Sau khi Khương Trầm Ngư về phủ, vì trước đó đã bẩm báo với Khương phu nhân, nên hữu tướng Khương Trọng về nhà cũng chỉ ca cẩm vài câu chứ không trách mắng nhiều.
Nhưng Chiêu Loan công chúa lại xui xẻo hơn nhiều, bị dẫn đến ngự thư phòng đứng suốt một canh giờ, Chiêu Doãn vẫn miệt mài phê tấu chương, chẳng buồn nhìn nàng lấy một cái.
Chiêu Loan giậm giậm chân trái lên chân phải, lại giậm giậm chân phải lên chân trái, cứ thế mười mấy lần, cuối cùng không nhịn được kêu lên thảm thiết: “Hoàng huynh…”.
Trước ngự án, Chiêu Doãn vờ như không nghe thấy, vẫn vùi đầu trong đống tấu chương.
Chiêu Loan nghiến răng, lại kêu: “Hoàng huynh ơi…”.
“Muội biết sai rồi chứ?”. Giọng nói của Chiêu Doãn không lạnh không nóng, từ trước bàn truyền tới.
Chiêu Loan cuống quýt gật đầu, ấm ức nói: “A Loan biết sai rồi, đứng lâu như thế hai chân sắp hóa đá rồi, hoàng huynh tha cho muội đi!”.
Chiêu Doãn mắt phượng khẽ nheo, liếc nàng một cái, thong thả nói: “Vậy nói xem, sai ở đâu?”.
Chiêu Loan cúi đầu, thành thật đáp: “Thần muội không nên ham chơi, tự mình xuất cung”.
“Còn gì nữa?”.
“Vẫn còn?”. Chiêu Loan lại nghĩ hồi lâu, “không nên không bẩm báo trước cho hoàng huynh”.
Chiêu Doãn khẽ “hừ” một tiếng: “Trẫm bận trăm công ngàn việc, làm gì có thời gian quản muội có ra khỏi cung hay không”.
Chiêu Loan nhìn trong mắt y thấp thoáng nét cười, biết mình bị trêu chọc, lập tức to gan hẳn lên, cười nói: “Vâng, vâng, vâng, hoàng huynh cần chính yêu dân, vốn không nên bỏ tâm sức vào những việc vặt vãnh như thần muội, vậy thì tha cho muội đi!”.
“Muội ấy…”. Chiêu Doãn đặt bút xuống, nhìn muội muội duy nhất của mình, lắc đầu: “Cơ thể thái hậu đã không khỏe, muội không ở bên giường hầu hạ, trái lại chỉ ham chơi, tức là bất hiếu, đó là tội thứ nhất, muội là công chúa cao quý, thân phận quan trọng chừng nào, ra ngoài phải mang thị vệ đi cùng, sao có thể đi một mình, đó là tội thứ hai; muội tự mình rong chơi thì thôi, còn lôi kéo người khác đi cùng, làm bại hoại thanh danh khuê nữ, đó là tội thứ ba…”.
Chiêu Loan kêu lên: “Đợi đã! Hoàng huynh, muội nào có làm bại hoại thanh danh người ta? Muội chỉ dẫn Khương gia tỉ tỉ đi ăn mì, nhân tiện nghe kể chuyện thôi, sao có thể bại hoại thanh danh được?”.
“Thiên kim tướng phủ, nữ đóng giả nam, đi vào phố chợ, còn không phải bại hoại thanh danh?”.
Chiêu Loan tự biết mình sai, đành cúi đầu, nhưng rốt cuộc vẫn không cam lòng, lại khẽ lầm rầm: “Phố chợ thì sao nào, chẳng phải phi tử nào đó của huynh cũng từ đó sinh ra sao, sao huynh không nói người ta không có thanh danh?”.
Chiêu Doãn nhíu mày: “Muội nói gì?”.
“Không có gì. Muội có thể nói gì sao?”.
“Được rồi, muội lui ra đi. Chuyện hôm nay tạm thời thế thôi, không được tái diễn”.
Chiêu Loan mừng rỡ, vội vàng bái tạ: “Chỉ có hoàng huynh là thương muội nhất, hoàng huynh vạn tuế!”. Đương tung tăng định đi, Chiêu Doãn bỗng hỏi: “Khương Trầm Ngư là người như thế nào?”.
Mắt Chiêu Loan sáng lên, quay người lại vui vẻ trả lời :”Khương gia tỉ tỉ là một đại mỹ nhân! Tỉ ấy còn đẹp hơn Tây Hòa, Đông Hòa(1) gì đó nhiều, vừa dịu dàng vừa lương thiện, còn rất tài hoa nữa, chơi đàn cực hay…”.
Chiêu Doãn khóe mắt cong cong, nửa cười nửa không: “Nói thế tức là vừa có tài của Cơ Hốt, lại vừa có sắc của Hy Hòa?”.
Chiêu Loan “à” một tiếng: “Đúng! Chính là hình dung như thế! Quá chuẩn xác, không sai, tỉ ấy là một cô nương tốt như thế đấy!”.
“Được rồi biết rồi, muội về đi!”.
“Dạ!”. Chiêu Loan quay người bước ra ngoài. Nụ cười trên gương mặt Chiêu Doãn nhạt dần, y cúi đầu nhìn xuống thư án, giữa đống tấu chương là một bức mật báo, phía trên chỉ viết một câu: “Hữu tướng có ý gả tiểu nữ Trầm Ngư cho Kỳ Úc hầu”.
Y chăm chú nhìn hàng chữ đó, trầm ngâm hồi lâu, rồi chợt gọi: “Điền Cửu”.
Điền Cửu xuất hiện trong thư phòng hệt như một bóng ma. “Gần đây hoàng hậu có động tĩnh gì không?”.
“Bẩm hoàng thượng, mỗi ngày hoàng hậu chỉ quan tâm chăm sóc Tiết Thái, không làm gì khác, cũng không có thư từ qua lại với phụ thân”.
“Vậy còn Tiết Túc thì sao?”.
“Trung lang tướng cả ngày chỉ uống rượu làm vui với tướng lĩnh, cũng không có gì lạ, có điều giờ Hợi một khắc đêm hôm qua, thị trung lang Điền Vinh, con rể của tả tướng đến phủ ông ta, hai người nói chuyện riêng một lúc, ngồi không đến thời gian một chén trà đã đi, còn nói chuyện gì, vẫn chưa biết được”.
Chiêu Doãn im lặng, cuối cùng đứng dậy nói: “Bãi giá, trẫm muốn đến Bảo Hoa cung”.
Điền Cửu khom mình lui ra, đổi lại là đại thái giám La Hoành đến hầu hạ, một hàng người chậm rãi ra khỏi Cảnh Dương điện, đi tới Bảo Hoa cung. Trời đã vào đêm, cung đăng đều được thắp sáng, chiếu lên lưu ly, ngũ sắc lấp lánh.
Bảo Hoa cung xa xỉ hào nhoáng, trong đêm tối lại càng xán lạn, nhưng không thấy một bóng người.
Thấy tình cảnh này, trong lòng Chiêu Doãn đã rõ mấy phần, bèn vẫy tay bảo đám tùy tùng phía sau lui xuống, một mình bước vào cửa.
Đi xuyên qua hành lang dài hun hút, Bích trì hiện ra trước mắt, bên mặt nước có bậc thang, bậc thang uốn hình vòng cung cong cong, đáy hồ sâu ba thước đầy những mảnh sứ vỡ.
Bên cạnh hồ có một người đang ngồi.
Người đó xõa tung mái tóc dài, mặc chiếc váy lụa trắng muốt, phần dưới chiếc váy lụa vén cao, để lộ ra cặp đùi trắng muốt, mịn màng như ngọc tạc, đang ngâm trong làn nước. Trên mảnh đất trống cạnh nàng, chén rượu la liệt. Chén rượu mỏng tang, sắc hoa trong suốt, chạm vào mịn như ngọc, được làm từ “Bích Tư” nối tiếng ở Bích quốc.
Còn nàng lại tùy ý ném một chén rượu trong đó xuống hồ. “Choang”, chiếc chén rơi xuống nước, chạm phải lưu ly, phát ra âm thanh giòn tan, khó mà tả thành lời.
Nàng nhướn mày, lại cầm một chiếc lên, lại ném xuống hồ. Nhất thời, giữa đại điện chỉ nghe thấy từng tiếng từng tiếng nước dập dềnh, rõ ràng dứt khoát quyết liệt, nhưng lại thê lương ai oán.
Nàng nghe thấy âm thanh đó, nhìn những mảnh sứ xanh từ từ chất đống lên ở đáy hồ, gương mặt trắng muốt như y phục ấy trước sau luôn hiện lên một vẻ chán ghét. Mà cảnh tượng ấy lọt vào trong mắt Chiêu Doãn, trong phút chốc, trên gương mặt y xuất hiện chút xúc động ý loạn tình mê.
Y bước tới, một tay kéo tay nàng, sau đó ôm nàng vào trong lòng, gọi khe khẽ: “Hy Hòa…”. Hai tiếng thốt lên, âm thanh trầm trầm, ma mị, lại quyến luyến không tả xiết.
Hy Hòa không quay đầu lại, vẫn hướng ánh nhìn về phía những mảnh vỡ dưới đáy hồ, nhạt nhòa mà lạnh lẽo.
Chiêu Doãn vùi đầu vào hõm cổ nàng, khẽ than: “Nàng lại trút giận lên những vật chết này rồi…”.
Khóe miệng Hy Hòa nhếch lên, uể oải nói: “Chẳng phải rất tốt sao? Xưa có Hỷ Muội xé lụa, nay có Hy Hòa ném chén, xưa có Đát Kỷ lấy rượu làm ao, treo thịt làm rừng, nay có Hy Hòa lấy gốm làm ao, lưu ly làm cung. Duy chỉ có như thế, mới có thể xứng với hai chữ ‘yêu phi’ chẳng phải vậy sao?”.
Chiêu Doãn xoay người nàng lại, nhìn thẳng vào nàng, mỉm cười: “Nàng tự so mình với Hỷ Muội, Đát Kỷ, lẽ nào nàng muốn trẫm làm Hạ Kiệt, Thương Trụ?”.
Hy Hòa trấn tĩnh nhìn trả y, rất lâu sau mới quay mặt sang chỗ khác, hờ hững nói: “Hoàng thượng nếu muốn làm Hạ Kiệt, Thương Trụ, cũng phải có bản lĩnh đó mới được, nay người tay không thực quyền, đâu đâu cũng bị quyền thần khống chế, nào có uy phong của Hạ Kiệt, Thương Trụ?”.
Bị nàng chế nhạo như thế, Chiêu Doãn không những không giận, ngược lại bật cười, ôm nàng chặt thêm mấy phần: “Hy Hòa ơi Hy Hòa, thế nhân chỉ biết trẫm yêu dung mạo của nàng mà không biết, thứ trẫm thực sự thích chính là tính cách cay độc tuyệt tình của nàng, không để cho người khác có đường lùi, cũng không cho mình đường lui. Những lời này nếu truyền ra ngoài, e rằng có đến mười cái đầu cũng phải mất”.
Trên mặt Hy Hòa vẫn không chút biểu cảm như cũ: “Mất thì mất đi, dù sao cũng đâu phải lần đầu tiên hoàng thượng hy sinh thần thiếp”.
Chiêu Doãn khẽ than: “Hy Hòa, thời cơ chưa tới. Trẫm đảm bảo với nàng, rất mau thôi, rất mau sẽ có thể giúp nàng giải được mối hận bị rơi xuống nước”.
Hy Hòa nghe xong, bỗng nhiên tươi cười, dung nhan nàng vốn xinh đẹp tuyệt trần, nhưng hễ mỉm cười liền biến thành một vẻ yêu kiều tà mị không thể tả thành lời, giữa mày mắt lộ phong tư tuyệt trác, thần sắc uể oải, khiến người ta nhìn mà hồn xiêu phách lạc.
“Hoàng thượng thật là giỏi tính toán, lại đem chuyện này đổ lên đầu thiếp, đến lúc đó nếu Tiết gia bị diệt tộc, trăm họ nhắc đến, chắc chắn sẽ nói là do thiếp hại, xem ra cái danh ‘yêu phi’ của thần thiếp, thực sự là không làm không được”.
Chiêu Doãn chăm chú nhìn nàng, trong ánh mắt lộ vài phần bi thương: “Trẫm biết nàng thiệt thòi rất nhiều…”.
Hy Hòa đáp lại bằng một tiếng cười nhạt.
Chiêu Doãn không đếm xỉa đến tiếng cười châm biếm của nàng, tiếp tục nói: “Cho nên, trẫm sẽ bù đắp cho nàng những chuyện khác. Có những chuyện, chỉ cần nàng cảm thấy vui, trẫm đều sẽ làm theo ý nàng”.
“Ví dụ như cung lưu ly này, đầm ngọc vỡ này?”.
“Còn có…”, Chiêu Doãn ngừng lại một lát, mỗi chữ đều nhả ra rất chậm, “Khương Trầm Ngư”.
Hy Hòa ngẩn ra, quay đầu lại nhìn y, bóng hai người in trong mắt nhau lay động, mơ hồ thành sóng nước lăn tăn.
Ngày hôm sau, trong cung truyền lời, đòi Khương Trầm Ngư tiễn cung dạy Hy Hòa phu nhân chơi đàn.
Toàn bộ Khương gia đều không thể lý giải được điều này, không rõ chuyện này sao lại rơi lên đầu Trầm Ngư. Theo lý mà nói, phi tử muốn học đàn, tự mình có thể mời sư phụ của Thiên Nhạc Thự(2) dạy cho, nếu không, tìm cung nữ biết chơi đàn trong cung, có thế nào cũng không đến lượt con gái của hữu tướng. Hy Hòa này nổi tiếng kiêu ngạo ngang ngược, dạy nàng ta chơi đàn, hễ không cẩn thận, chuốc họa vào thân dễ như bỡn.
Khương phu nhân nghĩ rất lâu, nói: “Trầm Ngư, hay là con giả bệnh đi?”.
Tẩu tẩu nói: “Đúng thế, hay là tìm một lý do từ chối đi, chuyện này tuyệt đối không thể nhận được”.
Đến Khương Trọng cũng nói: “Chuyến này e rằng nguy hiểm, vẫn không nên đi thì hơn”.
Nhưng cuối cùng Khương Trầm Ngư lại cười nhạt, nói: “Cha, mẹ, tẩu tẩu, Hy Hòa phu nhân truyền triệu con, chắc chắn trong lòng đã ra quyết định, cho dù chuyến này con giả bệnh từ chối, lần sau phu nhân vẫn sẽ mượn cớ khác tìm con, là phúc không phải họa, là họa tránh không nổi. Cho nên, con quyết định rồi, con đi. Bởi vì con cũng rất muốn biết, rốt cuộc nàng ta muốn làm gì”.
Như thế, ngày hôm sau Khương Trầm Ngư vào hoàng cung. Kiệu dừng trước Bảo Hoa cung, nàng được cung nhân dìu vào trong đại sảnh, giữa màn lụa trướng điều, Hy Hòa đang ngồi tựa trước cửa sổ im lặng thẫn thờ, ánh nắng phác họa đường viền gương mặt nghiêng nghiêng gần như hoàn mỹ của nàng, mày đậm mi dài.
Không biết tại sao, nhìn lại đau thương như thế.
Hóa ra mỹ nhân kiêu ngạo ngông cuồng này cũng biết đau thương.
Khương Trầm Ngư nhún người thi lễ.
Hy Hòa quay đầu lại, sóng mắt trong veo mang theo ba phần kinh ngạc, ba phần thăm dò, ba phần xét đoán, xen lẫn một phần cay đắng, nhìn nàng, nhìn nàng thật kỹ, cuối cùng thở dài một tiếng.
Sau đó, Hy Hòa cách dăm ba hôm lại truyền Khương Trầm Ngư vào cung dạy đàn, tiếng là dạy đàn, nhưng thực chất Trầm Ngư chỉ phụ trách đàn, nàng phụ trách nghe, cơ bản không hề nói chuyện.
Khương Trầm Ngư cảm thấy Hy Hòa đang quan sát mình, nhưng không rõ nguyên nhân, vì thế chỉ có thể cố gắng hết sức cẩn thận lời nói, cử chỉ.
Trong khoảng thời gian này, Hoàng Kim Bà không hề nuốt lời, quả nhiên đã đem được canh thiếp của Cơ Anh trở về. Canh thiếp bằng giấy màu tím nhạt, có in hoa văn màu bạc, hình vẽ vẫn là Bạch Trạch. Ngoài bát tự ra, phía trên còn viết một vế đối: Anh quân tử hoa, triêu bạch ngọ hồng mộ tử, ý nan vong nhất dạ thính xuân vũ.
(Hoa Anh quân tử, sáng trắng lửa đỏ chiều tím, lòng khó quên một đêm nghe mưa xuân.)
Chữ phóng khoáng như người, thanh tú lạ thường.
Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, đổi lại như sau: Ngu mỹ nhân thảo, thanh xuân hạ lục thu hoàng, vu trung hảo lục thái kết đồng tâm.
(Cỏ Ngu mỹ nhân, xuân xanh hạ lục thu vàng, đẹp bên trong sáu màu kết đồng tâm.)
Hoàng Kim Bà tấm tắc khen rằng: “Không hổ là Khương tiểu thư, đối rất hay, đối rất tuyệt!”.
