiên sửng sốt, sau đó cười nói: “Ồ? Thật sao? Ha ha, không tồi…”.
Ác Du bên cạnh trợn tròn mắt nói: “Tiểu thư và hầu gia sắp thành thân, người ta nói phu thê chưa cưới trước hôn lễ không thể gặp mặt, nếu không sẽ không cát lợi đâu… ai da!”.
Lời còn chưa dứt, bị Hoài Cẩn vỗ mạnh một cái.
Khương phu nhân nhìn con gái với vẻ hiền hòa, dịu dàng nói: “Đi đi. Chỉ cần con cảm thấy vui, hơn nữa mỗi năm chỉ có một lần, cũng là cơ hội hiếm có”.
“Vâng”. Khương Trầm Ngư tươi cười, sự áy náy và bất an trong chớp mắt đã biến thành tràn đầy đợi chờ. Không sao, nàng nghĩ, trên thế gian này không có ai là tri kỷ của nàng cũng không sao. Bởi vì, nàng có công tử. Cho dù nàng và công tử đều là những kẻ cô độc, không có bạn bè giống nhau, nhưng vì có nhau, nên không còn cảm thấy cô đơ. Cho nên, hai người là định mệnh sắp đặt ở bên nhau.
Nàng nhất định phải tin điều này.
Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, lại chậm rãi thở ra, đôi đồng tử sáng trong.
Bên ngoài cửa sổ, cây lê tha thướt kiều diễm, đang tắm trong trận mưa xuân đầu tiên của năm Đồ Bích thứ tư, cành lá đan nhau lấm tấm điểm những nụ hoa, tinh khiết tựa tuyết trắng, tươi sáng như nụ cười.
Đúng như lời Khương phu nhân nói, không lâu sau sẽ nở. Mà khi hoa lê nở rộ, đại quân của thiên tử toàn thắng trở về, khải hoàn về triều…
Hôm ấy, Khương Trầm Ngư đang cùng ăn cơm với tỉ tỉ trong Gia Ninh cung, cung nữ đến báo, Kỳ Úc hầu đưa Tiết Thái đến, nói phụng mệnh hoàng thượng, cho hắn được gặp Tiết Minh.
Sau khi được sự cho phép của Khương Họa Nguyệt, hai cung nhân dẫn Tiết Thái đi vào, khi nhìn thấy đứa trẻ đó đứng dưới sân, trong lòng Khương Trầm Ngư không kìm được chua xót nàng nhớ lại tình cảnh lần đầu gặp Tiết Thái. Khi ấy, thiếu niên quyền quý có được sự đắc ý vinh quang mà hết thảy hài đồng trong thiên hạ đều không sánh được, cưỡi xe loan, đội kim linh(5) , đeo ngọc quý hiếm có, dám mắng phi tử trước ngựa, dám đập đầu trước điện, đuôi mày khóe mắt đều là vẻ kiêu ngạo đến bức người. Mà nay, lại gầy đến mức chỉ còn da bọc xương, áo thô giầy gai, gương mặt nhỏ võ vàng u tối.
Hắn cúi đầu đứng ở đó, mày mắt ủ ê, không hề có chút sức sống.
Khương Họa Nguyệt nói: “Ta còn có chút việc, hay là Trầm Ngư, muội dẫn hắn đi đi”.
Khương Trầm Ngư chỉ, bước tới, giơ một tay ra trước mặt Tiết Thái, Tiết Thái ngẩng đầu nhìn nàng, trong đôi mắt đen láy không hề có cảm xúc.
Khương Trầm Ngư mỉm cười với hắn, ánh mắt mang theo tia khích lệ. Ánh mắt Tiết Thái lóe lên giây lát, rồi lại lùi về phía sau, khom mình nói: “Tiết Thái là nô bộc, không dám cầm tay tiểu thư”.
Khương Trầm Ngư sững sờ, không nói nổi lên lời. Đứa trẻ dám vung roi quát “Chim sẻ xấu xa, sao dám cản phượng giá?” trước sủng phi của hoàng thượng đó, đứa trẻ đứng ngạo nghễ trước quốc vương nói “ta là ngọc trong biển người” đó, giờ này phút này, trước mặt nàng lại nói “Tiết Thái là nô bộc…”.
Đúng là một màn châm biếm sinh động. Mà tất cả chuyện này đều là do nàng ban cho.
Là nàng quyết ý đòi cứu hắn, là nàng vì lợi ích của mình mà cố giữ lại hắn, nhưng thực ra, đối với hắn mà nói, có lẽ thà kiêu ngạo mà chết đi, còn hơn sống uất ức, thừa thãi thế này?
Khương Trầm Ngư quay người, lặng lẽ dẫn đường, từ Gia Ninh cung đến Càn Tây cung, suốt dọc đường, chỉ nghe thấy tiếng bước chân khẽ khàng của đứa trẻ sau lưng, trái tim nàng càng lúc càng chùng xuống.
Rẽ khỏi cổng vòm, phía trước đã là Động Đạt kiều, chính lúc này, họ nhìn thấy Hy Hòa.
Hy Hòa dựa lan can, đang cho cá ăn bên hồ, không biết vì sao, bên cạnh không có cung nhân nào theo hầu. Từ sau sự kiện trúng độc, nàng luôn nằm trên giường bệnh, không gặp người ngoài, vì thế tuy Khương Trầm Ngư nhiều lần vào cung, nhưng sau lần đánh đàn đó, đây là lần đầu tiên nàng gặp Hy Hòa.
Ánh mặt trời nhàn nhạt chiếu lên người Hy Hòa, vẫn là áo trắng hơn tuyết, yểu điệu tha thướt, từ trong cử chỉ toát ra vẻ lười biếng hững hờ. Dường như dù bất cứ lúc nào gặp nàng, nàng đều có dáng vẻ chán ghét thế gian này, nhưng lại mang vẻ kiều mĩ đặc biệt.
Hy Hòa nghe thấy tiếng động, quay đầu lại, nhìn Khương Trầm Ngư trước tiên, kế đó ánh mắt rơi xuống Tiết Thái, gương mặt lóe lên thần sắc vô cùng phức tạp. Khương Trầm Ngư còn chưa kịp nhìn ra đó rốt cuộc là biều cảm gì, nàng đã cười.
Cười rất tà ác.
“Sao ngươi vẫn chưa chết?”. Nàng hỏi Tiết Thái như vậy.
Sắc mặt Tiết Thái đột nhiên biến đổi, giống như một chiếc mặt nạ, từ trán nứt một vết, cuối cùng lan rộng ra toàn bộ, vỡ tan.
Hy Hòa đi quanh hắn một vòng, bỗng lấy một vật từ trên cổ hắn xuống, Khương Trầm Ngư nhìn thấy, đó chính là miếng cổ bích ngàn năm mà Yên vương ban tặng.
“Đây là Băng Ly trong truyền thuyết?”. Hy Hòa liếc xéo Tiết Thái, sắc mặt Tiết Thái vô cùng khó coi, hai bờ môi mím chặt, mắt lại càng trợn to hơn, giống như có một ngọn lửa đang thiêu đốt trong đó.
“Nghe nói ngươi đã bị biến làm nô lệ, đã là nô lệ, thì không cần đeo thứ quý giá như thế này”. Hy Hòa nói rồi, đeo miếng cổ bích lên cổ mình, “Ta tịch thu”.
Tiết Thái cắn chặt môi, cả người run lên vì giận dữ. Khương Trầm Ngư chứng kiến, không nhịn được lên tiếng: “Phu nhân, Băng Ly này là Yên quốc quốc chủ ban tặng, phu nhân lấy đi, nếu Yên vương biết, e rằng không thỏa”.
“Có gì không thỏa?”. Hy Hòa quay đầu, ánh mắt sáng rỡ, xinh đẹp vô hạn, “Lẽ nào ta không xứng với cổ bích này?”.
Khương Trầm Ngư nhất thời cứng họng, Hy Hòa lại tươi cười, cúi xuống áp sát vào mặt Tiết Thái, nói với giọng cực kỳ dịu dàng: “Đúng là phong thủy luân hồi, ban đầu trên cầu này, ngươi mắng ta, lại làm ngựa của ta kinh sợ, hại ta ngã xuống nước, lúc đó ngươi chưa từng nghĩ đến sẽ có ngày hôm nay?”.
Trong đôi mắt Tiết Thái là một tầng hơi nước mờ mịt che phủ. “Không cam lòng sao? Oán hận sao? Ha! Ha ha ha ha…”.
Hy Hòa buông một tràng cười lớn. Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh thở dài, tiểu nhân đắc chí như thế, giậu đổ bìm leo như thế, đối phó với một đứa trẻ như thế, đâu hà tất phải vậy?
Hy Hòa cười xong, vỗ vỗ vào má Tiết Thái: “Vậy thì, hãy tiếp tục sống đi, mang theo sự oán hận và không cam lòng này, nhịn nhục mà sống tiếp. Chỉ có sống lâu hơn ta, ngươi mới có thể lấy lại Băng Ly, đương nhiên, tiền đề là – nếu thực sự có một ngày như thế”. Nói đoạn, quay mình nghênh ngang bỏ đi.
Dọc đường, đều nghe thấy tiếng cười đắc ý vênh vang của nàng. Mà Tiết Thái vẫn đứng không nhúc nhích ở chỗ cũ.
Khương Trầm Ngư đi tới nắm lấy tay hắn, bàn tay nhỏ lạnh ngắt mà run lẩy bẩy, nàng thở dài thật khẽ: “Đừng nghĩ nhiều chúng ta đi thôi. Cô cô của ngươi đang chờ đó”.
Tiết Thái ngước mắt lên, trong đôi mắt rưng rưng đó, thứ tồn tại không phải là oán hận, mà là một thứ còn sâu đậm hơn cả sự căm hận. Hắn từ từ rút tay ra khỏi tay nàng, cúi đầu nói: “Vâng”.
Khương Trầm Ngư biết, nhà hắn gặp biến cố lớn, vì thế hắn đã trở thành kẻ không tin vào bất cứ ai khác, trọng lòng một khi đã có khúc mắc, không thể trong thời gian ngắn là tháo gỡ được mà phải dần dần. Nên nàng không nhiều lời nữa, tiếp tục dẫn đường.
Đến Càn Tây cung, vừa bước vào cửa liền nghe thấy Tiết Minh gọi to trong phòng: “Là Tiểu Thái đến phải không?”.
Ngay sau đó, cửa phòng mở ra, Tiết Minh một thân áo trắng, không phấn son lao ra ngoài, nhìn thấy Tiết Thái, hai mắt hoe đỏ ôm đầu khóc lớn, “Trời thương xót, đúng là Tiết Thái… Tiểu Thái, cháu của ta…”.
Lúc này Tiết Thái lại rất bình tĩnh, khẽ đỡ lấy tay nàng, nói: “Cô cô, Tiểu Thái đến thăm cô cô. Có gì vào trong nói”.
Tiết Minh nhìn Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh, thầm biết lúc này không phải là lúc thương cảm, lập tức lau nước mắt nói: “Nhất thời thất lễ, khiến Khương tiểu thư chê cười, mời vào trong”.
“Không cần đâu”. Khương Trầm Ngư nghĩ, hai cô cháu họ có nhiều điều riêng tư cần nói, mình ở lại sẽ bất tiện, bèn nói: “Gia tỉ hãy còn đợi trong cung, Trầm Ngư xin về trước, một canh giờ sau lại đến đón tiểu công tử”.
Tiết Minh cảm kích đáp: “Đa tạ Khương tiểu thư”.
Đợi đến khi bóng nàng khuất tầm mắt, Tiết Minh mới nghiêm mặt, nắm lấy tay Tiết Thái: “Vào đây với cô cô”. Hai người bước vào nhà, nàng quan sát bốn bề một lượt, thực sự tin rằng không có ai giám sát mới khóa cửa phòng lại, quay người dò xét kỹ lưỡng Tiết Thái, trong mắt lệ đã rưng rưng, “Cháu à,… cháu chịu khổ rồi…”.
Tiết Thái quỳ sụp xuống. Tiết Minh kinh ngạc: “Cháu làm gì thế này?”.
Tiết Thái nói: “Cháu biết là cô cô cầu xin công chúa mới có thể giữ lại cái mạng này của cháu”.
Tiết Minh rầu rĩ, cũng không bảo Tiết Thái đứng dậy, thần sắc trong đáy mắt biến đổi, cuối cùng thấp giọng nói: “Ta cứu cháu, nhưng không phải là muốn tốt cho cháu…”.
Tiết Thái ngẩng đầu, gương mặt nhỏ như bàn tay vì quá gầy nên hai mắt lại càng to hơn, đen sẫm như mực.
“Nếu ta thực sự muốn tốt cho cháu, thì nên để cháu đi cùng ca ca tẩu tẩu, tuy bị gán cho cái tội danh ô nhục nghịch thần, nhưng hễ chết rồi sẽ không cần chịu khổ nữa. Nhưng ta giữ cháu lại, ta muốn cháu sống, Tiểu Thái, cháu có biết vì sao không?”.
Mặt Tiết Thái trắng bệch không còn giọt máu, giọng nói trầm thấp: “Cô cô muốn cháu… báo thù cho Tiết gia”.
Tiết Minh tát Tiết Thái một cái rất mạnh, khiến Tiết Thái ngã ra đất, nàng lạnh lùng nói: “Nhắc lại lần nữa”.
Tiết Thái cắn chặt răng, nhắc lại: “Cô cô muốn cháu báo thù cho Tiết gia…”.
Lời còn chưa dứt, Tiết Minh lại bồi thêm một cái tát nữa: “Nhắc lại lần nữa”.
Mép Tiết Thái đã rỉ máu, nhưng sự kiên nghị trong ánh mắt lại càng đậm thêm, nói rành rọt từng tiếng một: “Thề quyết báo thù, chấn hưng gia môn!”.
Đến đây Tiết Minh thở dài một tiếng, đưa tay đỡ Tiết Thái dậy: “Tốt lắm, cháu phải nhớ kỹ hai cái tát ngày hôm nay của cô cô, nhớ kỹ cảm giác đau đớn này, cũng phải nhớ kỹ lời thề mà cháu đã thề hôm nay!”.
Tiết Thái mím chặt khóe môi, cố hết sức đứng thẳng lưng. Tiết Minh rút một chiếc khăn từ trong người ra, lau vết máu trên môi Tiết Thái, lau đi lau lại, bỗng đưa tay ôm chặt Tiết Thái khóc nấc lên: “Xin lỗi… Tiểu Thái, xin lỗi cháu…”.
Trong mắt Tiết Thái dâng lên một màn sương mù mịt mờ.
“Cô cô có lỗi với cháu, Tiết gia cũng có lỗi với cháu, không những không thể cho cháu một cuộc sống yên ổn, để cháu sống một đời vô âu vô lo, mà còn ép cháu phải nhận trách nhiệm vừa lớn lao vừa nặng nề này. Cuộc sống sau này mà cháu phải đối diện còn đáng sợ hơn cả địa ngục, hơn nữa cháu phải một mình đơn độc đối diện, cô độc không có viện trợ, cháu không thể tin ai, dựa vào ai, mong chờ ai nữa, cháu cũng không cảm nhận được những thứ tốt đẹp, ấm áp trong cuộc sống nữa, cháu không thể an vui trưởng thành giống những đứa trẻ khác… Cho nên, cô cô xin lỗi”. Tiết Minh vừa nói, vừa quỳ xuống đất, hành đại lễ vô cùng nghiêm trang.
Tiết Thái sợ hãi, đôi mắt càng trợn tròn hơn, nhưng chỉ có thể đứng đờ ra, không thể nhúc nhích.
“Nhưng ta thay mặt mấy nghìn người của bốn mươi chín đời Tiết gia cảm tạ cháu! Cảm ơn cháu đã báo thù cho chúng ta, cảm ơn cháu không để họ Tiết tuyệt vong tại đây, cảm ơn cháu sẽ làm cho Tiết gia huy hoàng lần nữa!”. Tiết Minh nắm chặt tay Tiết Thái, nghẹn ngào nói: “Tiết Minh cảm tạ đại ân của cháu!”.
