Đại Hưng bắt nguồn từ lưu vực Biện Hà, dòng sông Biện Giang bao la hùng vĩ uốn lượn chia tám vạn dặm giang sơn lồng lộng núi sông thành hai bờ nam bắc. Biện Châu chính là môn hộ của Đại Hưng Giang Nam, thủ ấp thành Biện Hà tọa lạc ở nơi giao nhau giữa sông Biện Giang cùng kênh đào nam bắc, cũng chính là vùng chuyên chở bằng đường thủy của Đại Hưng, trung tâm vận chuyển muối, còn có tên gọi là Hùng Phú quan thiên hạ.
Chạng vạng, mặt trời lặn xuống núi, cửa thành được đóng lại, ngoài thành vẫn đông nghịt dân chúng xếp hàng chờ vào thành như trước. Một gã thiếu niên diện mạo xấu xí nhảy xuống từ xe ngựa, gia nhập đội ngũ vào thành.
Bên cạnh cửa thành, có một bảng cáo thị được dán trên tường, một đám thanh niên trai tráng đang tụ tập dưới bảng cáo thị, chỉ chỉ trỏ trỏ.
Thiếu niên từ trong đội ngũ ngẩng đầu nhìn về nơi xa, không thấy trên bảng cáo thị viết cái gì, nhưng tiếng đám người bàn tán lại lọt vào tai.
“Trước kia triều đình chiêu binh, phần lớn đều ở phương bắc, sao hiện tại lại xuống Giang Nam chiêu binh?”
“Có lẽ là mấy năm liên tục triều đình chiêu binh ở phương bắc, dân chúng kêu ca nhiều. Giang Nam không có chiến sự, thuỷ quân lại không giỏi chiến đấu trên ngựa, cho nên mới phải chiêu tân binh đi tây bắc.”
“Ôi! Lại là chiến sự. . . Đầu năm Mạc Bắc Hồ Lỗ đánh biên ải Tây Bắc của ta, Nguyên đại tướng quân dẫn Tây Bắc lang quân phòng thủ núi sông, nay đã có mấy vạn tướng sĩ máu nhiễm sa trường! Quốc nạn xuống đầu, triều đình yết bảng chiêu binh, bệ hạ lại ngồi trên thuyền rồng Đại Hưng, bố cáo tuyển-nam-phi, hàng đêm trong cung. . .”
“Suỵt! Mau câm miệng! Ngươi không muốn sống nữa sao?”
Lúc này người nọ mới nhận ra lỡ lời, cuống quýt liếc mắt nhìn bốn phía, thấy quan quân coi giữ cửa thành đang vội vàng xem xét lộ dẫn cùng văn điệp thân phận của dân chúng vào thành, không chú ý đến bên này, mới nhẹ nhàng thở ra, câm miệng không dám nói nữa.
Xa giá hiện nay đang ở ngay trong thành Biện Hà, điều này đối với dân chúng Đại Hưng mà nói cũng không phải chuyện ngạc nhiên.
Đại Hưng đến nay đã được sáu trăm năm, thiên hạ lấy Biện Châu làm căn cơ. Sau khi hoàng đế cao tổ đặt Thịnh Kinh làm kinh đô, ban chỉ dựng hành cung ở thành Biện Hà, sau đó các đời đế vương đều có thông lệ đến hành cung thành Biện Hà ở lại.
Có điều đương kim Thánh Thượng thường xuyên đến, thời gian ở lại cũng lâu hơn.
Đế vương các đời đều thích tháng ba đến hành cung, yên hoa tam nguyệt, Giang Nam xuân mỹ, thứ nhất có thể thưởng thức cảnh đẹp, thứ hai có thể tránh được giá lạnh ở Thịnh Kinh. Đương kim Thánh Thượng lại thích tháng sáu, Thánh Thượng ở hành cung ít nhất là nửa năm, tháng chạp mới trở lại Thịnh Kinh, hàng năm đều như vậy.
Giang Nam tháng sáu nắng nóng, Thịnh Kinh tháng chạp giá lạnh, nghe nói hàng năm người trong cung theo xa giá xuôi nam lên phía bắc đều phải chết hơn một đám.
Hành vi như thế rất có xu thế của một hôn quân, mà sự thật cũng đúng như thế.
Đương kim Thánh Thượng là cháu trai của tiên đế, ngai vàng vốn không đến phiên hắn ngồi.
Nhưng tết nguyên tiêu mười tám năm trước, trong triều sinh biến.
Tiên đế băng hà ở trong cung, tả tướng Nguyên gia cùng phụ quốc Nam Đồ liên thủ với nhau phát động cung biến, đổ tội danh hành thích vua cho Tam vương, Thất vương, trảm đầu hai người ngay trong cung yến, tàn sát cung thành.
