Vấn Thiên đoán không sai, Phùng Đán Toàn đúng là truyền nhân duy nhất của Phong Đao Hồ Nhất Tiếu. Trong thời Thanh mạt, ở Long Quốc từng xuất hiện một nhân vật thần bí, gieo quẻ Tiên Thiên Bát Quái chuẩn xác vô cùng, có thể nói là siêu cấp nhân vật ba trăm năm trước không gì không biết, ba trăm năm sau không gì không hay. Không ai biết tên người đó, chỉ biết ông ta họ Khổng, vì vậy nhân gian thường gọi ông là Khổng Bán Tiên. Khổng Bán Tiên ngoài gieo quẻ đoán mệnh, xem phong thuỷ địa lý còn tinh thông kỳ môn độn giáp, hơn nữa võ công cũng thuộc hàng những cao thủ hàng đầu trên chốn giang hồ. Loại nhân vật như vậy không thể đơn giản dùng hai chữ thiên tài để hình dung được nữa. Nếu ông ta sinh sau dăm chục năm, chắc Long Hồn sống chết gì cũng phải cố kéo ông ta gia nhập, có điều nói đi cũng phải nói lại, nếu sinh muộn dăm chục năm, có khi ông ta cũng chẳng có được cơ duyên để luyện được một thân bản lĩnh siêu phàm như vậy.
Khổng Bán Tiên độc thân cả đời, chỉ nhận hai đệ tử, đại đệ tử là Dương Nam, do thân thể bẩm sinh yếu đuối không thích hợp tu luyện võ công, hơn nữa đối với nghiên cứu huyền học, kỳ môn độn giáp gần như đạt đến độ si mê, cho nên chỉ kế thừa của Khổng Bán Tiên kỳ nghệ về bói toán, phong thuỷ và thuật kỳ môn độn giáp, võ công có thể nói là trói gà không chặt. Đệ tử thứ hai tên là Hồ Nhất Hiếu lại hoàn toàn tương phản với Dương Nam, có thể nói là một võ si điển hình, lại thích dùng đao, mỗi lần giao chiến đều điên cuồng không để tâm đến mạng sống của mình, khiến cho ai thấy cũng e dè, cuối cùng thành danh Phong Đao, ngược lại đối với một thân kỳ học của sư phụ lại coi như rơm rác, bị Khổng Bán Tiên thúc ép mãi mới chịu học qua một chút. Có người nói Khổng Bán Tiên nhận đệ tử theo hai ngả cực đoan là do ông ta tính toán từ trước, nhưng thực sự thế nào thì không ai biết chính xác.
Khi Thanh triều kết thúc, Khổng ban Tiên cuối cùng đã qua đời vào năm một trăm hai mươi tuổi trên đỉnh Bất Lão Phong, hai đệ tử của ông ta mai táng sư phụ rồi chia tay mỗi người một phương.
Đại đệ tử Dương Nam từ đó ẩn mình trong núi, chuyên tâm nghiên cứu các môn huyền môn số thuật của sư phụ truyền lại, cuối cùng cũng thành một vị đại tôn sư, chỉ có điều là một vị vô danh tôn sư. Dương Nam cũng giống như sư phụ, cả đời cô độc, chỉ đến gần cuối đời mới thu một đệ tử có tư chất cực cao, đem hết khả năng truyền thụ. Vị đệ tử này theo ông hơn mười năm, cuối cùng đến một ngày có một người tự xưng là lãnh tụ đời thứ hai của Long Hồn, danh hiệu “Phó Tọa” tìm đến, khẩn khoản mới Dương Nam xuất sơn trợ giúp. Dương Nam tuổi cao sức yếu không muốn rời nơi quen thuộc, nhưng cùng vị Phó Tọa đó nói chuyện một đêm, cuối cùng đã bị ông ta thuyết phục, hôm sau bèn quyết định cho đệ tử duy nhất của mình đi cùng ông ta. Người đệ tử của Dương Nam tuy không có chút võ công nào nhưng đối với trận pháp tinh thông vô cùng, khó có ai địch nổi, dưới sự giới thiệu của Phó Tọa, người ấy ra nhập Long Hồn, từ đó có danh hiệu “Vấn Thiên”