Sắc mặt Tiết Thái biến đổi mấy lượt, cuối cùng hai đầu gối cũng khuỵu xuống, không nói lời nào, chỉ là dần dần cúi gập người xuống, dập đầu ba cái trên mặt đắt lạnh lẽo.
Binh – binh – binh.
Trên trán Tiết Thái vốn đã có vết thương cũ từ ngày tranh chấp với Hy Hòa để lại, lúc này liên tiếp dập đầu xuống đất, miệng vết thương lại rách ra, máu chảy xuống.
Tiết Minh im lặng nhìn hắn chảy máu, cũng trào nước mắt.
Ánh nắng xuyên qua ô cửa sổ bằng lụa đã rách nát, chiếu lên người hai cô cháu họ, cũng thấm mấy phần trang trọng mà tiêu điều.
Một canh giờ sau, Khương Trầm Ngư đón Tiết Thái về Gia Ninh cung, thấy hai bên má hắn sưng húp, tuy không biết nguồn cơn, nhưng biết là bị đánh, bèn lấy một quả trứng gà nóng tới xoa cho hắn, Tiết Thái vẫn chối từ, nhưng nàng nói: “Ngươi hiện giờ là nô lệ của hầu gia, đại diện cho hầu gia, nếu để ngươi xuất cung với bộ dạng như thế này, hầu gia sẽ mất thể diện”.
Lúc đó hắn mới đứng im, ngoan ngoãn để nàng lăn mặt.
Sau thời gian chừng một chén trà, cung nữ tới báo, xe ngựa của Kỳ Úc hầu đã tới, đón Tiết Thái quay về. Khương Trầm Ngư hỏi: “Hầu gia có tới không?”.
Cung nữ đáp: “Chỉ thấy xe ngựa, không thấy người”.
Khương Trầm Ngư có chút thất vọng, Khương Họa Nguyệt bên cạnh nói đùa: “Trông cái bộ dạng chả ra sao của muội kìa! Ngày cưới chẳng phải đã quyết định rồi sao? Chỉ nửa tháng nữa là muội đã gả cho hắn, bây giờ một khắc mà cũng không đợi được à?”.
Ánh mắt Tiết Thái lóe sáng, thoáng tia kinh ngạc.
Khương Trầm Ngư đỏ mặt nói: “Tỉ tỉ, tỉ lại cười người ta…”.
“Ta cười muội thì không sao, sợ nhất là người thiên hạ đều cười muội, sắp thành thân rồi, phải tránh điều tiếng chứ”.
“Muội… muội không nói chuyện với tỉ nữa!”. Khương Trầm Ngư vừa kéo tay Tiết Thái vừa nói: “Ta đưa ngươi ra ngoài”.
Tiết Thái đi theo nàng được mấy bước, bước chân chậm lại, Khương Trầm Ngư cúi đầu hỏi: “Sao thế?”.
“Ngươi…”, Tiết Thái cắn môi, vẻ mặt kỳ quái, “Ngươi là hôn thê tương lai của Kỳ Úc hầu?”.
Khương Trầm Ngư nghĩ một lát liền cười: “Đúng thế, cũng là nữ chủ tử tương lai của ngươi. Bây giờ muốn lấy lòng ta sao? Muộn rồi!”.
Tiết Thái cúi gằm mặt, không nói năng gì.
Bên ngoài Gia Ninh cung, xe ngựa của Cơ phủ im lặng đứng đợi, phu xe nhảy xuống mở cửa xe, Tiết Thái đang định vào trong, nhưng lại quay đầu nhìn nàng một cái, không biết vì sao, lọt vào mắt Khương Trầm Ngư, nàng bỗng có một cảm giác thật lạ lùng, tựa như bị hắn nhìn thấu, lại tựa như từ trong mắt hắn, nhìn thấy được điềm chẳng lành.
Nàng quay trở về cung với tâm trạng buồn bã, cách bức rèm lụa, thấy tỉ tỉ đang nói chuyện với Giang lão thái y, vì tiếng quá nhỏ, nên không biết họ đang nói gì. Không lâu sau, Giang lão thái y đứng dậy cáo từ, tỉ tỉ tiễn đến tận cửa, thần sắc nặng nề, mày chau ủ dột.
Nàng vừa định hỏi đã xảy ra chuyện gì, thì thấy cung nhân lại đưa một người vào, người đó vóc dáng như ngọc, áo xanh phấp phới, chẳng phải là Giang Vãn Y đó sao?
Khương Họa Nguyệt và Giang Vãn Y nhỏ giọng trao đổi vài câu tiếp đó lại tiến vào nội thất bắt đầu chẩn mạch, lấy mấy thứ ra cho hắn xem. Như thế nửa canh giờ trôi qua, Giang Vãn Y đứng dậy, đeo hòm thuốc đi ra.
Khương Trầm Ngư ngồi trên ghế quan sát từ nãy giờ cũng vội vàng đứng dậy, có chút hoang mang nhìn Giang Vãn Y và tỉ tỉ không biết có phải ảo giác hay không, sắc mặt của tỉ tỉ nhìn có vẻ càng buồn rầu hơn.
Khương Họa Nguyệt tiễn Giang Vãn Y ra ngoài xong cứ đứng bất động bên cửa rất lâu. Khương Trầm Ngư không kiềm được tiến đến kéo ống tay áo nàng hỏi: “Tỉ tỉ, tỉ sao thế?”.
Mắt Khương Họa Nguyệt đỏ lên, nước mắt rớt xuống.
Những giọt nước mắt này rơi xuống đường đột như thế, khiến Khương Trầm Ngư giật mình, cuống quýt hỏi: “Chuyện gì vậy? Xảy ra chuyện gì vậy, tỉ đừng khóc, các thái y nói thế nào?”.
Khương Họa Nguyệt một tay túm chặt tay nàng, không ngừng run rẩy, mấy lần mở miệng đều nghẹn ngào không nói nên lời. Thấy tình cảnh này, Khương Trầm Ngư đành dìu nàng vào nội thất trước, sau khi đuổi đám cung nhân ra mới khẽ nói: “Rốt cuộc là chuyện gì?”.
Khương Họa Nguyệt ngẩng đầu, nước mắt nhòe nhoẹt trên mặt cũng chẳng buồn lau, chỉ bấu lấy tay nàng, không ngừng kêu: “Trầm Ngư, Trầm Ngư…”.
Mỗi tiếng nàng gọi, Trầm Ngư đều thưa, tiếng sau dịu dàng hơn tiếng trước.
“Trầm Ngư, ta ta… ta phải làm thế nào? Ta phải làm thế nào mới được đây?”.
“Tỉ tỉ, rốt cuộc làm sao?”. Khương Trầm Ngư luôn cho rằng, luận về làm người, so với nàng tỉ tỉ chu đáo và lão luyện hơn rất nhiều, dù trong lòng có suy nghĩ gì cũng không hề thể hiện ra ngoài, hai nàng từ nhỏ tới lớn bên nhau, liệu đã mấy lần Họa Nguyệt có dáng vẻ như thế này? Không biết sự tình gay go đến đâu, mà có thể khiến người chị xưa nay luôn tự tin đầy mình của nàng khóc lóc như một đứa trẻ. Sau khi cha con họ Giang rời đi, Họa Nguyệt thành ra thế này, lẽ nào…
“Tỉ tỉ, tỉ bị bệnh sao? Bệnh rất nặng sao?”.
Khương Họa Nguyệt nghẹn ngào gật đầu.
Trái tim Khương Trầm Ngư chùng xuống, bất giác nắm chặt tay Họa Nguyệt, hỏi: “Là bệnh gì? Nghiêm trọng thế nào?”. Tuy tỉ tỉ quanh năm bốn mùa thường cảm gió cảm mạo, bệnh vặt liên miên, nhưng cũng đâu phải là ốm yếu quá, lần này mắc phải bệnh gì mà khiến cho tỉ tỉ hoảng hốt sợ hãi đến mức đó.
Khương Họa Nguyệt hé miệng; nhìn quanh, ánh mắt càng thê lương hơn: “Ta ta… muội muội, đời này e rằng, ta… không thể… không thể có con được…”.
Khương Trầm Ngư phút chốc sững sờ, trong đầu trống rỗng, đến khi tỉnh táo trở lại, phản ứng đầu tiên là: “Tại sao? Cha con họ Giang nói vậy ư?”.
“Muội còn nhớ loại thuốc rất thơm mà ta luôn uống đó không?”.
Khương Trầm Ngư gật gật đầu.
“Kỳ thực, ta, ta đã cư kinh(6) rất lâu rồi… mà những thứ thuốc đó, uống suốt mà vẫn không thấy khỏi, ta lo lắng, cuối cùng không nhịn được bèn mời Giang Vãn Y tới xem bệnh, hắn được gọi là thần y, y thuật cao minh hơn cả đám thái y, kết quả, hắn nói với ta…”. Khương Họa Nguyệt nói đến đây liền không thể nói tiếp được.
Khương Trầm Ngư nheo mắt: “Là Giang Vãn Y nói với tỉ, tỉ không thể có thai ư?”, Họa Nguyệt liền gật đầu, nàng đứng bật dậy, bước ra ngoài, khiến Khương Họa Nguyệt giật bắn mình, vội vàng kéo nàng lại: “Muội định làm gì?”.
“Muội có chuyện muốn hỏi hắn ta”.
“Đừng! Trầm Ngư, chuyện này…”. Chuyện này che đậy e còn không kịp, sao có thể loan rộng ra ngoài.
“Nhưng!”
Khương Họa Nguyệt níu chặt nàng, nói: “Muội đi hỏi hắn cái gì? Hỏi hắn có chẩn đoán sai không ư? Hỏi hắn có thuốc trị không ư? Những điều đó ta đều hỏi rồi. Cơ thể của ta, ta là người rõ nhất… Nhớ năm đó, lúc hoàng thượng sủng ái ta nhất, đêm đêm ở lại, mà đều không có được giống rồng, huống hồ bây giờ nhan sắc héo mòn, ân điển thưa thớt…”.
“Tỉ tỉ…”.
Khương Họa Nguyệt ôm lấy eo nàng, giống như đứa trẻ ôm chặt lấy mẹ, nói: “Ta sợ lắm… muội muội… ta sợ lắm”.
Khương Trầm Ngư cũng ôm chặt tỉ tỉ vào trong lòng, chỉ cảm thấy trái tim yếu ớt trôi bồng bềnh, trĩu dần xuống. Nàng biết Khương Họa Nguyệt đang sợ điều gì. Có thể nói, cuộc hôn nhân của Họa Nguyệt chỉ có một mục đích là che chở cho cả nhà. Hiện giờ, ngôi hậu để trống chính là lúc các phi tần có cơ hội lên ngôi, ai có thể sinh được con rồng cho hoàng thượng thì người đó có khả năng trở thành hoàng hậu mới. Nhưng chính trong lúc này, thái y nói cho nàng biết, nàng không thể có thai, với nữ nhân mà nói, chuyện này là một cú sốc còn đáng sợ hơn cả cái chết. Họa Nguyệt vào cung đã ba năm, dần dần thất sủng, lại không có con cái, chuyện phong hậu đã thành vô vọng, lại không được ân sủng, bảo nàng phải sống như thế nào nốt quãng đời còn lại trong chốn thâm cung này?
Khương Trầm Ngư vừa nghĩ đến đây, không kìm được cũng khóc theo. Nàng ôm chặt tỉ tỉ, lòng nghĩ, nhất định phải giúp tỉ tỉ, nhất định phải nghĩ cách, nhưng mà, bao nhiêu trí tuệ lúc thường ngày, trong giờ khắc này đều biến đi đâu hết.
Nàng ôm Họa Nguyệt đang khóc không thành tiếng, cảm nhận được cơn run rẩy và lạnh lẽo từ trên cơ thể tỉ tỉ truyền tới, bỗng cảm thấy bi thương tột độ.
Nỗi bi thương sâu đậm đó cùng với lầu gác nguy nga, bầu trời u ám của hoàng cung, hình thành nên một nhà tù đời này kiếp trước, mà những người bị giam giữ trong đó đâu chỉ có một mình tỉ tỉ?
“Muội muội, chuyện này phải giữ kín, nhất định phải giữ kín!”. Khương Họa Nguyệt tóm chặt tay nàng, trong sự lo lắng còn mang theo nỗi sợ hãi khó nói, “Không chỉ với người trong cung, mà với cha mẹ, ca ca, cũng không được nói, Bởi vì, bởi vì…”.
Bởi vì hễ mà nói ra, nhất định sẽ dẫn đến sự khủng hoảng của cả nhà, khiến cha mẹ đau lòng… Khương Trầm Ngư đang nghĩ như vậy, Khương Họa Nguyệt đã nói tiếp với sự thê lương vô cùng: “Bởi vì một khi họ biết được, sẽ cho rằng ta đã không còn giá trị lợi dụng, biến thành một con cờ vô dụng, sẽ không còn đối tốt với ta như bây giờ…”.
Cả người Trầm Ngư giật bắn, nàng tuyệt đối không ngờ tỉ tỉ lại nói như vậy!
“Kỳ thực, họ đối với ta cũng không thể nói là tốt được, ít nhất là không bằng ba năm trước…”. Khương Họa Nguyệt lại khóc một chặp nữa, “Muội muội, tại sao ta lại khổ đến thế?”
Một câu “Nếu làm, thì phải làm người trên muôn người; nếu gả, thì phải gả làm vợ của đế vương; thế mới không sống uổng kiếp này!” của mấy năm về trước giờ vẫn còn văng vẳng bên tai, đan xen với những lời này. Khương Trầm Ngư nghĩ, chắc chắn là đã xảy ra nhầm lẫn ở đâu đó, nếu không tại sao thiếu nữ diễm lệ ánh mắt cao vời, luôn luôn tự tin ngày đó đã không còn nữa? Tại sao ngày tháng vô âu vô lo, đơn thuần giản dị đó đã không còn nữa?
Chắc chắn là nhầm lẫn ở chỗ nào đó…
Trong Gia Ninh cung là mưa thảm gió sầu, còn trong Bảo Hoa cung lại là ca vũ thăng bình.
Trong sảnh đại đường rộng lớn, Hy Hòa đang nằm trên sập quý phi, tay nâng chén rượu, nhìn đám vũ cơ đang múa phía dưới. Những vũ cơ này đều do Thiên Nhạc Thự đều thu nạp mấy trăm nữ đồng, truyền dạy cầm vũ khúc nghệ, cực kỳ nghiêm khắc. Sau vài năm đào tạo, những kẻ tư chất tầm thường sẽ bị phái đi làm những việc cực nhọc. Những kẻ còn lại bắt đầu đăng đài hiến nghệ, chỉ có kẻ múa đẹp nhất mới có đủ tư cách tiến cung.
Những cô nương này đương tuổi sắc xuân, dung mạo mỹ lệ, dáng vẻ mềm mại, lúc ca múa dặt dìu, tập trung đông đúc, đúng là cảnh tượng vui lòng đẹp nhất không thể tả xiết.
Huy Hòa nhìn ngắm, ánh mắt chợt thay đổi, cuối cùng giơ một tay lên, hết thảy tiếng nhạc, điệu múa đều ngưng bặt trong giây phút này.
Nàng chỉ một cô nương đẹp nhất trong đám vũ cơ, nói: “Ngươi tên gì?”
Người đó khiếp sợ đáp: “Nô tì họ Viên, tên là Hạnh Phương”.
“Ngươi thích hoa hạnh?”
Viên Hạnh Phương thưa: “Vâng ạ”.
Hy Hòa lạnh nhạt nhìn nàng ta. Bỗng đặt chén rượu trong tay xuống, đứng dậy bước xuống sập, đi chân trần từng bước từng bước tiến về phía Viên Hạnh Phương.
Đám vũ cơ nhất thời tim vọt lên tận cổ họng, trong khoảnh khắc, trong đầu hiện lên biết bao nhiêu tin đồn về vị phu nhân ngang ngược, khó hầu hạ, đặc biệt là Viên Hạnh Phương, trên trán mồ hôi lạnh đã túa ra chảy ròng ròng, vẻ mặt vô cùng sợ hãi.
