“Chủ nhân! Vương phủ bị bao vây rồi, bảy nghìn thiết giáp quân đã bị diệt sạch không còn một mống!”.
“Chủ nhân, Phong Nhiêu hầu và Cấm quân thống lĩnh Vương Ngũ đều phản bội rồi, bây giờ đang chĩa giáo về phía chúng ta!”.
“Chủ nhân, thám tử chúng ta phái đi đều bị giết sạch rồi, Tố kỳ quân chặt đầu họ treo ngoài doanh trại thị uy, chúng ta phải làm sao?”.
“Chủ nhân! Trốn đi!”.
“Chủ nhân, trốn đi!”.
“Chủ nhân…”.
Di Phi cảm thấy mình như đang nằm mơ, vì tầm nhìn trở nên mơ hồ, những gương mặt của thuộc hạ đều chỉ còn lại những đường viền mơ mơ hồ hồ, khuôn miệng họ đóng đóng mở mở, mỗi chữ phát ra đều rất rõ ràng, nhưng không có cách nào hiểu được họ nói gì.
Gã im lặng ngồi trên thuyền hoa.
Đây là nơi gã thích nhất – gã không thích đất liền, gã thích nước.
Khi còn nhỏ gã cảm thấy rất lạ lùng, tại sao nước nhẹ như vậy lại có thể đẩy được gỗ nổi lên, còn con người rơi xuống nước, vốn sẽ bị chìm xuống, nhưng có người lại biết bơi… Gã bị hấp dẫn bởi những sự vật thần kỳ của thế giới tự nhiên, nghiên cứu đến quên ăn quên ngủ, muốn tìm cách hiểu rõ.
Mẫu thân của gã là một phi tử bình thường, hoàng đế thi thoảng qua đêm ở chỗ bà, không đặc biệt sủng ái, nhưng cũng không quá lạnh nhạt. Phụ hoàng thấy gã nhìn hồ nước đến ngẩn người, thấy rất không vui. Mỗi lần như thế, mẫu thân liền khuyên gã luyện võ.
Mẫu thân nói: “Nếu con luyện võ giỏi, phụ hoàng con sẽ thích con”.
Thế nhưng, tại sao gã phải cần nam nhân trong mắt chỉ có tranh đoạt, giết chóc đó ưa thích? Cùng là nhìn một con chim, gã sẽ quan tâm tại sao con chim đó lại có thể bay, mà nam nhân đó lại quan tâm làm sao có thể dùng đao giết chết con chim đó một cách nhanh nhất.
Căn bản không phải là người cùng một thế giới, không có điểm chung, cũng sẽ không có gì luyến tiếc…
Thế nên, gã đắm chìm trong thế giới của mình, sống rất giản đơn, cũng rất vui vẻ. Mẫu thân rất thương gã, tuy cũng từng hy vọng gã chịu khó luyện võ, giành được sự yêu mến của hoàng đế, nhưng chung quy vẫn không cưỡng ép gã. Bà xuất thân thương gia, nhà mẹ đẻ không có tư cách vào cung thăm nom, chỉ có thể gửi chút đồ vào dịp Tết mỗi năm, có lúc thạch lựu của Giang Bắc, có lúc là bánh quả hồng của Tây Đảo,… bà rất thích những đồ ăn vặt này, nhưng lại sợ bị người khác chê cười, lần nào cũng ăn một cách lén lút.
Nhờ mẫu thân, gã bắt đầu thích những đồ ăn vặt địa phương đủ mùi đủ vị đó, mà thứ gã thích nhất trong số đó chính là tranh đường.
Bởi vì tranh đường chỉ có thể gửi vào cung vào mùa đông, nếu để lâu một chút sẽ bị cứng hoặc chảy ra. Cho nên, mỗi lần chỉ cần mở tay nải ra thấy bên trong có tranh đường, việc đầu tiên gã và mẫu thân làm là trốn trong một căn phòng nhỏ, tránh khỏi tầm nhìn của người khác, chỉ có hai mẹ con chia nhau một miếng tranh đường… Những tháng ngày ấy đối với một đứa trẻ mà nói hiển nhiên là rất vui vẻ, rất vui vẻ…
Cho đến một ngày…
Ngày đó, quân Trình thất bại ê chề rút từ biên cương Yên quốc về đến đế đô, phụ hoàng vì thế mà nổi giận lôi đình, mà đêm đó, ngài vô tình đi ngang qua nơi ở của mẫu thân, nghe thấy mẫu thân đang hát.