Trong khi đó, đệ tử thứ hai của Khổng Bán Tiên là Hồ Nhất Hiếu sau khi chia tay với sư huynh xuống núi liền gia nhập một đạo nghĩa quân, từ đó vì sự nghiệp phục hưng Long Quốc bôn ba khắp nơi. Trong hơn 30 năm, Hồ Nhất Hiếu đã gia nhập mấy đạo nghĩa quân khác nhau, thậm chí có thời gian còn phải đi hành nghề thảo khấu. Sau này khi Tiểu Trùng Quốc xâm lấn Long Quốc, Hồ Nhất Hiếu cùng các huynh đệ của mình tổ chức một trận phục kích ở một quả núi nhỏ không tên hòng tiêu diệt một đơn vị địch. Sau một trận huyết chiến, cuối cùng Hồ Nhất Hiếu toàn quân chiến tử, chỉ có điều ông ta không chết mà được một người hái thuốc trong núi cứu sống. Tuy tính mạng vẫn còn nhưng từ đó nửa người dưới bị liệt, lòng nguội như tro tàn, Hồ Nhất Hiếu từ đó ở lại bên ân nhân, vì cảm ơn cứu mạng, ông ta nhận đứa con nhỏ mới lên ba của ân nhân làm đồ đệ, dốc lòng truyền thụ bản lĩnh, đứa trẻ ấy là Phùng Đán Toàn.
Hồ Nhất Hiếu tuy không tinh thông trận pháp những do ở lâu bên sư phụ, sư huynh, tai nghe mắt thấy cũng thấm được ít nhiều. Hơn nữa ông ta thích nhất là so tài với người khác, ở trong núi cùng sư huynh tranh hơn thắng là thú vui duy nhất của ông ta ngoài lúc luyện võ công. Tuy Hồ Nhất Hiếu không thông trận pháp nhưng lại cố chấp học cách phá trận, mỗi khi Dương Nam học được một trận mới nào là ông lại tìm cách học cách phá trận ấy, Khổng Bán Tiên cũng thú vị nhìn hai sư huynh đệ tranh tài, do đó không những không ngăn cản mà còn cẩn thận dạy bảo. Sau này khi truyền nghề cho Phùng Đán Toàn, ngoài đao pháp, Hồ Nhất Hiếu còn truyền cho cậu tâm huyết cả đời về lý thuyết trận pháp và cách hóa giải trận của ông. Đo đó khi Phùng Đán Toàn nhận ra Vấn Thiên bày Bát môn Kim tỏa trận lập tức nghĩ ngay ra cách phá giải, có thể nói là nhờ công dạy dỗ của Hồ Nhất Hiếu vậy.
Gió đêm cuồn cuộn khắp kinh thành, từng luồng gió lạnh buốt quất vào cổ người đi đường, Phùng Đán Toàn dồn toàn lực chạy mặc cho gió rít ù ù bên tai, tuy lúc này sắc mặt của anh rất bình tĩnh, những trong lòng như có muôn ngàn cơn sóng cuộn.
Cao thủ trận pháp, một cao thủ có thể bố trí Bát môn Kim tỏa trận, điều đó có nghĩa là gì? Trận pháp là một môn học cao siêu bí ẩn, ngay cả sư phụ Hồ Nhất Hiếu của y cũng chỉ biết nửa vời. Y còn nhớ sư phụ đã từng nói “Nếu như có một ngày gặp được cao thủ biết bố trí kỳ môn độn giáp thì lo mà chạy cho xa". Trước đây Phùng Đán Toàn không đồng ý với cách nói đó, sau này càng lớn, kiến thức càng rộng, y dần biết sự e dè của sư phụ đối với kỳ môn độn giáp không phải là vô lý. Kỳ môn độn giáp là báu vật tổ tiên Long Quốc truyền lại từ ngàn năm trước, tuy theo thời gian đã rơi rụng không ít những uy lực vẫn kinh người. Ngày xưa Gia Cát Khổng Minh chỉ dùng mấy khố đá lập Bát Quái Trận là có thể vây khốn mười vạn đại quân, mười vạn đại quân có nghĩ là gì? Phùng Đán Toàn có tự đại đến đâu cũng thừa hiểu mình không có cách gì đối đầu với mười vạn đại quân, đừng nói là mười vạn, cho dù gặp phải đại đội chỉ trăm người y cũng chỉ có cách chạy cho xa để giữ mạng. Nhưng nếu gặp phải cao thủ kỳ môn độn giáp, nếu là kẻ tàn độc, hắn thừa sức khiến cho một đội quân gấp mười lần con số một trăm đó phải chết dần chết mòn giữa một đống đá.