Tẩu tẩu cười nói: “Hoa Anh quân tử này của y có(3) lồng chữ “Anh” vào; Trầm Ngư lại đối lại cỏ Ngu mỹ nhân, lấy được âm “Ngư” , đúng là đối rất hay!”.
Mọi người cười nói một hồi rồi tản đi. Khương Trầm Ngư về tới khuê phòng, lại bắt đầu rầu rĩ. Vế đối này của công tử dường như có ý khác, bỏ qua nửa câu đầu không nói tới, “ý nan vong” đó là ý gì? Còn hai chữ “mộ tử” ẩn dụ không tốt lành, thực sự khiến người ta nghĩ mãi mà không hiểu nổi.
Nhưng nàng cũng chỉ có thể tự trăn trở trong lòng, không dám nói với mẫu thân. Nhưng đêm nay trời chuyển lạnh, tuyết rơi dày, ngày hôm sau, nàng đến hoàng cung dạy đàn, mới bước vào Bảo Hoa cung đã nghe thấy cung nữ nói phu nhân bị bệnh rồi.
Một cung nữ tên là Vân Khởi dẫn nàng vào trong, trong phòng đốt lò sưởi, trong không khí có mùi thuốc nhàn nhạt. Trong trướng gấm thất bảo, Hy Hòa ngồi trong chăn, sắc mặt trắng bệch, nhìn khá là yếu ớt.
Nàng vốn muốn cáo từ, nhưng Hy Hòa lại nói: “Ngươi đến rất đúng lúc.
Ngươi có biết đàn bản ‘Thương giang dạ khúc’ không?”.
Khương Trầm Ngư ngẩn người một lúc, đáp: “Có ạ”. Rồi lập tức gẩy đàn.
Tiếng đàn thánh thót, như Trường Giang chảy xiết, kéo dài đến ngã giao Từ Chiết, bỗng một trận mây ập tới, mưa lớn dâng tràn, sóng sông ầm ào, dấy lên hàng ngàn con sóng lớn. Trong màn đêm trời nước một màu, mây mù bao phủ, một con rồng xanh từ trong mây lao vào biển lớn, cuộn mình uốn lượn.
Cổ khúc này sôi sục cuộn trào, lại rất trọng tiểu tiết, nhưng nàng chậm rãi khẽ gẩy, quen tay đàn lên, lại không hề tốn sức.
Hy Hòa vừa nghe vừa nhìn, mắt bắt đầu ngân ngấn, cuối cùng đã rơi lệ.
Khương Trầm Ngư cả kinh, phút phân tâm, dây đàn đột nhiên đứt đoạn, nàng vội vàng quỳ xuống mà rằng: “Trầm Ngư đáng chết, xin phu nhân thứ tội!”.
Hy Hòa không nói lời nào, chỉ là vẫn cứ nhìn nàng, trong ánh mắt dường như ẩn chứa nỗi niềm thê lương vô hạn, cuối cùng toàn thân đột nhiên run lẩy bẩy, phun ra máu tươi.
Không sai không lệch, toàn bộ đều phun trúng lên mặt nàng.
Cung nhân bên cạnh kinh hãi kêu lên: “Phu nhân! Phu nhân người sao rồi!”.
Hy Hòa ngã về phía sau, lập tức mê man. Mà Khương Trầm Ngư máu tươi đầy đầu đầy mặt, sợ đến không biết mình đang ở nơi nào.
Sao lại như thế này?
Những chuyện phát sinh sau đó giống như một vở kịch, còn nàng quỳ trên mặt đất, trơ mắt xem vở kịch đó, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, cảm nhận được một sự rối loạn tột độ.
Trước tiên là Vân Khởi gọi thái y, tiếp theo hoàng đế cũng đến, căn phòng nhỏ trong chốc lát có bao người vây quanh, mùi thuốc nồng nặc nặng nề sộc tới, khiến nàng cảm thấy gần như nghẹt thở.
Bên tai có rất nhiều tiếng nói, loáng tháng nghe rõ được mấy tiếng: “Bệnh này kỳ quái… e rằng tính mệnh đáng lo… vi thần bất tài…”. Trong tầm nhìn của nàng, vô số vạt áo bay qua bay lại, sắc vàng là hoàng đế, sắc đỏ xanh chàm lam là phi tử màu tím nhạt là cung nhân, cuối cùng, đột nhiên xuất hiện một sắc trắng.
Đồng thời, bên ngoài có người truyền: “Kỳ Úc hầu tới…”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, cách bức rèm lụa thêu tranh mỹ nhân, nàng nhìn thấy Cơ Anh đang quỳ ở gian ngoài, áo trắng rõ ràng, tựa như cứu tinh. Vành mắt nàng hoe đỏ, giống như một người ngã xuống nước nhìn thấy một cây gỗ nổi, toàn thân đều run rẩy, nhưng dù trong cơn run rẩy lại biết rất rõ, bản thân sẽ không xảy ra chuyện gì.
Chỉ cần chàng đến, nàng tuyệt đối sẽ không xảy ra chuyện gì.
Chiêu Doãn quay người, trên mặt lộ vẻ an tâm, cất cao giọng nói: “Kỳ Úc, ngươi đến thật đúng lúc, lũ thái y bỏ đi này không có tên nào nhìn ra Hy Hòa bị mắc bệnh gì, ngươi mau đến xử lý, trẫm muốn tước hết chức vị của bọn chúng!”.
Cơ Anh vẫn trấn tĩnh, ngữ điệu không gấp không chậm, giọng nói cũng không cao không thấp, nhưng lọt vào tai lại khiến người ta cảm thấy dễ chịu không thể tả xiết: “Xin hoàng thượng bớt giận. Vi thần nghe tin phu nhân bị bệnh liền vội vã tới đây, hơn nữa, còn dẫn theo một vị thần y cùng đến”.
Chiêu Doãn sáng mắt lên: “Mau tuyên!”.
Một người áo xanh theo sau La Hoành bước vào, quỳ xuống bên cạnh Cơ Anh: “Thảo dân Giang Vãn Y, tham kiến bệ hạ!”.
Một lão thái y trong phòng toàn thân chao đảo, gương mặt đầy vẻ kinh ngạc.
Chiêu Doãn nói: “Ngươi là thần y?”.
Người áo xanh đáp: “Thần y là do hương dân mến gọi, không dám tự xưng”.
“Nếu như ngươi có thể chữa khỏi bệnh của Hy Hòa, trẫm sẽ ban tặng ngươi danh xưng thần y! Mau mau vào đi”.
Người áo xanh tên Giang Vãn Y đó vâng một tiếng, khom mình tiến vào, bắt đầu bắt mạch cho Hy Hòa. Từ góc nhìn của Khương Trầm Ngư, chỉ thấy hắn ngũ quan đẹp tựa tiên nữ, toàn thân trên dưới toát lên một khí chất nho nhã, không giống đại phu mà giống thư sinh hơn.
Còn lão thái y bên cạnh nhìn hắn, vẻ mặt càng thêm hoảng sợ bàn tay giấu trong tay áo run rẩy không ngừng.
Giang Vãn Y ngẩng đầu, mỉm cười với ông ta: “Phụ thân, đã lâu không gặp, gần đây người có khỏe không?”.
Lão thái y dường như bị tắc thở trong lồng ngực, hoàn toàn không nói nổi nên lời, còn những người khác kinh ngạc, không ngờ thần y mà Kỳ Úc hầu mời tới lại là con trai độc nhất của đề điểm thái y viện Giang Hoài.
Nghe lời hắn vừa nói thì dường như cha con đã nhiều năm không gặp mặt, mà nay tái ngộ lại lạ lùng như thế, càng khiến người ta đoán không ra nội tình.
Chiêu Doãn chẳng thèm để ý quan hệ phức tạp bên trong, chỉ cuống quýt hỏi: “Thế nào thế nào? Hy Hòa rốt cuộc mắc bệnh gì? Tại sao đột nhiên thổ huyết, hôn mê bất tỉnh?”.
Giang Vãn Y nhíu cặp mày đẹp lại, trầm ngâm không nói.
Chiêu Doãn lại nói: “May ngày trước nàng từng bị phong hàn, mắc chứng trong nóng sốt, ngoài lạnh ngắt…”.
Giang Vãn Y thả tay Hy Hòa ra, đứng thẳng lên hành một lễ, thong thả nói: “Hồi bẩm hoàng thượng, phu nhân không phải mắc chứng hàn tà”.
Bỗng tim Khương Trầm Ngư đập thình thịch, báo hiệu điềm chẳng lành.
Dường như để chứng minh cho cảm giác của nàng, câu tiếp theo của Giang Vãn Y là: “Sự thực là phu nhân đã bị trúng độc”.
“Trúng độc”. Chiêu Doãn chợt biến sắc.
“Vâng, hơn nữa nếu như tại hạ không đoán sai, tên của chất độc này là Sầu Tư. Theo cái tên này, người uống phải thân thể sẽ gầy yếu, nguyên khí tổn thương, ngày càng héo mòn, cuối cùng bệnh nặng qua đời”.
Chiêu Doãn đứng ngây ra hồi lâu rồi cuống quýt hỏi: “Đã biết tên độc, có cách giải độc không?”.
“Hoàng thượng xin hãy an tâm, phu nhân là quý nhân, tự có trời giúp, sẽ bình an qua được kiếp nạn này, chỉ là…”.
“Chỉ là gì?”.
“Chỉ là phu nhân trúng độc đã sâu, liên lụy đến bào thai trong bụng, cho nên, cái thai này e rằng không giữ được”.
Cả người Chiêu Doãn chấn động nặng nề, giọng run run: “Ngươi nói gì? Nói lại lần nữa cho trẫm”.
Khương Trầm Ngư lo lắng dán mắt nhìn Giang Vãn Y, trong lòng có một giọng nói kỳ quái đang kêu gào: Đừng nói, đừng nói, tuyệt đối đừng nói!
Nhưng hai bờ môi mỏng đang khe khẽ hé ra, hàm răng trắng đóng mở thốt ra những tiếng lạnh lùng: “Hồi bẩm hoàng thượng, phu nhân không những trúng độc, hơn nữa còn có bào thai một tháng, chỉ có điều, nay đã là thai chết lưu”.
Khương Trầm Ngư không kìm được nhắm nghiền mắt, trong chốc lát mồ hôi đổ ra như tắm trong lòng bàn tay, trong đầu có hai chữ không ngừng xoay vòng, đó chính là – hết rồi.
Hết rồi! Hết rồi! Hết rồi…
Tuy nàng không quan tâm thế sự, chán ghét tranh đấu cung đình, nhưng không có nghĩa là nàng hoàn toàn không biết gì. Phi tử của hoàng đế mang thai rồng, lại bị người ta âm thầm hạ độc đến chết, chuyện này chẳng khác nào ngàn vạn tầng sóng vọt tới tận trời, một khi điều tra, tất liên lụy rất rộng. Mà nàng ở thời khắc này, quỳ tại đây, trơ mắt ra nhìn chuyện lớn như vậy phát sinh, như vậy chắc chắn nàng khó mà có thể đứng ngoài chuyện này được nữa.
Trong khoảnh khắc, mưa to gió lớn sắp ập đến, thương thay nàng lại không có mảy may sức chống đỡ.
Khương Trầm Ngư cắn môi, lại chuyển hướng nhìn sang Cơ Anh đang ở ngoài rèm, công tử ơi là công tử, trong chuyện này, chàng đang sắm vai diễn gì?
Quả nhiên, Chiêu Doãn nghe nói giận dữ đùng đùng, đập bàn quát: “Sao lại như thế được! Là ai? Là ai cả gan dám hạ độc ái phi của trẫm! Người đâu, bắt tất cả cung nhân trong Bảo Hoa cung lại, thẩm vấn kỹ càng cho trẫm, nhất định phải làm rõ chuyện này!”.
Lệnh vừa hạ xuống, cung nữ thái giám lập tức quỳ kín đất, tiếng cầu xin không ngớt ập vào tai, nhưng toàn bộ đều bị thị vệ kéo đi. Chỉ có Khương Trầm Ngư vẫn quỳ ở một bên như cũ, không ai ngó đến.
Cuối cùng Chiêu Doãn quay đầu nhìn nàng chằm chằm, hỏi: “Ngươi là ai?”.
“Thần nữ Khương Trầm Ngư”.
“Ngươi là KhươngTrầm Ngư?”. Ánh mắt Chiêu Doãn đảo một vòng trên người nàng, dường như có chút bất ngờ, nhưng rất mau sắc mặt đã nghiêm lại, nói: “Chuyện này không liên quan đến ngươi, ngươi bị kinh sợ rồi, hãy về đi”.
Khương Trầm Ngư không ngờ được hoàng đế thả đi dễ dàng thế, vội vàng khấu tạ, hai chân vì quỳ quá lâu mà cứng đơ không duỗi ra được, mắt thấy mình sắp ngã quỵ thì một cánh tay đưa tới, đỡ nàng đứng vững.
Quay đầu, nàng nhìn thấy công tử.
Cơ Anh nhìn Chiêu Doãn nói: “Hoàng thượng, hãy để vi thần tiễn Khương tiểu thư xuất cung vậy”.
Ánh nhìn của Chiêu Doãn lại quét trên hai người, cuối cùng gật đầu. Thế là, Cơ Anh dìu Khương Trầm Ngư rời khỏi nơi này, từ từ ra khỏi cửa cung.
Trong lòng Trầm Ngư muôn vàn cảm kích, đương muốn mở miệng, Cơ Anh bỗng thả cánh tay nàng ra, nhặt một vốc tuyết trên lan can bên cạnh, chỉ nghe “tách” một tiếng, tuyết tannước, bốc lên hơi nóng nghi ngút. Chàng lại lấy từ trong lòng ra một chiếc khăn tay, thấm ướt nước, vắt khô rồi đưa cho nàng.
Lúc này Khương Trầm Ngư mới nhớ ra vừa nãy Hy Hòa phun máu đầy mặt nàng, mà nàng quỳ suốt từ lúc đó, căn bản không dám lau đi, có thể tưởng tượng dáng vẻ hiện giờ của mình thê thảm thế nào, vậy mà hết thảy đã lọt trọn vào mắt chàng. Nghĩ đến đây, nàng vô cùng xấu hổ, vội vàng đón lấy chiếc khăn. Nhưng một là vết máu đọng đã khô, không dễ lau sạch; hai là ở đây không có gương, không nhìn được chỗ nào dính máu, vì thế cứ luống cuống lau lung tung, ngược lại còn làm cho khuôn mặt vốn đã lấm lem lại càng bẩn thêm, chỗ đó chỗ vàng, nhếch nhác hết chỗ nói.
Cơ Anh khẽ thở dài một tiếng, cầm chiếc khăn ướt trong tay nàng, một tay nâng cằm nàng lên, một tay khẽ lau vết máu cho nàng. Chiếc khăn ướt và những ngón tay chàng chạm vào đâu, da thịt ở đó liền nóng lên, bắt đầu bốc cháy. Nàng vừa hoảng sợ lại vừa lo lắng, nhưng còn xấu hổ nhiều hơn, muốn ngước mắt nhìn chàng, nhưng lại sợ chạm phải ánh mắt chàng, đành cụp mi nhìn vạt áo chàng, trong lòng dần dần dậy lên một mối nhu tình êm đềm.
Chàng thật… dịu dàng.
Chàng… dịu dàng biết bao.
Đời này may mắn biết bao, khiến nàng có thể cùng nam tử dịu dàng này kết mối lương duyên? Bản thân nàng quả thực là có phúc chăng? Khương Trầm Ngư trong lòng ngọt ngào, không kìm được ngẩng lên nhìn mặt Cơ Anh, ai ngờ, cũng chính khoảnh khắc đó, Cơ Anh buông nàng ra, thu tay lại, nói: “Xong rồi”.
Mắt nhìn thấy chàng sắp vứt chiếc khăn đi, Khương Trầm Ngư vội vàng kêu lên: “Đợi đã! Chiếc khăn đó… để ta đem về nhà giặt sạch rồi trả lại công tử!”.
Cơ Anh nói: “Một chiếc khăn tay thôi mà, không cần phiền vậy đâu.” Rốt cuộc chàng vẫn vứt đi.
Trong lòng nàng lạnh giá, giống như có một thứ gì đó đã mất đi cùng với chiếc khăn tay kia. Để xóa tan cảm giác lạ thường đó, nàng đổi chủ đề nói: “Hy Hòa phu nhân cát nhân thiên tướng, sẽ không có chuyện gì… đúng không?”.
Cơ Anh “ừ” một tiếng hờ hững.
Nàng đành nói: “Vừa nãy ta… đúng là rất sợ, phu nhân đột nhiên thổ huyết, ta sợ đến mức không nhúc nhích nổi…”.
Nàng cười ngượng ngập, nói năng lộn xộn, nhưng cuối cùng vẫn chẳng nói tiếp được.
Bối rối làm sao. Có một không khí bối rối khó tả đang bao trùm lấy chàng và nàng, tuy không rõ đó là chuyện gì, nhưng lại loáng thoáng cảm thấy, có chuyện gì đó đã xảy ra rồi.
Chính vào lúc đó, một người cưỡi ngựa từ ngoài điện phi như bay vào, đến trước mặt họ, nhảy xuống ngựa, quỳ gối thưa rằng: “Hầu gia, có chuyện rồi!”. Đó là một đại hán áo xám chạc độ tứ tuần, mày rậm mắt to, tướng tá thô ráp, duy chỉ có đôi mắt là sáng rỡ có thần, trên mắt trái còn xăm một con rồng nhỏ ba móng màu đỏ.