Hy Hòa nhìn nàng ta với ánh mắt cao thâm khó dò hồi lâu. Rồi cúi người nâng váy nàng ta lên, xé thật mạnh, chỉ thấy “xoẹt” một tiếng, chiếc váy đỏ tinh xảo đã bị Hy Hòa xé toạt.
Sắc mặt tất cả đều trắng bệch. Viên Hạnh Phương càng kinh sợ kêu lên: “Phu nhân! Phu nhân… nô tì đáng chết! Nô tì đáng chết, xin phu nhân thứ tội! Xin phu nhân thứ tội!”. Nói đoạn quỳ sụp xuống.
Nào ai biết căn bản Hy Hòa chẳng đếm xỉa đến nàng ta, chỉ một mực xé nát đám hoa hạnh trên váy nàng ta thành mảnh nhỏ trong chốc lát, cả sảnh điện im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng vải bị xé nát, âm sắc chói tai.
Cho đến khi cành hoa hạnh đó bị xé vụn, Hy Hòa mới đứng dậy, ánh mắt lạnh băng nhìn Viên Hạnh Phương. Viên Hạnh Phương đâu dám nói gì, chỉ dập đầu liên tục.
Đám vũ cơ mặt xám như tro tàn, bụng thầm nghĩ thôi xong rồi, không biết Hạnh Phương đã phạm phải kỵ húy nào của phu nhân, xem ra khó tránh bị phạt nặng, lôi ra chém đầu còn tốt, chỉ sợ là bị đánh thành tàn tật, cả đời coi như đã bị hủy hoại hoàn toàn.
Nào ngờ Hy Hòa không hề nổi giận như dự liệu, lại tháo chiếc vòng đeo trên cổ tay ra, đưa cho Viên Hạnh Phương, nói: “Cái này thưởng cho ngươi”.
Viên Hạnh Phương nước mắt như mưa, ngẩng đầu lên nhìn chiếc vòng đó, lại nhìn nàng, vẻ mặt vẫn không dám tin.
Hy Hòa nhét chiếc vòng vào tay nàng ta, sau đó lười biếng xua tay: “Các ngươi lui cả ra”.
Chúng cơ lúc này mới hay đã tránh được kiếp nạn, vội vàng khom lưng hành lễ lui ra, Hy Hòa gọi Viên Hạnh Phương lại, lạnh nhạt nói: “Bản cung không thích cái tên của ngươi, về đổi đi.” Viên Hạnh Phương nơm nớp lo sợ vâng vâng dạ dạ, loạng choạng đi ra.
Sảnh điện rộng lớn bỗng chốc lạnh lẽo, vắng vẻ trở lại, có cơn gió thổi qua, bảy tầng màn sa đều tung bay phấp phới, khiến mái tóc dài của Hy Hòa bay lên, nhìn như quỷ mị. Nàng giẫm lên những mảnh vải trên đất, quay người chuẩn bị tiếp tục nằm trên sập, một đôi tay đột nhiên thò ra từ phía sau, ôm chặt lấy nàng.
Hy Hòa cả kinh, đang định vùng ra, nhưng chỉ nghe người đó cười nói bên tai: “Có nhớ trẫm không?”.
Là Chiêu Doãn.
Cơ thể tuy đã thả lỏng, nhưng trong lòng vẫn khiếp sợ, không kìm được quay đầu lại, nhìn thấy đôi mắt phượng hơi xếch, đang nheo mắt cười nhìn nàng trong ánh mắt là yêu thương vô hạn.
Quả nhiên là Chiêu Doãn.
Thấy quỷ rồi, lúc này chẳng phải y đang trên đường hồi kinh sao? Sao lại xuất hiện trong Bảo Hoa cung? Mà trên người lại vận trang phục của thị vệ!
“Hoàng thượng người…”.
“Sao trẫm lại về cung sớm chứ gì? Bởi vì trẫm rất nhớ Hy Hòa, muốn gặp Hy Hòa sớm hơn một chút, cho nên suốt dọc đường vung roi thúc ngựa, tách khỏi đại quân, trở về trước. Câu trả lời này đã được chưa?”. Chiêu Doãn nói đoạn hôn lên gò má nàng, đang định hôn môi, lại bị Hy Hòa đẩy ra, cười lạnh nói: “Hoàng thượng đến gặp thần thiếp lại cần ăn vận thế này sao? Lừa ai chứ?”.
Chiêu Doãn cười ha hả, cầm chén rượu trên bàn một hơi uống cạn, sau đó thuận thế ngồi xuống sập: “Quả nhiên vẫn là Hy Hòa hiểu trẫm, không lừa được, không lừa được”.
Hy Hòa thấy Chiêu Doãn thần sắc vui vẻ như thế, hẳn là tâm trạng rất phấn chấn, cuối cùng không kìm được hỏi: “Hoàng thượng gặp chuyện gì tốt hay sao mà vui vẻ thế”.
Chiêu Doãn chớp mắt: “Tru diệt phản quân, có tính không?”
Hy Hòa khẽ hừ một tiếng, nét mặt sa sầm. Chiêu Doãn lại cười một tay kéo nàng ôm vào trong lòng, nói: “Còn nữa, trẫm bí mật gặp vài người, hơn nữa còn tìm cho nàng một người cậu”.
“Cậu?” Hy Hòa chau mày, “Họ hàng thân thích nhà thiếp đều chết hết rồi, ở đâu ra một người cậu”.
“Cho nên mới nói là tìm được”. Chiêu Doãn bỗng ngưng cười cực kỳ nghiêm túc nhìn nàng, nói từng tiếng rành rọt, “Hy Hòa, nàng có muốn làm hoàng hậu không?”.
Lại một trận gió từ bên ngoài thổi vào trong điện, rèm sa khẽ bay, như mây mù tầng tầng bay bổng, đôi mắt Hy Hòa cũng giống như rèm sa, chớp cái đã mờ mịt.
“Tại sao lại chọn thiếp?”. Chiều đầu xuân trời vẫn se se lạnh, trong ánh nắng lốm đốm, nữ tử áo trắng tóc đen, chân trần đứng trên ngọc lưu ly, nhẹ nhàng hỏi.
Thế là năm tiếng đó trở thành tiếng hoa nở, vừa gấp gáp lại vừa chậm rãi, vừa ngờ vực lại vừa kinh ngạc, vừa đau khổ lại vừa vui sướng, lo lắng trùng trùng, lại chẳng sợ điều gì.
Trên sập gấm, đế vương trẻ tuổi nắm lấy cả hai tay nàng, trong đôi mắt sâu thẳm phản chiếu bóng dáng nàng, từng lời loáng thoáng vang lên: “Vì có rất nhiều nguyên nhân: Không muốn từ bỏ quyền lực; không muốn xuất hiện một Tiết Hoài thứ hai; tỏ ra yếu đuối với những nước khác, để cho chúng tưởng rằng trẫm là một hôn quân háo sắc; còn nữa, điểm cuối cùng là… trẫm thích nàng.”
Mùng một tháng tư năm Đồ Bích thứ tư, đế quân về kinh. Chiêu Doãn khao thưởng ba quân, tứ phong Phan Phương làm Tả tướng quân, xử lại án sai của cha Phan Phương đại xá thiên hạ, vạn dân chúc mừng.
Ghi chú: (1) Hai câu thơ của Khổng Nhất Nguyên, người thời Minh, đây được coi là danh cú về trà, dịch nghĩa là: Bình sinh chẳng lấy thứ gì. Chỉ cầu được hưởng một chén trà trong núi sâu.
(2) “Sơn hải kinh”: Là bộ cổ tích quan trọng thời kỳ Tiên Tần của Trung Quốc, cũng là một bộ kỳ thư cổ nhất, viết về thần thoại truyền thuyết. Tác giả của cuốn sách này không rõ là ai, các học giả hiện đại đều nhận định, đây không phải là bộ sách được hoàn thành trong một thời điểm, và cũng không chỉ do một tác giả biên soạn. “Sơn hải kinh” có sức ảnh hưởng rất rộng lớn và sâu sắc đối với nền văn hóa Trung Quốc nói chung và văn học Trung Quốc nói riêng.
(3) Hòa bích Tùy châu: Hòa bích chỉ ngọc Biện Hòa, Tùy châu tức là dạ minh châu, Hòa bích Tùy châu dùng để ví với ngọc quý.
(4) Trích bài “Tá Dịch lê hoa” (Hoa lê vườn Tả Dịch) của Khâu Vi đời Đường, Vũ Minh Tân dịch “Đẹp lạnh, coi khinh tuyết, Dẫm hương lồng áo ai”.
(5) Linh là bộ phận trang sức mũ bằng lông chim của quan lại, kim linh là lông chim bằng vàng (ND).
(6) Cư kinh: Chỉ kinh nguyệt ba tháng có một lần.
Muội và Họa Nguyệt cùng công chúa đến Càn Tây cung thăm Tiết Minh, còn đồng ý giúp nàng ta cứu Tiết Thái?”.
Khương Trầm Ngư gật đầu. Khương Hiếu Thành suýt nữa nhảy dựng lên, phản ứng đầu tiên chính là: “Muội điên rồi à? Muội biết rành rành hoàng thượng bây giờ muốn trừ bỏ tận gốc Tiết gia, muội còn cướp người trong vuốt hổ?
Muội chán sống rồi phải không?”
So với sự kích động của Hiếu Thành, Khương Trọng thâm trầm mưu kế vẫn bình tĩnh hơn nhiều, trầm ngâm nói: “Trong gia tộc Tiết thị, Tiết Hoài tuy là thần tướng, nhưng tuổi đã già; Tiết Minh tuy là hoàng hậu, nhưng đã bị phế truất, Tiết Hoằng Phi tuy thiện chiến, nhưng chỉ là nghĩa tử… Đúng là chỉ còn lại Tiết Thái. Có điều, tuổi vẫn còn quá nhỏ, khó nói được tương lai ra sao. Tại sao con phải giữ lại huyết mạch Tiết thị cho bằng được?”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, nói rành rọt, dứt khoát hai tiếng: “Lập địch”.
“Lập làm kẻ địch của ai?”.
“Khương gia, Cơ gia, còn có… hoàng thượng”.
Khương Trọng bỗng ngộ ra: “Hóa ra là thế… Con muốn dùng Tiết gia để kiềm chế Cơ gia, không để họ tiếp tục lớn mạnh?”.
“Chính là thế, trong ba đại thế gia, hễ Tiết gia diệt vong, chỉ còn lại hai nhà Khương, Cơ, cho dù nhìn từ mặt nào, Khương gia chúng ta cũng không phải là đối thủ của Cơ gia, mà hoàng thượng vừa không tín nhiệm cũng chẳng gần gũi chúng ta, suy yếu chỉ là chuyện sớm muộn. Tuy hoàng thượng coi trọng Cơ thị, nhưng có tấm gương tày liếp thế mạnh lấn chủ của Tiết gia, ngài chắc chắn sẽ không để cho Cơ gia lớn mạnh. Cho nên, từ điểm này mà nói, chúng ta thực ra cũng giống như hoàng thượng, đều cần một mắt xích để kiềm chế Cơ gia. Thử hỏi, hiện nay còn có thứ gì thích hợp hơn đứa con côi của họ Tiết?”.
Lúc này, đến Khương Hiếu Thành cũng hiểu ra, ánh mắt bắt đầu sáng lên, nhưng vẫn u mê hỏi: “Tiết Thái còn nhỏ thì có thể làm được gì? Sao có thể kiềm chế được Cơ Anh? Huynh không tin”.
Khương Trầm Ngư cười nhạt một tiếng: “Nếu như hoàng thượng ban Tiết Thái cho Cơ Anh thì sao?”.
Khương Hiếu Thành ngẩn ra một lát, rồi nhảy lên nói: “Sao có thể?”.
“Sao lại không thể? Nếu như hoàng thượng không giết Tiết Thái, vậy thì đối với ngài mà nói, còn có chỗ nào an toàn hơn, cũng nguy hiểm hơn ở bên cạnh Kỳ Úc hầu? Ngài ban hắn cho Cơ Anh, bởi vì ngài tín nhiệm Cơ Anh, cho nên mới giao mối lo lắng cho thần tử mình tín nhiệm nhất, tin rằng người đó nhất định sẽ trông chừng Tiết Thái cẩn thận, không để hắn tự ý làm bừa; nếu như hoàng thượng không tín nhiệm Cơ Anh, vừa hay có thể mượn việc này để thử thách lòng trung thành của Cơ Anh, xem xem công tử đối đãi với Tiết Thái ra sao, là bồi dưỡng hắn thành tài, hay là vùi dập hắn?”.
“Nhưng hoàng thượng không có lý do gì để không giết Tiết Thái cả!”.
Ánh mắt Trầm Ngư sầm xuống, giọng chắc nịch: “Vậy chúng ta hãy tìm cho ngài một lý do không thể không giữ Tiết Thái lại.”
Khương Trọng ngần ngừ rất lâu, cuối cùng mới than thật khẽ: “Kế này tuy hay, nhưng vi phụ luôn cảm thấy không ổn. Bởi vì, nếu là do chúng ta ra mặt cứu Tiết Thái, há chẳng phải tuyên bố với hoàng thượng, chúng ta không trung thành với ngài? E rằng không đợi Cơ gia lớn mạnh, hoàng thượng đã khai đao với chúng ta trước rồi…”.
Khương Hiếu Thành bỗng mở miệng cười ha ha. Khương Trọng nhíu mày, nói: “Con cười cái gì, Hiếu Thành?”.
“Lo lắng của cha thật buồn cười, chỉ dựa vào chúng ta, có thể cứu được Tiết Thái sao?”.
Gương mặt già nua của Khương Trọng trong giây lát tối sầm lại, thằng nhãi này quả nhiên ngốc đến sẽ mức phá đám người nhà mình.
Khương Trầm Ngư biết ý, vội vàng xoa dịu: “Cha đừng giận, điều ca ca nói đúng là sự thực. Chuyện của Tiết Thái đương nhiên chúng ta không thể ra mặt, kỳ thực, Trầm Ngư đã nghĩ đến lựa chọn tốt nhất”.
“Ai?”.
Khương Trầm Ngư nói: “Kỳ Úc hầu”.
Khương Trọng lắc đầu: “Không thể nào, cho dù hoàng thượng có lý do tha cho Tiết Thái, Cơ gia cũng không vì lý gì mà cứu nó, một khi Tiết thị bị diệt, trong triều sẽ không có người đối kháng với Cơ gia, y hà tất làm chuyện thừa thãi, tự gây phiền phức cho mình?”.
“Cha có muốn… đánh cược với con một lần không?”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, hai mắt sáng rỡ, kiên định lạ thường, cũng tự tin lạ thường, “Con gái đặt cược vào công tử, chàng nhất định sẽ cứu Tiết Thái!”.
Cùng với câu nói này, mọi việc đã được định đoạt.
Ngày hôm sau, một phong thư được cung kính đưa đến phủ hầu gia, giờ Mùi, cỗ xe ngựa thêu hình Bạch Trạch y hẹn xuất hiện tại phía ngoài Thanh Cương tự cách kinh thành mười dặm.
Rèm xe khẽ vén lên, quả nhiên là Cơ Anh bước ra. Hai nhà sư dẫn đường cho chàng đến thẳng sân sau chùa mới khom mình lui ra.
Trong sân, dưới bóng cây cổ thụ, trên mặt bàn đá là một bình trà mới vừa châm.
Đôi bàn tay thon thả nhấc ấm trà kỳ lân hoa lê hoa cúc trên lò lên, dùng ngón cái, ngón trỏ nâng chén, ngón cái ấn nắp, nhấc ấm lên, gạt nhẹ một cái men theo khay trà, gạt bỏ những giọt nước bám đáy ấm, lại rót trà mới pha màu xanh nhạt vào trong chén.
Khi thực hiện một loạt động tác này, tay áo màu tím nhạt nhẹ nhàng phất phơ, tư thế mỹ lệ tựa tiên nữ, chẳng khác người trong tranh.
Cơ Anh chăm chú nhìn người đó, bất động.