Thực ra mẫu thân luôn là một người biết thích nghi với hoàn cảnh, những ngày hoàng đế không đến lâm hạnh, bà thường thêu hoa, hát ca, nghe nói năm đó phụ hoàng vì nghe thấy bà hát trên phố, cho nên mới chọn bà vào cung.
Hát có lẽ cũng không sai, sai ở chỗ bà hát quá vui vẻ, mà ca từ lại là: “Chim yến(1) phương nam hỡi, khi quay về mi có mang tin tức của chàng chăng?”.
Phụ hoàng đang giận dữ vì thua trận, lại thêm nghe thấy chữ “Yến”, lập tức không nén được giận xông vào, rút cây roi bên hông ra đánh mẫu thân.
Mẫu thân kêu lên thất thanh, khiến gã đang ngồi khắc con thuyền nhỏ trong gian phòng sát vách giật mình, vội vã mở cửa ra, liền nhìn thấy cảnh phụ hoàng đang dùng roi điên cuồng đánh mẫu thân.
Mẫu thân lăn lộn không ngừng dưới mặt đất, rên rỉ đau đớn nhưng không dám cầu xin.
Gã bị cảnh tượng ấy làm cho sợ hãi, mãi một lúc sau mới phản ứng lại là nên ngăn cản, thế nên gã nhào tới muốn ngăn làn roi của phụ hoàng lại, nhưng chiếc roi đó lại vút qua đôi tay gã, quất mạnh vào lưng gã.
Sức mạnh, tốc độ và cảm giác đau đớn đó đến bây giờ có thể gã vẫn còn nhớ như in.
Gã bị đánh ngã lăn ra đất, va mạnh vào người mẫu thân.
Phụ hoàng quay đầu nhìn thấy căn phòng chất đầy gỗ, càng giận dữ hơn: “Khắc khắc khắc, ngươi nhìn xem ngươi đã sinh ra cái giống quỷ gì, ngoài ngây người chỉ biết khắc gỗ, vô dụng hết chỗ nói, đứa nào cũng thế! Nếu ta có một đứa con giỏi giang, hôm nay đâu đến nỗi thất bại thế này!”.
Phụ hoàng giận dữ đùng đùng bước vào căn phòng đó, châm lửa đốt. Ánh lửa bốc cao rừng rực, phụ hoàng phất tay áo bỏ đi.
Gã sững sờ nhìn ánh lửa tuyệt đẹp nhảy múa, nhìn những khúc gỗ bị cắn xé vô tình trong ánh lửa, cảm thấy cả thế giới của mình cũng bị thiêu đốt từng chút từng chút một.
Thế nhưng, điều tồi tệ hơn là tiếng rên rỉ của mẫu thân trong lòng gã đã im bặt.
Gã đờ đẫn cúi đầu, nhìn thấy một nữ tử yếu đuối không còn hơi thở và nửa miếng tranh đường rơi trên mặt đất, đó là thân một con phượng hoàng, đầu phượng hoàng đã bị vỡ nát, đôi cánh nhuốm máu. Hai cảnh ấy đối chọi với nhau, khiến gã động phách kinh tâm…
Di Phi nhớ đến đây, mệt mỏi nhắm mắt lại.
Đó là chuyện xảy ra khi gã lên chín, bao nhiêu năm đã trôi qua, chưa có một ngày nào quên. Từ đó, gã thường xuyên mơ một giấc mơ, mơ thấy mẫu thân đang bay trên mặt nước, gã ở trên bờ gọi bà, nhưng bà lắc đầu không chịu lại gần.
Bà nói bà rất sợ đất liền, vì mặt đất vừa lạnh vừa cứng, khi roi quất xuống, thậm chí bà không có nơi nào để tránh. Nhưng nước thì khác, nếu như có roi đánh bà nữa, bà có thể lặn xuống dưới nước, như thế roi không thể đánh vào bà được.
Hết lần này đến lần khác gã mơ thấy bà, hết lần này đến lần khác đau đớn cầu xin, lại hết lần này đến lần khác bị chối từ.
Giấc mơ đó trở đi trở lại, gã nghĩ chắc chắn gã đã bị nguyền rủa, bởi vì gã chỉ mải chìm đắm trong thế giới của mình, cho nên, mới để mẫu thân thất vọng và đau lòng đến thế.