Cơ Anh nhíu mày: “Chuyện gì?”
Đại hán liếc Khương Trầm Ngư mấy cái, tuy có do dự nhưng rồi vẫn nói ra: “Phan Phương đơn thương độc mã chạy đến Tiết phủ làm loạn rồi”.
“Tại sao?”.
“Nghe nói… nghe nói hôn thê của hắn đến Tiết phủ kể chuyện, bị Tiết Túc…
vấy bẩn rồi”.
Cái gì? Khương Trầm Ngư trợn tròn mắt, Phan Phương? Đó chẳng phải là Phan Phương vừa gặp hôm đó sao? Hôn thê của hắn chẳng phải là Tần nương sao? Trời ơi… trời ơi…
Trong mắt Cơ Anh thoáng một tia giận dữ: “Ta lập tức đến Tiết phủ”. Chàng quay sang nhìn nàng, lại bổ sung thêm: “Chu Long, ngươi đưa Khương tiểu thư về hữu tướng phủ”.
Không đợi nàng phản ứng, chàng đã phất trường bào, nhảy phắt lên lưng con ngựa đại hán cưỡi đến, tuấn mã tung vó hí vang một tiếng, phóng đi như bay.
Đại hán tên Chu Long quay sang nàng chắp tay, cung kính nói: “Khương tiểu thư, mời”.
Khương Trầm Ngư tuy rằng lo lắng, nhưng cũng chẳng còn cách khác đành cùng hắn về phủ trước. Về đến phủ, gia nhân thấy nàng ai nấy sắc mặt lạ lùng, dáng vẻ lo lắng kinh sợ.
Nàng đã bị một chuỗi sự việc phát sinh ngày hôm nay làm cho thấp thỏm bất an, lại nhìn thấy thái độ của gia nhân như thế, không kìm được giận dữ, gắt lên: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Ác Du, nói mau!”.
Ác Du run rẩy đáp: “Tiểu thư, giờ Ngọ hôm nay, canh thiếp đặt dưới bài vị tổ tông thần án, đột nhiên, đột nhiên…”.
“Đột nhiên làm sao?”.
Hoài Cẩn thay nàng ta nói tiếp: “Không biết từ đâu một cơn gió lọt vào, thổi đổ đài nến, đốt cháy canh thiếp đó…”. Dứt lời, lay từ phía sau ra một vật, run run đưa ra trước mặt Khương Trầm Ngư.
Thiếp gập màu tím nhạt, đã cháy mất một góc, vừa vặn tách hình Bạch Trạch màu bạc làm hai phần, cũng đốt chữ “Anh” trong “Anh quân tử hoa” cháy thành tro.
Ác Du đứng ở một bên sụt sịt nói: “Tiểu thư, phải làm thế nào bây giờ? Canh thiếp vào nhà ba ngày, nếu có gì dị thường thì coi như không lành, không thể thành hôn…”.
Không thể thành hôn…
Không thể thành hôn…
Bốn chữ này nặng trĩu tựa núi, đè lên đầu nàng, nở to ra vô số lần, quấn lấy hai chữ đã hiện lên không biết bao lần trong đầu nàng ngày hôm nay, bồng bềnh trôi nổi…
Hết rồi…
Đêm đó, Khương Trầm Ngư nhìn ánh đèn trong thư phòng phụ thân sáng trưng, đám ám vệ ra ra vào vào, bóng phụ thân và ca ca in trên cửa sổ, lo lắng bồn chồn bước qua bước lại.
Vừa hay Khương phu nhân dẫn nha hoàn đi qua, nàng vội vàng gọi: “Mẹ”.
Khương phu nhân quay lại, nhìn thấy nàng, dịu giọng nói: “Trầm Ngư, sao vẫn chưa ngủ?”.
“Con không ngủ được”.
Khương phu nhân dỗ dành: “Chuyện canh thiếp ta đã lệnh cho toàn bộ gia nhân không được tiết lộ ra ngoài, còn tìm thợ khéo về sửa nó như mới, con yên tâm, đảm bảo sẽ không nhìn ra dấu vết bị cháy. Con đừng nghĩ nhiều quá, mau ngủ đi”.
Khương Trầm Ngư nhìn đồ ăn đêm nha hoàn bưng trong tay nói: “Có phải mẹ đến thư phòng của cha và ca ca không?”.
Khương phu nhân than: “Họ đang đợi tin tức trong cung đó, đêm nay e rằng không được ngủ, ta làm canh ngọc đới và bánh thủy tinh, phòng ban đêm họ đói bụng”.
“Để con đi cho”. Khương Trầm Ngư vừa nói tay vừa cầm lấy chiếc khay trong tay nha hoàn. Khương phu nhân nhìn dáng vẻ của nàng, biết nàng có điều muốn nói với họ, bèn gật đầu, nói: “Cũng được, vậy để con đem tới đó”.
Khương Trầm Ngư bưng đồ ăn đêm gõ cửa thư phòng, sau đó bước vào trong. Khương Trọng và Khương Hiếu Thành đang ngồi đánh cờ cạnh thư án, ngẩng đầu lên nhìn thấy người bước vào là nàng cũng không cảm thấy bất ngờ. Khương Hiếu Thành nói: “Muội muội tới rất đúng lúc, nghe nói hôm nay lúc Hy Hòa phu nhân thổ huyết muội cũng đang ở đó, mau nói xem rốt cuộc chuyện là thế nào?”.
Khương Trầm Ngư kể lại một lượt từ đầu đến cuối, thật tỉ mỉ cặn kẽ, nhìn thần sắc phụ thân và ca ca càng lúc càng chăm chú, nghiêm trọng, không kìm được hỏi: “Cha, có thể tra ra là ai hạ độc Hy Hòa phu nhân không?”
Khương Trọng cười một tiếng khổ não: “Trọng điểm căn bản không nằm ở ai hạ độc, mà là hoàng thượng hy vọng là ai hạ độc?”.
Khương Trầm Ngư nghi hoặc không hiểu: “Ý của cha là gì?”.
“Muội vẫn không hiểu sao, Trầm Ngư?”. Khương Hiếu Thành đứng bên nói, “Tin mới từ trong cung truyền ra nói hoàng thượng đã giam hoàng hậu vào ngục rồi”.
Khương Trầm Ngư kinh ngạc: “Hoàng hậu? Là hoàng hậu hạ độc? Không thế nào! Không thể nào là hoàng hậu được…”.
“Xem kìa, đến muội còn không tin, trong cung lấy ai tin chứ?” “Cha, chuyện này rốt cuộc là thế nào?”.
Khương Trọng nhìn ván cờ phức tạp trên bàn cờ, vẻ mặt càng trở nên bi thương hơn, lẩm bẩm: “Rốt cuộc là chậm mất một bước… Ôi không, là từ đầu đến cuối, căn bản đã bị ngăn cách với bên ngoài…”.
Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn huynh trưởng cầu giúp, ánh mắt Khương Hiếu Thành cũng ngừng lại trên cục diện ván cờ, thấp giọng nói: “Cha, việc đã đến nước này, chúng ta nên làm gì?”.
“Còn có thể làm gì? Hoàn toàn không có chỗ cho chúng ta nhúng tay”.
“Vậy cứ trơ mắt nhìn như thế sao?”.
“Đúng”. Khương Trọng ngước mắt nhìn tiểu nữ của mình, dưới ánh đèn, dung nhan của Khương Trầm Ngư càng nhìn càng diễm lệ, đó là một kiểu dung mạo xinh đẹp tựa như ánh mặt trời mùa xuân rạng rỡ, thuần khiết không tì vết, chẳng vương chút tang thương, bốn chữ “đại gia khuê tú” được thể hiện trọn vẹn trên mình nàng… Chỉ tiếc là, nghi dung như thế, chất ngọc như thế, lại chẳng có chỗ dùng…
“Trầm Ngư, con về ngủ đi”.
“Cha không nói rõ, con gái không đi”.
“Có một số chuyện, con biết càng ít càng tốt”.
Khương Trầm Ngư đứng ngẩn ra hồi lâu, lại nói bằng một giọng hoang mang lạ thường; “Cha thực sự cho rằng, sự tình đến nước này, con còn có thể đứng ngoài hay sao?”.
Khương Trọng và Khương Hiếu Thành chấn động toàn thân, hai cha con nhìn nhau, cuối cùng vẫn là Khương Hiếu Thành lên tiếng: “Muội muội, muội có biết vì sao chúng ta tích cực vun vén cho hôn sự giữa muội và Kỳ Úc hầu không?”.
Tại sao? Câu hỏi này thực sự quá hay.
Với nàng, vì nàng ái mộ công tử, với mẫu thân, vì mẫu thân cảm thấy Cơ Anh là một người có thể gửi gắm trọn đời; nhưng với phụ thân và ca ca, tuyệt đối không phải ngắm trúng “con người” chàng, mà là quyền thế địa vị của chàng mà thôi.
Từ đó có thể thấy, đàn ông và đàn bà, khi suy nghĩ cùng một sự việc, vốn đã tồn tại sự khác biệt như trời với đất. Nhưng câu này làm sao nàng có thể nói ra miệng?
Thế nên Khương Trầm Ngư chỉ có thể im lặng.
Trong khi nàng im lặng, Khương Trọng thở dài một hơi, thong thả nói: “Tất cả đều biết, Đồ Bích vốn có bốn đại thế gia: Vương, Cơ, Tiết, Khương. Năm xưa, trong cuộc tranh đoạt ngôi vị giữa các hoàng tử, Vương thị phò tá thái tử Thuyên, Tiết thị phò tá đương kim hoàng thượng, còn Cơ gia, năm đó lão hầu gia Cơ Tịch bệnh nặng gần chết, căn bản không có sức mà quản, nhưng hoàng thượng lại mê đắm tài năng của Cơ Hốt, nhất quyết lấy nàng làm vợ. Nghe nói Cơ Hốt ban đầu cũng không đồng ý, sau không hiểu vì sao thay đổi tâm ý, liền gả cho hoàng thượng. Cứ thế đến nay, hoàng đế có Tiết gia chống lưng, lại có Cơ gia tương trợ, cuối cùng đã giành được hoàng vị. Còn Khương gia chúng ta, từ trước tới giờ luôn giữ thái độ trung lập”.
Những lời này tựa như một bàn tay, lật quá khứ lên đồng thời cũng từ từ xóa sạch cục diện hỗn độn trước mắt, Khương Trầm Ngư nhìn thấy có những thứ bắt đầu nổi lên khỏi mặt nước, mỗi một đường vân đều vô cùng rõ ràng.
“Cũng tức là việc hoàng thượng đăng cơ, Khương gia chúng ta có thể gọi là không hề bỏ chút sức lực nào, vì thế, cho dù hoàng thượng sau này tiếp tục nhậm mệnh vi phụ làm hữu tướng, nhưng trong lòng vi phụ, trước sau đều thấp thỏm chẳng yên. Cũng vì duyên cớ này,ba năm trước, vi phụ gấp rút đem Họa Nguyệt tiến cung, một là để biều thị lòng trung của bề tôi, hai là cũng hy vọng Họa Nguyệt được thánh thượng ân sủng, che chở cho cả nhà”.
Tỉ tỉ… đã bị tiến cung như thế ư… vậy mà nàng cứ luôn tưởng rằng, tỉ tỉ ham hư vinh, hiếu thắng, tự mình muốn tiến cung, vì tỉ tỉ đã từng nói: “Phải làm, sẽ làm người trên muôn người; phải gả, sẽ gả làm vợ của đế vương, như thế mới không sống uổng kiếp này!”.
Bàn tay Khương Trầm Ngư chầm chậm nắm chặt trong tay áo, bỗng cảm thấy mình trước đây sao mà ấu trĩ, nực cười biết bao, cho rằng không nghe không nhìn những chyện dối trá lọc lừa là được, cho rằng chỉ cần tự mình trước sau trong sạch là được, lại chưa từng nghĩ, cái gì khiến nàng có thể tiêu dao tự tại như vậy. Đó đều là sự hy sinh của người thân! Sự hy sinh của phụ thân, sự hy sinh của ca ca, sự hy sinh của tỉ tỉ…
“Có điều, Họa Nguyệt tuy được ân sủng nhưng phong hậu lại là điều vô vọng, lại thêm sau khi Hy Hòa xuất hiện, đến một chút ân sủng đó cũng dần dần biến mất. Nghe nói, hoàng thượng đã nửa năm rồi chưa đến Gia Ninh cung”. Khương Trọng nói đến đây lại thở dài, “Nửa năm nay, mâu thuẫn giữa Hy Hòa và hoàng hậu ngày càng gay gắt, nhìn bề ngoài mỗi lần hoàng thượng đều che chở Tiết thị, nhưng ngẫm kỹ, thực ra hoàng thượng bảo vệ Hy Hòa mới đúng, rốt cuộc, hoàng hậu có cả gia tộc ủng hộ, còn người xuất thân bần hàn, chẳng có chỗ dựa như Hy Hòa lại có thể ở trong thâm cung, chẳng mảy may thương tổn, đó chẳng phải là kỳ tích sao? Với suy nghĩ đó, vi phụ bắt đầu âm thầm điều tra, cuối cùng ta đã phát hiện ra manh mối…”.
“Manh mối gì?”.
Khương Trọng thấp giọng xuống, nói từng chữ từng chữ một: “Mâu thuẫn thực sự không phải là giữa Hy Hòa và hoàng hậu, mà là giữa hoàng thượng và Tiết gia!”.
Khương Trầm Ngư tuy chưa từng trải chuyện đời, nhưng cũng là một người sáng dạ, phụ thân nói như vậy, ngay lập tức nàng đã hiểu ra, sau đó lại nhớ lại một lượt những chuyện đã xảy ra, càng nhớ lại càng kinh hãi, cuối cùng không kìm được “a” một tiếng.
“Con cũng nghĩ ra rồi chứ? Tiết thị hùng mạnh khinh chủ, chuyên quyền nắm chính, hoàng thượng đăng cơ bốn năm, nhưng việc gì cũng phải nghe ý kiến của họ, chịu sự khống chế của họ, nếu ngài là một quân vương ngu tối tầm thường thì thôi, nhưng vị chủ tử này của chúng ta xử sự cương quyết mưu lược, lại vô cùng thông minh biết nhẫn nhịn, vì thế, ta đoán rằng, ngài sớm đã có ý đồ trừ bỏ Tiết thị, chỉ là thời cơ chưa tới. Nghĩ thông điểm này rồi, vi phụ liền bắt đầu quan sát trong văn võ khắp triều, ai là người đứng về bên Tiết thị, ai đứng về bên hoàng thượng?”.
“Là công tử…”, giọng nói của Khương Trầm Ngư rất nhẹ, vẻ hoang mang trên gương mặt càng đậm dần.
“Không sai. Phải nói nhìn Tiết thị không thuận mắt nhất, một lòng hướng đến hoàng thượng nhất, đến nay cũng chỉ có Cơ gia”. Khương Trọng chăm chú nhìn con gái của mình, bùi ngùi nói: “Cho nên, vi phụ mới nghĩ phải đem con gả cho Kỳ Úc hầu, để tỏ rõ Khương gia nguyện cùng họ đồng lòng chung sức cùng phò trợ hoàng thượng, chỉ đáng tiếc…”.
Khương Trầm Ngư nói tiếp thay ông: “Chỉ đáng tiếc chậm một bước. Hoàng thượng hẳn đã chuẩn bị ổn thỏa, bắt đầu không chờ đợi nổi muốn động thủ với Tiết gia, mà Hy Hòa trúng độc là bước đầu tiên của cả kế hoạch”.
Khương Hiếu Thành tán thành: “Muội muội quả nhiên thông minh.”
Khương Trầm Ngư tiếp tục phân tích: “Chuyện thánh chỉ rơi xuống nước, người đứng ra điều đình là công tử, nay phu nhân trúng độc, lại là công tử đem người đến tra ra bệnh chứng, cũng tức là công tử và hoàng thượng liên thủ diễn màn kịch bức cung, đầy mũi giáo nhằm thẳng hoàng hậu. Tất cả mọi người đều biết, Hy Hòa và hoàng hậu bất hòa, lần trước chuyện thánh chỉ rơi xuống nước, Hy Hòa nắm thóp của hoàng hậu không chịu buông, làm tổn hại nghiêm trọng đến thể diện của hoàng hậu, cho dù là một người hiền lành đi chăng nữa, cũng sẽ ghim hận trong lòng. Lần này phu nhân hoài thai, người có động cơ hạ độc nhất chính là hoàng hậu!”.
Khương Hiếu Thành xen lời: “Tin tức truyền từ trong cung lúc trước nói, thái giám bên Bảo Hoa cung nhận hối lộ của Tiết gia nên mới hạ độc Hy Hòa phu nhân, hơn nữa nguồn gốc độc dược đã tra rõ, là vú nuôi bên cạnh Tiết hoàng hậu Trình thị đích thân đưa cho hắn, Trình thị đã treo cổ tự vẫn. Hoàng thượng vì thế nổi giận lôi đình, không nói câu nào hạ thánh chỉ, giam lỏng hoàng hậu”.