Người đó quay đầu lại mỉm cười với chàng, nói: “Bình sinh vu vật chi vô thủ tiêu thụ sơn trung thủy nhất bôi (1) . Chẳng hay loại trà Ngưỡng Thiên Tuyết Lục ngâm trong mai tuyết lâu năm này có hợp khẩu vị của công tử không?”.
Dưới những gốc mai nhấp nhô, chỉ thấy người đó eo Sở tóc Vệ mày ngài mi xanh, dịu dàng yểu điệu, khiến người ta ngắm nhìn mà kinh ngạc. Không phải ai khác, đó chính là Khương Trầm Ngư.
Cơ Anh “chà” một tiếng, chợt mỉm cười: “Trà ngon như thế, Anh đương nhiên phải tạ lĩnh.”
Khương Trầm Ngư đưa tay ra mời, lại đẩy chén trà đã rót đến trước mặt chàng. Tuyết đã ngừng rơi, trời cao xanh ngắt, chỉ cảm thấy ở nơi này, hồng trần thế tục hết thảy đều cách xa. Hai người cứ thế mặt đối mặt, lặng lẽ thưởng trà, một lúc lâu không ai nói gì.
Cuối cùng, vẫn là Trầm Ngư lên tiếng trước: “Trầm Ngư vượt phận, mạo danh gia phụ để hẹn công tử tới đây, dám mong công tử lượng thứ”.
Cơ Anh cười nhàn nhạt: “Tiểu thư hẹn Anh tới, tất có chuyện, đã là có chuyện, là ai hẹn cũng có quan hệ gì đâu?”.
Khương Trầm Ngư không tiếp lời ngay, nàng cúi xuống nhìn chén trà trong tay, lại im lặng một lúc, cuối cùng hít một hơi thật sâu tựa như đã hạ quyết tâm, ngẩng đầu lên nói: “Công tử có biết tên của Thanh Cương tự này là từ đâu mà có không?”.
Cơ Anh hơi ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Nếu như ta nhớ không nhầm…
chùa này là do Băng Ly công tử đặt tên”.
“Không sai, cái tên này, thậm chí cả hoành phi trước chùa, cũng đều từ Tiết Thái mà ra. Năm Băng Ly công tử lên bốn, cùng người nhà ra ngoài du xuân, không cẩn thận đi lạc trong núi, đương lúc đói đến sắp ngất đi, ngẫu nhiên gặp một giai nhân. Giai nhân này soi đèn đưa hắn đến đây, hòa thượng trong chùa phát hiện ra một đứa trẻ bị ngất ở ngoài cửa, liền cứu hắn. Sau khi tỉnh dậy, hắn cảm cái ơn đó, nhớ đến người kia tự xưng là Thanh Cương, bàng hoàng tỉnh ngộ, hóa ra nàng là Thanh Cương nữ – yêu quái cuối cùng trong “Sơn hải kinh”(2) bèn tặng chùa này cái tên đó”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, ngừng lại một lát mới tiếp: “Đứa trẻ bốn tuổi có thể có được duyên kỳ ngộ như thế, thật khiến chúng ta hâm mộ”.
Cơ Anh cười nói: “Cho dù là duyên kỳ ngộ, nếu chẳng phải một kỳ nhân như hắn, thì cũng không thể thành giai thoại”.
Khương Trầm Ngư chỉ khối đá bên cạnh nói: “Vậy công tử có biết gốc tích của khối đá ‘Bão Mẫu’ này?”.
“Đương nhiên, nói ra vẫn là có liên quan đến Băng Ly công tử. Hắn được tăng nhân trong chùa cứu sống, sau đó ngày ngày ngóng người nhà đến tìm, nhớ nhung ơn mẹ, viết thành bài ‘Bão mẫu ngâm’ vang danh bốn nước, khối đá này được đặt tên như vậy là để kỷ niệm bài thơ đó của hắn”.
“Anh anh trĩ nhi, phát sơ phúc ngạch. Thực mẫu chi nhũ, nhân mẫu hỉ lạc.
Kiệt kiệt đồng tử, kỵ trúc cao ca. Mẫu hoán quy gia, yếm mẫu hà trách. Lãng lãng thanh sam, dị hương chi khách. Tụ khai bào liệt, ức mẫu châm hạp. Thương thương lão ông, lệ vô hà già, mộ tiền khô thảo, dĩ một hành xa…” (Trẻ thơ non nớt, tóc vừa để chỏm. Uống sữa của mẹ, vì mẹ mừng vui. Ngây thơ con trẻ, cưỡi tre hát vang. Mẹ gọi về nhà, chê mẹ trách móc. Áo xanh sáng ngời, lữ khách tha hương, áo rách tả tơi, nhớ đường kim mẹ. Ông già tóc bạc, lệ tràn khóe mi, cỏ khô trước mộ, đâu nào dấu xe). Khương Trầm Ngư thong thả nói, “Thuở sơ sinh bám lấy mẫu thân, thuở còn thơ lại chê mẫu thân phiền hà, khi trưởng thành rời xa mẫu thân, già rồi trở về khó mà gặp mẫu thân… Sáu mươi tư chữ ngắn ngủi đã nói hết một đời của một cặp mẹ con. Mà hắn khi đó chỉ mới bốn tuổi”.
Lần này đến lượt Cơ Anh trầm ngâm.
Trà trong ấm sôi ùng ục, đẩy nắp ấm kêu lục cục, thoảng có cơn gió thổi qua núi rừng, xào xạc xào xạc. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn chàng, trong mắt chất chứa muôn vàn tình cảm, tựa như cân nhắc vạn điều, cuối cùng mới kết thành một câu: “Công tử, xin ngài,… cứu hắn”. Nói rồi, nàng quỳ xuống.
Cơ Anh nhìn nàng, đáy mắt dường như bình tĩnh, nhưng lại có sự mơ hồ khó che giấu, cuối cùng khẽ thở dài một tiếng.
Khương Trầm Ngư cắn môi nói: “Công tử tai mắt vô số, tất nhiên đã biết chuyện hôm qua ta cùng tỉ tỉ và công chúa đến lãnh cung thăm hoàng hậu. Khi ngài nhận được thư mời hẳn đã đoán được chúng ta tìm ngài là vì việc gì. Công tử vốn có thể không đến, nhưng công tử đã đến, có nghĩa là chuyện này có thể thành, đúng không?”.
Cơ Anh đưa mắt nhìn khối đá có tên “Bão Mẫu”.
“Công tử, ngài mô᪄ìn, bỏ mặc không cứu, như vậy há chẳng phải là làm cho học sĩ trong thiên hạ sờn lòng sao?”.
Cơ Anh đáp: “Mời tiểu thư đứng dậy”.
Khương Trầm Ngư không đứng lên, tiếp tục nói: “Nếu là người khác, ta cũng sẽ không cầu xin. Nhưng duy chỉ có ngài, chỉ có ngài, ta biết ngài có thể cứu hắn, cho nên mới to gan mở miệng. Công tử, với hoàng thượng mà nói, Tiết Thái chẳng qua chỉ là một đứa trẻ ranh trong nhà một kẻ nghịch thần, nhưng đối với thiên hạ mà nói, lại là chí bảo kỳ trân, chém đầu hắn sẽ không thể có được một kẻ thứ hai”.
Cơ Anh dường như bị câu cuối cùng làm lay động tâm tư, trên gương mặt lóe lên một thoáng dị thường, khi nhìn nàng, trong ánh mắt dường như chất chứa thêm rất nhiều thứ, những thứ đó sáng lóa, nhảy nhót, cuối cùng ngưng kết thành sự tiếc thương: “Nàng nói không sai, Tiết Thái đúng là chỉ có một…”. Cơ Anh nhắm mắt rồi lại mở mắt ra, đứng dậy nói: “Đời người trăm năm, thù nước hận nhà, đối với dòng sông lịch sử mà nói, chẳng chỉ là một hạt thóc giữa biển xanh, chớp mắt đã biến mất. Nhưng văn thái phong lưu lại có thể lưu danh muôn đời, trường tồn mãi mãi. Anh tuy bất tài, cũng không thể nhìn Hòa bích Tùy châu tan thành cát bụi. Ta nhận lời nàng, Khương tiểu thư, ta sẽ cứu Tiết Thái”.
Ta sẽ cứu Tiết Thái.
Năm tiếng này, từng tiếng cương nghị, vang lên rành rọt.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, nhìn chàng chằm chằm, trong mắt loang loáng ánh lệ.
Canh bạc này… nàng thắng rồi.
Bởi vì, công tử chuộng tài, mà Tiết Thái chính là ngọc chất lương tài trăm năm khó gặp. Cái nàng cược chính là tấm lòng quý trọng nhân tài của công tử, mà chàng quả nhiên không phụ sự kỳ vọng của nàng, cuối cùng đã nhận lời cứu giúp.
Nàng biết, kỳ thực với địa vị thân phận của chàng, với hoàn cảnh của chàng, cần quá nhiều hy sinh mới có thể đồng ý chuyện này, tuy nàng đoán được chàng sẽ mềm lòng, nhưng vẫn cảm động vì sự mềm lòng này.
Công tử à, không hổ là công tử mà nàng vẫn ngưỡng mộ nhung nhớ bấy lâu… khoan dung đại độ như thế, vứt bỏ tu lợi như thế, phẩm đức hoàn mỹ không tì vết như thế, chỉ có chàng…
Nhưng, nhưng, nhưng mà…
Mây mù trùng trùng giăng bủa, Khương Trầm Ngư nghĩ, có lẽ nàng sắp khóc đến nơi rồi. Trong lòng như bị dao cứa, một nơi nào đó đang ứa máu, bởi vì cảm động, bởi vì yêu thương, càng bởi vì hổ thẹn: Công tử, chàng cứu Tiết Thái tuy là đại nghĩa, Khương Trầm Ngư ta lại là vì tư tâm. Bởi vì, nếu Tiết gia bị diệt, Cơ gia tất thịnh, Khương gia sẽ suy, cứ như vậy liên hôn hai nhà Khương, Cơ sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại.
Mà ta làm sao có thể trơ mắt nhìn hôn sự này chết yểu?
Cho nên, ta chỉ có thể nhân khi mối hiểm nguy này chưa xuất hiện mà triệt để phá hủy, nắm chặt không buông.
Công tử, ta không thể buông tay. Nếu ta buông tay là sẽ mất chàng!
Ta phải gả làm vợ của chàng, nương tựa bên nhau, sống đến bạc đầu. Nhưng tất cả đều phải được xây dựng trên cơ sở bình bẳng. Ta không cần với cao Cơ gia, cũng không muốn những kẻ khác coi thường, cho rằng ta không xứng với chàng.
Ta muốn chàng coi ta là vinh quang, ta muốn rực sáng vô song đứng cạnh bên chàng, ta muốn tất cả người trong thiên hạ đều nói: Trầm Ngư của Khương gia và Kỳ Úc của Cơ gia đúng là một cặp trời sinh!
Cho nên, ta chỉ có thể làm ra chuyện đê tiện này.
Ta chỉ có thể cản trở tiền đồ của chàng như thế này. Xin lỗi, công tử, xin lỗi…
Bởi vì yêu chàng, vì ta yêu chàng, vì… ta yêu chàng một cách vừa cố chấp vừa hèn mọn như thế…
Khương Trầm Ngư cụp mắt, hàng mi không ngừng run rẩy tựa cánh bướm, trong lòng cố nén nỗi bi thương.
Nhưng chính lúc đó, nàng nghe thấy Cơ Anh nói: “Hóa ra nơi này có cây hạnh…”.
Nàng ngẩng đầu, thấy Cơ Anh đứng cạnh bàn, chăm chú nhìn một gốc hạnh cách đó không xa, khi ấy đông lạnh vừa qua, tiết trời vẫn chưa hoàn toàn ấm áp, cành cây trơ trụi, không hề đẹp mắt. Nhưng dường như chàng lại nhìn thấy cảnh tượng tươi đẹp hoa xuân nở rộ vạn vật tốt tươi, ánh mắt trở nên vô cùng vô cùng dịu dàng.
Trong lòng nàng run lên, không kiềm được hỏi: “Công tử thích hoa hạnh ư?”.
“Ừ”. Sau âm mũi trong, mềm đó, lại nhấn mạnh bổ sung một câu, “Vô cùng thích”.
Hóa ra công tử thích hoa hạnh, không biết tại sao, cảm thấy có chút kỳ lạ, nàng luôn cảm thấy công tử tao nhã cao quý như thế, đáng lẽ sẽ thích một loại hoa nào đặc biệt hơn mới đúng.
“Có chút bất ngờ, ta tưởng rằng công tử thích hoa anh đào”.
“Lẽ nào nàng thực sự thích cỏ Ngu mỹ nhân?”. Cơ Anh hỏi ngược lại, xem ra chàng cũng nhớ đến câu đối trong canh thiếp đó.
Khương Trầm Ngư mỉm môi cười nói: “Lãnh diễm toàn khi tuyết, Dư hương tạc nhập y” (4).
“Hóa ra nàng thích hoa lê…”. Cơ Anh nhìn cây hạnh đó chậm rãi nói: “Thật tốt, qua một tháng nữa, hai loài hoa đều nở”.
Trong lòng Khương Trầm Ngư thoáng xao động, bèn nói: “Tháng tư hàng năm, đế đô đều có lễ thưởng hoa long trọng, vạn sắc nghìn hương, trong đó Hồng viên là đẹp nhất. Năm nay công tử, liệu có muốn… đi cùng ta không?”.
Cơ Anh dường như sững người một lát, khiến nàng trong chốc lát có cảm giác hối hận vì mình đã đường đột, mình chủ động mời một nam tử đi thưởng hoa như thế, liệu có quá… bạo dạn chăng?
Nhưng công tử đúng là công tử, hiển nhiên, chàng tuyệt đối không để người khác khó xử, đặc biệt là làm nữ tử khó xử, thế nên chàng nhếch khóe môi, dịu dàng nói: “Đây là vinh hạnh của Anh”.
Trái tim của Khương Trầm Ngư nhảy thình thịch mấy nhịp, sự bất an và bối rối trong nháy mắt đã lui đi, thay vào đó là một tình cảm dịu dàng khó tả thành lời. Nàng nhìn nam tử đứng trước mặt, chỉ cảm thấy toàn thân chàng từ đầu xuống chân, không chỗ nào là không hoàn mỹ, mọi thứ đều phù hợp với tâm ý của nàng, khiến nàng vui mừng. Còn một tháng… một tháng nữa, nàng sẽ có thể cùng công tử sánh vai đi ngắm hai loài hoa mà họ thích nhất.
Đến lúc đó, lê trắng hạnh đỏ, chiếu rọi lẫn nhau, tất sẽ giống như chàng và nàng, liên câu hợp bích, hoa nở đã rực rỡ lại càng thêm rực rỡ…
Mười ngày sau, quân chủ Bích quốc Chiêu Doãn đóng quân ở phía bắc sông Hoài đang chuẩn bị tấn công chính điện vào đại quân của Tiết Hoài, đột nhiên nhận được thư do quân chủ Yên quốc – Chương Hoa gửi tới, trong thư cầu xin cho Tiết Thái, khẩn thiết xin giữ lại tính mạng của hắn.
Đế vương thiếu niên đọc xong phong thư đó, ngọn lửa phẫn nộ bùng lên trong đôi mắt, xé bức thư thành hai mảnh, khiến cho đám tướng lĩnh bên cạnh nhất loạt quỳ sụp, miệng hô vạn tuế.
Lồng ngực y phập phồng nhấp nhô, qua một thời gian rất dài, mới từ từ bình tĩnh trở lại, mở miệng nói: “Các ngươi lui hết ra, trẫm muốn yên tĩnh một lúc”.
Đám tướng lĩnh lục tục lui ra, trong doanh trướng chỉ còn lại mình y. Ánh mắt y lóe sáng, gọi: “Điền Cửu”.
Một bóng đen từ trên mái nhà bay xuống, phủ phục dưới đất, thưa: “Có”. “Chuyện này là thế nào?”. Chiêu Doãn ném bức thư xuống trước mặt hắn.