Người hành thích thật giả không biết, chỉ biết tiên đế vốn có chín người con trai, ngôi vị hoàng đế đấu tranh kịch liệt, sau đêm cung biến đó, chỉ còn Ngũ vương và Lục vương. Ngũ vương yếu ớt từ nhỏ, thường xuyên đổ bệnh, cũng chỉ có một vị công chúa. Lục vương đớn hèn, tửu sắc thành tính, không thể làm vương. Nguyên quý phi liền gọi con trai trưởng của Lục vương vào trong cung, nuôi nấng dưới gối, gắng sức dạy dỗ thành đế vương, cũng chính là đế quân Đại Hưng hôm này – Bộ Tích Hoan.
Bộ Tích Hoan sáu tuổi đăng cơ, Nguyên gia phụ chính, hắn từ nhỏ đã có tính tình hoang đường không kiềm chế nổi, tuổi càng lớn càng biểu hiện rõ, phóng đãng vô đạo.
Nghe nói mười ba tuổi hắn đã nạp cung phi, cả ngày đắm chìm vào thanh sắc với hậu cung, chỉ qua một mùa hạ, tám vị cung phi chết năm; mười lăm tuổi lại quay sang yêu thích nam phong, bố cáo tìm tuấn mỹ nam tử khắp thiên hạ, làm phong phú thêm cho hành cung ở Biện Hà; mười bảy tuổi dựng thuyền rồng, hàng năm về sau dẫn hơn một ngàn nam phi du ngoạn sông Biện Giang. Nước sông bao la hùng vĩ, thuyền rồng xa hoa, ven đường sáo trúc không dứt, các châu phủ tiếp đãi xa giá vô cùng tốn kém, một ngày chi phí vạn kim.
Trong dân gian có bài đồng dao —— “Ngọc thông mã, cửu hoa xa, ai thương binh sĩ nhan như ngọc. Thuyền rồng hưng, thúy hoa tinh, sông lớn một ngày mười vạn kim.” Nói chính là đế vương xa hoa lãng phí, hoang đường vô đạo.
Nhưng dân gian còn có bài đồng dao —— “Kỵ binh hí, thương bạc xoay, giáo ngang đại mạc chấn động Hồ Lỗ. Viên môn hưng, giáp vàng rung, mười năm thủ biên anh hùng lang.” Nói chính là chủ soái của Tây Bắc quân, Nguyên Tu.
Nguyên Tu là con trai trưởng của Thái hoàng thái hậu đương triều, khát vọng không dừng lại ở triều đường.
Mười lăm tuổi hắn tòng quân, trong một trận chiến một mình một ngựa xông về phía địch lấy thủ cấp Nhung vương giữa vạn quân, một trận chiến danh chấn thiên hạ! Mười bảy tuổi dẫn tám ngàn tinh kỵ tập kích bất ngờ nha trướng của Lặc Đan, diệt sạch ba vạn kỵ binh của Lặc Đan, giết chết đại tướng quân; mười tám tuổi chỉnh đốn lại biên phòng Tây Bắc, thành lập Tây Bắc quân; hai mươi tuổi nhậm chức đại tướng quân của Tây Bắc quân, luyện binh khắc nghiệt, quân kỷ nghiêm minh, được dân chúng Tây Bắc vô cùng kính yêu.
Mười năm qua, Nguyên Tu lĩnh Tây Bắc quân phòng thủ Tây Bắc, chưa từng về kinh một ngày.
Mười năm qua, Ngũ Hồ thiết kỵ của cao nguyên Mạc Bắc, chưa một ngày bước chân được vào biên giới Đại Hưng.
Hai mươi vạn tinh quân của biên quan Tây Bắc được xưng là Tây Bắc lang, cũng chính là bức tường sắt của biên quan Đại Hưng. Ba năm trước đây, Nhung Nhân xâm nhập Đại Hưng, Tây Bắc quân đánh mười ba trận thắng mười ba, trảm năm vạn thủ cấp của Hồ Lỗ, treo đầy tường thành biên quan. Bão cát đại mạc đến nay vẫn chưa che được vết máu trên tường thành năm đó.
Ba năm nay, biên quan ít có chiến sự, Mạc Bắc an phận thủ thường. Nhưng không biết vì sao, đầu năm này, Nhung Nhân, Địch Nhân, Ô Na Lặc Đan, Nguyệt Thị Ngũ Hồ vốn không hề hòa thuận với nhau lại đột nhiên liên thủ, góp ba mươi vạn đại quân đánh bất ngờ biên quan Tây Bắc, chiến sự biên quan căng thẳng, triều đình vội vã chiêu binh.