“Tiết Hoài thấy con gái bị phế, tất sẽ giận dữ, nhưng hiện tại hắn đang trấn thủ quan ải, không thể lập tức quay về, con trai Tiết Túc lại là một kẻ háo sắc bất tài, chắc chắn không phải là đối thủ của hoàng thượng, bị trói bị giam bị giết cũng trong mấy ngày này, có điều cứ như thế này…”. Khương Trầm Ngư bỗng kinh ngạc nói, “Há chẳng phải chủ ý của hoàng thượng không chỉ là làm suy yếu Tiết gia, mà là triệt để ép Tiết Hoài làm phản hay sao?”.
Lời vừa nói ra, cả căn phòng lặng phắc.
Khương Trọng và Khương Hiếu Thành rõ ràng không ai nghĩ đến bước này, nghe xong mặt đều biến sắc. Khương Trọng sững sờ nhìn con gái, kinh ngạc không nói nổi lên.
Khương Trầm Ngư, con gái út của ông, từ nhỏ đã ngoan ngoãn hiểu chuyện. Cầm kỳ thi họa môn nào cũng tinh thông, nữ công gia chánh không thua kém ai, cho dù là vú nuôi, thầy dạy hay là thị tì gia tộc, không có là không khen nó tốt tính. Ông còn nhớ trung thu một năm nọ, khi cả nhà tụ tập ngắm trăng, ông cố ý ra đề thử ba huynh muội: “Các con ai có thể ném chiếc lông vũ này ra xa nhất, ta sẽ thưởng chiếc bánh trung thu thủy tinh này cho người đó”.
Vậy là, ba đứa trẻ dàn hàng ngang, lúc đó Hiếu Thành mười ba tuổi, Họa Nguyệt mười một tuổi, Trầm Ngư chỉ có tám tuổi.
Hiếu Thành từ nhỏ đã là một đứa trẻ ngốc nghếch đầu óc không linh hoạt, ngay lập tức liền ném chiếc lông vũ đi, kết quả chiếc lông vũ đó bay một lúc, bị gió thổi ngược lại về dưới chân Hiếu Thành.
Họa Nguyệt rõ ràng thông minh hơn rất nhiều, nhặt ít bùn lên, bọc quanh chiếc lông vũ, lại ném cục bùn đó xa đến hai trượng.
Lúc đến Trầm Ngư, nó sai người lấy chiếc lồng chim treo trên hành lang, đem lông vũ buộc vào chân con chim Bách Linh, vừa xòe tay ra, con chim kia đã vỗ cánh bay mất.
Không chỉ Hiếu Thành và Họa Nguyệt, tất cả mọi người có mặt đều há hốc miệng, không ngờ một đứa trẻ tám tuổi lại có thể nghĩ ra cách tuyệt diệu đến vậy. Nhưng nó không hề có vẻ kiêu ngạo, chỉ mỉm cười khẽ nói: “Lông vũ vốn được nhổ từ mình con chim ra, trả lại chim mới là chính đạo. Ca ca, tỉ tỉ, chiếc bánh trung thu này chúng mình cùng ăn đi”.
Sư gia trong phủ khi đó liền khen rằng: “Tam tiểu thư thông tuệ hơn người, nhưng càng hiếm có hơn là tấm lòng nhân hậu, tương lai ắt sẽ nên nghiệp lớn”. Còn khi ấy ông lại không hề xem trọng lời nói đó, bởi bình thường đứa con gái út này của ông phần lớn thời gian chỉ yên lặng, không sinh sự, không nổi bật, đến khi nó lớn rồi, thường ngày chỉ thấy dáng vẻ hiền lành, nhu thuận đáng yêu, đâu thể ngờ nó có ánh mắt sắc bén và suy luận chuẩn xác, tinh tường như thế này?
Người đang đứng dưới ánh đèn, sắc mặt bình thản lạnh lùng mà phân tích sự việc rành rẽ, hợp lý này có đúng thực là con gái của ông không?
Khương Trầm Ngư nói: “Hoàng thượng đã dám nhốt hoàng hậu thì sẽ không nương tay, cái đầu của Tiết Túc chắc chắn sẽ bị chém, mà hễ chém đầu Tiết Túc, Tiết Hoài tuyệt đối sẽ không nhẫn nhục, ông ta nắm đại quân trong tay, lại thêm tướng lĩnh dưới trướng xúi giục, rất có khả năng sẽ tạo phản. Chỉ cần ông ta làm phản, hai bên sẽ thành thế nước lửa, chiến tranh là tất yếu, xem ra, kiếp nạn này khó tránh khỏi rồi…”.
Khương Hiếu Thành nghe mà hoảng hốt sợ hãi: “Muội muội, muội đừng dọa t a” .
“Lời của Trầm Ngư tuyệt đối không phải là hù dọa”. Khương Trọng lập tức trấn tĩnh, hỏi: “Vậy theo ý của con, chúng ta nên làm thế nào?”.
“Con chỉ cảm thấy kỳ lạ…” “Kỳ lạ chỗ nào?”.
“Hoàng thượng ép Tiết Hoài làm phản, ắt phải có kế hay để giành phần thắng. Nhưng Tiết Hoài được mệnh danh là thần tướng trăm năm mới gặp, trong tay lại nắm sáu mươi vạn quân Tiết gia, trong triều căn bản không có tướng lĩnh nào có thể địch lại…”. Nói đến đây, nàng nghĩ đến Phan Phương, nghĩ đến lời Cơ Anh nói với Phan Phương ở ngoài quán trà “Bao giờ khởi chiến, tất sẽ có chỗ dùng huynh”, trong lòng càng thêm khẳng định phán đoán của mình. Công tử sớm đã biết sẽ có đại chiến, cho nên đến tướng lĩnh cũng đã tìm xong trước, tuy nàng không rõ khả năng của Phan Phương thế nào, nhưng có thể khiến công tử hạ mình đích thân đi tìm như thế, ắt hẳn không tầm thường. Chỉ là, so với Tiết Hoài, Phan Phương vẫn còn quá non nớt, hoàng thượng chắc chắn sẽ không đặt cược vào một con cờ khó định thắng thua như thế, cũng tức là ngài chắc chắn có chiêu ngầm.
Vậy chiêu ngầm của ngài là gì? Nghĩ không ra…
Bấy giờ ngoài cửa có tiếng người khẽ gọi: “Tướng gia”. Khương Trọng thần sắc chấn động, vội đáp: “Vào đi”.
Một đám vệ vội vàng bước vào, quỳ xuống.
Khương Hiếu Thành nói: “Thế nào, sự tình tiến triển sao rồi?”
“Thuộc hạ đã chứng thực, Giang Vãn Y đúng là con trai độc nhất của Giang Hoài. Y thuật của y cũng vô cùng xuất sắc, còn vượt cả cha mình. Nhưng tình cảm cha con rất không thuận hòa, Giang Hoài chỉ mong con trai vào Thái y viện, thay thế vị trí của ông ta, nhưng Giang Vãn Y lại nói một câu ‘Thầy thuốc nên hành nghề giúp đời cứu dân chúng, không cam tâm giam mình chốn thâm cung xu phụ quyền thế’…”.
Khương Hiếu Thành nghe đến đây thì hừ mũi: “Nếu hắn thực sự không phải loại xu phụ quyền thế, vậy sao lần này lại vào cung?”.
Đám vệ không để ý lời châm biếm của Hiếu Thành, tiếp tục vô cảm nói: “Ba năm trước sau khi Giang Vãn Y cãi vã một trận kịch liệt với phụ thân thì bỏ nhà đi, không ai biết y đi đâu, nào ngờ lần này khi xuất hiện, y lại trở thành môn khách của Khương Trọng ra lệnh: “Tiếp tục điều tra. Nhất định phải tra rõ quan hệ giữa hắn và Kỳ Úc hầu”.
Đám vệ vâng một tiếng: “Chuyện thứ hai, Hy Hòa phu nhân sau khi uống thuốc của Giang Vãn Y, mạch đập đã bình ổn, có điều vẫn chưa tỉnh, nếu tỉnh lại thuộc hạ sẽ bẩm báo”.
“Ừ.”
“Chuyện thứ ba, có liên quan đến Tiết Túc”.
Mắt Khương Hiếu Thành sáng lên: “Con quỷ háo sắc đó sao rồi?”. Khương Trọng hừm một tiếng: “Háo sắc, có thể bì với con sao?”.
Bị phụ thân nói vậy, Khương Hiếu Thành lập tức đỏ bừng mặt, bối rối ho vài tiếng. May mà giọng nói của đám vệ đã lạnh lùng, rành rọt cất lên: “Bữa trước Tiết Túc ngắm trúng nữ thuyết thư tiên sinh ở quán trà Tam Hương, gọi nàng ta vào phủ kể chuyện, rượu say thú tính nổi lên, định chiếm đoạt”.
Tim Khương Trầm Ngư run lên, quả nhiên là Tần nương!
Sau khi tận mắt chứng kiến nhân duyên của hai người, nay lại nghe kết cục như vậy, nàng cảm thấy cảnh ngộ của đời người thực sự tàn khốc.
“Nữ tiên sinh đó tuy là quả phụ, chồng mất sớm, nhưng sắp tới chuẩn bị tái giá, vì thế thề chết không chịu phục tùng, cuối cùng cắn lưỡi tự tử. Vị hôn phu của nàng ta biết tin sao chịu để yên, vì thế chạy đến làm ầm ở Tiết phủ, đánh thẳng vào trong, nhưng vì người ít địch nhiều, nên chưa gặp Tiết Túc thì đã bị bắt. Nghe nói lúc Kỳ Úc hầu đến, hắn đã bị đánh đến còn thoi thóp thở”.
Khương Hiếu Thành nói: “Đợi đã, chuyện này liên quan gì đến Kỳ Úc hầu?
Y đến đó làm gì?”.
Nam tử tên Phan Phương đó tuy là đồ tể, nhưng cũng là một môn khách của Kỳ Úc hầu”.
Khương Hiếu Thành cười nói: “Y giỏi thật, môn hạ tay sai kiểu gì cũng có”.
Khương Trọng liền khiển trách: “Nếu con có một nửa bản lĩnh của y, thì cha con cũng không cần chừng này tuổi mà còn lo lắng thế này”.
Khương Hiếu Thành vô cớ bị mắng, không cam tâm, lầm rầm nói: “Sao cha không nói cha không có bản lĩnh, đến một thằng nhãi hơn hai mươi tuổi đầu cũng đấu không lại, còn phải nịnh bợ hắn…”.
Khương Trầm Ngư vội vàng lườm y, Khương Hiếu Thành đành ngoan ngoãn ngậm miệng.
Đám vệ kịp thời nói tiếp: “Khi Kỳ Úc hầu biết chuyện, lập tức từ trong hoàng cung cưỡi ngựa đến Tiết phủ. Tiết Túc nể mặt ngài, không nói câu nào bèn trao trả Phan Phương, nhưng Phan Phương chỉ còn thoi thóp thở, nên Giang Vãn Y không kịp ăn cơm tối đã vội vàng đến phủ hầu gia chẩn trị cho hắn, hiện nay vẫn đang cấp cứu, sống chết chưa rõ”.
Khương Trọng gật đầu: “Đi thăm dò tiếp, hễ có tiến triển, lập tức báoáo”.
Đám vệ khom mình lui ra. Hoa đèn hắt sáng ra hai bên, Khương Trầm Ngư nhìn thế cờ hỗn loạn trên bàn, bỗng cảm thấy mệt mỏi, lại một lần nữa muốn trốn chạy.
Trốn khỏi cuộc tranh giành quyền thế vĩnh viễn không ngừng này.
Thứ muốn trốn tránh hơn nữa chính là mối tình mà chắc chắn nàng sẽ để lỡ trong trận tranh đấu này.
Quốc nạn nổ ra, công tử… sẽ không thành hôn nữa. Mắt rơm rớm lệ, nàng đã sớm nhìn thấy kết cục.
Ít ngày sau, Chiêu Doãn ban chỉ, hoàng hậu thất đức, gây loạn hậu cung, biến làm thứ dân, giam ở lãnh cung – Càn Tây cung.
Đúng như dự liệu của Khương Trầm Ngư, ở quan ải xa xôi, tướng lĩnh trấn thủ Yển Sơn đã truyền về một tin khẩn kinh thiên động địa – Hộ quốc tướng quan Tiết Hoài làm phản rồi.
Tuyết đã ngừng rơi, sương lạnh chưa tan.
Trong hơi thở đã thấy phả hơi trắng. Khương Trầm Ngư nhìn sắc trời đang dần sẫm lại bên ngoài cửa sổ, thở dài thật khẽ.
Ác Du ở bên cạnh nói: “Tiểu thư, trời lạnh lắm, người về phòng đi, kẻo lại đóng băng ở đây”.
Nàng lắc đầu, vẫn chờ đợi ở đại sảnh như cũ. Chờ đến giờ Tuất hai khắc, Khương Trọng và Khương Hiếu Thành mới cùng về, thần sắc hai người rất mỏi mệt, đặc biệt là Khương Hiếu Thành, hai mắt y hõm sâu, vằn những tia máu, dáng vẻ kinh sợ bất an, tay trái còn buộc một miếng vải, xem chừng đã bị thương.
Khương Trầm Ngư vội ra đón: “Cha, ca ca”.
Khương Trọng ra hiệu bảo nàng đi theo, ba người cùng đi vào thư phòng.
“Ca ca, tay của huynh sao vậy?”.
Khương Hiếu Thành nhếch miệng, vô cùng ấm ức: “Hôm nay đi khám xét nhà, bị con chó điên đợp một miếng”.
Khương Trọng nghiêm giọng “hừm” một tiếng: “Sao con không nói con háo sắc lộng hành? Đúng là không biết óc con làm bằng cái gì, lúc gay go này mà còn làm càn, ta thấy vết cắn này vẫn còn nhẹ lắm!”.
Khương Trầm Ngư một lúc sau mới hiểu ra, hóa ra hôm nay Khương Hiếu Thành phụng lệnh đến khám nhà Tiết gia, nhìn thấy một thị tì xinh đẹp, nhất thời nổi lòng háo sắc rờ mó chân tay, kết quả là bị Tiết Thái cắn cho một cái.
Khương Hiếu Thành căm phẫn nói: “Thằng nhãi đó thân mình còn chẳng lo nổi, còn muốn bảo vệ người khác, đúng là nực cười”.
Khương Trầm Ngư cuống lên nói: “Ca ca, huynh làm gì hắn rồi?”
“Cũng không có gì, đá cho một cái, bắt đến thiên lao rồi, nhốt chung với gã cha yêu râu xanh của nó”.
Khương Trọng “hừ” một tiếng: “Con cứ tiếp tục như thế, kết cục cũng không hơn Tiết Túc đâu!”.
Khương Hiếu Thành lập tức giả lả cười: “Sao có thể chứ? Cha con an phận giữ mình hơn cha hắn nhiều, hơn nữa con chỉ muốn sờ mó chút thôi, đâu có định làm gì…”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày, nhưng nàng biết giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, ca ca háo sắc đâu phải ngày một ngày hai, không thể trong chốc lát mà khuyên nhủ được, nên tạm thời bỏ qua không nghĩ nữa, nói sang chuyện quan trọng hơn: “Cha, hôm nay trên triều, hoàng thượng nói gì?”.
“Hoàng thượng đương nhiên là nổi giận lôi đình, còn có thể thế nào nữa? Có một số người vốn muốn nói đỡ cho Tiết gia, kết quả thấy vậy sợ quá, cũng không dám ho he. Tình thế hiện giờ đang nghiêng về phía chủ chiến”.
“Tiết Hoài làm phản thật sao?”.
Khương Hiếu Thành đáp: “Còn giả sao được?”.
“Tin từ Yển Sơn đến không sớm không muộn, mà nhằm đúng lúc này, thật khéo quá đi. Nhưng bỏ đi, làm phản thật hay không đã không còn quan trọng nữa, giờ mọi người đều cho rằng ông ta làm phản rồi, ông hoàn toàn không còn con đường nào khác”. Ánh mắt Khương Trầm Ngư sáng lên, “Thương thế của Phan Phương sao rồi?”.
“Giang Vãn Y kia quả thực cao minh, không những cứu được cái mạng hắn ta, mà qua mấy ngày điều dưỡng, nghe nói đã khỏe lên nhiều rồi”.
“Vậy hoàng thượng đã chỉ định ai làm tướng cầm quân thảo phạt Tiết Hoài?”.
Cha con họ Khương nhìn nhau, vẻ mặt hai người đều trở nên cổ quái, cuối cùng Khương Hiếu Thành liếm liếm môi, chậm rãi nói: “Hoàng thượng ngài… muốn ngự giá thân chinh”.
Khương Trầm Ngư rất kinh ngạc.
Khương Hiếu Thành nói tiếp: “Ta thấy lần này hoàng thượng thực sự u mê rồi, trở mặt với Tiết Hoài cũng đủ rồi, còn định đích thân ra chiến trường, nói ra thì đại bất kính, đây chẳng phải là đi tìm…”, y ngó quanh, tuy chắc chắn không có người nghe lén, nhưng vẫn hạ giọng thật thấp, “tìm cái chết sao? Ai chẳng biết vị chủ tử của chúng ta từ nhỏ thân thể yếu ớt trói gà không chặt, đến cưỡi ngựa còn là vấn đề chứ đừng nói đến thân chinh”.