Năm mười tám tuổi, theo tổ huấn, gã có thể dọn ra khỏi cung, thế là gã chọn một mảnh đất ven hồ có một cây cổ thụ ngàn năm. Gã xây nhà trên cây, neo thuyền dưới nước, ra vào đều dùng ngựa xe, cố gắng hết sức không để hai chân của mình chạm xuống đất.
“Chủ nhân! Tiếp theo phải làm thế nào? Mau quyết định đi!”.
“Chủ nhân…”. “Chủ nhân…”.
Những tiếng kêu sốt ruột đó không ngừng vang lên.
Di Phi bỗng nhếch khóe miệng, khẽ cười một tiếng: “Giấc mộng lớn này…
cuối cùng cũng tỉnh rồi…”.
“Chủ nhân, người nói gì vậy”. Sơn Thủy, Tùng Trúc, Cầm Tửu đều vây quanh gã.
Ánh mắt gã chầm chậm lướt qua gương mặt bọn họ, ba người này là tùy tùng của gã, là bảo tiêu của gã, cũng là bạn thân của gã. Chỉ có họ mới biết đêm đêm gã đều bị ác mộng vây khốn, biết nguyên nhân gã miệt mài luyện võ, càng biết được vì cái gì mà gã trăm mưu ngàn kế muốn làm hoàng đế.
Nếu như năm đó gã chịu luyện võ, có lẽ sẽ ngăn được đòn roi của phụ hoàng và mẫu thân cũng không chết.
Thứ gã ghét nhất chính là đất liền, vậy thì, biến toàn bộ đất liền thành của mình, nếu là của mình rồi, khi nằm mộng, gã có thể giơ hai tay ra, nói với mẫu thân: “Mẹ, mẹ có thể lên bờ rồi. Tất cả đất liền đều là của con, tất cả mọi người đều nghe theo mệnh lệnh của con, tất cả mọi người đều không đánh lại con, không còn roi có thể đánh mẹ, mẹ cũng không cần trốn trong phòng tối ăn đồ nữa, mẹ có thể quay về rồi”.
Ánh mắt Di Phi tối dần, chợt lóe sáng, rồi tất cả biến thành tịch liêu. Con xin lỗi mẹ, hình như con… thất bại rồi.
Cho nên, mẹ không thể quay về được… con xin lỗi.
Gã bỗng đứng dậy, đi ra phía ngoài khoang thuyền, tiện tay gỡ một miếng ngọc bội xuống, cắt đứt dây thừng, sau đó lại đạp một cái, tấm ván đột nhiên nứt toác, nước ào ào tràn vào.
Cầm Tửu cả kinh, kêu: “Chủ nhân, người định?”.
Di Phi quay đầu, khoanh tay cười với ba người: “Là anh hùng, đường cùng mạt lộ, duy chỉ có phá phủ trầm chu, phá sạch đường lùi quyết sống mái một phen thôi”.
Sơn Thủy và Tùng Trúc đưa mắt nhìn nhau.
Câu sau của Di Phi lại du dương lọt vào tai bọn họ: “Có điều rất đáng tiếc, từ xưa đến nay ta không phải là anh hùng, cho nên, ta phải trốn. Các người có bằng lòng theo một kẻ đường cùng ngõ cụt như ta lưu lạc chân trời không?”.
Ba người cơ hồ không hề do dự quỳ sụp xuống, đồng thanh đáp: “Chúng thuộc hạ nguyện đồng sinh cộng tử với chủ nhân!”.
“Rất tốt”. Di Phi phất tay áo, ngẩng đầu nhìn bầu trời, đã qua giờ Tí, một vầng trăng khuyết treo lơ lửng phía chân trời, lạnh lẽo thê lương vô hạn, đối lập với nó là ánh lửa sáng như ban ngày và tiếng giao chiến sục sôi bên ngoài tường cao của vương phủ.
Gã chăm chú nhìn ánh lửa nhảy nhót, tựa như ánh lửa trong ký ức tuổi thơ, nói rành rọt từng tiếng từng tiếng: “Khi ta chín tuổi, phụ hoàng dùng lửa thiêu thứ ta yêu quý nhất, mười năm sau, tiện nhân kia dùng lửa thiêu hoàng vị gần như đã là của ta… Không sao, Di Phi ta thề tại đây, mười năm sau, khi ta đặt chân lên đất Trình quốc, món nợ mà các ngươi nợ ta sẽ phải trả lại gấp mười, hai mươi lần, thậm chí gấp trăm lần!”.