Nay, Hồ Lỗ xâm phạm biên giới, máu tướng sĩ Tây Bắc đang nhiễm đỏ sa trường, đế vương lại ở hành cung tìm hoan mua vui, khó trách dân chúng kêu ca ai thán.
Có điều, có căm giận thế nào khi đến thành Biện Hà này cũng phải câm miệng, nuốt oán khí vào trong bụng.
Mộ Thanh đối với quốc sự lại không có bao nhiêu oán khí, nàng là một linh hồn đến từ tương lai, cho dù tại vương triều phong kiến này sinh hoạt mười sáu năm, nhưng vẫn chưa có cái gì gọi là lòng trung thành. Nàng sinh ra là tiện tịch, nếu không có chút bản lĩnh, đúng là còn không bằng được dân chúng bình thường. Giai cấp thống trị cách nàng quá xa xôi, những chuyện thiên hạ nghe đồn bực này, ngay cả nghe nàng cũng không có nhiều hứng thú.
Chuyện quốc gia, chuyện thiên hạ, đều có người quan tâm, không tới phiên tiểu dân như nàng để ý, nàng quan tâm chuyện nhà là đủ rồi.
Năm đó, trong thành không có bà vú nào nguyện ý nuôi nấng nàng, nếu không có cha kiên trì, nàng căn bản không có cơ hội trưởng thành trong thời đại này. Cha nuôi nàng khôn lớn, nàng sẽ dùng cả đời này để phụng dưỡng người sống quãng đời còn lại.
Về phần mười tám năm trước trong triều đã xảy ra chuyện gì, mẹ nàng có thân phận gì, nàng cũng không có hứng thú quan tâm.
Mộ Thanh giương mắt nhìn phía cửa thành, phía trước vốn là đội ngũ thật dài nay chỉ còn mấy người, rất nhanh sẽ đến lượt nàng. Nàng cụp mắt, đổi lại thành bộ dạng khờ ngốc nhát gan, khi nhìn đến tên trong văn điệp thân phận của nàng, biểu tình của tên quân coi giữ cửa thành quả nhiên có chút phức tạp, nhưng cũng không còn điểm gì khác thường nữa thế nên để nàng vào trong thành.
Mặt trời sắp khuất hẳn, ánh chiều tà đỏ ối loang lổ mặt sông, thành Biện Hà nguy nga tráng lệ trong tà dương. Trời chưa tối hẳn, trong thành đã lên đèn khắp nơi, tảng đá dài trên đường cũng nhiễm ánh đuốc rực rỡ, như thiên hà rơi xuống nhân gian. Đêm chưa đến, trên đường đã nghe thấy tiếng ca réo rắt trên các thuyền hoa, trà lâu tửu quán, tiếng hò hét trong những phường bạc vang ra ầm ĩ, hương trà, hương rượu, hương son phấn kéo dài khắp phố, nam tử qua lại vạt áo dài như gió, quần hoa của nữ tử uyển chuyển thướt tha, dần mở ra một bức tranh sáng lạn, sáu trăm năm cổ thành phồn hoa.
Mộ Thanh lần đầu tới thành Biện Hà, nhưng không bị lạc đường, nàng đứng ở cửa thành nơi đó một lúc lâu, đem bố cục trong thành thu vào tầm mắt, sau đó đi thẳng đến thành tây.
Các cửa hàng của thành tây san sát, hàng rèn, hàng trang sức, hàng tơ lụa, tiền trang tư nhân (tiền trang tư nhân: giống như ngân hàng tư nhân ở hiện đại) chia ra làm mấy dãy phố, người đi lại mua bán trên đường náo nhiệt phi phàm, nhưng con phố cuối cùng trên đường có chút vắng vẻ. Mộ Thanh đi về phía đó, đầu phố treo mấy chiếc đèn lồng trắng, những tấm biển được chiếu sáng dưới ánh đèn đều là cửa hàng quan tài. Mộ Thanh bước qua mấy cửa hàng quan tài đó, chân không ngừng nghỉ, thẳng đến cuối phố.
Cuối phố, gần đến tường thành, một tòa quan nha đóng chặt cửa, ngay cả đèn lồng trước cửa cũng chưa thắp, ban đêm khí lạnh âm u, theo ánh sáng mỏng manh từ đèn lồng của mấy cửa hàng quan tài phía trước chiếu lại mới miễn cưỡng đọc được chữ viết trên tấm biển lớn —— nghĩa trang.