Về chuyện này Khương Trầm Ngư cũng có nghe qua, nghe nói Chiêu Doãn vì là con của một cung nữ không được sủng ái! Cho nên từ nhỏ đã bị ghẻ lạnh, không người hỏi đến, cho đến năm mười tuổi mới có cơ hội quay về cạnh tiên đế, trước đó đừng nói là học võ công, ngay đến chữ cũng không biết được bao nhiêu. Cũng vì gặp phải c
Nhưng Chiêu Loan công chúa lại xui xẻo hơn nhiều, bị dẫn đến ngự thư phòng đứng suốt một canh giờ, Chiêu Doãn vẫn miệt mài phê tấu chương, chẳng buồn nhìn nàng lấy một cái.
Chiêu Loan giậm giậm chân trái lên chân phải, lại giậm giậm chân phải lên chân trái, cứ thế mười mấy lần, cuối cùng không nhịn được kêu lên thảm thiết: “Hoàng huynh…”.
Trước ngự án, Chiêu Doãn vờ như không nghe thấy, vẫn vùi đầu trong đống tấu chương.
Chiêu Loan nghiến răng, lại kêu: “Hoàng huynh ơi…”.
“Muội biết sai rồi chứ?”. Giọng nói của Chiêu Doãn không lạnh không nóng, từ trước bàn truyền tới.
Chiêu Loan cuống quýt gật đầu, ấm ức nói: “A Loan biết sai rồi, đứng lâu như thế hai chân sắp hóa đá rồi, hoàng huynh tha cho muội đi!”.
Chiêu Doãn mắt phượng khẽ nheo, liếc nàng một cái, thong thả nói: “Vậy nói xem, sai ở đâu?”.
Chiêu Loan cúi đầu, thành thật đáp: “Thần muội không nên ham chơi, tự mình xuất cung”.
“Còn gì nữa?”.
“Vẫn còn?”. Chiêu Loan lại nghĩ hồi lâu, “không nên không bẩm báo trước cho hoàng huynh”.
Chiêu Doãn khẽ “hừ” một tiếng: “Trẫm bận trăm công ngàn việc, làm gì có thời gian quản muội có ra khỏi cung hay không”.
Chiêu Loan nhìn trong mắt y thấp thoáng nét cười, biết mình bị trêu chọc, lập tức to gan hẳn lên, cười nói: “Vâng, vâng, vâng, hoàng huynh cần chính yêu dân, vốn không nên bỏ tâm sức vào những việc vặt vãnh như thần muội, vậy thì tha cho muội đi!”.
“Muội ấy…”. Chiêu Doãn đặt bút xuống, nhìn muội muội duy nhất của mình, lắc đầu: “Cơ thể thái hậu đã không khỏe, muội không ở bên giường hầu hạ, trái lại chỉ ham chơi, tức là bất hiếu, đó là tội thứ nhất, muội là công chúa cao quý, thân phận quan trọng chừng nào, ra ngoài phải mang thị vệ đi cùng, sao có thể đi một mình, đó là tội thứ hai; muội tự mình rong chơi thì thôi, còn lôi kéo người khác đi cùng, làm bại hoại thanh danh khuê nữ, đó là tội thứ ba…”.
Chiêu Loan kêu lên: “Đợi đã! Hoàng huynh, muội nào có làm bại hoại thanh danh người ta? Muội chỉ dẫn Khương gia tỉ tỉ đi ăn mì, nhân tiện nghe kể chuyện thôi, sao có thể bại hoại thanh danh được?”.
“Thiên kim tướng phủ, nữ đóng giả nam, đi vào phố chợ, còn không phải bại hoại thanh danh?”.
Chiêu Loan tự biết mình sai, đành cúi đầu, nhưng rốt cuộc vẫn không cam lòng, lại khẽ lầm rầm: “Phố chợ thì sao nào, chẳng phải phi tử nào đó của huynh cũng từ đó sinh ra sao, sao huynh không nói người ta không có thanh danh?”.
Chiêu Doãn nhíu mày: “Muội nói gì?”.
“Không có gì. Muội có thể nói gì sao?”.
“Được rồi, muội lui ra đi. Chuyện hôm nay tạm thời thế thôi, không được tái diễn”.
Chiêu Loan mừng rỡ, vội vàng bái tạ: “Chỉ có hoàng huynh là thương muội nhất, hoàng huynh vạn tuế!”. Đương tung tăng định đi, Chiêu Doãn bỗng hỏi: “Khương Trầm Ngư là người như thế nào?”.
Mắt Chiêu Loan sáng lên, quay người lại vui vẻ trả lời :”Khương gia tỉ tỉ là một đại mỹ nhân! Tỉ ấy còn đẹp hơn Tây Hòa, Đông Hòa(1) gì đó nhiều, vừa dịu dàng vừa lương thiện, còn rất tài hoa nữa, chơi đàn cực hay…”.
Chiêu Doãn khóe mắt cong cong, nửa cười nửa không: “Nói thế tức là vừa có tài của Cơ Hốt, lại vừa có sắc của Hy Hòa?”.
Chiêu Loan “à” một tiếng: “Đúng! Chính là hình dung như thế! Quá chuẩn xác, không sai, tỉ ấy là một cô nương tốt như thế đấy!”.
“Được rồi biết rồi, muội về đi!”.
“Dạ!”. Chiêu Loan quay người bước ra ngoài. Nụ cười trên gương mặt Chiêu Doãn nhạt dần, y cúi đầu nhìn xuống thư án, giữa đống tấu chương là một bức mật báo, phía trên chỉ viết một câu: “Hữu tướng có ý gả tiểu nữ Trầm Ngư cho Kỳ Úc hầu”.
Y chăm chú nhìn hàng chữ đó, trầm ngâm hồi lâu, rồi chợt gọi: “Điền Cửu”.
Điền Cửu xuất hiện trong thư phòng hệt như một bóng ma. “Gần đây hoàng hậu có động tĩnh gì không?”.
“Bẩm hoàng thượng, mỗi ngày hoàng hậu chỉ quan tâm chăm sóc Tiết Thái, không làm gì khác, cũng không có thư từ qua lại với phụ thân”.
“Vậy còn Tiết Túc thì sao?”.
“Trung lang tướng cả ngày chỉ uống rượu làm vui với tướng lĩnh, cũng không có gì lạ, có điều giờ Hợi một khắc đêm hôm qua, thị trung lang Điền Vinh, con rể của tả tướng đến phủ ông ta, hai người nói chuyện riêng một lúc, ngồi không đến thời gian một chén trà đã đi, còn nói chuyện gì, vẫn chưa biết được”.
Chiêu Doãn im lặng, cuối cùng đứng dậy nói: “Bãi giá, trẫm muốn đến Bảo Hoa cung”.
Điền Cửu khom mình lui ra, đổi lại là đại thái giám La Hoành đến hầu hạ, một hàng người chậm rãi ra khỏi Cảnh Dương điện, đi tới Bảo Hoa cung. Trời đã vào đêm, cung đăng đều được thắp sáng, chiếu lên lưu ly, ngũ sắc lấp lánh.
Bảo Hoa cung xa xỉ hào nhoáng, trong đêm tối lại càng xán lạn, nhưng không thấy một bóng người.
Thấy tình cảnh này, trong lòng Chiêu Doãn đã rõ mấy phần, bèn vẫy tay bảo đám tùy tùng phía sau lui xuống, một mình bước vào cửa.
Đi xuyên qua hành lang dài hun hút, Bích trì hiện ra trước mắt, bên mặt nước có bậc thang, bậc thang uốn hình vòng cung cong cong, đáy hồ sâu ba thước đầy những mảnh sứ vỡ.
Bên cạnh hồ có một người đang ngồi.
Người đó xõa tung mái tóc dài, mặc chiếc váy lụa trắng muốt, phần dưới chiếc váy lụa vén cao, để lộ ra cặp đùi trắng muốt, mịn màng như ngọc tạc, đang ngâm trong làn nước. Trên mảnh đất trống cạnh nàng, chén rượu la liệt. Chén rượu mỏng tang, sắc hoa trong suốt, chạm vào mịn như ngọc, được làm từ “Bích Tư” nối tiếng ở Bích quốc.
Còn nàng lại tùy ý ném một chén rượu trong đó xuống hồ. “Choang”, chiếc chén rơi xuống nước, chạm phải lưu ly, phát ra âm thanh giòn tan, khó mà tả thành lời.
Nàng nhướn mày, lại cầm một chiếc lên, lại ném xuống hồ. Nhất thời, giữa đại điện chỉ nghe thấy từng tiếng từng tiếng nước dập dềnh, rõ ràng dứt khoát quyết liệt, nhưng lại thê lương ai oán.
Nàng nghe thấy âm thanh đó, nhìn những mảnh sứ xanh từ từ chất đống lên ở đáy hồ, gương mặt trắng muốt như y phục ấy trước sau luôn hiện lên một vẻ chán ghét. Mà cảnh tượng ấy lọt vào trong mắt Chiêu Doãn, trong phút chốc, trên gương mặt y xuất hiện chút xúc động ý loạn tình mê.
Y bước tới, một tay kéo tay nàng, sau đó ôm nàng vào trong lòng, gọi khe khẽ: “Hy Hòa…”. Hai tiếng thốt lên, âm thanh trầm trầm, ma mị, lại quyến luyến không tả xiết.
Hy Hòa không quay đầu lại, vẫn hướng ánh nhìn về phía những mảnh vỡ dưới đáy hồ, nhạt nhòa mà lạnh lẽo.
Chiêu Doãn vùi đầu vào hõm cổ nàng, khẽ than: “Nàng lại trút giận lên những vật chết này rồi…”.
Khóe miệng Hy Hòa nhếch lên, uể oải nói: “Chẳng phải rất tốt sao? Xưa có Hỷ Muội xé lụa, nay có Hy Hòa ném chén, xưa có Đát Kỷ lấy rượu làm ao, treo thịt làm rừng, nay có Hy Hòa lấy gốm làm ao, lưu ly làm cung. Duy chỉ có như thế, mới có thể xứng với hai chữ ‘yêu phi’ chẳng phải vậy sao?”.
Chiêu Doãn xoay người nàng lại, nhìn thẳng vào nàng, mỉm cười: “Nàng tự so mình với Hỷ Muội, Đát Kỷ, lẽ nào nàng muốn trẫm làm Hạ Kiệt, Thương Trụ?”.
Hy Hòa trấn tĩnh nhìn trả y, rất lâu sau mới quay mặt sang chỗ khác, hờ hững nói: “Hoàng thượng nếu muốn làm Hạ Kiệt, Thương Trụ, cũng phải có bản lĩnh đó mới được, nay người tay không thực quyền, đâu đâu cũng bị quyền thần khống chế, nào có uy phong của Hạ Kiệt, Thương Trụ?”.
Bị nàng chế nhạo như thế, Chiêu Doãn không những không giận, ngược lại bật cười, ôm nàng chặt thêm mấy phần: “Hy Hòa ơi Hy Hòa, thế nhân chỉ biết trẫm yêu dung mạo của nàng mà không biết, thứ trẫm thực sự thích chính là tính cách cay độc tuyệt tình của nàng, không để cho người khác có đường lùi, cũng không cho mình đường lui. Những lời này nếu truyền ra ngoài, e rằng có đến mười cái đầu cũng phải mất”.
Trên mặt Hy Hòa vẫn không chút biểu cảm như cũ: “Mất thì mất đi, dù sao cũng đâu phải lần đầu tiên hoàng thượng hy sinh thần thiếp”.
Chiêu Doãn khẽ than: “Hy Hòa, thời cơ chưa tới. Trẫm đảm bảo với nàng, rất mau thôi, rất mau sẽ có thể giúp nàng giải được mối hận bị rơi xuống nước”.
Hy Hòa nghe xong, bỗng nhiên tươi cười, dung nhan nàng vốn xinh đẹp tuyệt trần, nhưng hễ mỉm cười liền biến thành một vẻ yêu kiều tà mị không thể tả thành lời, giữa mày mắt lộ phong tư tuyệt trác, thần sắc uể oải, khiến người ta nhìn mà hồn xiêu phách lạc.
“Hoàng thượng thật là giỏi tính toán, lại đem chuyện này đổ lên đầu thiếp, đến lúc đó nếu Tiết gia bị diệt tộc, trăm họ nhắc đến, chắc chắn sẽ nói là do thiếp hại, xem ra cái danh ‘yêu phi’ của thần thiếp, thực sự là không làm không được”.
Chiêu Doãn chăm chú nhìn nàng, trong ánh mắt lộ vài phần bi thương: “Trẫm biết nàng thiệt thòi rất nhiều…”.
Hy Hòa đáp lại bằng một tiếng cười nhạt.
Chiêu Doãn không đếm xỉa đến tiếng cười châm biếm của nàng, tiếp tục nói: “Cho nên, trẫm sẽ bù đắp cho nàng những chuyện khác. Có những chuyện, chỉ cần nàng cảm thấy vui, trẫm đều sẽ làm theo ý nàng”.
“Ví dụ như cung lưu ly này, đầm ngọc vỡ này?”.
“Còn có…”, Chiêu Doãn ngừng lại một lát, mỗi chữ đều nhả ra rất chậm, “Khương Trầm Ngư”.
Hy Hòa ngẩn ra, quay đầu lại nhìn y, bóng hai người in trong mắt nhau lay động, mơ hồ thành sóng nước lăn tăn.
Ngày hôm sau, trong cung truyền lời, đòi Khương Trầm Ngư tiễn cung dạy Hy Hòa phu nhân chơi đàn.
Toàn bộ Khương gia đều không thể lý giải được điều này, không rõ chuyện này sao lại rơi lên đầu Trầm Ngư. Theo lý mà nói, phi tử muốn học đàn, tự mình có thể mời sư phụ của Thiên Nhạc Thự(2) dạy cho, nếu không, tìm cung nữ biết chơi đàn trong cung, có thế nào cũng không đến lượt con gái của hữu tướng. Hy Hòa này nổi tiếng kiêu ngạo ngang ngược, dạy nàng ta chơi đàn, hễ không cẩn thận, chuốc họa vào thân dễ như bỡn.
Khương phu nhân nghĩ rất lâu, nói: “Trầm Ngư, hay là con giả bệnh đi?”.
Tẩu tẩu nói: “Đúng thế, hay là tìm một lý do từ chối đi, chuyện này tuyệt đối không thể nhận được”.
Đến Khương Trọng cũng nói: “Chuyến này e rằng nguy hiểm, vẫn không nên đi thì hơn”.
Nhưng cuối cùng Khương Trầm Ngư lại cười nhạt, nói: “Cha, mẹ, tẩu tẩu, Hy Hòa phu nhân truyền triệu con, chắc chắn trong lòng đã ra quyết định, cho dù chuyến này con giả bệnh từ chối, lần sau phu nhân vẫn sẽ mượn cớ khác tìm con, là phúc không phải họa, là họa tránh không nổi. Cho nên, con quyết định rồi, con đi. Bởi vì con cũng rất muốn biết, rốt cuộc nàng ta muốn làm gì”.
Như thế, ngày hôm sau Khương Trầm Ngư vào hoàng cung. Kiệu dừng trước Bảo Hoa cung, nàng được cung nhân dìu vào trong đại sảnh, giữa màn lụa trướng điều, Hy Hòa đang ngồi tựa trước cửa sổ im lặng thẫn thờ, ánh nắng phác họa đường viền gương mặt nghiêng nghiêng gần như hoàn mỹ của nàng, mày đậm mi dài.
Không biết tại sao, nhìn lại đau thương như thế.
Hóa ra mỹ nhân kiêu ngạo ngông cuồng này cũng biết đau thương.
Khương Trầm Ngư nhún người thi lễ.
Hy Hòa quay đầu lại, sóng mắt trong veo mang theo ba phần kinh ngạc, ba phần thăm dò, ba phần xét đoán, xen lẫn một phần cay đắng, nhìn nàng, nhìn nàng thật kỹ, cuối cùng thở dài một tiếng.
Sau đó, Hy Hòa cách dăm ba hôm lại truyền Khương Trầm Ngư vào cung dạy đàn, tiếng là dạy đàn, nhưng thực chất Trầm Ngư chỉ phụ trách đàn, nàng phụ trách nghe, cơ bản không hề nói chuyện.
Khương Trầm Ngư cảm thấy Hy Hòa đang quan sát mình, nhưng không rõ nguyên nhân, vì thế chỉ có thể cố gắng hết sức cẩn thận lời nói, cử chỉ.
Trong khoảng thời gian này, Hoàng Kim Bà không hề nuốt lời, quả nhiên đã đem được canh thiếp của Cơ Anh trở về. Canh thiếp bằng giấy màu tím nhạt, có in hoa văn màu bạc, hình vẽ vẫn là Bạch Trạch. Ngoài bát tự ra, phía trên còn viết một vế đối: Anh quân tử hoa, triêu bạch ngọ hồng mộ tử, ý nan vong nhất dạ thính xuân vũ.
(Hoa Anh quân tử, sáng trắng lửa đỏ chiều tím, lòng khó quên một đêm nghe mưa xuân.)
Chữ phóng khoáng như người, thanh tú lạ thường.
Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, đổi lại như sau: Ngu mỹ nhân thảo, thanh xuân hạ lục thu hoàng, vu trung hảo lục thái kết đồng tâm.
(Cỏ Ngu mỹ nhân, xuân xanh hạ lục thu vàng, đẹp bên trong sáu màu kết đồng tâm.)
Hoàng Kim Bà tấm tắc khen rằng: “Không hổ là Khương tiểu thư, đối rất hay, đối rất tuyệt!”.
Tẩu tẩu cười nói: “Hoa Anh quân tử này của y có(3) lồng chữ “Anh” vào; Trầm Ngư lại đối lại cỏ Ngu mỹ nhân, lấy được âm “Ngư” , đúng là đối rất hay!”.