Gã cởi áo khoác, lao xuống hồ trước tiên. Bọn Cầm Tửu cũng lần lượt nhảy theo.
Nước hồ lạnh như băng ào tới ước nhìn tưởng như rất nhẹ rất mềm, nhưng lúc này lại ép chặt trên từng bộ phận của cơ thể. Khi Di Phi men theo mật đạo dưới đáy hồ vội vàng trốn thoát không khỏi nghĩ đến một vấn đề thực ra không hề quan trọng cũng không chút liên quan: Ngày hôm đó, khi Ngu thị nhảy xuống nước tìm bông tai, liệu có chung cảm giác này không?
Trăng treo giữa trời, gió lạnh ù ù, mười dặm phố biến thành địa ngục.
Trung lang tướng Vân Địch đứng trên lầu cao, nhìn chiến trường phía dưới, sắc mặt đanh lạnh.
Họ đã dùng ba nghìn thiết giáp quân để mai phục Hàm Kỳ, tám mươi viên tùy tùng của Hàm Kỳ bị vây giết, chỉ còn lại chín người, mười người này bị đại quân bao vây, rành rành là cá nằm trên thớt, thế nhưng, hai canh giờ trôi qua, Tố kỳ quân hết người này đến người khác ngã xuống, còn mười người vẫn sừng sững không đổ.(2)
Đặc biệt là Hàm Kỳ, vẫn là áo giáp đỏ tươi như máu, trường đao lạnh sắc như nước, khi lưỡi đao vung lên hạ xuống, tất có người ngã xuống.
Cái danh Hồng Dực quả không phải hư truyền.
“Tướng quân, đánh mãi không thắng, phải làm sao?”. Quân sư lại gần Vân Địch, thấp giọng nói.
Vân Địch nhìn chằm chằm vào thân hình thấp bé mà tráng kiện đó, hồi lâu, làn môi mỏng khẽ hé, nói hai chữ: “Bắn tên”.
Tuy không thể bắt sống cũng hơi đáng tiếc, nhưng hắn đã không còn đủ nhẫn nại tiếp tục theo chiến đấu với gã chiến ma (Hàm Kỳ) tưởng chừng như không biết mệt mỏi đó.
Tay phải đang định chém xuống, lại có một giọng nói từ phía sau gấp gáp vang lên: “Dừng tay!”.
Vân Địch quay người, thấy thị vệ hai bên đều cúi người khấu lạy, người kia khoác áo lông, sắc mặt ửng đỏ đầy bệnh tật, vẻ mặt vừa giận dữ vừa lo lắng.
Không phải ai khác, đó chính là Lân Tố.
Vân Địch lập tức cúi người hành lễ: “Thuộc hạ tham kiến đại hoàng tử”.
Lân Tố tung cước, đá hắn ngã lăn ra, quát lớn: “Ai cho phép các ngươi bắn tên?”.
“Không thể bắt sống, mất bao thời giờ, quân ta càng lúc càng ít, cho nên…”, còn chưa dứt lời, lại bị một cước nữa. Vì Lân Tố đá quá mạnh, không kìm được ho húng hắng, vừa ho vừa nói: “Hắn là đệ đệ của bản vương, là đệ đệ ruột đó…
Ngươi… nếu các ngươi giết hắn, ta sẽ chém đầu các ngươi!”
“Nhưng công chúa có lệnh…”.
“Các ngươi nghe công chúa hay là nghe ta?”. Chúng tướng sĩ nhất thời im lặng.
Lân Tố chầm chậm thở ra, đi đến bên cửa sổ, nhìn khung cảnh chém giết phía dưới, không chịu được nhắm mắt lại, quay đầu nói: “Các ngươi phái người nói với hắn, chỉ cần hắn chịu quy thuận, không những không phải lo về tính mạng, còn có thể tiếp tục làm vương gia, hơn nữa…”.
Lời còn chưa nói hết, một cung tiễn thủ đứng bên một cửa sổ khác đã bắn tên, chỉ nghe “vút” một tiếng, mũi tên lao đi như sao băng, không thiên không lệch, nhắm trúng yết hầu của Hàm Kỳ, Hàm Kỳ kêu lên một tiếng thảm thiết, từ trên ngựa ngã lăn ra đất.