Nghĩa trang này không phải nghĩa trang của dân chúng, mà là nơi chuyên môn đặt người chết. Thi thể trong nghĩa trang này, phần lớn là để người chết chờ nhập liệm, cũng có thể là người chết tha hương chờ người nhà vận về an táng. Trong đó, những xác chết quan phủ muốn xem nghiệm nhưng ngại đặt ở nha môn có mùi cũng sẽ đưa đến đâyđể cho ngỗ tác đến nghiệm xem.
Nói thẳng ra, nghĩa trang này chính là nhà xác.
Nửa tháng trước, cha phụng theo công văn của thứ sử đến thành Biện Hà khám nghiệm tử thi, cho nên nàng đến nghĩa trang tìm người là hợp lý nhất.
Nghĩ thế, Mộ Thanh tiến lên gõ cửa.
Một lát, cửa mở, đi ra là một lão đầu lưng còng, bộ dạng như vừa thức dậy, thấy Mộ Thanh thì mang vẻ mặt kinh ngạc.
“Lão tiên sinh, ta tới tìm người. Xin hỏi ngỗ tác của huyện Cổ Thủy – Mộ Hoài Sơn Mộ lão, có ở bên trong hay không?” Mộ Thanh biết vì sao người này kinh ngạc, đường này ít có người lui đến, không có việc tang lễ thì ai đi qua cũng ngại xui xẻo, người đến nghĩa trang lại càng hiếm. Cho dù có người đến cũng là vào ban ngày, buổi tối ngoại trừ ngỗ tác thực sự không có người dám đến.
Nhưng nàng chính là ngỗ tác, ngỗ tác hai đời, người khác sợ tử thi, nhưng nàng đã thấy đủ loại, nào còn chuyện sợ hãi.
Mộ Thanh vẫn đang dịch dung cho nên nói thẳng ý đồ đến.
Lão đầu lưng còng nghe vậy thì sắc mặt bỗng nhiên thay đổi, ánh mắt trong đêm tối có vẻ khó hiểu, không đợi Mộ Thanh nhìn kỹ, đã gật đầu nói: “Thì ra là tìm đến Mộ lão, vào đi, người đang ở bên trong.”
Dứt lời, xoay người đi vào, Mộ Thanh đi theo phía sau lão đầu, thấy trên tay hắn cầm đèn lồng trắng, bóng dáng ở trong đêm tối tỏa ra vài phần âm khí.
“Là người nhà Mộ gia thuê ngươi tới đúng không?” Giọng nói của lão đầu xuyên qua bóng lưng truyền đến, vừa đi vừa nói, “Tiểu tử ngươi cũng thật lớn mật, buổi tối còn dám đến nghĩa trang khiêng thi thể.”
Mộ Thanh sửng sốt, vẻ mặt sửng sốt hiếm khi thấy được vẫn chưa phục hồi lại.
Lão nhân kia tiếp tục đi về phía trước, “Sao chỉ đến một người? Mộ gia không thể thuê thêm nữa à? Ta nói cho ngươi biết, một người không thể nào khiêng thi thể được, chỉ có thể dùng lưng cõng, nếu như ngươi chịu được mùi kia.”
Mộ Thanh dừng lại bước chân.
“Mộ gia thuê ngươi khi nào, sao bây giờ mới đến? Tháng sáu ngày mưa, thi thể thối nát rất nhanh, để thêm mấy ngày nữa, người không đưa ra khỏi thành chôn, chỉ sợ sẽ gây ra ôn dịch trong thành.”
Lão đầu liên tục cằn nhằn, người đã bước lên bậc thang, đèn lồng trắng trong tay chiếu về phía mặt đất trong đại sảnh, “Đấy, người ở đàng kia, đến nhìn đi.”
Mộ Thanh đứng ở trong sân, theo ánh đèn yếu ớt nhìn lại, chỉ thấy trên mặt đất có một người đang nằm quấn chiếu, lộ ra một đôi chân, chân mang song quan giày. . .
—— Nói ngoài lề ——
Từ khi đăng văn tới nay, đều là độc giả đoán kịch tình, hôm nay đến lượt ta đoán bình luận!
Trải qua mấy ngày nay, ta đã hiểu biết hơn một chút về những đoạn độc giả thường đặc biệt lưu ý, vì thế hôm nay ta đoán sẽ có bình luận như sau ——
Phái ngôn tình:
Mười ba tuổi đã nạp cung phi, có sạch hay không?
Tám vị cung phi chết năm? Là còn lại ba người? Bây giờ còn sống không? Cầu xin bồi thường cho năm người kia!
Phái hủ nữ:
Yêu nam phong! Oa oa oa, là công hay là thụ!