Mọi người cười nói một hồi rồi tản đi. Khương Trầm Ngư về tới khuê phòng, lại bắt đầu rầu rĩ. Vế đối này của công tử dường như có ý khác, bỏ qua nửa câu đầu không nói tới, “ý nan vong” đó là ý gì? Còn hai chữ “mộ tử” ẩn dụ không tốt lành, thực sự khiến người ta nghĩ mãi mà không hiểu nổi.
Nhưng nàng cũng chỉ có thể tự trăn trở trong lòng, không dám nói với mẫu thân. Nhưng đêm nay trời chuyển lạnh, tuyết rơi dày, ngày hôm sau, nàng đến hoàng cung dạy đàn, mới bước vào Bảo Hoa cung đã nghe thấy cung nữ nói phu nhân bị bệnh rồi.
Một cung nữ tên là Vân Khởi dẫn nàng vào trong, trong phòng đốt lò sưởi, trong không khí có mùi thuốc nhàn nhạt. Trong trướng gấm thất bảo, Hy Hòa ngồi trong chăn, sắc mặt trắng bệch, nhìn khá là yếu ớt.
Nàng vốn muốn cáo từ, nhưng Hy Hòa lại nói: “Ngươi đến rất đúng lúc.
Ngươi có biết đàn bản ‘Thương giang dạ khúc’ không?”.
Khương Trầm Ngư ngẩn người một lúc, đáp: “Có ạ”. Rồi lập tức gẩy đàn.
Tiếng đàn thánh thót, như Trường Giang chảy xiết, kéo dài đến ngã giao Từ Chiết, bỗng một trận mây ập tới, mưa lớn dâng tràn, sóng sông ầm ào, dấy lên hàng ngàn con sóng lớn. Trong màn đêm trời nước một màu, mây mù bao phủ, một con rồng xanh từ trong mây lao vào biển lớn, cuộn mình uốn lượn.
Cổ khúc này sôi sục cuộn trào, lại rất trọng tiểu tiết, nhưng nàng chậm rãi khẽ gẩy, quen tay đàn lên, lại không hề tốn sức.
Hy Hòa vừa nghe vừa nhìn, mắt bắt đầu ngân ngấn, cuối cùng đã rơi lệ.
Khương Trầm Ngư cả kinh, phút phân tâm, dây đàn đột nhiên đứt đoạn, nàng vội vàng quỳ xuống mà rằng: “Trầm Ngư đáng chết, xin phu nhân thứ tội!”.
Hy Hòa không nói lời nào, chỉ là vẫn cứ nhìn nàng, trong ánh mắt dường như ẩn chứa nỗi niềm thê lương vô hạn, cuối cùng toàn thân đột nhiên run lẩy bẩy, phun ra máu tươi.
Không sai không lệch, toàn bộ đều phun trúng lên mặt nàng.
Cung nhân bên cạnh kinh hãi kêu lên: “Phu nhân! Phu nhân người sao rồi!”.
Hy Hòa ngã về phía sau, lập tức mê man. Mà Khương Trầm Ngư máu tươi đầy đầu đầy mặt, sợ đến không biết mình đang ở nơi nào.
Sao lại như thế này?
Những chuyện phát sinh sau đó giống như một vở kịch, còn nàng quỳ trên mặt đất, trơ mắt xem vở kịch đó, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, cảm nhận được một sự rối loạn tột độ.
Trước tiên là Vân Khởi gọi thái y, tiếp theo hoàng đế cũng đến, căn phòng nhỏ trong chốc lát có bao người vây quanh, mùi thuốc nồng nặc nặng nề sộc tới, khiến nàng cảm thấy gần như nghẹt thở.
Bên tai có rất nhiều tiếng nói, loáng tháng nghe rõ được mấy tiếng: “Bệnh này kỳ quái… e rằng tính mệnh đáng lo… vi thần bất tài…”. Trong tầm nhìn của nàng, vô số vạt áo bay qua bay lại, sắc vàng là hoàng đế, sắc đỏ xanh chàm lam là phi tử màu tím nhạt là cung nhân, cuối cùng, đột nhiên xuất hiện một sắc trắng.
Đồng thời, bên ngoài có người truyền: “Kỳ Úc hầu tới…”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, cách bức rèm lụa thêu tranh mỹ nhân, nàng nhìn thấy Cơ Anh đang quỳ ở gian ngoài, áo trắng rõ ràng, tựa như cứu tinh. Vành mắt nàng hoe đỏ, giống như một người ngã xuống nước nhìn thấy một cây gỗ nổi, toàn thân đều run rẩy, nhưng dù trong cơn run rẩy lại biết rất rõ, bản thân sẽ không xảy ra chuyện gì.
Chỉ cần chàng đến, nàng tuyệt đối sẽ không xảy ra chuyện gì.
Chiêu Doãn quay người, trên mặt lộ vẻ an tâm, cất cao giọng nói: “Kỳ Úc, ngươi đến thật đúng lúc, lũ thái y bỏ đi này không có tên nào nhìn ra Hy Hòa bị mắc bệnh gì, ngươi mau đến xử lý, trẫm muốn tước hết chức vị của bọn chúng!”.
Cơ Anh vẫn trấn tĩnh, ngữ điệu không gấp không chậm, giọng nói cũng không cao không thấp, nhưng lọt vào tai lại khiến người ta cảm thấy dễ chịu không thể tả xiết: “Xin hoàng thượng bớt giận. Vi thần nghe tin phu nhân bị bệnh liền vội vã tới đây, hơn nữa, còn dẫn theo một vị thần y cùng đến”.
Chiêu Doãn sáng mắt lên: “Mau tuyên!”.
Một người áo xanh theo sau La Hoành bước vào, quỳ xuống bên cạnh Cơ Anh: “Thảo dân Giang Vãn Y, tham kiến bệ hạ!”.
Một lão thái y trong phòng toàn thân chao đảo, gương mặt đầy vẻ kinh ngạc.
Chiêu Doãn nói: “Ngươi là thần y?”.
Người áo xanh đáp: “Thần y là do hương dân mến gọi, không dám tự xưng”.
“Nếu như ngươi có thể chữa khỏi bệnh của Hy Hòa, trẫm sẽ ban tặng ngươi danh xưng thần y! Mau mau vào đi”.
Người áo xanh tên Giang Vãn Y đó vâng một tiếng, khom mình tiến vào, bắt đầu bắt mạch cho Hy Hòa. Từ góc nhìn của Khương Trầm Ngư, chỉ thấy hắn ngũ quan đẹp tựa tiên nữ, toàn thân trên dưới toát lên một khí chất nho nhã, không giống đại phu mà giống thư sinh hơn.
Còn lão thái y bên cạnh nhìn hắn, vẻ mặt càng thêm hoảng sợ bàn tay giấu trong tay áo run rẩy không ngừng.
Giang Vãn Y ngẩng đầu, mỉm cười với ông ta: “Phụ thân, đã lâu không gặp, gần đây người có khỏe không?”.
Lão thái y dường như bị tắc thở trong lồng ngực, hoàn toàn không nói nổi nên lời, còn những người khác kinh ngạc, không ngờ thần y mà Kỳ Úc hầu mời tới lại là con trai độc nhất của đề điểm thái y viện Giang Hoài.
Nghe lời hắn vừa nói thì dường như cha con đã nhiều năm không gặp mặt, mà nay tái ngộ lại lạ lùng như thế, càng khiến người ta đoán không ra nội tình.
Chiêu Doãn chẳng thèm để ý quan hệ phức tạp bên trong, chỉ cuống quýt hỏi: “Thế nào thế nào? Hy Hòa rốt cuộc mắc bệnh gì? Tại sao đột nhiên thổ huyết, hôn mê bất tỉnh?”.
Giang Vãn Y nhíu cặp mày đẹp lại, trầm ngâm không nói.
Chiêu Doãn lại nói: “May ngày trước nàng từng bị phong hàn, mắc chứng trong nóng sốt, ngoài lạnh ngắt…”.
Giang Vãn Y thả tay Hy Hòa ra, đứng thẳng lên hành một lễ, thong thả nói: “Hồi bẩm hoàng thượng, phu nhân không phải mắc chứng hàn tà”.
Bỗng tim Khương Trầm Ngư đập thình thịch, báo hiệu điềm chẳng lành.
Dường như để chứng minh cho cảm giác của nàng, câu tiếp theo của Giang Vãn Y là: “Sự thực là phu nhân đã bị trúng độc”.
“Trúng độc”. Chiêu Doãn chợt biến sắc.
“Vâng, hơn nữa nếu như tại hạ không đoán sai, tên của chất độc này là Sầu Tư. Theo cái tên này, người uống phải thân thể sẽ gầy yếu, nguyên khí tổn thương, ngày càng héo mòn, cuối cùng bệnh nặng qua đời”.
Chiêu Doãn đứng ngây ra hồi lâu rồi cuống quýt hỏi: “Đã biết tên độc, có cách giải độc không?”.
“Hoàng thượng xin hãy an tâm, phu nhân là quý nhân, tự có trời giúp, sẽ bình an qua được kiếp nạn này, chỉ là…”.
“Chỉ là gì?”.
“Chỉ là phu nhân trúng độc đã sâu, liên lụy đến bào thai trong bụng, cho nên, cái thai này e rằng không giữ được”.
Cả người Chiêu Doãn chấn động nặng nề, giọng run run: “Ngươi nói gì? Nói lại lần nữa cho trẫm”.
Khương Trầm Ngư lo lắng dán mắt nhìn Giang Vãn Y, trong lòng có một giọng nói kỳ quái đang kêu gào: Đừng nói, đừng nói, tuyệt đối đừng nói!
Nhưng hai bờ môi mỏng đang khe khẽ hé ra, hàm răng trắng đóng mở thốt ra những tiếng lạnh lùng: “Hồi bẩm hoàng thượng, phu nhân không những trúng độc, hơn nữa còn có bào thai một tháng, chỉ có điều, nay đã là thai chết lưu”.
Khương Trầm Ngư không kìm được nhắm nghiền mắt, trong chốc lát mồ hôi đổ ra như tắm trong lòng bàn tay, trong đầu có hai chữ không ngừng xoay vòng, đó chính là – hết rồi.
Hết rồi! Hết rồi! Hết rồi…
Tuy nàng không quan tâm thế sự, chán ghét tranh đấu cung đình, nhưng không có nghĩa là nàng hoàn toàn không biết gì. Phi tử của hoàng đế mang thai rồng, lại bị người ta âm thầm hạ độc đến chết, chuyện này chẳng khác nào ngàn vạn tầng sóng vọt tới tận trời, một khi điều tra, tất liên lụy rất rộng. Mà nàng ở thời khắc này, quỳ tại đây, trơ mắt ra nhìn chuyện lớn như vậy phát sinh, như vậy chắc chắn nàng khó mà có thể đứng ngoài chuyện này được nữa.
Trong khoảnh khắc, mưa to gió lớn sắp ập đến, thương thay nàng lại không có mảy may sức chống đỡ.
Khương Trầm Ngư cắn môi, lại chuyển hướng nhìn sang Cơ Anh đang ở ngoài rèm, công tử ơi là công tử, trong chuyện này, chàng đang sắm vai diễn gì?
Quả nhiên, Chiêu Doãn nghe nói giận dữ đùng đùng, đập bàn quát: “Sao lại như thế được! Là ai? Là ai cả gan dám hạ độc ái phi của trẫm! Người đâu, bắt tất cả cung nhân trong Bảo Hoa cung lại, thẩm vấn kỹ càng cho trẫm, nhất định phải làm rõ chuyện này!”.
Lệnh vừa hạ xuống, cung nữ thái giám lập tức quỳ kín đất, tiếng cầu xin không ngớt ập vào tai, nhưng toàn bộ đều bị thị vệ kéo đi. Chỉ có Khương Trầm Ngư vẫn quỳ ở một bên như cũ, không ai ngó đến.
Cuối cùng Chiêu Doãn quay đầu nhìn nàng chằm chằm, hỏi: “Ngươi là ai?”.
“Thần nữ Khương Trầm Ngư”.
“Ngươi là KhươngTrầm Ngư?”. Ánh mắt Chiêu Doãn đảo một vòng trên người nàng, dường như có chút bất ngờ, nhưng rất mau sắc mặt đã nghiêm lại, nói: “Chuyện này không liên quan đến ngươi, ngươi bị kinh sợ rồi, hãy về đi”.
Khương Trầm Ngư không ngờ được hoàng đế thả đi dễ dàng thế, vội vàng khấu tạ, hai chân vì quỳ quá lâu mà cứng đơ không duỗi ra được, mắt thấy mình sắp ngã quỵ thì một cánh tay đưa tới, đỡ nàng đứng vững.
Quay đầu, nàng nhìn thấy công tử.
Cơ Anh nhìn Chiêu Doãn nói: “Hoàng thượng, hãy để vi thần tiễn Khương tiểu thư xuất cung vậy”.
Ánh nhìn của Chiêu Doãn lại quét trên hai người, cuối cùng gật đầu. Thế là, Cơ Anh dìu Khương Trầm Ngư rời khỏi nơi này, từ từ ra khỏi cửa cung.
Trong lòng Trầm Ngư muôn vàn cảm kích, đương muốn mở miệng, Cơ Anh bỗng thả cánh tay nàng ra, nhặt một vốc tuyết trên lan can bên cạnh, chỉ nghe “tách” một tiếng, tuyết tannước, bốc lên hơi nóng nghi ngút. Chàng lại lấy từ trong lòng ra một chiếc khăn tay, thấm ướt nước, vắt khô rồi đưa cho nàng.
Lúc này Khương Trầm Ngư mới nhớ ra vừa nãy Hy Hòa phun máu đầy mặt nàng, mà nàng quỳ suốt từ lúc đó, căn bản không dám lau đi, có thể tưởng tượng dáng vẻ hiện giờ của mình thê thảm thế nào, vậy mà hết thảy đã lọt trọn vào mắt chàng. Nghĩ đến đây, nàng vô cùng xấu hổ, vội vàng đón lấy chiếc khăn. Nhưng một là vết máu đọng đã khô, không dễ lau sạch; hai là ở đây không có gương, không nhìn được chỗ nào dính máu, vì thế cứ luống cuống lau lung tung, ngược lại còn làm cho khuôn mặt vốn đã lấm lem lại càng bẩn thêm, chỗ đó chỗ vàng, nhếch nhác hết chỗ nói.
Cơ Anh khẽ thở dài một tiếng, cầm chiếc khăn ướt trong tay nàng, một tay nâng cằm nàng lên, một tay khẽ lau vết máu cho nàng. Chiếc khăn ướt và những ngón tay chàng chạm vào đâu, da thịt ở đó liền nóng lên, bắt đầu bốc cháy. Nàng vừa hoảng sợ lại vừa lo lắng, nhưng còn xấu hổ nhiều hơn, muốn ngước mắt nhìn chàng, nhưng lại sợ chạm phải ánh mắt chàng, đành cụp mi nhìn vạt áo chàng, trong lòng dần dần dậy lên một mối nhu tình êm đềm.
Chàng thật… dịu dàng.
Chàng… dịu dàng biết bao.
Đời này may mắn biết bao, khiến nàng có thể cùng nam tử dịu dàng này kết mối lương duyên? Bản thân nàng quả thực là có phúc chăng? Khương Trầm Ngư trong lòng ngọt ngào, không kìm được ngẩng lên nhìn mặt Cơ Anh, ai ngờ, cũng chính khoảnh khắc đó, Cơ Anh buông nàng ra, thu tay lại, nói: “Xong rồi”.
Mắt nhìn thấy chàng sắp vứt chiếc khăn đi, Khương Trầm Ngư vội vàng kêu lên: “Đợi đã! Chiếc khăn đó… để ta đem về nhà giặt sạch rồi trả lại công tử!”.
Cơ Anh nói: “Một chiếc khăn tay thôi mà, không cần phiền vậy đâu.” Rốt cuộc chàng vẫn vứt đi.
Trong lòng nàng lạnh giá, giống như có một thứ gì đó đã mất đi cùng với chiếc khăn tay kia. Để xóa tan cảm giác lạ thường đó, nàng đổi chủ đề nói: “Hy Hòa phu nhân cát nhân thiên tướng, sẽ không có chuyện gì… đúng không?”.
Cơ Anh “ừ” một tiếng hờ hững.
Nàng đành nói: “Vừa nãy ta… đúng là rất sợ, phu nhân đột nhiên thổ huyết, ta sợ đến mức không nhúc nhích nổi…”.
Nàng cười ngượng ngập, nói năng lộn xộn, nhưng cuối cùng vẫn chẳng nói tiếp được.
Bối rối làm sao. Có một không khí bối rối khó tả đang bao trùm lấy chàng và nàng, tuy không rõ đó là chuyện gì, nhưng lại loáng thoáng cảm thấy, có chuyện gì đó đã xảy ra rồi.
Chính vào lúc đó, một người cưỡi ngựa từ ngoài điện phi như bay vào, đến trước mặt họ, nhảy xuống ngựa, quỳ gối thưa rằng: “Hầu gia, có chuyện rồi!”. Đó là một đại hán áo xám chạc độ tứ tuần, mày rậm mắt to, tướng tá thô ráp, duy chỉ có đôi mắt là sáng rỡ có thần, trên mắt trái còn xăm một con rồng nhỏ ba móng màu đỏ.