Lân Tố trợn mắt trừng trừng, con ngựa của Hàm Kỳ bị kinh sợ, giẫm lên cơ thể Hàm Kỳ, trong nháy mắt máu thịt bầy nhầy máu tươi tung tóe, cảnh tượng hết sức ghê rợn. Lân Tố đờ đẫn hồi lâu mới tỉnh lại, nhìn chằm chằm cung tiễn thủ kia: “Ngươi… giết hắn?”.
Cung tiễn thủ vứt cây cung trong tay đi, quỳ sụp xuống: “Thuộc hạ là nghĩ cho điện hạ”.
Lân Tố bước nhanh lên phía trước, kéo cổ áo hắn, gằn giọng: “Ngươi, giết hắn!”.
Cung tiễn thủ đó không hề hoảng loạn, nhắc lại lần nữa: “Thuộc hạ vì điện hạ!”.
“Ngươi ngươi ngươi…”. Lân Tố nổi giận, rút thanh đao giắt bên người, nhằm người kia mà chém xuống, một đôi tay đột nhiên xuất hiện, nhẹ nhàng giữ y lại. Y không biết võ công, vì thế chỉ cảm thấy bả vai đau buốt, đại đao rơi keng xuống đất.
Lân Tố quay đầu lại, người cản y chính là Vân Địch.
“Vân Địch ngươi làm gì vậy?”.
Vân Địch lạnh nhạt đáp: “Điện hạ vất vả một đêm, nên quay về nghỉ ngơi rồi”.
“Cái gì?”. Lân Tố kinh ngạc.
Vân Địch cao giọng: “Hiện tại trong thành đại loạn, điện hạ thân thể ngàn vàng, tuyệt đối không nên bị tổn hại mới phải. Người đâu, đưa điện hạ về cung!”.
“Đợi đã! Vân Địch, ngươi – ngươi – ngươi dám làm thế với ta”.
Vân Địch cười mỉm, nhưng trong nụ cười ẩn chứa sự lạnh lẽo tàn khốc: “Công chúa đang ở trong cung đợi điện hạ, có gì muốn nói, điện hạ có thể nói với người”. Nói đoạn khoát tay, mấy tên binh sĩ tiến lên, xốc Lân Tố kéo đi, suốt dọc đường chỉ nghe thấy tiếng kêu kinh ngạc, tiếng chửi mắng và tiếng ho không ngừng của y.
Quân sư cau mày hỏi: “Như thế có được không? Nói gì đi nữa, hắn cũng là hoàng tử, hiện giờ cũng là hoàng tử duy nhất đắc tội với hắn…”.
Vân Địch nhướn mày, “Quân sư sao thông minh một đời, hồ đồ nhất thời vậy, ngươi cho rằng, ở Trình quốc hiện nay, là ai làm chủ?”.
“Đương nhiên là công chúa, nhưng công chúa cũng chỉ là một nữ nhi…”.
Vân Địch cười lạnh: “Nữ nhi sao? Nữ nhi không thể gánh được chữ ‘vương’
sao?”.
Quân sư “a” một tiếng, như người tỉnh mộng, kinh ngạc bịt miệng lại.
Vân Địch nhìn thấy phía dưới, chín người vì Hàm Kỳ đã chết mà như rắn mất đầu, từng tên từng tên bị bắn chết, thong thả nói: “Mười năm mài một kiếm, sương đao nay đã thành. Công chúa, giờ đây nàng thắng lợi, phải chăng đã được giải thoát một chút rồi?”.
Dưới ánh trăng, vẻ mặt hắn bỗng trở nên ảm đạm, thương tiếc khôn tả, bi thương khôn tả.
“Mười năm… mười năm…”.
Lân Tố bị quân đội của mình bán đứng, cưỡng ép vương cung với danh nghĩa là bảo vệ mà kỳ thực là giam lỏng, đang chăm chú nhìn ánh trăng bên ngoài cửa sổ, thì thào.
Có cung nữ bưng lên mỹ tửu điểm tâm, đặt trên bàn cạnh rồi lại nhẹ nhàng nhón bước lui ra.
Y nhìn bình rượu có điêu khắc hình lưỡng xà tranh trong đáy mắt diễn ra một loạt thay đổi, có sợ hãi, có ngờ, có phẫn nộ, nhưng cuối cùng lắng đọng thành thương cảm.