Vì sao cảm thấy Bộ Tích Hoan cùng Nguyên Tu rất thích hợp thành một cặp đôi? Yêu nhau hận nhau giết nhau! Yêu nhau hận nhau giết nhau!
. . .
Ta đoán có đúng hay không? Có đúng hay không? Đoán đúng xin mọi người bỏ phiếu cho ta!
Chạng vạng, mặt trời lặn xuống núi, cửa thành được đóng lại, ngoài thành vẫn đông nghịt dân chúng xếp hàng chờ vào thành như trước. Một gã thiếu niên diện mạo xấu xí nhảy xuống từ xe ngựa, gia nhập đội ngũ vào thành.
Bên cạnh cửa thành, có một bảng cáo thị được dán trên tường, một đám thanh niên trai tráng đang tụ tập dưới bảng cáo thị, chỉ chỉ trỏ trỏ.
Thiếu niên từ trong đội ngũ ngẩng đầu nhìn về nơi xa, không thấy trên bảng cáo thị viết cái gì, nhưng tiếng đám người bàn tán lại lọt vào tai.
“Trước kia triều đình chiêu binh, phần lớn đều ở phương bắc, sao hiện tại lại xuống Giang Nam chiêu binh?”
“Có lẽ là mấy năm liên tục triều đình chiêu binh ở phương bắc, dân chúng kêu ca nhiều. Giang Nam không có chiến sự, thuỷ quân lại không giỏi chiến đấu trên ngựa, cho nên mới phải chiêu tân binh đi tây bắc.”
“Ôi! Lại là chiến sự. . . Đầu năm Mạc Bắc Hồ Lỗ đánh biên ải Tây Bắc của ta, Nguyên đại tướng quân dẫn Tây Bắc lang quân phòng thủ núi sông, nay đã có mấy vạn tướng sĩ máu nhiễm sa trường! Quốc nạn xuống đầu, triều đình yết bảng chiêu binh, bệ hạ lại ngồi trên thuyền rồng Đại Hưng, bố cáo tuyển-nam-phi, hàng đêm trong cung. . .”
“Suỵt! Mau câm miệng! Ngươi không muốn sống nữa sao?”
Lúc này người nọ mới nhận ra lỡ lời, cuống quýt liếc mắt nhìn bốn phía, thấy quan quân coi giữ cửa thành đang vội vàng xem xét lộ dẫn cùng văn điệp thân phận của dân chúng vào thành, không chú ý đến bên này, mới nhẹ nhàng thở ra, câm miệng không dám nói nữa.
Xa giá hiện nay đang ở ngay trong thành Biện Hà, điều này đối với dân chúng Đại Hưng mà nói cũng không phải chuyện ngạc nhiên.
Đại Hưng đến nay đã được sáu trăm năm, thiên hạ lấy Biện Châu làm căn cơ. Sau khi hoàng đế cao tổ đặt Thịnh Kinh làm kinh đô, ban chỉ dựng hành cung ở thành Biện Hà, sau đó các đời đế vương đều có thông lệ đến hành cung thành Biện Hà ở lại.
Có điều đương kim Thánh Thượng thường xuyên đến, thời gian ở lại cũng lâu hơn.
Đế vương các đời đều thích tháng ba đến hành cung, yên hoa tam nguyệt, Giang Nam xuân mỹ, thứ nhất có thể thưởng thức cảnh đẹp, thứ hai có thể tránh được giá lạnh ở Thịnh Kinh. Đương kim Thánh Thượng lại thích tháng sáu, Thánh Thượng ở hành cung ít nhất là nửa năm, tháng chạp mới trở lại Thịnh Kinh, hàng năm đều như vậy.
Giang Nam tháng sáu nắng nóng, Thịnh Kinh tháng chạp giá lạnh, nghe nói hàng năm người trong cung theo xa giá xuôi nam lên phía bắc đều phải chết hơn một đám.
Hành vi như thế rất có xu thế của một hôn quân, mà sự thật cũng đúng như thế.
Đương kim Thánh Thượng là cháu trai của tiên đế, ngai vàng vốn không đến phiên hắn ngồi.
Nhưng tết nguyên tiêu mười tám năm trước, trong triều sinh biến.
Tiên đế băng hà ở trong cung, tả tướng Nguyên gia cùng phụ quốc Nam Đồ liên thủ với nhau phát động cung biến, đổ tội danh hành thích vua cho Tam vương, Thất vương, trảm đầu hai người ngay trong cung yến, tàn sát cung thành.