Cơ Anh nhíu mày: “Chuyện gì?”
Đại hán liếc Khương Trầm Ngư mấy cái, tuy có do dự nhưng rồi vẫn nói ra: “Phan Phương đơn thương độc mã chạy đến Tiết phủ làm loạn rồi”.
“Tại sao?”.
“Nghe nói… nghe nói hôn thê của hắn đến Tiết phủ kể chuyện, bị Tiết Túc…
vấy bẩn rồi”.
Cái gì? Khương Trầm Ngư trợn tròn mắt, Phan Phương? Đó chẳng phải là Phan Phương vừa gặp hôm đó sao? Hôn thê của hắn chẳng phải là Tần nương sao? Trời ơi… trời ơi…
Trong mắt Cơ Anh thoáng một tia giận dữ: “Ta lập tức đến Tiết phủ”. Chàng quay sang nhìn nàng, lại bổ sung thêm: “Chu Long, ngươi đưa Khương tiểu thư về hữu tướng phủ”.
Không đợi nàng phản ứng, chàng đã phất trường bào, nhảy phắt lên lưng con ngựa đại hán cưỡi đến, tuấn mã tung vó hí vang một tiếng, phóng đi như bay.
Đại hán tên Chu Long quay sang nàng chắp tay, cung kính nói: “Khương tiểu thư, mời”.
Khương Trầm Ngư tuy rằng lo lắng, nhưng cũng chẳng còn cách khác đành cùng hắn về phủ trước. Về đến phủ, gia nhân thấy nàng ai nấy sắc mặt lạ lùng, dáng vẻ lo lắng kinh sợ.
Nàng đã bị một chuỗi sự việc phát sinh ngày hôm nay làm cho thấp thỏm bất an, lại nhìn thấy thái độ của gia nhân như thế, không kìm được giận dữ, gắt lên: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Ác Du, nói mau!”.
Ác Du run rẩy đáp: “Tiểu thư, giờ Ngọ hôm nay, canh thiếp đặt dưới bài vị tổ tông thần án, đột nhiên, đột nhiên…”.
“Đột nhiên làm sao?”.
Hoài Cẩn thay nàng ta nói tiếp: “Không biết từ đâu một cơn gió lọt vào, thổi đổ đài nến, đốt cháy canh thiếp đó…”. Dứt lời, lay từ phía sau ra một vật, run run đưa ra trước mặt Khương Trầm Ngư.
Thiếp gập màu tím nhạt, đã cháy mất một góc, vừa vặn tách hình Bạch Trạch màu bạc làm hai phần, cũng đốt chữ “Anh” trong “Anh quân tử hoa” cháy thành tro.
Ác Du đứng ở một bên sụt sịt nói: “Tiểu thư, phải làm thế nào bây giờ? Canh thiếp vào nhà ba ngày, nếu có gì dị thường thì coi như không lành, không thể thành hôn…”.
Không thể thành hôn…
Không thể thành hôn…
Bốn chữ này nặng trĩu tựa núi, đè lên đầu nàng, nở to ra vô số lần, quấn lấy hai chữ đã hiện lên không biết bao lần trong đầu nàng ngày hôm nay, bồng bềnh trôi nổi…
Hết rồi…
Đêm đó, Khương Trầm Ngư nhìn ánh đèn trong thư phòng phụ thân sáng trưng, đám ám vệ ra ra vào vào, bóng phụ thân và ca ca in trên cửa sổ, lo lắng bồn chồn bước qua bước lại.
Vừa hay Khương phu nhân dẫn nha hoàn đi qua, nàng vội vàng gọi: “Mẹ”.
Khương phu nhân quay lại, nhìn thấy nàng, dịu giọng nói: “Trầm Ngư, sao vẫn chưa ngủ?”.
“Con không ngủ được”.
Khương phu nhân dỗ dành: “Chuyện canh thiếp ta đã lệnh cho toàn bộ gia nhân không được tiết lộ ra ngoài, còn tìm thợ khéo về sửa nó như mới, con yên tâm, đảm bảo sẽ không nhìn ra dấu vết bị cháy. Con đừng nghĩ nhiều quá, mau ngủ đi”.
Khương Trầm Ngư nhìn đồ ăn đêm nha hoàn bưng trong tay nói: “Có phải mẹ đến thư phòng của cha và ca ca không?”.
Khương phu nhân than: “Họ đang đợi tin tức trong cung đó, đêm nay e rằng không được ngủ, ta làm canh ngọc đới và bánh thủy tinh, phòng ban đêm họ đói bụng”.
“Để con đi cho”. Khương Trầm Ngư vừa nói tay vừa cầm lấy chiếc khay trong tay nha hoàn. Khương phu nhân nhìn dáng vẻ của nàng, biết nàng có điều muốn nói với họ, bèn gật đầu, nói: “Cũng được, vậy để con đem tới đó”.
Khương Trầm Ngư bưng đồ ăn đêm gõ cửa thư phòng, sau đó bước vào trong. Khương Trọng và Khương Hiếu Thành đang ngồi đánh cờ cạnh thư án, ngẩng đầu lên nhìn thấy người bước vào là nàng cũng không cảm thấy bất ngờ. Khương Hiếu Thành nói: “Muội muội tới rất đúng lúc, nghe nói hôm nay lúc Hy Hòa phu nhân thổ huyết muội cũng đang ở đó, mau nói xem rốt cuộc chuyện là thế nào?”.
Khương Trầm Ngư kể lại một lượt từ đầu đến cuối, thật tỉ mỉ cặn kẽ, nhìn thần sắc phụ thân và ca ca càng lúc càng chăm chú, nghiêm trọng, không kìm được hỏi: “Cha, có thể tra ra là ai hạ độc Hy Hòa phu nhân không?”
Khương Trọng cười một tiếng khổ não: “Trọng điểm căn bản không nằm ở ai hạ độc, mà là hoàng thượng hy vọng là ai hạ độc?”.
Khương Trầm Ngư nghi hoặc không hiểu: “Ý của cha là gì?”.
“Muội vẫn không hiểu sao, Trầm Ngư?”. Khương Hiếu Thành đứng bên nói, “Tin mới từ trong cung truyền ra nói hoàng thượng đã giam hoàng hậu vào ngục rồi”.
Khương Trầm Ngư kinh ngạc: “Hoàng hậu? Là hoàng hậu hạ độc? Không thế nào! Không thể nào là hoàng hậu được…”.
“Xem kìa, đến muội còn không tin, trong cung lấy ai tin chứ?” “Cha, chuyện này rốt cuộc là thế nào?”.
Khương Trọng nhìn ván cờ phức tạp trên bàn cờ, vẻ mặt càng trở nên bi thương hơn, lẩm bẩm: “Rốt cuộc là chậm mất một bước… Ôi không, là từ đầu đến cuối, căn bản đã bị ngăn cách với bên ngoài…”.
Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn huynh trưởng cầu giúp, ánh mắt Khương Hiếu Thành cũng ngừng lại trên cục diện ván cờ, thấp giọng nói: “Cha, việc đã đến nước này, chúng ta nên làm gì?”.
“Còn có thể làm gì? Hoàn toàn không có chỗ cho chúng ta nhúng tay”.
“Vậy cứ trơ mắt nhìn như thế sao?”.
“Đúng”. Khương Trọng ngước mắt nhìn tiểu nữ của mình, dưới ánh đèn, dung nhan của Khương Trầm Ngư càng nhìn càng diễm lệ, đó là một kiểu dung mạo xinh đẹp tựa như ánh mặt trời mùa xuân rạng rỡ, thuần khiết không tì vết, chẳng vương chút tang thương, bốn chữ “đại gia khuê tú” được thể hiện trọn vẹn trên mình nàng… Chỉ tiếc là, nghi dung như thế, chất ngọc như thế, lại chẳng có chỗ dùng…
“Trầm Ngư, con về ngủ đi”.
“Cha không nói rõ, con gái không đi”.
“Có một số chuyện, con biết càng ít càng tốt”.
Khương Trầm Ngư đứng ngẩn ra hồi lâu, lại nói bằng một giọng hoang mang lạ thường; “Cha thực sự cho rằng, sự tình đến nước này, con còn có thể đứng ngoài hay sao?”.
Khương Trọng và Khương Hiếu Thành chấn động toàn thân, hai cha con nhìn nhau, cuối cùng vẫn là Khương Hiếu Thành lên tiếng: “Muội muội, muội có biết vì sao chúng ta tích cực vun vén cho hôn sự giữa muội và Kỳ Úc hầu không?”.
Tại sao? Câu hỏi này thực sự quá hay.
Với nàng, vì nàng ái mộ công tử, với mẫu thân, vì mẫu thân cảm thấy Cơ Anh là một người có thể gửi gắm trọn đời; nhưng với phụ thân và ca ca, tuyệt đối không phải ngắm trúng “con người” chàng, mà là quyền thế địa vị của chàng mà thôi.
Từ đó có thể thấy, đàn ông và đàn bà, khi suy nghĩ cùng một sự việc, vốn đã tồn tại sự khác biệt như trời với đất. Nhưng câu này làm sao nàng có thể nói ra miệng?
Thế nên Khương Trầm Ngư chỉ có thể im lặng.
Trong khi nàng im lặng, Khương Trọng thở dài một hơi, thong thả nói: “Tất cả đều biết, Đồ Bích vốn có bốn đại thế gia: Vương, Cơ, Tiết, Khương. Năm xưa, trong cuộc tranh đoạt ngôi vị giữa các hoàng tử, Vương thị phò tá thái tử Thuyên, Tiết thị phò tá đương kim hoàng thượng, còn Cơ gia, năm đó lão hầu gia Cơ Tịch bệnh nặng gần chết, căn bản không có sức mà quản, nhưng hoàng thượng lại mê đắm tài năng của Cơ Hốt, nhất quyết lấy nàng làm vợ. Nghe nói Cơ Hốt ban đầu cũng không đồng ý, sau không hiểu vì sao thay đổi tâm ý, liền gả cho hoàng thượng. Cứ thế đến nay, hoàng đế có Tiết gia chống lưng, lại có Cơ gia tương trợ, cuối cùng đã giành được hoàng vị. Còn Khương gia chúng ta, từ trước tới giờ luôn giữ thái độ trung lập”.
Những lời này tựa như một bàn tay, lật quá khứ lên đồng thời cũng từ từ xóa sạch cục diện hỗn độn trước mắt, Khương Trầm Ngư nhìn thấy có những thứ bắt đầu nổi lên khỏi mặt nước, mỗi một đường vân đều vô cùng rõ ràng.
“Cũng tức là việc hoàng thượng đăng cơ, Khương gia chúng ta có thể gọi là không hề bỏ chút sức lực nào, vì thế, cho dù hoàng thượng sau này tiếp tục nhậm mệnh vi phụ làm hữu tướng, nhưng trong lòng vi phụ, trước sau đều thấp thỏm chẳng yên. Cũng vì duyên cớ này,ba năm trước, vi phụ gấp rút đem Họa Nguyệt tiến cung, một là để biều thị lòng trung của bề tôi, hai là cũng hy vọng Họa Nguyệt được thánh thượng ân sủng, che chở cho cả nhà”.
Tỉ tỉ… đã bị tiến cung như thế ư… vậy mà nàng cứ luôn tưởng rằng, tỉ tỉ ham hư vinh, hiếu thắng, tự mình muốn tiến cung, vì tỉ tỉ đã từng nói: “Phải làm, sẽ làm người trên muôn người; phải gả, sẽ gả làm vợ của đế vương, như thế mới không sống uổng kiếp này!”.
Bàn tay Khương Trầm Ngư chầm chậm nắm chặt trong tay áo, bỗng cảm thấy mình trước đây sao mà ấu trĩ, nực cười biết bao, cho rằng không nghe không nhìn những chyện dối trá lọc lừa là được, cho rằng chỉ cần tự mình trước sau trong sạch là được, lại chưa từng nghĩ, cái gì khiến nàng có thể tiêu dao tự tại như vậy. Đó đều là sự hy sinh của người thân! Sự hy sinh của phụ thân, sự hy sinh của ca ca, sự hy sinh của tỉ tỉ…
“Có điều, Họa Nguyệt tuy được ân sủng nhưng phong hậu lại là điều vô vọng, lại thêm sau khi Hy Hòa xuất hiện, đến một chút ân sủng đó cũng dần dần biến mất. Nghe nói, hoàng thượng đã nửa năm rồi chưa đến Gia Ninh cung”. Khương Trọng nói đến đây lại thở dài, “Nửa năm nay, mâu thuẫn giữa Hy Hòa và hoàng hậu ngày càng gay gắt, nhìn bề ngoài mỗi lần hoàng thượng đều che chở Tiết thị, nhưng ngẫm kỹ, thực ra hoàng thượng bảo vệ Hy Hòa mới đúng, rốt cuộc, hoàng hậu có cả gia tộc ủng hộ, còn người xuất thân bần hàn, chẳng có chỗ dựa như Hy Hòa lại có thể ở trong thâm cung, chẳng mảy may thương tổn, đó chẳng phải là kỳ tích sao? Với suy nghĩ đó, vi phụ bắt đầu âm thầm điều tra, cuối cùng ta đã phát hiện ra manh mối…”.
“Manh mối gì?”.
Khương Trọng thấp giọng xuống, nói từng chữ từng chữ một: “Mâu thuẫn thực sự không phải là giữa Hy Hòa và hoàng hậu, mà là giữa hoàng thượng và Tiết gia!”.
Khương Trầm Ngư tuy chưa từng trải chuyện đời, nhưng cũng là một người sáng dạ, phụ thân nói như vậy, ngay lập tức nàng đã hiểu ra, sau đó lại nhớ lại một lượt những chuyện đã xảy ra, càng nhớ lại càng kinh hãi, cuối cùng không kìm được “a” một tiếng.
“Con cũng nghĩ ra rồi chứ? Tiết thị hùng mạnh khinh chủ, chuyên quyền nắm chính, hoàng thượng đăng cơ bốn năm, nhưng việc gì cũng phải nghe ý kiến của họ, chịu sự khống chế của họ, nếu ngài là một quân vương ngu tối tầm thường thì thôi, nhưng vị chủ tử này của chúng ta xử sự cương quyết mưu lược, lại vô cùng thông minh biết nhẫn nhịn, vì thế, ta đoán rằng, ngài sớm đã có ý đồ trừ bỏ Tiết thị, chỉ là thời cơ chưa tới. Nghĩ thông điểm này rồi, vi phụ liền bắt đầu quan sát trong văn võ khắp triều, ai là người đứng về bên Tiết thị, ai đứng về bên hoàng thượng?”.
“Là công tử…”, giọng nói của Khương Trầm Ngư rất nhẹ, vẻ hoang mang trên gương mặt càng đậm dần.
“Không sai. Phải nói nhìn Tiết thị không thuận mắt nhất, một lòng hướng đến hoàng thượng nhất, đến nay cũng chỉ có Cơ gia”. Khương Trọng chăm chú nhìn con gái của mình, bùi ngùi nói: “Cho nên, vi phụ mới nghĩ phải đem con gả cho Kỳ Úc hầu, để tỏ rõ Khương gia nguyện cùng họ đồng lòng chung sức cùng phò trợ hoàng thượng, chỉ đáng tiếc…”.
Khương Trầm Ngư nói tiếp thay ông: “Chỉ đáng tiếc chậm một bước. Hoàng thượng hẳn đã chuẩn bị ổn thỏa, bắt đầu không chờ đợi nổi muốn động thủ với Tiết gia, mà Hy Hòa trúng độc là bước đầu tiên của cả kế hoạch”.
Khương Hiếu Thành tán thành: “Muội muội quả nhiên thông minh.”
Khương Trầm Ngư tiếp tục phân tích: “Chuyện thánh chỉ rơi xuống nước, người đứng ra điều đình là công tử, nay phu nhân trúng độc, lại là công tử đem người đến tra ra bệnh chứng, cũng tức là công tử và hoàng thượng liên thủ diễn màn kịch bức cung, đầy mũi giáo nhằm thẳng hoàng hậu. Tất cả mọi người đều biết, Hy Hòa và hoàng hậu bất hòa, lần trước chuyện thánh chỉ rơi xuống nước, Hy Hòa nắm thóp của hoàng hậu không chịu buông, làm tổn hại nghiêm trọng đến thể diện của hoàng hậu, cho dù là một người hiền lành đi chăng nữa, cũng sẽ ghim hận trong lòng. Lần này phu nhân hoài thai, người có động cơ hạ độc nhất chính là hoàng hậu!”.
Khương Hiếu Thành xen lời: “Tin tức truyền từ trong cung lúc trước nói, thái giám bên Bảo Hoa cung nhận hối lộ của Tiết gia nên mới hạ độc Hy Hòa phu nhân, hơn nữa nguồn gốc độc dược đã tra rõ, là vú nuôi bên cạnh Tiết hoàng hậu Trình thị đích thân đưa cho hắn, Trình thị đã treo cổ tự vẫn. Hoàng thượng vì thế nổi giận lôi đình, không nói câu nào hạ thánh chỉ, giam lỏng hoàng hậu”.
“Tiết Hoài thấy con gái bị phế, tất sẽ giận dữ, nhưng hiện tại hắn đang trấn thủ quan ải, không thể lập tức quay về, con trai Tiết Túc lại là một kẻ háo sắc bất tài, chắc chắn không phải là đối thủ của hoàng thượng, bị trói bị giam bị giết cũng trong mấy ngày này, có điều cứ như thế này…”. Khương Trầm Ngư bỗng kinh ngạc nói, “Há chẳng phải chủ ý của hoàng thượng không chỉ là làm suy yếu Tiết gia, mà là triệt để ép Tiết Hoài làm phản hay sao?”.