Y từ từ đưa tay về phía bình rượu đó, ngón tay không ngừng run rẩy, chần chừ do dự, rõ ràng là một khoảng cách rất ngắn, nhưng mất thời gian nửa tuần nhang mới chạm tới bình rượu.
Thân bình khẽ nghiêng, mỹ tửu màu hổ phách mang theo hương thơm nồng được rót vào chén.
Y chăm chú nhìn chất lỏng trong chén, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc, cuối cùng y thở dài thườn thượt, nói: “Bỏ đi. Vua muốn thần chết, thần không thể không chết…”. Nói rồi, như lấy hết dũng khí, uống một hơi cạn chén rượu đó… Chén rượu sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình rơi cạch xuống đất, rơi mà không vỡ, thuận thế lăn mấy vòng, lăn đến bên chân một người.
Người đó nhẹ nhàng đi vào, chiếc váy dài thướt tha như nước quét trên mặt đất, bước chân của nàng khẽ khàng như hoa rơi.
Lân Tố tựa bên bàn, mơ mơ hồ hồ nhìn nàng, gương mặt nàng mông lung mông lung, có chút rõ ràng, lại có chút nhòe nhoẹt như thành một bức họa khác: Mười năm trước, khi thiếu nữ ấy từ ngoài cửa bước vào, cũng như thế này.
Từng bước từng bước, chậm rãi như thế.
Khi nàng cách y chỉ còn một bước, bỗng nhào tới ôm chặt lấy y, òa lên nức nở, nói: “Đại hoàng huynh! Đại hoàng huynh…”.
Mà lần này, người đó dừng cách y ba bước, không lại gần nữa, chỉ im lặng nhìn y, không nói nửa lời.
Thế nên y cười, cất tiếng: “Tất cả đều đúng như ước nguyện của muội phải không?”.
Người đó vẫn nhìn y, không nói.
Y cười càng lúc càng lớn, y vừa cười vừa ho: “Muội giết Hàm Kỳ, cũng giết Di Phi, đến cả phụ hoàng cũng trong tay muội, muốn sống muốn chết, chẳng qua cũng chỉ là một câu nói của muội. Tâm nguyện của muội đã thành hiện thực cả rồi? Bây giờ muội đến giết ta đúng không? Ôi không, ta quên mất, muội đã ban rượu độc cho ta, vậy thì, muội đến để nhìn ta chết phải không?”.
Người đó cụp mắt, lát sau, mới khẽ nói: “Di Phi trốn thoát rồi”.
“Sao cơ? Vậy thật là đáng tiếc… Nhưng không sao, một hoàng tử thất thế, cùng đường mạt lộ, sao có thể thoát khỏi sự truy đuổi của một người quyền bính trong tay, lòng dân hướng về như muội? Bắt hắn cũng chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi”.
“Đại hoàng huynh…”, người đó lên tiếng, cuối cùng đã bước qua khoảng cách ba bước cuối cùng, đến trước mặt y, sau đó từ từ ngồi xuống, ngả đầu trên đầu gối y.
Khi đầu nàng ngả lên đầu gối y, cùng lúc ấy, cơ thể vốn lạnh băng trở nên ấm áp hơn vì cảm nhận được nhiệt độ của đối phương, Lân Tố không kìm được bi ai nghĩ: Y rốt cuộc không thể nào ghét được người này, cho dù bị lợi dụng, bị phản bội, thậm chí bây giờ bị hạ độc, y đều không thể oán ghét người này. Đầu nàng ngả trên đùi y, một nơi đã chết trong tim bỗng giãy giụa sống trở lại.
“Di Thù… Di Thù… Di Thù ơi…”
Y chầm chậm đưa tay ra, chạm lên mái tóc nàng. Nàng có một mái tóc dài cực kỳ mềm mượt như tơ lụa mát lạnh, hệt như mười năm về trước.
“Muội xử trí phụ hoàng thế nào?”.
“Muội chặt đứt hai chân hai tay ông ta, móc mắt, cắt tai, cắt lưỡi ném vào ống sành, làm con người lợn”. Giọng nói của nàng rất khẽ rất dịu dàng, khi nói chuyện này, thậm chí còn không hề có chút lên giọng nào.
“Ta có thể cầu xin muội một việc không?”.
“Huynh muốn muội giết ông ta? Để ông ta mau chóng kết thúc đau khổ?”.