Người hành thích thật giả không biết, chỉ biết tiên đế vốn có chín người con trai, ngôi vị hoàng đế đấu tranh kịch liệt, sau đêm cung biến đó, chỉ còn Ngũ vương và Lục vương. Ngũ vương yếu ớt từ nhỏ, thường xuyên đổ bệnh, cũng chỉ có một vị công chúa. Lục vương đớn hèn, tửu sắc thành tính, không thể làm vương. Nguyên quý phi liền gọi con trai trưởng của Lục vương vào trong cung, nuôi nấng dưới gối, gắng sức dạy dỗ thành đế vương, cũng chính là đế quân Đại Hưng hôm này – Bộ Tích Hoan.
Bộ Tích Hoan sáu tuổi đăng cơ, Nguyên gia phụ chính, hắn từ nhỏ đã có tính tình hoang đường không kiềm chế nổi, tuổi càng lớn càng biểu hiện rõ, phóng đãng vô đạo.
Nghe nói mười ba tuổi hắn đã nạp cung phi, cả ngày đắm chìm vào thanh sắc với hậu cung, chỉ qua một mùa hạ, tám vị cung phi chết năm; mười lăm tuổi lại quay sang yêu thích nam phong, bố cáo tìm tuấn mỹ nam tử khắp thiên hạ, làm phong phú thêm cho hành cung ở Biện Hà; mười bảy tuổi dựng thuyền rồng, hàng năm về sau dẫn hơn một ngàn nam phi du ngoạn sông Biện Giang. Nước sông bao la hùng vĩ, thuyền rồng xa hoa, ven đường sáo trúc không dứt, các châu phủ tiếp đãi xa giá vô cùng tốn kém, một ngày chi phí vạn kim.
Trong dân gian có bài đồng dao —— “Ngọc thông mã, cửu hoa xa, ai thương binh sĩ nhan như ngọc. Thuyền rồng hưng, thúy hoa tinh, sông lớn một ngày mười vạn kim.” Nói chính là đế vương xa hoa lãng phí, hoang đường vô đạo.
Nhưng dân gian còn có bài đồng dao —— “Kỵ binh hí, thương bạc xoay, giáo ngang đại mạc chấn động Hồ Lỗ. Viên môn hưng, giáp vàng rung, mười năm thủ biên anh hùng lang.” Nói chính là chủ soái của Tây Bắc quân, Nguyên Tu.
Nguyên Tu là con trai trưởng của Thái hoàng thái hậu đương triều, khát vọng không dừng lại ở triều đường.
Mười lăm tuổi hắn tòng quân, trong một trận chiến một mình một ngựa xông về phía địch lấy thủ cấp Nhung vương giữa vạn quân, một trận chiến danh chấn thiên hạ! Mười bảy tuổi dẫn tám ngàn tinh kỵ tập kích bất ngờ nha trướng của Lặc Đan, diệt sạch ba vạn kỵ binh của Lặc Đan, giết chết đại tướng quân; mười tám tuổi chỉnh đốn lại biên phòng Tây Bắc, thành lập Tây Bắc quân; hai mươi tuổi nhậm chức đại tướng quân của Tây Bắc quân, luyện binh khắc nghiệt, quân kỷ nghiêm minh, được dân chúng Tây Bắc vô cùng kính yêu.
Mười năm qua, Nguyên Tu lĩnh Tây Bắc quân phòng thủ Tây Bắc, chưa từng về kinh một ngày.
Mười năm qua, Ngũ Hồ thiết kỵ của cao nguyên Mạc Bắc, chưa một ngày bước chân được vào biên giới Đại Hưng.
Hai mươi vạn tinh quân của biên quan Tây Bắc được xưng là Tây Bắc lang, cũng chính là bức tường sắt của biên quan Đại Hưng. Ba năm trước đây, Nhung Nhân xâm nhập Đại Hưng, Tây Bắc quân đánh mười ba trận thắng mười ba, trảm năm vạn thủ cấp của Hồ Lỗ, treo đầy tường thành biên quan. Bão cát đại mạc đến nay vẫn chưa che được vết máu trên tường thành năm đó.
Ba năm nay, biên quan ít có chiến sự, Mạc Bắc an phận thủ thường. Nhưng không biết vì sao, đầu năm này, Nhung Nhân, Địch Nhân, Ô Na Lặc Đan, Nguyệt Thị Ngũ Hồ vốn không hề hòa thuận với nhau lại đột nhiên liên thủ, góp ba mươi vạn đại quân đánh bất ngờ biên quan Tây Bắc, chiến sự biên quan căng thẳng, triều đình vội vã chiêu binh.
Nay, Hồ Lỗ xâm phạm biên giới, máu tướng sĩ Tây Bắc đang nhiễm đỏ sa trường, đế vương lại ở hành cung tìm hoan mua vui, khó trách dân chúng kêu ca ai thán.