Nghĩ lại hôm nay y có thể dựa vào đôi chút kiến thức mà sư phụ truyền lại về trận pháp, may mắn lắm mới phá được thế trận Bát môn Kim tỏa trong truyền thuyết, Phùng Đán Toàn không khỏi cảm thấy lạnh sống lưng. Thực ra thì Vấn Thiên quá đề cao y, Phùng Đán Toàn tuyệt đối không phải loại nhân vật tuyệt thế kỳ tài như Khổng Bán Tiên, đối với trận pháp cũng chỉ học được dăm ba thế trận lớn như Bát Môn Kim Tỏa hay Bát Quái thôi, hơn nữa lại mới chỉ là trên lý thuyết, nếu hôm nay không phải là Vấn Thiên lập ra thế trận Bát Môn Kim Tỏa mà y đã học, đổi lại thành trận pháp khác, tin rằng Phùng Đán Toàn cũng chỉ còn cách đứng lại trong trận chờ chết. Do đó, ngay khi thoát ra y đã không một chút do dự tìm đường chạy trốn.
Không biết từ lúc nào mây đen kéo đến đầy trời, những đám mây sầm sì như bao phủ cả kinh thành, màn đêm vốn đã tối om nay lại càng đen như mực.
“Oành!” Một tiếng sét rung lên trên bầu trời, dường như muốn xé rách cả thế gian, gầm rít bên tai.
Thân hình đang lao nhanh của Phùng Đán Toàn đột ngột dừng phắt lại, hai mắt nhìn chằm chằm vào con đường nhỏ trước mắt, lẩm bẩm nói. “Cuối cùng cũng vẫn không thoát được.”
“Đao của ngươi rất nhanh, nhưng khinh công thì chỉ bình thường, muốn đuổi kịp ngươi thật không khó.” Trong màn đêm đen truyền lại tiếng Thiên Tiêu.
Phùng Đán Toàn cười khinh thường nói: “Cảnh giới mà đao của ta theo đuổi là cái khí thế bá đạo của trời đất, luyện khinh công để làm gì?”
“Rất hay! Đao không có cái linh khí phiêu dật của kiếm, cũng không có sự linh hoạt uyển chuyển của thương, nhưng nó lại có cái bá khí mà không gì sánh nổi. Một đao đánh ra, không thắng không thu, dùng đao phải có cái tâm liều mạng, phải biết lấy cái khí thế bá đạo tung hoành thiên hạ mới là cảnh giới chí cao của đao. Luyện tuyệt kỹ khinh công lại khiến cho người ta nghĩ đến việc chạy trốn, chỉ cần trong lòng còn có chỗ sợ, thực khó giữ được cái thế chỉ tiến không lùi của đao.” Thiên Tiêu chép miệng khen: “Không hổ danh là truyền nhân của Phong Đao, khi còn trẻ ta đã từng nghe các bậc tiền bối kể lại, Phong Đao thi triển tuyệt kỹ tung hoành thiên hạ hầu như vô địch, người trong thiên hạ có thể trực diện giao chiến với ông ta hầu như chẳng còn ai. Phong Đao bỏ qua đao pháp truyền thống, tự mình sáng tạo cuồng đao vô chiêu, cả đời khó tìm đối thủ, chỉ tiếc ta không có duyên gặp được tiền bối, không ngờ hôm nay lại gặp truyền nhân của ông.”
Phùng Đán Toàn cười khẩy nói. “Công phu nịnh bợ của ngươi cũng không tồi!”