Lời vừa nói ra, cả căn phòng lặng phắc.
Khương Trọng và Khương Hiếu Thành rõ ràng không ai nghĩ đến bước này, nghe xong mặt đều biến sắc. Khương Trọng sững sờ nhìn con gái, kinh ngạc không nói nổi lên.
Khương Trầm Ngư, con gái út của ông, từ nhỏ đã ngoan ngoãn hiểu chuyện. Cầm kỳ thi họa môn nào cũng tinh thông, nữ công gia chánh không thua kém ai, cho dù là vú nuôi, thầy dạy hay là thị tì gia tộc, không có là không khen nó tốt tính. Ông còn nhớ trung thu một năm nọ, khi cả nhà tụ tập ngắm trăng, ông cố ý ra đề thử ba huynh muội: “Các con ai có thể ném chiếc lông vũ này ra xa nhất, ta sẽ thưởng chiếc bánh trung thu thủy tinh này cho người đó”.
Vậy là, ba đứa trẻ dàn hàng ngang, lúc đó Hiếu Thành mười ba tuổi, Họa Nguyệt mười một tuổi, Trầm Ngư chỉ có tám tuổi.
Hiếu Thành từ nhỏ đã là một đứa trẻ ngốc nghếch đầu óc không linh hoạt, ngay lập tức liền ném chiếc lông vũ đi, kết quả chiếc lông vũ đó bay một lúc, bị gió thổi ngược lại về dưới chân Hiếu Thành.
Họa Nguyệt rõ ràng thông minh hơn rất nhiều, nhặt ít bùn lên, bọc quanh chiếc lông vũ, lại ném cục bùn đó xa đến hai trượng.
Lúc đến Trầm Ngư, nó sai người lấy chiếc lồng chim treo trên hành lang, đem lông vũ buộc vào chân con chim Bách Linh, vừa xòe tay ra, con chim kia đã vỗ cánh bay mất.
Không chỉ Hiếu Thành và Họa Nguyệt, tất cả mọi người có mặt đều há hốc miệng, không ngờ một đứa trẻ tám tuổi lại có thể nghĩ ra cách tuyệt diệu đến vậy. Nhưng nó không hề có vẻ kiêu ngạo, chỉ mỉm cười khẽ nói: “Lông vũ vốn được nhổ từ mình con chim ra, trả lại chim mới là chính đạo. Ca ca, tỉ tỉ, chiếc bánh trung thu này chúng mình cùng ăn đi”.
Sư gia trong phủ khi đó liền khen rằng: “Tam tiểu thư thông tuệ hơn người, nhưng càng hiếm có hơn là tấm lòng nhân hậu, tương lai ắt sẽ nên nghiệp lớn”. Còn khi ấy ông lại không hề xem trọng lời nói đó, bởi bình thường đứa con gái út này của ông phần lớn thời gian chỉ yên lặng, không sinh sự, không nổi bật, đến khi nó lớn rồi, thường ngày chỉ thấy dáng vẻ hiền lành, nhu thuận đáng yêu, đâu thể ngờ nó có ánh mắt sắc bén và suy luận chuẩn xác, tinh tường như thế này?
Người đang đứng dưới ánh đèn, sắc mặt bình thản lạnh lùng mà phân tích sự việc rành rẽ, hợp lý này có đúng thực là con gái của ông không?
Khương Trầm Ngư nói: “Hoàng thượng đã dám nhốt hoàng hậu thì sẽ không nương tay, cái đầu của Tiết Túc chắc chắn sẽ bị chém, mà hễ chém đầu Tiết Túc, Tiết Hoài tuyệt đối sẽ không nhẫn nhục, ông ta nắm đại quân trong tay, lại thêm tướng lĩnh dưới trướng xúi giục, rất có khả năng sẽ tạo phản. Chỉ cần ông ta làm phản, hai bên sẽ thành thế nước lửa, chiến tranh là tất yếu, xem ra, kiếp nạn này khó tránh khỏi rồi…”.
Khương Hiếu Thành nghe mà hoảng hốt sợ hãi: “Muội muội, muội đừng dọa t a” .
“Lời của Trầm Ngư tuyệt đối không phải là hù dọa”. Khương Trọng lập tức trấn tĩnh, hỏi: “Vậy theo ý của con, chúng ta nên làm thế nào?”.
“Con chỉ cảm thấy kỳ lạ…” “Kỳ lạ chỗ nào?”.
“Hoàng thượng ép Tiết Hoài làm phản, ắt phải có kế hay để giành phần thắng. Nhưng Tiết Hoài được mệnh danh là thần tướng trăm năm mới gặp, trong tay lại nắm sáu mươi vạn quân Tiết gia, trong triều căn bản không có tướng lĩnh nào có thể địch lại…”. Nói đến đây, nàng nghĩ đến Phan Phương, nghĩ đến lời Cơ Anh nói với Phan Phương ở ngoài quán trà “Bao giờ khởi chiến, tất sẽ có chỗ dùng huynh”, trong lòng càng thêm khẳng định phán đoán của mình. Công tử sớm đã biết sẽ có đại chiến, cho nên đến tướng lĩnh cũng đã tìm xong trước, tuy nàng không rõ khả năng của Phan Phương thế nào, nhưng có thể khiến công tử hạ mình đích thân đi tìm như thế, ắt hẳn không tầm thường. Chỉ là, so với Tiết Hoài, Phan Phương vẫn còn quá non nớt, hoàng thượng chắc chắn sẽ không đặt cược vào một con cờ khó định thắng thua như thế, cũng tức là ngài chắc chắn có chiêu ngầm.
Vậy chiêu ngầm của ngài là gì? Nghĩ không ra…
Bấy giờ ngoài cửa có tiếng người khẽ gọi: “Tướng gia”. Khương Trọng thần sắc chấn động, vội đáp: “Vào đi”.
Một đám vệ vội vàng bước vào, quỳ xuống.
Khương Hiếu Thành nói: “Thế nào, sự tình tiến triển sao rồi?”
“Thuộc hạ đã chứng thực, Giang Vãn Y đúng là con trai độc nhất của Giang Hoài. Y thuật của y cũng vô cùng xuất sắc, còn vượt cả cha mình. Nhưng tình cảm cha con rất không thuận hòa, Giang Hoài chỉ mong con trai vào Thái y viện, thay thế vị trí của ông ta, nhưng Giang Vãn Y lại nói một câu ‘Thầy thuốc nên hành nghề giúp đời cứu dân chúng, không cam tâm giam mình chốn thâm cung xu phụ quyền thế’…”.
Khương Hiếu Thành nghe đến đây thì hừ mũi: “Nếu hắn thực sự không phải loại xu phụ quyền thế, vậy sao lần này lại vào cung?”.
Đám vệ không để ý lời châm biếm của Hiếu Thành, tiếp tục vô cảm nói: “Ba năm trước sau khi Giang Vãn Y cãi vã một trận kịch liệt với phụ thân thì bỏ nhà đi, không ai biết y đi đâu, nào ngờ lần này khi xuất hiện, y lại trở thành môn khách của Khương Trọng ra lệnh: “Tiếp tục điều tra. Nhất định phải tra rõ quan hệ giữa hắn và Kỳ Úc hầu”.
Đám vệ vâng một tiếng: “Chuyện thứ hai, Hy Hòa phu nhân sau khi uống thuốc của Giang Vãn Y, mạch đập đã bình ổn, có điều vẫn chưa tỉnh, nếu tỉnh lại thuộc hạ sẽ bẩm báo”.
“Ừ.”
“Chuyện thứ ba, có liên quan đến Tiết Túc”.
Mắt Khương Hiếu Thành sáng lên: “Con quỷ háo sắc đó sao rồi?”. Khương Trọng hừm một tiếng: “Háo sắc, có thể bì với con sao?”.
Bị phụ thân nói vậy, Khương Hiếu Thành lập tức đỏ bừng mặt, bối rối ho vài tiếng. May mà giọng nói của đám vệ đã lạnh lùng, rành rọt cất lên: “Bữa trước Tiết Túc ngắm trúng nữ thuyết thư tiên sinh ở quán trà Tam Hương, gọi nàng ta vào phủ kể chuyện, rượu say thú tính nổi lên, định chiếm đoạt”.
Tim Khương Trầm Ngư run lên, quả nhiên là Tần nương!
Sau khi tận mắt chứng kiến nhân duyên của hai người, nay lại nghe kết cục như vậy, nàng cảm thấy cảnh ngộ của đời người thực sự tàn khốc.
“Nữ tiên sinh đó tuy là quả phụ, chồng mất sớm, nhưng sắp tới chuẩn bị tái giá, vì thế thề chết không chịu phục tùng, cuối cùng cắn lưỡi tự tử. Vị hôn phu của nàng ta biết tin sao chịu để yên, vì thế chạy đến làm ầm ở Tiết phủ, đánh thẳng vào trong, nhưng vì người ít địch nhiều, nên chưa gặp Tiết Túc thì đã bị bắt. Nghe nói lúc Kỳ Úc hầu đến, hắn đã bị đánh đến còn thoi thóp thở”.
Khương Hiếu Thành nói: “Đợi đã, chuyện này liên quan gì đến Kỳ Úc hầu?
Y đến đó làm gì?”.
Nam tử tên Phan Phương đó tuy là đồ tể, nhưng cũng là một môn khách của Kỳ Úc hầu”.
Khương Hiếu Thành cười nói: “Y giỏi thật, môn hạ tay sai kiểu gì cũng có”.
Khương Trọng liền khiển trách: “Nếu con có một nửa bản lĩnh của y, thì cha con cũng không cần chừng này tuổi mà còn lo lắng thế này”.
Khương Hiếu Thành vô cớ bị mắng, không cam tâm, lầm rầm nói: “Sao cha không nói cha không có bản lĩnh, đến một thằng nhãi hơn hai mươi tuổi đầu cũng đấu không lại, còn phải nịnh bợ hắn…”.
Khương Trầm Ngư vội vàng lườm y, Khương Hiếu Thành đành ngoan ngoãn ngậm miệng.
Đám vệ kịp thời nói tiếp: “Khi Kỳ Úc hầu biết chuyện, lập tức từ trong hoàng cung cưỡi ngựa đến Tiết phủ. Tiết Túc nể mặt ngài, không nói câu nào bèn trao trả Phan Phương, nhưng Phan Phương chỉ còn thoi thóp thở, nên Giang Vãn Y không kịp ăn cơm tối đã vội vàng đến phủ hầu gia chẩn trị cho hắn, hiện nay vẫn đang cấp cứu, sống chết chưa rõ”.
Khương Trọng gật đầu: “Đi thăm dò tiếp, hễ có tiến triển, lập tức báoáo”.
Đám vệ khom mình lui ra. Hoa đèn hắt sáng ra hai bên, Khương Trầm Ngư nhìn thế cờ hỗn loạn trên bàn, bỗng cảm thấy mệt mỏi, lại một lần nữa muốn trốn chạy.
Trốn khỏi cuộc tranh giành quyền thế vĩnh viễn không ngừng này.
Thứ muốn trốn tránh hơn nữa chính là mối tình mà chắc chắn nàng sẽ để lỡ trong trận tranh đấu này.
Quốc nạn nổ ra, công tử… sẽ không thành hôn nữa. Mắt rơm rớm lệ, nàng đã sớm nhìn thấy kết cục.
Ít ngày sau, Chiêu Doãn ban chỉ, hoàng hậu thất đức, gây loạn hậu cung, biến làm thứ dân, giam ở lãnh cung – Càn Tây cung.
Đúng như dự liệu của Khương Trầm Ngư, ở quan ải xa xôi, tướng lĩnh trấn thủ Yển Sơn đã truyền về một tin khẩn kinh thiên động địa – Hộ quốc tướng quan Tiết Hoài làm phản rồi.
Tuyết đã ngừng rơi, sương lạnh chưa tan.
Trong hơi thở đã thấy phả hơi trắng. Khương Trầm Ngư nhìn sắc trời đang dần sẫm lại bên ngoài cửa sổ, thở dài thật khẽ.
Ác Du ở bên cạnh nói: “Tiểu thư, trời lạnh lắm, người về phòng đi, kẻo lại đóng băng ở đây”.
Nàng lắc đầu, vẫn chờ đợi ở đại sảnh như cũ. Chờ đến giờ Tuất hai khắc, Khương Trọng và Khương Hiếu Thành mới cùng về, thần sắc hai người rất mỏi mệt, đặc biệt là Khương Hiếu Thành, hai mắt y hõm sâu, vằn những tia máu, dáng vẻ kinh sợ bất an, tay trái còn buộc một miếng vải, xem chừng đã bị thương.
Khương Trầm Ngư vội ra đón: “Cha, ca ca”.
Khương Trọng ra hiệu bảo nàng đi theo, ba người cùng đi vào thư phòng.
“Ca ca, tay của huynh sao vậy?”.
Khương Hiếu Thành nhếch miệng, vô cùng ấm ức: “Hôm nay đi khám xét nhà, bị con chó điên đợp một miếng”.
Khương Trọng nghiêm giọng “hừm” một tiếng: “Sao con không nói con háo sắc lộng hành? Đúng là không biết óc con làm bằng cái gì, lúc gay go này mà còn làm càn, ta thấy vết cắn này vẫn còn nhẹ lắm!”.
Khương Trầm Ngư một lúc sau mới hiểu ra, hóa ra hôm nay Khương Hiếu Thành phụng lệnh đến khám nhà Tiết gia, nhìn thấy một thị tì xinh đẹp, nhất thời nổi lòng háo sắc rờ mó chân tay, kết quả là bị Tiết Thái cắn cho một cái.
Khương Hiếu Thành căm phẫn nói: “Thằng nhãi đó thân mình còn chẳng lo nổi, còn muốn bảo vệ người khác, đúng là nực cười”.
Khương Trầm Ngư cuống lên nói: “Ca ca, huynh làm gì hắn rồi?”
“Cũng không có gì, đá cho một cái, bắt đến thiên lao rồi, nhốt chung với gã cha yêu râu xanh của nó”.
Khương Trọng “hừ” một tiếng: “Con cứ tiếp tục như thế, kết cục cũng không hơn Tiết Túc đâu!”.
Khương Hiếu Thành lập tức giả lả cười: “Sao có thể chứ? Cha con an phận giữ mình hơn cha hắn nhiều, hơn nữa con chỉ muốn sờ mó chút thôi, đâu có định làm gì…”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày, nhưng nàng biết giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, ca ca háo sắc đâu phải ngày một ngày hai, không thể trong chốc lát mà khuyên nhủ được, nên tạm thời bỏ qua không nghĩ nữa, nói sang chuyện quan trọng hơn: “Cha, hôm nay trên triều, hoàng thượng nói gì?”.
“Hoàng thượng đương nhiên là nổi giận lôi đình, còn có thể thế nào nữa? Có một số người vốn muốn nói đỡ cho Tiết gia, kết quả thấy vậy sợ quá, cũng không dám ho he. Tình thế hiện giờ đang nghiêng về phía chủ chiến”.
“Tiết Hoài làm phản thật sao?”.
Khương Hiếu Thành đáp: “Còn giả sao được?”.
“Tin từ Yển Sơn đến không sớm không muộn, mà nhằm đúng lúc này, thật khéo quá đi. Nhưng bỏ đi, làm phản thật hay không đã không còn quan trọng nữa, giờ mọi người đều cho rằng ông ta làm phản rồi, ông hoàn toàn không còn con đường nào khác”. Ánh mắt Khương Trầm Ngư sáng lên, “Thương thế của Phan Phương sao rồi?”.
“Giang Vãn Y kia quả thực cao minh, không những cứu được cái mạng hắn ta, mà qua mấy ngày điều dưỡng, nghe nói đã khỏe lên nhiều rồi”.
“Vậy hoàng thượng đã chỉ định ai làm tướng cầm quân thảo phạt Tiết Hoài?”.
Cha con họ Khương nhìn nhau, vẻ mặt hai người đều trở nên cổ quái, cuối cùng Khương Hiếu Thành liếm liếm môi, chậm rãi nói: “Hoàng thượng ngài… muốn ngự giá thân chinh”.
Khương Trầm Ngư rất kinh ngạc.
Khương Hiếu Thành nói tiếp: “Ta thấy lần này hoàng thượng thực sự u mê rồi, trở mặt với Tiết Hoài cũng đủ rồi, còn định đích thân ra chiến trường, nói ra thì đại bất kính, đây chẳng phải là đi tìm…”, y ngó quanh, tuy chắc chắn không có người nghe lén, nhưng vẫn hạ giọng thật thấp, “tìm cái chết sao? Ai chẳng biết vị chủ tử của chúng ta từ nhỏ thân thể yếu ớt trói gà không chặt, đến cưỡi ngựa còn là vấn đề chứ đừng nói đến thân chinh”.
Về chuyện này Khương Trầm Ngư cũng có nghe qua, nghe nói Chiêu Doãn vì là con của một cung nữ không được sủng ái! Cho nên từ nhỏ đã bị ghẻ lạnh, không người hỏi đến, cho đến năm mười tuổi mới có cơ hội quay về cạnh tiên đế, trước đó đừng nói là học võ công, ngay đến chữ cũng không biết được bao nhiêu. Cũng vì gặp phải c
/27
|