Điền Cửu nhặt hai mảnh giấy lên, ghép lại đọc một lượt, thấp giọng nói: “Nghe nói Khương quý nhân và công chúa từng đến lãnh cung thăm hoàng hậu”.
Chiêu Doãn cười lạnh: “Ngươi cho rằng hoàng hậu viết thư cầu xin Yên vương? Nếu nàng ta thực sự có thể liên hệ với thế giới bên ngoài, đám thị vệ trong cung đều không cần sống nữa”.
Điền Cửu biết hoàng thượng đang nổi giận, một câu trả lời không thận trọng sẽ vạ lây muôn người, lập tức đáp: “Thiên hạ đều biết Yên vương yêu thích Tiết Thái, vì thân phận đặc biệt, không thể thu nhận làm nghĩa tử mà hắn tuổi còn quá nhỏ, không thể chiêu nạp làm con rể, vì chuyện này Yên vương nuối tiếc đã lâu. Hẳn là nghe được chuyện về Tiết thị, nên mới đặc biệt cầu xin…”.
Chiêu Doãn trầm ngâm, cuối cùng “hừ” một tiếng.
Điền Cửu dè dặt nói: “Hoàng thượng định làm thế nào?”.
“Trẫm còn có thể làm thế nào? Bức thư này bề ngoài là khách sáo cầu xin, kỳ thực là uy hiếp. Yên vương rõ ràng biết nước ta nội loạn, tuy e ngại bang giao hai nước nên không tiện vọng động, nhưng trong lòng không chừng đã nghĩ nên chia bát canh này như thế nào! Nếu ta không nhận lời giữ lại Tiết Thái, e là ngày mai hắn sẽ tuyên bố giúp Tiết Hoài thảo phạt tên hôn quân là ta!”. Sắc mặt Chiêu Doãn cực kỳ khó coi, y đảo mắt, biểu tình càng u ám hơn.
Điền Cửu không dám tiếp lời, đành cúi thấp đầu.
Yên lặng như thế một lúc, Chiêu Doãn chợt nhếch môi cười nói: “Cũng được. Các ngươi đều hy vọng trẫm giữ lại nó, vậy thì trẫm giữ lại nó thôi”.
Điền Cửu vẫn cẩn thận giữ yên lặng như trước, hắn theo Chiêu Doãn đã bảy năm, quá hiểu cách của vị chủ tử này, nếu thực sự trừng mắt trợn mài giận vẫn còn tốt, sợ nhất là bộ dạng nửa cười nửa không như lúc này, mỗi lần hoàng thượng có dáng vẻ này, tức là có người sắp gặp xui xẻo.
“La Hoành”. Chiêu Doãn truyền gọi đại thái giám thân cận: “Thay trẫm tuyên chỉ, nói Tiết Hoài tuy làm phản, tội liên lụy đến con cháu, nhưng trẫm niệm ân xưa, đặc biệt mở một con đường sống, miễn tội chết cho Tiết Thái, ban hắn làm nô lệ cho Cơ Anh, mong công tử hãy thay trẫm quản giáo cẩn thận”.
La Hoành hơi do dự một lát: “Hoàng thượng…”.
“Cái gì?”.
“Ban Tiết Thái cho Cơ Anh, liệu có thỏa không…”.
Chiêu Doãn cười nhạt với La Hoành, mày mắt cong cong: “Thế ban cho ngươi chắc?”.
La Hoành đột nhiên toát mồ hôi lạnh, không dám nhiều lời vội vàng lĩnh chỉ lui ra.
Chiêu Doãn ra quyết định này xong, sắc mặt dễ coi hơn rất nhiều, xua tay ngầm bảo Điền Cửu có thể ẩn thân rồi, thế là bóng đen trên mặt đất loáng một cái đã mất tăm.
Y chầm chậm ngồi xuống, chầm chậm giở địa đồ hành quân trên bàn ra, truyền Phan Phương vào yết kiến. Không lâu sau, Phan Phương đã đến. Chiêu Doãn vẫy Phan Phương đến bên bàn, nói: “Ái khanh, chúng ta đã đến sông Hoài, mà giặc Tiết cũng sắp đánh đến sông Hoài, theo khanh, chúng ta sẽ giao binh ở đâu?”.
Phan Phương chỉ vào một thành nhỏ bên sông, nói: “Đương nhiên là Lạc thành”.
“Chính là nơi bêu đầu Tiết Túc?”.
“Thưa vâng”.
“Tại sao?”.
“Thứ nhất, thành này tuy nhỏ, nhưng là chốn trọng địa của nhà binh, xưa nay đều là nơi các lộ quân mã phải tranh đoạt thành cao mười trượng, ba mặt giáp sông, dễ thủ khó công, thành này nếu mất, coi như thua một nửa”.
“Còn thứ hai?”.
“Hai là…”. Phan Phương chỉ vào một nơi được khuyên đỏ trên địa đồ, “hầu gia đã bố trí thiên la địa võng trong thành, thần dám lấy đầu ra đảm bảo, chỉ cần giặc Tiết vào thành, chắc chắn sẽ chết!”.
Ánh mắt Chiêu Doãn sáng lên, không suy xét kỹ nguyên nhân, đứng dậy vỗ vỗ vào vai Phan Phương, nói: “Được, đợi diệt giặc Tiết xong, trẫm sẽ mời tướng quân ba chén, để cảm tạ trời cao đã ban một viên hổ tướng như ngươi cho Đỗ Bích”.
Phan Phương quỳ sụp xuống: “Hoàng thượng chém Tiết Túc là báo thù cho người vợ chưa cưới của vi thần, vi thần dù gan óc lầy đất, cũng khó báo đáp hoàng ân! Đến nay, thần chỉ còn một tâm nguyện chưa hoàn thành!”.
“Nói”.
Phan Phương cắn răng, giọng nói gần như nghẹn ngào: “Chính là nỗi oan của gia phụ…”.
Chiêu Doãn gật đầu: “Ngươi yên tâm, trận này đại thắng, trẫm ắt sẽ trả lại công bằng chính tôn”.
“Tạ ơn hoàng thượng”. Phan Phương dập đầu thật mạnh ba cái.
Chiêu Doãn đưa tay đỡ Phan Phương đứng dậy, cười nói: “Trận này thành công, thiên hạ ai chẳng biết ngươi… Lệnh tôn trên trời có linh thiêng, cũng sẽ ngậm cười nơi chín suối. Ngươi chớ để trẫm thất vọng…”.
Nhìn vẻ cảm động toát lên trên gương mặt Phan Phương, Chiêu Doãn mỉm cười, nhưng đôi mắt vẫn lạnh băng không gợn nét cười, y nghĩ, người này bề ngoài là thần tử của trẫm, nhưng bên trong vẫn là người của Kỳ Úc.
Nhưng không sao, nếu có một ngày không thể không chọn lựa, người này sẽ biến thành người của trẫm. Chỉ là, nếu như có thể vẫn hy vọng sẽ không có ngày đó.
Chiêu Doãn cười, ánh mắt chợt hoang lạnh.
Quân của Tiết gia cắm trại bên ngoài Lạc thành, ai ai cũng nhìn ra nơi đây sẽ diễn ra chiến dịch then chốt quyết định thắng bại, có thể đoạt được Lạc thành hay không có lẽ sẽ quyết định được thắng thua sau cùng. Một bên là Tiết Hoài danh tướng trăm năm có một, bảo đao chưa cùn, một bên là đế vương thiếu niên đắc ý, hành xử quyết đoán. Ai thắng? Ai thua? Không chỉ người Bích quốc tâm trí thấp thỏm, mà đến ba nước xung quanh cũng chú ý sát sao, thầm cảm thấy bất an.
Nhờ vào mạng lưới tình báo rộng lớn của hữu tướng phủ, Khương Trầm Ngư và phụ thân, huynh trưởng đã nhanh chóng biết tin về chiến dịch.
Nghe nói, quân của Tiết gia dọc đường thuận lợi đánh đến sông Hoài, khi nhìn thấy trên tường thành Lạc thành bêu đầu Tiết Túc, vị thần tướng tuổi gần lục tuần, tóc đã điểm sương đó đã rơi lệ. Nhưng cho dù kích động, cho dù hận chỉ muốn lập tức báo thù cho con trai, nhưng kinh nghiệm cầm quân lâu năm và chút lý trí cuối cùng đã mách bảo ông lệnh cho quân sĩ cắm trại ngoài thành, tạm thời án binh bất động.
Mà trong trận công thành trước đó, nghĩa tử Tiết Hoằng Phi vì cứu ông, vai trái trúng tên, đương phải dưỡng thương. Nhìn thấy nghĩa phụ rơi lệ, đau lòng đến mức không ăn nổi cơm bèn khuyên nhủ: “Người xưa đã mất, người sau này còn có thể tìm. Nghĩa phụ đại nhân an tâm, ngày công phá Lạc thành, hài nhi nhất định sẽ treo thủ cấp của Chiêu Doãn lên tường thành, để bẩm với anh linh của nghĩa huynh trên trời!”.
Khi ấy, Khương Trọng nói: “Đứa con nuôi này còn hữu dụng hơn cả con đẻ của Tiết Hoài, Tiết Túc nếu tốt được bằng một nửa hắn, Tiết gia có lẽ cũng không đến ngày hôm nay…”.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư lại lay động, giọng có chút thê lương: “Lời này nói ra, Tiết Hoằng Phi… chắc chắn là không sống được”.
Khương Hiếu Thành không cho là vậy: “Hắn đi theo lão tặc Tiết Hoài, mười năm nay bàn tay đẫm máu vô số, vốn đáng giết, cha và muội muội thương tiếc loại người này làm gì?”.
Khương Trọng lắc đầu than: “Tiết Hoằng Phi thiếu niên anh tài, văn võ song toàn, lại một lòng trung thành với Tiết gia, nếu con có một nửa tài năng của hắn, vi phụ ta cũng không đến nỗi lo lắng thế này”.
Ba ngày sau, Tiết Hoài hạ lệnh bắt đầu công thành.
Khi mà ai ai cũng nghĩ trận đại chiến này chắc chắn sẽ đánh đến mức trời long đất lở, nhật nguyệt tối đen, máu chảy thành sông, thây chất đầy đồng, sinh linh lầm than, thì nó đột nhiên kết thúc.
Và còn kết thúc bằng một cách bất ngờ nhất, giản đơn nhất.
Trong thư phòng, khi ám vệ thuật lại sự tình, giọng nói cũng không còn bình tĩnh như trước, mà mang theo không ít kích động: “Chính lúc trận đánh diễn ra kịch liệt nhất, Tiết Hoằng Phi vai trái còn quấn băng đã thúc ngựa chạy đến bên Tiết Hoài, vừa hét lớn ‘Nghĩa phụ, con đến giúp người’, vừa rút bảo đao bên hông ra, một đao vung lên, đầu người rơi xuống…”.
“Đầu của ai?”. Ba người trong thư phòng đồng loạt thất kinh hỏi.
“Tiết Hoài”.
Đáp án này không khác gì sét đánh giữa trời quang, Khương Hiếu Thành u u mê mê một lúc mới hiểu ra, nhảy dựng lên nói: “Ngươi nói gì? Tiết Hoài? Tiết Hoằng Phi chém đầu Tiết Hoài? Tiết Hoằng Phi chém đầu… của Tiết Hoài?”.
Y liên tiếp lặp hai lần, đến khi nhìn thấy ám vệ gật đầu, vẫn không dám tin.
Đến Khương Trọng cũng hỏi đầy vẻ kinh ngạc: “Tại sao Tiết Hoằng Phi lại làm như vậy?”.
“Hắn đột nhiên làm loạn giữa trận, một đao chém rơi đầu Tiết Hoài, tất cả đều bị biến cố này làm cho ngây dại, toàn bộ đều dừng tay. Hắn lại nhảy lên xe chém gãy quân kỳ chữ Tiết, hét lớn: ‘Đồ Bích mênh mông, quy về thiên mệnh, giặc Tiết tạo phản phải giết không tha’. Quân của Tiết gia mới sực tỉnh, biết hắn đã bán đứng họ, dùng mưa tên bắn chết hắn. Tiết Hoằng Phi trước khi chết ngửa mặt cười lớn: ‘Phụ thân, mẫu thân còn có các huynh đệ tỉ muội của ta, Thắng nhi rốt cuộc đã báo thù cho mọi người rồi!’”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày hỏi: “Báo thù?”.
“Đúng thế. Bọn thuộc hạ vừa mới điều tra ra, hóa ra hắn vốn không phải tên là Hoằng Phi, mà là Chu Thắng, con trai của thành chủ Lạc thành – Chu Khang. Chu Khang là người chính trực, không nịnh bợ a dua, đắc tội với Tiết gia, bốn mươi chín mạng người Chu gia đều chết dưới tay Tiết Túc. Để báo thù, Chu Thắng nhận giặc làm cha, nhẫn nhục mười năm, cuối cùng đã được coi trọng, nhân lúc Tiết Hoài không phòng bị, một nhát đâm trúng…”.
Tim Khương Trầm Ngư nhói một cái, những chuyện trước đây nghĩ không ra trong khoảnh khắc này toàn bộ đều được giải đáp. Khi nàng đoán định hoàng thượng dám đích thân chinh phạt, tuyệt đối đã nắm chắc phần thắng, hóa ra quân cờ ngầm của ngài chính là Tiết Hoằng Phi. Nghĩ đến người này nhẫn nhục mười năm, không kìm được cảm khái: “Hắn vốn là người Lạc thành, cuối cùng đã chọn Lạc thành là nơi kết thúc tất cả”.
Khương Hiếu Thành nói: “Chẳng trách ngày đó Kỳ Úc hầu dặn dò đưa đầu Tiết Túc đến Lạc thành, ta lại cho rằng y chỉ đơn thuần là muốn thay hoàng thượng thị uy, bây giờ nghĩ lại, rõ ràng là đưa cho Tiết Hoằng Phi, à không, Chu Thắng một chỉ thị ngầm – một đầu đổi lấy một đầu”.
“Hay cho câu một đầu đổi lấy một đầu”. Khương Trọng khen ngợi. “Tiếc thay cho một nhân vật như thế!”.
Khương Trầm Ngư lắc đầu nói: “Hắn đúng là một nhân tài, nếu được triều ta sử dụng, ắt sẽ làm nên nghiệp lớn. Nhưng người như vậy, sống chỉ vì một mục đích duy nhất là báo thù, đến nay thù lớn đã báo, lại thêm Tiết Hoài tuy là kẻ thù, nhưng mười năm làm cha con, ít nhiều cũng có tình cảm, hắn tự tay giết chết người đề bạt hắn coi trọng hắn, e rằng đối với hắn mà nói, cái chết lại là sự giải thoát tốt nhất”.
Khương Trọng đứng ngẩn hồi lâu, lại nhìn nàng, thần sắc trở nên phức tạp: “Sự cố chấp cương nghị của Chu Thắng tuy khiến người ta xúc động, nhưng tài trí của Cơ Anh lại khiến người ta run sợ. Ngày đó, hoàng thượng bỗng nhiên đối chọi với Tiết gia, ta còn cho rằng việc lần này quá gấp gáp, gần như lỗ mãng, bây giờ nhìn lại, bọn họ rõ ràng đã tính toán kỹ từng bước. Đầu tiên là lấy cớ thái hậu bệnh nặng để cách ly, lại bắt giam hoàng hậu, nổi giận chém quốc cữu để khích Tiết Hoài; cuối cùng lợi dụng nghĩa tử được Tiết Hoài tín nhiệm nhất, một chiêu rút củi đáy nồi, nhẹ nhàng mà phá tan cơ nghiệp trăm năm của Tiết gia. Những thứ mà chúng ta nhìn thấy rõ ràng chỉ có ngần đó, còn những thứ mà chúng ta không biết còn nhiều hơn nữa… Làm quan cùng triều với những người như thế, đúng là có chút đáng sợ…”.
Khương Hiếu Thành cười hì hì, nói: “Không sao không sao, dù sao chúng ta cũng sắp kết thành thông gia rồi, chỉ cần thành người mình, tất cả đều dễ nói, đúng không, muội muội? Muội muội như hoa như ngọc, băng tuyết thông minh của ta, lẽ nào không xứng với Kỳ Úc hầu sao?”.