Thiên Tiêu chỉ cười khẽ, trong màn đêm không thấy ông ta có động tác gì, nhưng bên tai Phùng Đán Toàn vằng lên một tiếng ngân trong trẻo, đó là tiếng của một thanh kiếm rời khỏi vỏ, chỉ nghe tiếng cũng biết đó là một thanh kiếm báu, kiếm còn chưa rời vỏ, kiếm khí đã bức tới trước mặt.
“Oang!” Một tiếng ngân khẽ, tựa hồ một tia chớp vừa lóe lên trong tay Thiên Tiêu, trường kiếm rời khỏi vỏ rung lên những tiếng oang oang nho nhỏ như hân hoan, như khoan khoái, dường như cũng cảm giác được chiến ý nồng hậu của chủ nhân. Thiên Tiêu khẽ vuốt ve thân kiếm, nói: “Kiếm tên Thiên Tiêu, đứng hàng thứ bảy mươi ba trong Long Quốc Thần Binh Phổ, tuy không dám nói là chém sắt như bùn nhưng thổi tóc qua đứt cũng chẳng khó khăn gì.”
“Thần binh phổ?” Phùng Đán Toàn lầm bẩm một tiếng, Hồ Nhất Hiếu từng nói với y về thần binh phổ, nghe sư phụ nói thanh huyền thiết hàn đao Huyết Ẩm do sư công tặng đứng hàng thứ bảy mươi sáu trong đó. Chỉ tiếc rằng từ khi Hồ Nhất Hiếu qua đời, thanh đao cũng mất đi sức sống ngày nào, Phùng Đán Toàn chôn cất sư phụ cũng đồng thời đem Huyết Ẩm chôn theo để làm bạn với người.
Thiên Tiêu lại ngớ Phùng Đán Toàn còn chưa bao giờ nghe nói đến Thần binh phổ, bèn giải thích: “Long Quốc thần binh phổ vốn do một vị giang hồ dị nhân dốc hết tâm huyết soạn ra từ thời nhà Tống, sau này đến thời mạt Minh, lại có một vị dị nhân khác hoàn thiện, trong đó ghi chép lại đầy đủ những thần binh danh tiếng lẫy lừng đã từng xuất hiện từ khi Viêm Hoàng khai sáng Long Quốc đến nay. Thanh đao Xuyên Lưu trong tay ngươi cũng nằm trong đó, xếp hàng chín mươi mốt, là một trong ba thần khí do người thợ nổi tiếng Mục Tử Xuyên rèn nên từ thủa sơ Đường.”
Phùng Đán Toàn cười khẽ nói. “Không ngờ thanh Xuyên Lưu của ta lại xếp hàng thấp như thế.”
“Ngươi đừng coi thường thần binh phổ, những vũ khí được ghi lại trên đó không cái nào không phài là thần binh lợi khí danh tiếng lẫy lừng, thậm chí những món nằm ngoài một trăm vị trí đầu cũng là chí bảo mà người luyện võ cầu còn không được. Chỉ đáng tiếc ngàn năm lưu lại, đại đa số thần binh đã sớm thất truyền, phần lớn là được chôn theo vương hầu khanh tướng, giấu mình dưới lớp đất vàng khó thấy mặt trời, còn thanh Xuyên Lưu trong tay ngươi lại lạc vào tay ngoại bang. Nếu không phải rơi vào tay ngươi, chỉ e rằng vạn kiếp cũng không có ngày về nước.”
Phùng Đán Toàn cười khẩy một tiếng đầy châm biếm: “Không ngờ ngươi cũng là một kẻ hận Thanh!”
“Hận Thanh?” Thiên Tiêu chợt ngưng cười nói: “Ta không phải là loại hận Thanh, chỉ là ta đau lòng với số phận của những báu vật Long Quốc truyền lại từ ngàn năm trước thôi.”
“Oanh!” Cùng lúc đó, trên không chợt vang lên một tiếng sấm rền, dường như trời cao tức giận muốn đập nát cả thế gian, tiếng sấm trấn động bầu trời, dường như cả bầu trời sắp sụp đổ.