Di Thù cười ha ha, “Không thể được, huynh biết mà, tuyệt đối không thể”.
Lân Tố nhắm mắt lại.
Di Thù ngẩng đầu, ngước nhìn gương mặt y, khẽ nói: “Huynh thương ông ta? Đến bây giờ huynh vẫn thương ông ta?”.
Giọng Lân Tố dịu đi: “Rốt cuộc ông ấy vẫn là phụ thân của chúng ta”.
“Có phụ thân như ông ta sao?”. Di Thù bỗng trở nên kích động, tóm áo y, rít lên: “Hãy nghĩ xem ông ta đã làm những gì? Đã làm những gì đối với muội! Dã tâm bành trướng vọng tưởng thôn tính Yên quốc cũng đã đành, thực lực không bằng người ta, thua là chuyện bình thường, nhưng ông ta lại trút giận lên người bên cạnh, thế nên ông ta dùng roi đánh chết mẹ của Di Phi; mẫu thân của chúng ta cũng vì nói sai một câu mà bị đẩy vào lãnh cung, u uất mà chết; còn muội!
Còn muội!”. Tay nàng túm áo mình, run rẩy, nước mắt ào ra như suối: “Cái gì mà con gái được Trình vương sủng ái nhất, cái gì mà Di Thù công chúa dưới một người trên vạn người ở Trình quốc, những chuyện vẻ vang tột cùng mà người khác thấy đó, thực ra là tấm vải che đậy tội lỗi của ông ta! Ông ta… ông ta…!!”.
Lân Tố bỗng mở to mắt, nhìn chằm chằm muội muội cùng một mẹ sinh ra với y, hai giọt nước mắt trào khỏi vành mắt, lăn xuống theo gò má.
Trong khoảnh khắc, dường như quay trở lại mười năm trước đứa trẻ đó tột cùng hoảng sợ, nhục nhã, đau đớn không thiết sống lao vào ôm y, nức nở gào khóc, gào lên từng tiếng từng tiếng: “Đại hoàng huynh, đại hoàng huynh, muội phải làm sao? Muội phải làm sao?…”.
Gia đình đế vương, lắm chuyện xấu xa.
Mà họ chẳng qua là bất hạnh hơn người khác, có một người cha không bằng loài cầm thú.
Di Thù gạt lệ, gằn giọng nói: “Cho nên, những gì phải chịu bây giờ đều là đáng đời ông ta. Muội sẽ không để ông ta được chết nhanh chóng đâu, muội phải để ông ta sống, sống hết ngày này qua ngày khác, một ngày còn sống là một ngày chịu thêm giày vò”.
Lân Tố lại lần nữa nhắm mắt lại. Y cảm thấy rất mệt mỏi.
Y thật sự rất mệt. Cơ thể không còn chút sức lực, trong lòng cũng trăm ngàn vết thủng lỗ chỗ. Thật sự không muốn bận tâm đến bất cứ thứ gì nữa, cứ thế thiếp đi.
Nhưng, Di Thù lại giơ tay ôm lấy y, tựa đầu vào lồng ngực y, thì thầm: “Đại hoàng huynh… huynh hận muội ư? Đại hoàng huynh, đừng hận muội được không? Người muội thích nhất là huynh, chỉ có huynh mới có thể khiến muội tạm thời quên đi tất cả bất hạnh, chỉ có huynh mới toàn tâm toàn ý ủng hộ muội mà không đòi hỏi bất cứ thứ gì, muội thích đại hoàng huynh nhất nhất nhất…”.
Lân Tố cười cay đắng: “Chẳng phải muội cũng thích Hàm Kỳ nhất sao?”.
Sắc mặt Di Thù thoắt biến đổi.
“Những lời như thế, muội đều nói với Hàm Kỳ và Di Phi rồi, đúng không?”. Di Thù ngẩng đầu, mặt không biểu cảm nhìn y.
Lân Tố không mở mắt, chỉ lạnh nhạt nói: “Nếu không, với sự vũ dũng nhường ấy của Hàm Kỳ, sự tinh ranh nhường ấy của Di Phi, sao có thể đều bại trong tay muội chứ?”.
“Đại hoàng huynh đang nói gì, muội nghe không hiểu”.