Có điều, có căm giận thế nào khi đến thành Biện Hà này cũng phải câm miệng, nuốt oán khí vào trong bụng.
Mộ Thanh đối với quốc sự lại không có bao nhiêu oán khí, nàng là một linh hồn đến từ tương lai, cho dù tại vương triều phong kiến này sinh hoạt mười sáu năm, nhưng vẫn chưa có cái gì gọi là lòng trung thành. Nàng sinh ra là tiện tịch, nếu không có chút bản lĩnh, đúng là còn không bằng được dân chúng bình thường. Giai cấp thống trị cách nàng quá xa xôi, những chuyện thiên hạ nghe đồn bực này, ngay cả nghe nàng cũng không có nhiều hứng thú.
Chuyện quốc gia, chuyện thiên hạ, đều có người quan tâm, không tới phiên tiểu dân như nàng để ý, nàng quan tâm chuyện nhà là đủ rồi.
Năm đó, trong thành không có bà vú nào nguyện ý nuôi nấng nàng, nếu không có cha kiên trì, nàng căn bản không có cơ hội trưởng thành trong thời đại này. Cha nuôi nàng khôn lớn, nàng sẽ dùng cả đời này để phụng dưỡng người sống quãng đời còn lại.
Về phần mười tám năm trước trong triều đã xảy ra chuyện gì, mẹ nàng có thân phận gì, nàng cũng không có hứng thú quan tâm.
Mộ Thanh giương mắt nhìn phía cửa thành, phía trước vốn là đội ngũ thật dài nay chỉ còn mấy người, rất nhanh sẽ đến lượt nàng. Nàng cụp mắt, đổi lại thành bộ dạng khờ ngốc nhát gan, khi nhìn đến tên trong văn điệp thân phận của nàng, biểu tình của tên quân coi giữ cửa thành quả nhiên có chút phức tạp, nhưng cũng không còn điểm gì khác thường nữa thế nên để nàng vào trong thành.
Mặt trời sắp khuất hẳn, ánh chiều tà đỏ ối loang lổ mặt sông, thành Biện Hà nguy nga tráng lệ trong tà dương. Trời chưa tối hẳn, trong thành đã lên đèn khắp nơi, tảng đá dài trên đường cũng nhiễm ánh đuốc rực rỡ, như thiên hà rơi xuống nhân gian. Đêm chưa đến, trên đường đã nghe thấy tiếng ca réo rắt trên các thuyền hoa, trà lâu tửu quán, tiếng hò hét trong những phường bạc vang ra ầm ĩ, hương trà, hương rượu, hương son phấn kéo dài khắp phố, nam tử qua lại vạt áo dài như gió, quần hoa của nữ tử uyển chuyển thướt tha, dần mở ra một bức tranh sáng lạn, sáu trăm năm cổ thành phồn hoa.
Mộ Thanh lần đầu tới thành Biện Hà, nhưng không bị lạc đường, nàng đứng ở cửa thành nơi đó một lúc lâu, đem bố cục trong thành thu vào tầm mắt, sau đó đi thẳng đến thành tây.
Các cửa hàng của thành tây san sát, hàng rèn, hàng trang sức, hàng tơ lụa, tiền trang tư nhân (tiền trang tư nhân: giống như ngân hàng tư nhân ở hiện đại) chia ra làm mấy dãy phố, người đi lại mua bán trên đường náo nhiệt phi phàm, nhưng con phố cuối cùng trên đường có chút vắng vẻ. Mộ Thanh đi về phía đó, đầu phố treo mấy chiếc đèn lồng trắng, những tấm biển được chiếu sáng dưới ánh đèn đều là cửa hàng quan tài. Mộ Thanh bước qua mấy cửa hàng quan tài đó, chân không ngừng nghỉ, thẳng đến cuối phố.
Cuối phố, gần đến tường thành, một tòa quan nha đóng chặt cửa, ngay cả đèn lồng trước cửa cũng chưa thắp, ban đêm khí lạnh âm u, theo ánh sáng mỏng manh từ đèn lồng của mấy cửa hàng quan tài phía trước chiếu lại mới miễn cưỡng đọc được chữ viết trên tấm biển lớn —— nghĩa trang.
Nghĩa trang này không phải nghĩa trang của dân chúng, mà là nơi chuyên môn đặt người chết. Thi thể trong nghĩa trang này, phần lớn là để người chết chờ nhập liệm, cũng có thể là người chết tha hương chờ người nhà vận về an táng. Trong đó, những xác chết quan phủ muốn xem nghiệm nhưng ngại đặt ở nha môn có mùi cũng sẽ đưa đến đâyđể cho ngỗ tác đến nghiệm xem.