Cùng với đó là một luồng chớp sáng rạch ngang màn đêm, mang lại cho thế gian chút ánh sáng, tia chớp phủ lên cả thế giới một màu trắng bệch, bầu trời trắng bệch, kinh thành trắng bệch, còn có hai bóng người trắng bệch đứng đối diện với nhau trên một con đường quê nho nhỏ.
Cùng lúc đó, ở ngoại ô, Vấn Thiên vì không theo kịp bị Thiên Tiêu bỏ lại xa phía sau, ngước khuôn mặt trắng bệch nhìn lên bầu trời, thầm nói: “Cuồng lôi thiên nộ? Ông trời ơi, người đang nổi giận đó sao? Hay là người đang khóc cho hắn?”
Khổng Bán Tiên độc thân cả đời, chỉ nhận hai đệ tử, đại đệ tử là Dương Nam, do thân thể bẩm sinh yếu đuối không thích hợp tu luyện võ công, hơn nữa đối với nghiên cứu huyền học, kỳ môn độn giáp gần như đạt đến độ si mê, cho nên chỉ kế thừa của Khổng Bán Tiên kỳ nghệ về bói toán, phong thuỷ và thuật kỳ môn độn giáp, võ công có thể nói là trói gà không chặt. Đệ tử thứ hai tên là Hồ Nhất Hiếu lại hoàn toàn tương phản với Dương Nam, có thể nói là một võ si điển hình, lại thích dùng đao, mỗi lần giao chiến đều điên cuồng không để tâm đến mạng sống của mình, khiến cho ai thấy cũng e dè, cuối cùng thành danh Phong Đao, ngược lại đối với một thân kỳ học của sư phụ lại coi như rơm rác, bị Khổng Bán Tiên thúc ép mãi mới chịu học qua một chút. Có người nói Khổng Bán Tiên nhận đệ tử theo hai ngả cực đoan là do ông ta tính toán từ trước, nhưng thực sự thế nào thì không ai biết chính xác.
Khi Thanh triều kết thúc, Khổng ban Tiên cuối cùng đã qua đời vào năm một trăm hai mươi tuổi trên đỉnh Bất Lão Phong, hai đệ tử của ông ta mai táng sư phụ rồi chia tay mỗi người một phương.
Đại đệ tử Dương Nam từ đó ẩn mình trong núi, chuyên tâm nghiên cứu các môn huyền môn số thuật của sư phụ truyền lại, cuối cùng cũng thành một vị đại tôn sư, chỉ có điều là một vị vô danh tôn sư. Dương Nam cũng giống như sư phụ, cả đời cô độc, chỉ đến gần cuối đời mới thu một đệ tử có tư chất cực cao, đem hết khả năng truyền thụ. Vị đệ tử này theo ông hơn mười năm, cuối cùng đến một ngày có một người tự xưng là lãnh tụ đời thứ hai của Long Hồn, danh hiệu “Phó Tọa” tìm đến, khẩn khoản mới Dương Nam xuất sơn trợ giúp. Dương Nam tuổi cao sức yếu không muốn rời nơi quen thuộc, nhưng cùng vị Phó Tọa đó nói chuyện một đêm, cuối cùng đã bị ông ta thuyết phục, hôm sau bèn quyết định cho đệ tử duy nhất của mình đi cùng ông ta. Người đệ tử của Dương Nam tuy không có chút võ công nào nhưng đối với trận pháp tinh thông vô cùng, khó có ai địch nổi, dưới sự giới thiệu của Phó Tọa, người ấy ra nhập Long Hồn, từ đó có danh hiệu “Vấn Thiên”
Trong khi đó, đệ tử thứ hai của Khổng Bán Tiên là Hồ Nhất Hiếu sau khi chia tay với sư huynh xuống núi liền gia nhập một đạo nghĩa quân, từ đó vì sự nghiệp phục hưng Long Quốc bôn ba khắp nơi. Trong hơn 30 năm, Hồ Nhất Hiếu đã gia nhập mấy đạo nghĩa quân khác nhau, thậm chí có thời gian còn phải đi hành nghề thảo khấu. Sau này khi Tiểu Trùng Quốc xâm lấn Long Quốc, Hồ Nhất Hiếu cùng các huynh đệ của mình tổ chức một trận phục kích ở một quả núi nhỏ không tên hòng tiêu diệt một đơn vị địch. Sau một trận huyết chiến, cuối cùng Hồ Nhất Hiếu toàn quân chiến tử, chỉ có điều ông ta không chết mà được một người hái thuốc trong núi cứu sống. Tuy tính mạng vẫn còn nhưng từ đó nửa người dưới bị liệt, lòng nguội như tro tàn, Hồ Nhất Hiếu từ đó ở lại bên ân nhân, vì cảm ơn cứu mạng, ông ta nhận đứa con nhỏ mới lên ba của ân nhân làm đồ đệ, dốc lòng truyền thụ bản lĩnh, đứa trẻ ấy là Phùng Đán Toàn.