Khương Trầm Ngư mỉm cười, không nói gì, nhưng cảm giác bất an trong lòng càng lúc càng dâng lên. Nàng sớm đã biết công tử tài trí vô song, bây giờ nghĩ lại, lại thấy chàng cơ trí gần như yêu ma. Công tử thông minh như thế, lẽ nào thực sự nhìn không ra màn kịch nhỏ của nàng sao? Hay là, rõ ràng đã nhìn ra rồi, nhưng vẫn có ý không bóc trần? Khi mình bày binh bố trận, có phải kỳ thực là đang từng bước rơi vào cạm bẫy không thể đoán định nào đó không? Nàng bỗng cảm thấy có chút sợ hãi. Bên tai nghe thấy tiếng ca ca nói: “Cho dù thế nào, kết cục này cũng không tồi. Tiết Hoài đã chết, nỗi lo trong tâm đã trừ, hoàng thượng sẽ mau chóng về triều, đến lúc đó, lập tức sẽ bàn đến hôn sự của Trầm Ngư”.
Trong lòng nàng lại run rẩy, mí mắt giật không ngưng, khi tâm thần còn bất định, bên ngoài có a hoàn gõ cửa, là tiếng Ác Du: “Tam tiểu thư, tam tiểu thư…”.
“Có chuyện gì?”.
“Hoàng Kim Bà đến rồi, bây giờ đang ở ngoài đại sảnh, phu nhân hỏi tiểu thư có qua một chút không”.
Khương Hiếu Thành bước qua mở cửa phòng, cười nói: “Xem cái gì?”.
Hoàng Kim Bà đứng bên cạnh giải thích: “Sáng sớm tôi đến phủ hầu gia, họ đưa ra ba ngày để nhà ta chọn lựa, xem xem ngày nào là tiện nhất. Ba ngày này đều là ngày tốt, lần lượt là mùng bảy tháng tư, mười lăm tháng năm và hai mươi ba tháng bảy. Theo ý kiến của tôi, càng sớm càng tốt, nhân dịp hoàng thượng thắng trận, nhân không khí vui vẻ thu xếp xong hôn sự. Chọn ngày mùng bảy tháng tư đi, còn hai mươi ngày nữa, hoàn toàn tặng kịp thư lễ, nến lễ, pháo lễ”.
Khương phu nhân gật đầu, nói: “Ta cũng ưng ngày này!” “Trầm Ngư, ý con thế nào?”.
Khương Trầm Ngư cúi đầu: “Xin mẫu thân làm chủ”.
Khương phu nhân cười nói: “Vậy được, vậy phiền Hoàng Kim Bà đưa tin, chúng ta chọn ngày mùng bảy tháng tư”.
“Tôi đi ngay đây”. Hoàng Kim Bà hoan hỉ cáo từ.
Hoàng Kim Bà đã ra về, hai a hoàn Hoài Cẩn, Ác Du liền tiến lên vừa cười vừa hành lễ, nói: “Chúc mừng tiểu thư, chúc mừng phu nhân!”.
“Khéo miệng lắm”. Khương phu nhân cười vang thưởng cho hai a hoàn, quay lại thấy Khương Trầm Ngư sắc mặt buồn bã như đang nghĩ ngợi gì, bèn đẩy nàng một cái, hỏi: “Nghĩ gì thế chuyện vui như thế, sao con lại có vẻ mặt đó?”.
Khương Trầm Ngư khẽ nói: “Mẹ… con hơi sợ…”.
Khương phu nhân ôm nàng, đến trước cửa sổ, nói: “Ngốc ạ, sợ cái gì chứ?
Con gái lớn thì phải gả chồng, hơn nữa nhà chồng tốt như thế, trượng phu tốt như thế, nhân duyên tốt cầu còn không được, con sợ cái gì?”.
“Con sợ”, có lẽ giọng nói của mẫu thân quá dịu dàng, lại có lẽ cảnh sắc hoa xuân hé nở bên ngoài cửa sổ quá diễm lệ. Khương Trầm Ngư chìm đắm trong xúc cảm dịu dàng, nói ra những lời thật lòng nhất, “Con sợ công tử cưới con là họa không phải là phúc”.
Khương phu nhân sững người: “Gì cơ?”.
“Bởi vì con là con gái của Khương gia”. Khi nói câu này, trên gương mặt Khương Trầm Ngư hiện lên vẻ bi thương, vẻ bi thương đó nhàn nhạt nhưng quấn chặt, lau cũng không hết.
“Nếu liên hôn lần này có thể khiến hai nhà Khương, Cơ cùng hưởng vinh hoa thì tốt, nếu không, hễ hai nhà nảy sinh xung đột con sợ là con sẽ hy sinh công tử, chọn nhà mẹ đẻ”. Giống như lần này nàng có ý giữ lại Tiết Thái để khống chế chàng, dùng tiền đồ của chàng để thanh toán cho tiền đồ của Khương gia. Chuyện này có lần thứ nhất, thì sẽ có lần thứ hai, lần thứ ba, và vô số lần khác.
Nàng rất sợ hãi, nàng sẽ hết lần này đến lần khác đứng về phía gia tộc, lựa chọn phản bội chàng, phản bội tình yêu mà nàng tự hào.
“Sao có thể như thế được?” Khương phu nhân an ủi, “Liên hôn vốn là chuyện hai bên đều có lợi, sau khi con trở thành thê tử của hầu gia, hầu gia và cha con sẽ càng đồng tâm hiệp lực phò tá hoàng thượng, sao có thể nảy sinh xung đột? Đừng nghĩ nhiều quá, con ấy, nên nghĩ thoáng ra, có thời gian rảnh rỗi nghĩ những chuyện này chi bằng nghĩ xem làm thế nào để thành tân nương đẹp nhất”.
Mẹ không biết gì cả… Khương Trầm Ngư trong lòng bi ai, thầm nghĩ, mẹ của nàng cái gì cũng không biết. Cho nên, cho dù thân như mẹ con, cũng không thể nào thực sự đồng tâm. Tâm sự của nàng mẹ không hiểu, nên lời an ủi của bà không hề có tác dụng với nàng.
Ai ai cũng nói Khương Trầm Ngư tốt bụng, nhưng tại sao nàng lại chẳng có nổi một người bạn tốt tri kỷ? Có phải vì… trái tim của nàng cất giấu quá sâu, không dám cũng không chịu để lộ ra với người khác? Vậy thì, công tử có phải cũng như vậy không? Công tử có ba nghìn môn khách, người hầu vô số nhưng, chàng cũng không có bằng hữu…
Ngoài cửa sổ, mưa bỗng rơi lất phất. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn những hạt mưa bụi đó, khẽ nói: “Mưa rồi… Đây là mưa đông, hay là mưa xuân?”.
Khương phu nhân cười đáp: “Bây giờ là tháng ba, đương nhiên là mưa xuân rồi. Mùa xuân năm nay đến sớm hơn năm ngoái”.
“Vậy.” Khương Trầm Ngư lầm bầm, “sau trận mưa này, hoa hạnh và hoa lê đều sắp nở rồi…”.
“Hừ? Hẳn là sẽ nở… Sao đột nhiên con lại hỏi chuyện này?”.
Khương Trầm Ngư nhếch khóe môi, lần này là cười thật: “Con và công tử đã hẹn nhau đi ngắm hoa”.
Khương phu nhân đầu tiên sửng sốt, sau đó cười nói: “Ồ? Thật sao? Ha ha, không tồi…”.
Ác Du bên cạnh trợn tròn mắt nói: “Tiểu thư và hầu gia sắp thành thân, người ta nói phu thê chưa cưới trước hôn lễ không thể gặp mặt, nếu không sẽ không cát lợi đâu… ai da!”.
Lời còn chưa dứt, bị Hoài Cẩn vỗ mạnh một cái.
Khương phu nhân nhìn con gái với vẻ hiền hòa, dịu dàng nói: “Đi đi. Chỉ cần con cảm thấy vui, hơn nữa mỗi năm chỉ có một lần, cũng là cơ hội hiếm có”.
“Vâng”. Khương Trầm Ngư tươi cười, sự áy náy và bất an trong chớp mắt đã biến thành tràn đầy đợi chờ. Không sao, nàng nghĩ, trên thế gian này không có ai là tri kỷ của nàng cũng không sao. Bởi vì, nàng có công tử. Cho dù nàng và công tử đều là những kẻ cô độc, không có bạn bè giống nhau, nhưng vì có nhau, nên không còn cảm thấy cô đơ. Cho nên, hai người là định mệnh sắp đặt ở bên nhau.
Nàng nhất định phải tin điều này.
Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, lại chậm rãi thở ra, đôi đồng tử sáng trong.
Bên ngoài cửa sổ, cây lê tha thướt kiều diễm, đang tắm trong trận mưa xuân đầu tiên của năm Đồ Bích thứ tư, cành lá đan nhau lấm tấm điểm những nụ hoa, tinh khiết tựa tuyết trắng, tươi sáng như nụ cười.
Đúng như lời Khương phu nhân nói, không lâu sau sẽ nở. Mà khi hoa lê nở rộ, đại quân của thiên tử toàn thắng trở về, khải hoàn về triều…
Hôm ấy, Khương Trầm Ngư đang cùng ăn cơm với tỉ tỉ trong Gia Ninh cung, cung nữ đến báo, Kỳ Úc hầu đưa Tiết Thái đến, nói phụng mệnh hoàng thượng, cho hắn được gặp Tiết Minh.
Sau khi được sự cho phép của Khương Họa Nguyệt, hai cung nhân dẫn Tiết Thái đi vào, khi nhìn thấy đứa trẻ đó đứng dưới sân, trong lòng Khương Trầm Ngư không kìm được chua xót nàng nhớ lại tình cảnh lần đầu gặp Tiết Thái. Khi ấy, thiếu niên quyền quý có được sự đắc ý vinh quang mà hết thảy hài đồng trong thiên hạ đều không sánh được, cưỡi xe loan, đội kim linh(5) , đeo ngọc quý hiếm có, dám mắng phi tử trước ngựa, dám đập đầu trước điện, đuôi mày khóe mắt đều là vẻ kiêu ngạo đến bức người. Mà nay, lại gầy đến mức chỉ còn da bọc xương, áo thô giầy gai, gương mặt nhỏ võ vàng u tối.
Hắn cúi đầu đứng ở đó, mày mắt ủ ê, không hề có chút sức sống.
Khương Họa Nguyệt nói: “Ta còn có chút việc, hay là Trầm Ngư, muội dẫn hắn đi đi”.
Khương Trầm Ngư chỉ, bước tới, giơ một tay ra trước mặt Tiết Thái, Tiết Thái ngẩng đầu nhìn nàng, trong đôi mắt đen láy không hề có cảm xúc.
Khương Trầm Ngư mỉm cười với hắn, ánh mắt mang theo tia khích lệ. Ánh mắt Tiết Thái lóe lên giây lát, rồi lại lùi về phía sau, khom mình nói: “Tiết Thái là nô bộc, không dám cầm tay tiểu thư”.
Khương Trầm Ngư sững sờ, không nói nổi lên lời. Đứa trẻ dám vung roi quát “Chim sẻ xấu xa, sao dám cản phượng giá?” trước sủng phi của hoàng thượng đó, đứa trẻ đứng ngạo nghễ trước quốc vương nói “ta là ngọc trong biển người” đó, giờ này phút này, trước mặt nàng lại nói “Tiết Thái là nô bộc…”.
Đúng là một màn châm biếm sinh động. Mà tất cả chuyện này đều là do nàng ban cho.
Là nàng quyết ý đòi cứu hắn, là nàng vì lợi ích của mình mà cố giữ lại hắn, nhưng thực ra, đối với hắn mà nói, có lẽ thà kiêu ngạo mà chết đi, còn hơn sống uất ức, thừa thãi thế này?
Khương Trầm Ngư quay người, lặng lẽ dẫn đường, từ Gia Ninh cung đến Càn Tây cung, suốt dọc đường, chỉ nghe thấy tiếng bước chân khẽ khàng của đứa trẻ sau lưng, trái tim nàng càng lúc càng chùng xuống.
Rẽ khỏi cổng vòm, phía trước đã là Động Đạt kiều, chính lúc này, họ nhìn thấy Hy Hòa.
Hy Hòa dựa lan can, đang cho cá ăn bên hồ, không biết vì sao, bên cạnh không có cung nhân nào theo hầu. Từ sau sự kiện trúng độc, nàng luôn nằm trên giường bệnh, không gặp người ngoài, vì thế tuy Khương Trầm Ngư nhiều lần vào cung, nhưng sau lần đánh đàn đó, đây là lần đầu tiên nàng gặp Hy Hòa.
Ánh mặt trời nhàn nhạt chiếu lên người Hy Hòa, vẫn là áo trắng hơn tuyết, yểu điệu tha thướt, từ trong cử chỉ toát ra vẻ lười biếng hững hờ. Dường như dù bất cứ lúc nào gặp nàng, nàng đều có dáng vẻ chán ghét thế gian này, nhưng lại mang vẻ kiều mĩ đặc biệt.
Hy Hòa nghe thấy tiếng động, quay đầu lại, nhìn Khương Trầm Ngư trước tiên, kế đó ánh mắt rơi xuống Tiết Thái, gương mặt lóe lên thần sắc vô cùng phức tạp. Khương Trầm Ngư còn chưa kịp nhìn ra đó rốt cuộc là biều cảm gì, nàng đã cười.
Cười rất tà ác.
“Sao ngươi vẫn chưa chết?”. Nàng hỏi Tiết Thái như vậy.
Sắc mặt Tiết Thái đột nhiên biến đổi, giống như một chiếc mặt nạ, từ trán nứt một vết, cuối cùng lan rộng ra toàn bộ, vỡ tan.
Hy Hòa đi quanh hắn một vòng, bỗng lấy một vật từ trên cổ hắn xuống, Khương Trầm Ngư nhìn thấy, đó chính là miếng cổ bích ngàn năm mà Yên vương ban tặng.
“Đây là Băng Ly trong truyền thuyết?”. Hy Hòa liếc xéo Tiết Thái, sắc mặt Tiết Thái vô cùng khó coi, hai bờ môi mím chặt, mắt lại càng trợn to hơn, giống như có một ngọn lửa đang thiêu đốt trong đó.
“Nghe nói ngươi đã bị biến làm nô lệ, đã là nô lệ, thì không cần đeo thứ quý giá như thế này”. Hy Hòa nói rồi, đeo miếng cổ bích lên cổ mình, “Ta tịch thu”.
Tiết Thái cắn chặt môi, cả người run lên vì giận dữ. Khương Trầm Ngư chứng kiến, không nhịn được lên tiếng: “Phu nhân, Băng Ly này là Yên quốc quốc chủ ban tặng, phu nhân lấy đi, nếu Yên vương biết, e rằng không thỏa”.
“Có gì không thỏa?”. Hy Hòa quay đầu, ánh mắt sáng rỡ, xinh đẹp vô hạn, “Lẽ nào ta không xứng với cổ bích này?”.
Khương Trầm Ngư nhất thời cứng họng, Hy Hòa lại tươi cười, cúi xuống áp sát vào mặt Tiết Thái, nói với giọng cực kỳ dịu dàng: “Đúng là phong thủy luân hồi, ban đầu trên cầu này, ngươi mắng ta, lại làm ngựa của ta kinh sợ, hại ta ngã xuống nước, lúc đó ngươi chưa từng nghĩ đến sẽ có ngày hôm nay?”.
Trong đôi mắt Tiết Thái là một tầng hơi nước mờ mịt che phủ. “Không cam lòng sao? Oán hận sao? Ha! Ha ha ha ha…”.
Hy Hòa buông một tràng cười lớn. Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh thở dài, tiểu nhân đắc chí như thế, giậu đổ bìm leo như thế, đối phó với một đứa trẻ như thế, đâu hà tất phải vậy?