Nói thẳng ra, nghĩa trang này chính là nhà xác.
Nửa tháng trước, cha phụng theo công văn của thứ sử đến thành Biện Hà khám nghiệm tử thi, cho nên nàng đến nghĩa trang tìm người là hợp lý nhất.
Nghĩ thế, Mộ Thanh tiến lên gõ cửa.
Một lát, cửa mở, đi ra là một lão đầu lưng còng, bộ dạng như vừa thức dậy, thấy Mộ Thanh thì mang vẻ mặt kinh ngạc.
“Lão tiên sinh, ta tới tìm người. Xin hỏi ngỗ tác của huyện Cổ Thủy – Mộ Hoài Sơn Mộ lão, có ở bên trong hay không?” Mộ Thanh biết vì sao người này kinh ngạc, đường này ít có người lui đến, không có việc tang lễ thì ai đi qua cũng ngại xui xẻo, người đến nghĩa trang lại càng hiếm. Cho dù có người đến cũng là vào ban ngày, buổi tối ngoại trừ ngỗ tác thực sự không có người dám đến.
Nhưng nàng chính là ngỗ tác, ngỗ tác hai đời, người khác sợ tử thi, nhưng nàng đã thấy đủ loại, nào còn chuyện sợ hãi.
Mộ Thanh vẫn đang dịch dung cho nên nói thẳng ý đồ đến.
Lão đầu lưng còng nghe vậy thì sắc mặt bỗng nhiên thay đổi, ánh mắt trong đêm tối có vẻ khó hiểu, không đợi Mộ Thanh nhìn kỹ, đã gật đầu nói: “Thì ra là tìm đến Mộ lão, vào đi, người đang ở bên trong.”
Dứt lời, xoay người đi vào, Mộ Thanh đi theo phía sau lão đầu, thấy trên tay hắn cầm đèn lồng trắng, bóng dáng ở trong đêm tối tỏa ra vài phần âm khí.
“Là người nhà Mộ gia thuê ngươi tới đúng không?” Giọng nói của lão đầu xuyên qua bóng lưng truyền đến, vừa đi vừa nói, “Tiểu tử ngươi cũng thật lớn mật, buổi tối còn dám đến nghĩa trang khiêng thi thể.”
Mộ Thanh sửng sốt, vẻ mặt sửng sốt hiếm khi thấy được vẫn chưa phục hồi lại.
Lão nhân kia tiếp tục đi về phía trước, “Sao chỉ đến một người? Mộ gia không thể thuê thêm nữa à? Ta nói cho ngươi biết, một người không thể nào khiêng thi thể được, chỉ có thể dùng lưng cõng, nếu như ngươi chịu được mùi kia.”
Mộ Thanh dừng lại bước chân.
“Mộ gia thuê ngươi khi nào, sao bây giờ mới đến? Tháng sáu ngày mưa, thi thể thối nát rất nhanh, để thêm mấy ngày nữa, người không đưa ra khỏi thành chôn, chỉ sợ sẽ gây ra ôn dịch trong thành.”
Lão đầu liên tục cằn nhằn, người đã bước lên bậc thang, đèn lồng trắng trong tay chiếu về phía mặt đất trong đại sảnh, “Đấy, người ở đàng kia, đến nhìn đi.”
Mộ Thanh đứng ở trong sân, theo ánh đèn yếu ớt nhìn lại, chỉ thấy trên mặt đất có một người đang nằm quấn chiếu, lộ ra một đôi chân, chân mang song quan giày. . .
—— Nói ngoài lề ——
Từ khi đăng văn tới nay, đều là độc giả đoán kịch tình, hôm nay đến lượt ta đoán bình luận!
Trải qua mấy ngày nay, ta đã hiểu biết hơn một chút về những đoạn độc giả thường đặc biệt lưu ý, vì thế hôm nay ta đoán sẽ có bình luận như sau ——
Phái ngôn tình:
Mười ba tuổi đã nạp cung phi, có sạch hay không?
Tám vị cung phi chết năm? Là còn lại ba người? Bây giờ còn sống không? Cầu xin bồi thường cho năm người kia!
Phái hủ nữ:
Yêu nam phong! Oa oa oa, là công hay là thụ!
Vì sao cảm thấy Bộ Tích Hoan cùng Nguyên Tu rất thích hợp thành một cặp đôi? Yêu nhau hận nhau giết nhau! Yêu nhau hận nhau giết nhau!
. . .
Ta đoán có đúng hay không? Có đúng hay không? Đoán đúng xin mọi người bỏ phiếu cho ta!
/132
|