Hồ Nhất Hiếu tuy không tinh thông trận pháp những do ở lâu bên sư phụ, sư huynh, tai nghe mắt thấy cũng thấm được ít nhiều. Hơn nữa ông ta thích nhất là so tài với người khác, ở trong núi cùng sư huynh tranh hơn thắng là thú vui duy nhất của ông ta ngoài lúc luyện võ công. Tuy Hồ Nhất Hiếu không thông trận pháp nhưng lại cố chấp học cách phá trận, mỗi khi Dương Nam học được một trận mới nào là ông lại tìm cách học cách phá trận ấy, Khổng Bán Tiên cũng thú vị nhìn hai sư huynh đệ tranh tài, do đó không những không ngăn cản mà còn cẩn thận dạy bảo. Sau này khi truyền nghề cho Phùng Đán Toàn, ngoài đao pháp, Hồ Nhất Hiếu còn truyền cho cậu tâm huyết cả đời về lý thuyết trận pháp và cách hóa giải trận của ông. Đo đó khi Phùng Đán Toàn nhận ra Vấn Thiên bày Bát môn Kim tỏa trận lập tức nghĩ ngay ra cách phá giải, có thể nói là nhờ công dạy dỗ của Hồ Nhất Hiếu vậy.
Gió đêm cuồn cuộn khắp kinh thành, từng luồng gió lạnh buốt quất vào cổ người đi đường, Phùng Đán Toàn dồn toàn lực chạy mặc cho gió rít ù ù bên tai, tuy lúc này sắc mặt của anh rất bình tĩnh, những trong lòng như có muôn ngàn cơn sóng cuộn.
Cao thủ trận pháp, một cao thủ có thể bố trí Bát môn Kim tỏa trận, điều đó có nghĩa là gì? Trận pháp là một môn học cao siêu bí ẩn, ngay cả sư phụ Hồ Nhất Hiếu của y cũng chỉ biết nửa vời. Y còn nhớ sư phụ đã từng nói “Nếu như có một ngày gặp được cao thủ biết bố trí kỳ môn độn giáp thì lo mà chạy cho xa". Trước đây Phùng Đán Toàn không đồng ý với cách nói đó, sau này càng lớn, kiến thức càng rộng, y dần biết sự e dè của sư phụ đối với kỳ môn độn giáp không phải là vô lý. Kỳ môn độn giáp là báu vật tổ tiên Long Quốc truyền lại từ ngàn năm trước, tuy theo thời gian đã rơi rụng không ít những uy lực vẫn kinh người. Ngày xưa Gia Cát Khổng Minh chỉ dùng mấy khố đá lập Bát Quái Trận là có thể vây khốn mười vạn đại quân, mười vạn đại quân có nghĩ là gì? Phùng Đán Toàn có tự đại đến đâu cũng thừa hiểu mình không có cách gì đối đầu với mười vạn đại quân, đừng nói là mười vạn, cho dù gặp phải đại đội chỉ trăm người y cũng chỉ có cách chạy cho xa để giữ mạng. Nhưng nếu gặp phải cao thủ kỳ môn độn giáp, nếu là kẻ tàn độc, hắn thừa sức khiến cho một đội quân gấp mười lần con số một trăm đó phải chết dần chết mòn giữa một đống đá.