Hy Hòa cười xong, vỗ vỗ vào má Tiết Thái: “Vậy thì, hãy tiếp tục sống đi, mang theo sự oán hận và không cam lòng này, nhịn nhục mà sống tiếp. Chỉ có sống lâu hơn ta, ngươi mới có thể lấy lại Băng Ly, đương nhiên, tiền đề là – nếu thực sự có một ngày như thế”. Nói đoạn, quay mình nghênh ngang bỏ đi.
Dọc đường, đều nghe thấy tiếng cười đắc ý vênh vang của nàng. Mà Tiết Thái vẫn đứng không nhúc nhích ở chỗ cũ.
Khương Trầm Ngư đi tới nắm lấy tay hắn, bàn tay nhỏ lạnh ngắt mà run lẩy bẩy, nàng thở dài thật khẽ: “Đừng nghĩ nhiều chúng ta đi thôi. Cô cô của ngươi đang chờ đó”.
Tiết Thái ngước mắt lên, trong đôi mắt rưng rưng đó, thứ tồn tại không phải là oán hận, mà là một thứ còn sâu đậm hơn cả sự căm hận. Hắn từ từ rút tay ra khỏi tay nàng, cúi đầu nói: “Vâng”.
Khương Trầm Ngư biết, nhà hắn gặp biến cố lớn, vì thế hắn đã trở thành kẻ không tin vào bất cứ ai khác, trọng lòng một khi đã có khúc mắc, không thể trong thời gian ngắn là tháo gỡ được mà phải dần dần. Nên nàng không nhiều lời nữa, tiếp tục dẫn đường.
Đến Càn Tây cung, vừa bước vào cửa liền nghe thấy Tiết Minh gọi to trong phòng: “Là Tiểu Thái đến phải không?”.
Ngay sau đó, cửa phòng mở ra, Tiết Minh một thân áo trắng, không phấn son lao ra ngoài, nhìn thấy Tiết Thái, hai mắt hoe đỏ ôm đầu khóc lớn, “Trời thương xót, đúng là Tiết Thái… Tiểu Thái, cháu của ta…”.
Lúc này Tiết Thái lại rất bình tĩnh, khẽ đỡ lấy tay nàng, nói: “Cô cô, Tiểu Thái đến thăm cô cô. Có gì vào trong nói”.
Tiết Minh nhìn Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh, thầm biết lúc này không phải là lúc thương cảm, lập tức lau nước mắt nói: “Nhất thời thất lễ, khiến Khương tiểu thư chê cười, mời vào trong”.
“Không cần đâu”. Khương Trầm Ngư nghĩ, hai cô cháu họ có nhiều điều riêng tư cần nói, mình ở lại sẽ bất tiện, bèn nói: “Gia tỉ hãy còn đợi trong cung, Trầm Ngư xin về trước, một canh giờ sau lại đến đón tiểu công tử”.
Tiết Minh cảm kích đáp: “Đa tạ Khương tiểu thư”.
Đợi đến khi bóng nàng khuất tầm mắt, Tiết Minh mới nghiêm mặt, nắm lấy tay Tiết Thái: “Vào đây với cô cô”. Hai người bước vào nhà, nàng quan sát bốn bề một lượt, thực sự tin rằng không có ai giám sát mới khóa cửa phòng lại, quay người dò xét kỹ lưỡng Tiết Thái, trong mắt lệ đã rưng rưng, “Cháu à,… cháu chịu khổ rồi…”.
Tiết Thái quỳ sụp xuống. Tiết Minh kinh ngạc: “Cháu làm gì thế này?”.
Tiết Thái nói: “Cháu biết là cô cô cầu xin công chúa mới có thể giữ lại cái mạng này của cháu”.
Tiết Minh rầu rĩ, cũng không bảo Tiết Thái đứng dậy, thần sắc trong đáy mắt biến đổi, cuối cùng thấp giọng nói: “Ta cứu cháu, nhưng không phải là muốn tốt cho cháu…”.
Tiết Thái ngẩng đầu, gương mặt nhỏ như bàn tay vì quá gầy nên hai mắt lại càng to hơn, đen sẫm như mực.
“Nếu ta thực sự muốn tốt cho cháu, thì nên để cháu đi cùng ca ca tẩu tẩu, tuy bị gán cho cái tội danh ô nhục nghịch thần, nhưng hễ chết rồi sẽ không cần chịu khổ nữa. Nhưng ta giữ cháu lại, ta muốn cháu sống, Tiểu Thái, cháu có biết vì sao không?”.
Mặt Tiết Thái trắng bệch không còn giọt máu, giọng nói trầm thấp: “Cô cô muốn cháu… báo thù cho Tiết gia”.
Tiết Minh tát Tiết Thái một cái rất mạnh, khiến Tiết Thái ngã ra đất, nàng lạnh lùng nói: “Nhắc lại lần nữa”.
Tiết Thái cắn chặt răng, nhắc lại: “Cô cô muốn cháu báo thù cho Tiết gia…”.
Lời còn chưa dứt, Tiết Minh lại bồi thêm một cái tát nữa: “Nhắc lại lần nữa”.
Mép Tiết Thái đã rỉ máu, nhưng sự kiên nghị trong ánh mắt lại càng đậm thêm, nói rành rọt từng tiếng một: “Thề quyết báo thù, chấn hưng gia môn!”.
Đến đây Tiết Minh thở dài một tiếng, đưa tay đỡ Tiết Thái dậy: “Tốt lắm, cháu phải nhớ kỹ hai cái tát ngày hôm nay của cô cô, nhớ kỹ cảm giác đau đớn này, cũng phải nhớ kỹ lời thề mà cháu đã thề hôm nay!”.
Tiết Thái mím chặt khóe môi, cố hết sức đứng thẳng lưng. Tiết Minh rút một chiếc khăn từ trong người ra, lau vết máu trên môi Tiết Thái, lau đi lau lại, bỗng đưa tay ôm chặt Tiết Thái khóc nấc lên: “Xin lỗi… Tiểu Thái, xin lỗi cháu…”.
Trong mắt Tiết Thái dâng lên một màn sương mù mịt mờ.
“Cô cô có lỗi với cháu, Tiết gia cũng có lỗi với cháu, không những không thể cho cháu một cuộc sống yên ổn, để cháu sống một đời vô âu vô lo, mà còn ép cháu phải nhận trách nhiệm vừa lớn lao vừa nặng nề này. Cuộc sống sau này mà cháu phải đối diện còn đáng sợ hơn cả địa ngục, hơn nữa cháu phải một mình đơn độc đối diện, cô độc không có viện trợ, cháu không thể tin ai, dựa vào ai, mong chờ ai nữa, cháu cũng không cảm nhận được những thứ tốt đẹp, ấm áp trong cuộc sống nữa, cháu không thể an vui trưởng thành giống những đứa trẻ khác… Cho nên, cô cô xin lỗi”. Tiết Minh vừa nói, vừa quỳ xuống đất, hành đại lễ vô cùng nghiêm trang.
Tiết Thái sợ hãi, đôi mắt càng trợn tròn hơn, nhưng chỉ có thể đứng đờ ra, không thể nhúc nhích.
“Nhưng ta thay mặt mấy nghìn người của bốn mươi chín đời Tiết gia cảm tạ cháu! Cảm ơn cháu đã báo thù cho chúng ta, cảm ơn cháu không để họ Tiết tuyệt vong tại đây, cảm ơn cháu sẽ làm cho Tiết gia huy hoàng lần nữa!”. Tiết Minh nắm chặt tay Tiết Thái, nghẹn ngào nói: “Tiết Minh cảm tạ đại ân của cháu!”.
Sắc mặt Tiết Thái biến đổi mấy lượt, cuối cùng hai đầu gối cũng khuỵu xuống, không nói lời nào, chỉ là dần dần cúi gập người xuống, dập đầu ba cái trên mặt đắt lạnh lẽo.
Binh – binh – binh.
Trên trán Tiết Thái vốn đã có vết thương cũ từ ngày tranh chấp với Hy Hòa để lại, lúc này liên tiếp dập đầu xuống đất, miệng vết thương lại rách ra, máu chảy xuống.
Tiết Minh im lặng nhìn hắn chảy máu, cũng trào nước mắt.
Ánh nắng xuyên qua ô cửa sổ bằng lụa đã rách nát, chiếu lên người hai cô cháu họ, cũng thấm mấy phần trang trọng mà tiêu điều.
Một canh giờ sau, Khương Trầm Ngư đón Tiết Thái về Gia Ninh cung, thấy hai bên má hắn sưng húp, tuy không biết nguồn cơn, nhưng biết là bị đánh, bèn lấy một quả trứng gà nóng tới xoa cho hắn, Tiết Thái vẫn chối từ, nhưng nàng nói: “Ngươi hiện giờ là nô lệ của hầu gia, đại diện cho hầu gia, nếu để ngươi xuất cung với bộ dạng như thế này, hầu gia sẽ mất thể diện”.
Lúc đó hắn mới đứng im, ngoan ngoãn để nàng lăn mặt.
Sau thời gian chừng một chén trà, cung nữ tới báo, xe ngựa của Kỳ Úc hầu đã tới, đón Tiết Thái quay về. Khương Trầm Ngư hỏi: “Hầu gia có tới không?”.
Cung nữ đáp: “Chỉ thấy xe ngựa, không thấy người”.
Khương Trầm Ngư có chút thất vọng, Khương Họa Nguyệt bên cạnh nói đùa: “Trông cái bộ dạng chả ra sao của muội kìa! Ngày cưới chẳng phải đã quyết định rồi sao? Chỉ nửa tháng nữa là muội đã gả cho hắn, bây giờ một khắc mà cũng không đợi được à?”.
Ánh mắt Tiết Thái lóe sáng, thoáng tia kinh ngạc.
Khương Trầm Ngư đỏ mặt nói: “Tỉ tỉ, tỉ lại cười người ta…”.
“Ta cười muội thì không sao, sợ nhất là người thiên hạ đều cười muội, sắp thành thân rồi, phải tránh điều tiếng chứ”.
“Muội… muội không nói chuyện với tỉ nữa!”. Khương Trầm Ngư vừa kéo tay Tiết Thái vừa nói: “Ta đưa ngươi ra ngoài”.
Tiết Thái đi theo nàng được mấy bước, bước chân chậm lại, Khương Trầm Ngư cúi đầu hỏi: “Sao thế?”.
“Ngươi…”, Tiết Thái cắn môi, vẻ mặt kỳ quái, “Ngươi là hôn thê tương lai của Kỳ Úc hầu?”.
Khương Trầm Ngư nghĩ một lát liền cười: “Đúng thế, cũng là nữ chủ tử tương lai của ngươi. Bây giờ muốn lấy lòng ta sao? Muộn rồi!”.
Tiết Thái cúi gằm mặt, không nói năng gì.
Bên ngoài Gia Ninh cung, xe ngựa của Cơ phủ im lặng đứng đợi, phu xe nhảy xuống mở cửa xe, Tiết Thái đang định vào trong, nhưng lại quay đầu nhìn nàng một cái, không biết vì sao, lọt vào mắt Khương Trầm Ngư, nàng bỗng có một cảm giác thật lạ lùng, tựa như bị hắn nhìn thấu, lại tựa như từ trong mắt hắn, nhìn thấy được điềm chẳng lành.
Nàng quay trở về cung với tâm trạng buồn bã, cách bức rèm lụa, thấy tỉ tỉ đang nói chuyện với Giang lão thái y, vì tiếng quá nhỏ, nên không biết họ đang nói gì. Không lâu sau, Giang lão thái y đứng dậy cáo từ, tỉ tỉ tiễn đến tận cửa, thần sắc nặng nề, mày chau ủ dột.
Nàng vừa định hỏi đã xảy ra chuyện gì, thì thấy cung nhân lại đưa một người vào, người đó vóc dáng như ngọc, áo xanh phấp phới, chẳng phải là Giang Vãn Y đó sao?
Khương Họa Nguyệt và Giang Vãn Y nhỏ giọng trao đổi vài câu tiếp đó lại tiến vào nội thất bắt đầu chẩn mạch, lấy mấy thứ ra cho hắn xem. Như thế nửa canh giờ trôi qua, Giang Vãn Y đứng dậy, đeo hòm thuốc đi ra.
Khương Trầm Ngư ngồi trên ghế quan sát từ nãy giờ cũng vội vàng đứng dậy, có chút hoang mang nhìn Giang Vãn Y và tỉ tỉ không biết có phải ảo giác hay không, sắc mặt của tỉ tỉ nhìn có vẻ càng buồn rầu hơn.
Khương Họa Nguyệt tiễn Giang Vãn Y ra ngoài xong cứ đứng bất động bên cửa rất lâu. Khương Trầm Ngư không kiềm được tiến đến kéo ống tay áo nàng hỏi: “Tỉ tỉ, tỉ sao thế?”.
Mắt Khương Họa Nguyệt đỏ lên, nước mắt rớt xuống.
Những giọt nước mắt này rơi xuống đường đột như thế, khiến Khương Trầm Ngư giật mình, cuống quýt hỏi: “Chuyện gì vậy? Xảy ra chuyện gì vậy, tỉ đừng khóc, các thái y nói thế nào?”.
Khương Họa Nguyệt một tay túm chặt tay nàng, không ngừng run rẩy, mấy lần mở miệng đều nghẹn ngào không nói nên lời. Thấy tình cảnh này, Khương Trầm Ngư đành dìu nàng vào nội thất trước, sau khi đuổi đám cung nhân ra mới khẽ nói: “Rốt cuộc là chuyện gì?”.
Khương Họa Nguyệt ngẩng đầu, nước mắt nhòe nhoẹt trên mặt cũng chẳng buồn lau, chỉ bấu lấy tay nàng, không ngừng kêu: “Trầm Ngư, Trầm Ngư…”.
Mỗi tiếng nàng gọi, Trầm Ngư đều thưa, tiếng sau dịu dàng hơn tiếng trước.
“Trầm Ngư, ta ta… ta phải làm thế nào? Ta phải làm thế nào mới được đây?”.
“Tỉ tỉ, rốt cuộc làm sao?”. Khương Trầm Ngư luôn cho rằng, luận về làm người, so với nàng tỉ tỉ chu đáo và lão luyện hơn rất nhiều, dù trong lòng có suy nghĩ gì cũng không hề thể hiện ra ngoài, hai nàng từ nhỏ tới lớn bên nhau, liệu đã mấy lần Họa Nguyệt có dáng vẻ như thế này? Không biết sự tình gay go đến đâu, mà có thể khiến người chị xưa nay luôn tự tin đầy mình của nàng khóc lóc như một đứa trẻ. Sau khi cha con họ Giang rời đi, Họa Nguyệt thành ra thế này, lẽ nào…
“Tỉ tỉ, tỉ bị bệnh sao? Bệnh rất nặng sao?”.
Khương Họa Nguyệt nghẹn ngào gật đầu.
Trái tim Khương Trầm Ngư chùng xuống, bất giác nắm chặt tay Họa Nguyệt, hỏi: “Là bệnh gì? Nghiêm trọng thế nào?”. Tuy tỉ tỉ quanh năm bốn mùa thường cảm gió cảm mạo, bệnh vặt liên miên, nhưng cũng đâu phải là ốm yếu quá, lần này mắc phải bệnh gì mà khiến cho tỉ tỉ hoảng hốt sợ hãi đến mức đó.
Khương Họa Nguyệt hé miệng; nhìn quanh, ánh mắt càng thê lương hơn: “Ta ta… muội muội, đời này e rằng, ta… không thể… không thể có con được…”.
Khương Trầm Ngư phút chốc sững sờ, trong đầu trống rỗng, đến khi tỉnh táo trở lại, phản ứng đầu tiên là: “Tại sao? Cha con họ Giang nói vậy ư?”.
“Muội còn nhớ loại thuốc rất thơm mà ta luôn uống đó không?”.
Khương Trầm Ngư gật gật đầu.
“Kỳ thực, ta, ta đã cư kinh(6) rất lâu rồi… mà những thứ thuốc đó, uống suốt mà vẫn không thấy khỏi, ta lo lắng, cuối cùng không nhịn được bèn mời Giang Vãn Y tới xem bệnh, hắn được gọi là thần y, y thuật cao minh hơn cả đám thái y, kết quả, hắn nói với ta…”. Khương Họa Nguyệt nói đến đây liền không thể nói tiếp được.