Nghĩ lại hôm nay y có thể dựa vào đôi chút kiến thức mà sư phụ truyền lại về trận pháp, may mắn lắm mới phá được thế trận Bát môn Kim tỏa trong truyền thuyết, Phùng Đán Toàn không khỏi cảm thấy lạnh sống lưng. Thực ra thì Vấn Thiên quá đề cao y, Phùng Đán Toàn tuyệt đối không phải loại nhân vật tuyệt thế kỳ tài như Khổng Bán Tiên, đối với trận pháp cũng chỉ học được dăm ba thế trận lớn như Bát Môn Kim Tỏa hay Bát Quái thôi, hơn nữa lại mới chỉ là trên lý thuyết, nếu hôm nay không phải là Vấn Thiên lập ra thế trận Bát Môn Kim Tỏa mà y đã học, đổi lại thành trận pháp khác, tin rằng Phùng Đán Toàn cũng chỉ còn cách đứng lại trong trận chờ chết. Do đó, ngay khi thoát ra y đã không một chút do dự tìm đường chạy trốn.
Không biết từ lúc nào mây đen kéo đến đầy trời, những đám mây sầm sì như bao phủ cả kinh thành, màn đêm vốn đã tối om nay lại càng đen như mực.
“Oành!” Một tiếng sét rung lên trên bầu trời, dường như muốn xé rách cả thế gian, gầm rít bên tai.
Thân hình đang lao nhanh của Phùng Đán Toàn đột ngột dừng phắt lại, hai mắt nhìn chằm chằm vào con đường nhỏ trước mắt, lẩm bẩm nói. “Cuối cùng cũng vẫn không thoát được.”
“Đao của ngươi rất nhanh, nhưng khinh công thì chỉ bình thường, muốn đuổi kịp ngươi thật không khó.” Trong màn đêm đen truyền lại tiếng Thiên Tiêu.
Phùng Đán Toàn cười khinh thường nói: “Cảnh giới mà đao của ta theo đuổi là cái khí thế bá đạo của trời đất, luyện khinh công để làm gì?”
“Rất hay! Đao không có cái linh khí phiêu dật của kiếm, cũng không có sự linh hoạt uyển chuyển của thương, nhưng nó lại có cái bá khí mà không gì sánh nổi. Một đao đánh ra, không thắng không thu, dùng đao phải có cái tâm liều mạng, phải biết lấy cái khí thế bá đạo tung hoành thiên hạ mới là cảnh giới chí cao của đao. Luyện tuyệt kỹ khinh công lại khiến cho người ta nghĩ đến việc chạy trốn, chỉ cần trong lòng còn có chỗ sợ, thực khó giữ được cái thế chỉ tiến không lùi của đao.” Thiên Tiêu chép miệng khen: “Không hổ danh là truyền nhân của Phong Đao, khi còn trẻ ta đã từng nghe các bậc tiền bối kể lại, Phong Đao thi triển tuyệt kỹ tung hoành thiên hạ hầu như vô địch, người trong thiên hạ có thể trực diện giao chiến với ông ta hầu như chẳng còn ai. Phong Đao bỏ qua đao pháp truyền thống, tự mình sáng tạo cuồng đao vô chiêu, cả đời khó tìm đối thủ, chỉ tiếc ta không có duyên gặp được tiền bối, không ngờ hôm nay lại gặp truyền nhân của ông.”
Phùng Đán Toàn cười khẩy nói. “Công phu nịnh bợ của ngươi cũng không tồi!”
Thiên Tiêu chỉ cười khẽ, trong màn đêm không thấy ông ta có động tác gì, nhưng bên tai Phùng Đán Toàn vằng lên một tiếng ngân trong trẻo, đó là tiếng của một thanh kiếm rời khỏi vỏ, chỉ nghe tiếng cũng biết đó là một thanh kiếm báu, kiếm còn chưa rời vỏ, kiếm khí đã bức tới trước mặt.
“Oang!” Một tiếng ngân khẽ, tựa hồ một tia chớp vừa lóe lên trong tay Thiên Tiêu, trường kiếm rời khỏi vỏ rung lên những tiếng oang oang nho nhỏ như hân hoan, như khoan khoái, dường như cũng cảm giác được chiến ý nồng hậu của chủ nhân. Thiên Tiêu khẽ vuốt ve thân kiếm, nói: “Kiếm tên Thiên Tiêu, đứng hàng thứ bảy mươi ba trong Long Quốc Thần Binh Phổ, tuy không dám nói là chém sắt như bùn nhưng thổi tóc qua đứt cũng chẳng khó khăn gì.”
“Thần binh phổ?” Phùng Đán Toàn lầm bẩm một tiếng, Hồ Nhất Hiếu từng nói với y về thần binh phổ, nghe sư phụ nói thanh huyền thiết hàn đao Huyết Ẩm do sư công tặng đứng hàng thứ bảy mươi sáu trong đó. Chỉ tiếc rằng từ khi Hồ Nhất Hiếu qua đời, thanh đao cũng mất đi sức sống ngày nào, Phùng Đán Toàn chôn cất sư phụ cũng đồng thời đem Huyết Ẩm chôn theo để làm bạn với người.
Thiên Tiêu lại ngớ Phùng Đán Toàn còn chưa bao giờ nghe nói đến Thần binh phổ, bèn giải thích: “Long Quốc thần binh phổ vốn do một vị giang hồ dị nhân dốc hết tâm huyết soạn ra từ thời nhà Tống, sau này đến thời mạt Minh, lại có một vị dị nhân khác hoàn thiện, trong đó ghi chép lại đầy đủ những thần binh danh tiếng lẫy lừng đã từng xuất hiện từ khi Viêm Hoàng khai sáng Long Quốc đến nay. Thanh đao Xuyên Lưu trong tay ngươi cũng nằm trong đó, xếp hàng chín mươi mốt, là một trong ba thần khí do người thợ nổi tiếng Mục Tử Xuyên rèn nên từ thủa sơ Đường.”
Phùng Đán Toàn cười khẽ nói. “Không ngờ thanh Xuyên Lưu của ta lại xếp hàng thấp như thế.”
“Ngươi đừng coi thường thần binh phổ, những vũ khí được ghi lại trên đó không cái nào không phài là thần binh lợi khí danh tiếng lẫy lừng, thậm chí những món nằm ngoài một trăm vị trí đầu cũng là chí bảo mà người luyện võ cầu còn không được. Chỉ đáng tiếc ngàn năm lưu lại, đại đa số thần binh đã sớm thất truyền, phần lớn là được chôn theo vương hầu khanh tướng, giấu mình dưới lớp đất vàng khó thấy mặt trời, còn thanh Xuyên Lưu trong tay ngươi lại lạc vào tay ngoại bang. Nếu không phải rơi vào tay ngươi, chỉ e rằng vạn kiếp cũng không có ngày về nước.”
Phùng Đán Toàn cười khẩy một tiếng đầy châm biếm: “Không ngờ ngươi cũng là một kẻ hận Thanh!”
“Hận Thanh?” Thiên Tiêu chợt ngưng cười nói: “Ta không phải là loại hận Thanh, chỉ là ta đau lòng với số phận của những báu vật Long Quốc truyền lại từ ngàn năm trước thôi.”
“Oanh!” Cùng lúc đó, trên không chợt vang lên một tiếng sấm rền, dường như trời cao tức giận muốn đập nát cả thế gian, tiếng sấm trấn động bầu trời, dường như cả bầu trời sắp sụp đổ.
Cùng với đó là một luồng chớp sáng rạch ngang màn đêm, mang lại cho thế gian chút ánh sáng, tia chớp phủ lên cả thế giới một màu trắng bệch, bầu trời trắng bệch, kinh thành trắng bệch, còn có hai bóng người trắng bệch đứng đối diện với nhau trên một con đường quê nho nhỏ.
Cùng lúc đó, ở ngoại ô, Vấn Thiên vì không theo kịp bị Thiên Tiêu bỏ lại xa phía sau, ngước khuôn mặt trắng bệch nhìn lên bầu trời, thầm nói: “Cuồng lôi thiên nộ? Ông trời ơi, người đang nổi giận đó sao? Hay là người đang khóc cho hắn?”
/967
|