Khương Trầm Ngư nheo mắt: “Là Giang Vãn Y nói với tỉ, tỉ không thể có thai ư?”, Họa Nguyệt liền gật đầu, nàng đứng bật dậy, bước ra ngoài, khiến Khương Họa Nguyệt giật bắn mình, vội vàng kéo nàng lại: “Muội định làm gì?”.
“Muội có chuyện muốn hỏi hắn ta”.
“Đừng! Trầm Ngư, chuyện này…”. Chuyện này che đậy e còn không kịp, sao có thể loan rộng ra ngoài.
“Nhưng!”
Khương Họa Nguyệt níu chặt nàng, nói: “Muội đi hỏi hắn cái gì? Hỏi hắn có chẩn đoán sai không ư? Hỏi hắn có thuốc trị không ư? Những điều đó ta đều hỏi rồi. Cơ thể của ta, ta là người rõ nhất… Nhớ năm đó, lúc hoàng thượng sủng ái ta nhất, đêm đêm ở lại, mà đều không có được giống rồng, huống hồ bây giờ nhan sắc héo mòn, ân điển thưa thớt…”.
“Tỉ tỉ…”.
Khương Họa Nguyệt ôm lấy eo nàng, giống như đứa trẻ ôm chặt lấy mẹ, nói: “Ta sợ lắm… muội muội… ta sợ lắm”.
Khương Trầm Ngư cũng ôm chặt tỉ tỉ vào trong lòng, chỉ cảm thấy trái tim yếu ớt trôi bồng bềnh, trĩu dần xuống. Nàng biết Khương Họa Nguyệt đang sợ điều gì. Có thể nói, cuộc hôn nhân của Họa Nguyệt chỉ có một mục đích là che chở cho cả nhà. Hiện giờ, ngôi hậu để trống chính là lúc các phi tần có cơ hội lên ngôi, ai có thể sinh được con rồng cho hoàng thượng thì người đó có khả năng trở thành hoàng hậu mới. Nhưng chính trong lúc này, thái y nói cho nàng biết, nàng không thể có thai, với nữ nhân mà nói, chuyện này là một cú sốc còn đáng sợ hơn cả cái chết. Họa Nguyệt vào cung đã ba năm, dần dần thất sủng, lại không có con cái, chuyện phong hậu đã thành vô vọng, lại không được ân sủng, bảo nàng phải sống như thế nào nốt quãng đời còn lại trong chốn thâm cung này?
Khương Trầm Ngư vừa nghĩ đến đây, không kìm được cũng khóc theo. Nàng ôm chặt tỉ tỉ, lòng nghĩ, nhất định phải giúp tỉ tỉ, nhất định phải nghĩ cách, nhưng mà, bao nhiêu trí tuệ lúc thường ngày, trong giờ khắc này đều biến đi đâu hết.
Nàng ôm Họa Nguyệt đang khóc không thành tiếng, cảm nhận được cơn run rẩy và lạnh lẽo từ trên cơ thể tỉ tỉ truyền tới, bỗng cảm thấy bi thương tột độ.
Nỗi bi thương sâu đậm đó cùng với lầu gác nguy nga, bầu trời u ám của hoàng cung, hình thành nên một nhà tù đời này kiếp trước, mà những người bị giam giữ trong đó đâu chỉ có một mình tỉ tỉ?
“Muội muội, chuyện này phải giữ kín, nhất định phải giữ kín!”. Khương Họa Nguyệt tóm chặt tay nàng, trong sự lo lắng còn mang theo nỗi sợ hãi khó nói, “Không chỉ với người trong cung, mà với cha mẹ, ca ca, cũng không được nói, Bởi vì, bởi vì…”.
Bởi vì hễ mà nói ra, nhất định sẽ dẫn đến sự khủng hoảng của cả nhà, khiến cha mẹ đau lòng… Khương Trầm Ngư đang nghĩ như vậy, Khương Họa Nguyệt đã nói tiếp với sự thê lương vô cùng: “Bởi vì một khi họ biết được, sẽ cho rằng ta đã không còn giá trị lợi dụng, biến thành một con cờ vô dụng, sẽ không còn đối tốt với ta như bây giờ…”.
Cả người Trầm Ngư giật bắn, nàng tuyệt đối không ngờ tỉ tỉ lại nói như vậy!
“Kỳ thực, họ đối với ta cũng không thể nói là tốt được, ít nhất là không bằng ba năm trước…”. Khương Họa Nguyệt lại khóc một chặp nữa, “Muội muội, tại sao ta lại khổ đến thế?”
Một câu “Nếu làm, thì phải làm người trên muôn người; nếu gả, thì phải gả làm vợ của đế vương; thế mới không sống uổng kiếp này!” của mấy năm về trước giờ vẫn còn văng vẳng bên tai, đan xen với những lời này. Khương Trầm Ngư nghĩ, chắc chắn là đã xảy ra nhầm lẫn ở đâu đó, nếu không tại sao thiếu nữ diễm lệ ánh mắt cao vời, luôn luôn tự tin ngày đó đã không còn nữa? Tại sao ngày tháng vô âu vô lo, đơn thuần giản dị đó đã không còn nữa?
Chắc chắn là nhầm lẫn ở chỗ nào đó…
Trong Gia Ninh cung là mưa thảm gió sầu, còn trong Bảo Hoa cung lại là ca vũ thăng bình.
Trong sảnh đại đường rộng lớn, Hy Hòa đang nằm trên sập quý phi, tay nâng chén rượu, nhìn đám vũ cơ đang múa phía dưới. Những vũ cơ này đều do Thiên Nhạc Thự đều thu nạp mấy trăm nữ đồng, truyền dạy cầm vũ khúc nghệ, cực kỳ nghiêm khắc. Sau vài năm đào tạo, những kẻ tư chất tầm thường sẽ bị phái đi làm những việc cực nhọc. Những kẻ còn lại bắt đầu đăng đài hiến nghệ, chỉ có kẻ múa đẹp nhất mới có đủ tư cách tiến cung.
Những cô nương này đương tuổi sắc xuân, dung mạo mỹ lệ, dáng vẻ mềm mại, lúc ca múa dặt dìu, tập trung đông đúc, đúng là cảnh tượng vui lòng đẹp nhất không thể tả xiết.
Huy Hòa nhìn ngắm, ánh mắt chợt thay đổi, cuối cùng giơ một tay lên, hết thảy tiếng nhạc, điệu múa đều ngưng bặt trong giây phút này.
Nàng chỉ một cô nương đẹp nhất trong đám vũ cơ, nói: “Ngươi tên gì?”
Người đó khiếp sợ đáp: “Nô tì họ Viên, tên là Hạnh Phương”.
“Ngươi thích hoa hạnh?”
Viên Hạnh Phương thưa: “Vâng ạ”.
Hy Hòa lạnh nhạt nhìn nàng ta. Bỗng đặt chén rượu trong tay xuống, đứng dậy bước xuống sập, đi chân trần từng bước từng bước tiến về phía Viên Hạnh Phương.
Đám vũ cơ nhất thời tim vọt lên tận cổ họng, trong khoảnh khắc, trong đầu hiện lên biết bao nhiêu tin đồn về vị phu nhân ngang ngược, khó hầu hạ, đặc biệt là Viên Hạnh Phương, trên trán mồ hôi lạnh đã túa ra chảy ròng ròng, vẻ mặt vô cùng sợ hãi.
Hy Hòa nhìn nàng ta với ánh mắt cao thâm khó dò hồi lâu. Rồi cúi người nâng váy nàng ta lên, xé thật mạnh, chỉ thấy “xoẹt” một tiếng, chiếc váy đỏ tinh xảo đã bị Hy Hòa xé toạt.
Sắc mặt tất cả đều trắng bệch. Viên Hạnh Phương càng kinh sợ kêu lên: “Phu nhân! Phu nhân… nô tì đáng chết! Nô tì đáng chết, xin phu nhân thứ tội! Xin phu nhân thứ tội!”. Nói đoạn quỳ sụp xuống.
Nào ai biết căn bản Hy Hòa chẳng đếm xỉa đến nàng ta, chỉ một mực xé nát đám hoa hạnh trên váy nàng ta thành mảnh nhỏ trong chốc lát, cả sảnh điện im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng vải bị xé nát, âm sắc chói tai.
Cho đến khi cành hoa hạnh đó bị xé vụn, Hy Hòa mới đứng dậy, ánh mắt lạnh băng nhìn Viên Hạnh Phương. Viên Hạnh Phương đâu dám nói gì, chỉ dập đầu liên tục.
Đám vũ cơ mặt xám như tro tàn, bụng thầm nghĩ thôi xong rồi, không biết Hạnh Phương đã phạm phải kỵ húy nào của phu nhân, xem ra khó tránh bị phạt nặng, lôi ra chém đầu còn tốt, chỉ sợ là bị đánh thành tàn tật, cả đời coi như đã bị hủy hoại hoàn toàn.
Nào ngờ Hy Hòa không hề nổi giận như dự liệu, lại tháo chiếc vòng đeo trên cổ tay ra, đưa cho Viên Hạnh Phương, nói: “Cái này thưởng cho ngươi”.
Viên Hạnh Phương nước mắt như mưa, ngẩng đầu lên nhìn chiếc vòng đó, lại nhìn nàng, vẻ mặt vẫn không dám tin.
Hy Hòa nhét chiếc vòng vào tay nàng ta, sau đó lười biếng xua tay: “Các ngươi lui cả ra”.
Chúng cơ lúc này mới hay đã tránh được kiếp nạn, vội vàng khom lưng hành lễ lui ra, Hy Hòa gọi Viên Hạnh Phương lại, lạnh nhạt nói: “Bản cung không thích cái tên của ngươi, về đổi đi.” Viên Hạnh Phương nơm nớp lo sợ vâng vâng dạ dạ, loạng choạng đi ra.
Sảnh điện rộng lớn bỗng chốc lạnh lẽo, vắng vẻ trở lại, có cơn gió thổi qua, bảy tầng màn sa đều tung bay phấp phới, khiến mái tóc dài của Hy Hòa bay lên, nhìn như quỷ mị. Nàng giẫm lên những mảnh vải trên đất, quay người chuẩn bị tiếp tục nằm trên sập, một đôi tay đột nhiên thò ra từ phía sau, ôm chặt lấy nàng.
Hy Hòa cả kinh, đang định vùng ra, nhưng chỉ nghe người đó cười nói bên tai: “Có nhớ trẫm không?”.
Là Chiêu Doãn.
Cơ thể tuy đã thả lỏng, nhưng trong lòng vẫn khiếp sợ, không kìm được quay đầu lại, nhìn thấy đôi mắt phượng hơi xếch, đang nheo mắt cười nhìn nàng trong ánh mắt là yêu thương vô hạn.
Quả nhiên là Chiêu Doãn.
Thấy quỷ rồi, lúc này chẳng phải y đang trên đường hồi kinh sao? Sao lại xuất hiện trong Bảo Hoa cung? Mà trên người lại vận trang phục của thị vệ!
“Hoàng thượng người…”.
“Sao trẫm lại về cung sớm chứ gì? Bởi vì trẫm rất nhớ Hy Hòa, muốn gặp Hy Hòa sớm hơn một chút, cho nên suốt dọc đường vung roi thúc ngựa, tách khỏi đại quân, trở về trước. Câu trả lời này đã được chưa?”. Chiêu Doãn nói đoạn hôn lên gò má nàng, đang định hôn môi, lại bị Hy Hòa đẩy ra, cười lạnh nói: “Hoàng thượng đến gặp thần thiếp lại cần ăn vận thế này sao? Lừa ai chứ?”.
Chiêu Doãn cười ha hả, cầm chén rượu trên bàn một hơi uống cạn, sau đó thuận thế ngồi xuống sập: “Quả nhiên vẫn là Hy Hòa hiểu trẫm, không lừa được, không lừa được”.
Hy Hòa thấy Chiêu Doãn thần sắc vui vẻ như thế, hẳn là tâm trạng rất phấn chấn, cuối cùng không kìm được hỏi: “Hoàng thượng gặp chuyện gì tốt hay sao mà vui vẻ thế”.
Chiêu Doãn chớp mắt: “Tru diệt phản quân, có tính không?”
Hy Hòa khẽ hừ một tiếng, nét mặt sa sầm. Chiêu Doãn lại cười một tay kéo nàng ôm vào trong lòng, nói: “Còn nữa, trẫm bí mật gặp vài người, hơn nữa còn tìm cho nàng một người cậu”.
“Cậu?” Hy Hòa chau mày, “Họ hàng thân thích nhà thiếp đều chết hết rồi, ở đâu ra một người cậu”.
“Cho nên mới nói là tìm được”. Chiêu Doãn bỗng ngưng cười cực kỳ nghiêm túc nhìn nàng, nói từng tiếng rành rọt, “Hy Hòa, nàng có muốn làm hoàng hậu không?”.
Lại một trận gió từ bên ngoài thổi vào trong điện, rèm sa khẽ bay, như mây mù tầng tầng bay bổng, đôi mắt Hy Hòa cũng giống như rèm sa, chớp cái đã mờ mịt.
“Tại sao lại chọn thiếp?”. Chiều đầu xuân trời vẫn se se lạnh, trong ánh nắng lốm đốm, nữ tử áo trắng tóc đen, chân trần đứng trên ngọc lưu ly, nhẹ nhàng hỏi.
Thế là năm tiếng đó trở thành tiếng hoa nở, vừa gấp gáp lại vừa chậm rãi, vừa ngờ vực lại vừa kinh ngạc, vừa đau khổ lại vừa vui sướng, lo lắng trùng trùng, lại chẳng sợ điều gì.
Trên sập gấm, đế vương trẻ tuổi nắm lấy cả hai tay nàng, trong đôi mắt sâu thẳm phản chiếu bóng dáng nàng, từng lời loáng thoáng vang lên: “Vì có rất nhiều nguyên nhân: Không muốn từ bỏ quyền lực; không muốn xuất hiện một Tiết Hoài thứ hai; tỏ ra yếu đuối với những nước khác, để cho chúng tưởng rằng trẫm là một hôn quân háo sắc; còn nữa, điểm cuối cùng là… trẫm thích nàng.”
Mùng một tháng tư năm Đồ Bích thứ tư, đế quân về kinh. Chiêu Doãn khao thưởng ba quân, tứ phong Phan Phương làm Tả tướng quân, xử lại án sai của cha Phan Phương đại xá thiên hạ, vạn dân chúc mừng.
Ghi chú: (1) Hai câu thơ của Khổng Nhất Nguyên, người thời Minh, đây được coi là danh cú về trà, dịch nghĩa là: Bình sinh chẳng lấy thứ gì. Chỉ cầu được hưởng một chén trà trong núi sâu.
(2) “Sơn hải kinh”: Là bộ cổ tích quan trọng thời kỳ Tiên Tần của Trung Quốc, cũng là một bộ kỳ thư cổ nhất, viết về thần thoại truyền thuyết. Tác giả của cuốn sách này không rõ là ai, các học giả hiện đại đều nhận định, đây không phải là bộ sách được hoàn thành trong một thời điểm, và cũng không chỉ do một tác giả biên soạn. “Sơn hải kinh” có sức ảnh hưởng rất rộng lớn và sâu sắc đối với nền văn hóa Trung Quốc nói chung và văn học Trung Quốc nói riêng.
(3) Hòa bích Tùy châu: Hòa bích chỉ ngọc Biện Hòa, Tùy châu tức là dạ minh châu, Hòa bích Tùy châu dùng để ví với ngọc quý.
(4) Trích bài “Tá Dịch lê hoa” (Hoa lê vườn Tả Dịch) của Khâu Vi đời Đường, Vũ Minh Tân dịch “Đẹp lạnh, coi khinh tuyết, Dẫm hương lồng áo ai”.
(5) Linh là bộ phận trang sức mũ bằng lông chim của quan lại, kim linh là lông chim bằng vàng (ND).
(6) Cư kinh: Chỉ kinh nguyệt ba tháng có một lần.
/27
|