“Di Thù, ta biết muội bất hạnh, ta thực sự biết. Cho nên, muội oán hận, muội muốn báo thù, đều là chuyện nên làm. Thế nhưng, muội vì báo thù, mà để bản thân rơi vào vòng xoáy càng đáng sợ hơn, càng nhơ bẩn hơn. Chuyện này thực sự đáng sao?”.
Ánh mắt Di Thù trở nên sắc lẻm: “Hóa ra… huynh biết?”.
“Mỗi lần muội gặp một nam nhân có thể giúp muội là đều tìm cách lợi dụng triệt để, mà lần nào muội cũng dùng cơ thể của mình để trao đổi. Tướng lĩnh, chư hầu, thậm chí đến sứ thần nước khác, tỉ như Giang Vãn Y, muội cũng không bỏ qua”.
“Huynh đang nói muội là dâm phụ đúng không?”. Vẻ mặt Di Thù lạnh đi mấy phần, cười gằn nói: “Huynh có tư cách gì mà chỉ trích muội chứ? Lẽ nào huynh không lợi dụng muội? Rặt một phường lang sói, huynh…”.
“Không, ta chỉ cảm thấy bi ai…”, Lân Tố nhẹ nhàng ngắt lời nàng, “Những chuyện liên quan đến muội, thực ra ta đều biết, chỉ là không nói ra mà thôi. Bởi vì, mỗi một lần, mỗi một lần, đều chỉ khiến ta đau lòng. Phụ hoàng rốt cuộc đã hủy hoại muội đến thế nào, không những khiến muội sinh lòng oán hận, mà còn biến thành méo mó thế này. Di Thù, tại sao muội lại biến thành méo mó thế này?”.
Di Thù ngậm miệng, không nói nữa.
Lân Tố cuối cùng mở mắt ra, nhìn nàng bằng ánh mắt sâu thẳm, nói từng tiếng: “Di Thù, nếu thời gian có thể quay ngược lại mười năm trước, ta nhất định sẽ đi cứu muội, nhất định sẽ đi…”.
Di Thù im lặng hồi lâu, chầm chậm đứng lên, từ trên cao nhìn xuống y, khẽ nói: “Nhưng thời gian không thể quay ngược lại”.
Trong nháy mắt, gương mặt Lân Tố xám ngoét một màu chết chóc.
Di Thù quay người, mái tóc và chiếc váy đều bị gió thổi tung, nàng bước đi theo tiết tấu giống như lúc đến, từng bước từng bước rời đi.
Thân thể Lân Tố chầm chậm đổ xuống, hai dòng máu chảy ra từ mũi y, rỏ xuống chiếc áo trắng của y.
Chân trời đã hé những tia nắng ban mai đầu tiên. Khương Trầm Ngư lại một đêm mất ngủ.
Nàng ngồi trực cả đêm bên giường của Sư Tẩu.
Đêm qua, từ khi Di Thù công chúa xuất hiện đến cuối cùng khi công tử và Yên vương, Nghi vương thỏa thuận xong, nàng và Sư Tẩu liền được sắp xếp ở trong một gian phòng của khu nhà này.
Có lẽ đối với Lô Loan mà nói, đây cũng là nơi duy nhất an toàn.
Sau đó Giang Vãn Y và Phan Phương cũng xuất hiện, đêm đó sau khi đi khởi một lát Phan Phương đã liên lạc được với người của Cơ Anh, sau đó y đưa Giang Vãn Y cùng tới đây.
Giang Vãn Y băng bó lại vết thương cho Sư Tẩu, tuy chân tay bị chặt đứt không thể nối liền, nhưng ít nhất không còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.
Khương Trầm Ngư bây giờ mới hơi an tâm, tựa bên giường mà ngủ thiếp đi.
Nhưng bên ngoài lại vọng tới đủ mọi loại âm thanh, nàng nghe không rõ, nhưng thực sự tồn tại, lại thêm ở nơi lạ lẫm, trên chiếc giường lạ lẫm, chiếc chăn mới mang theo một cảm giác thô nháp, cọ xát trên da, khó chịu đến mức khiến người ta bồn chồn.
Vì thế, khi đồng hồ cát chảy đến vạch giờ Dần, nàng không chịu nổi nữa, đứng dậy chải đầu qua loa, đẩy cửa, khoác áo đi ra ngoài.
Bên ngoài sương giăng dày đặc.
Mọi thứ trong màn sương đều mờ mờ mịt mịt, mông lung như mộng cảnh.
Trong sân, ven chân tường trồng rất nhiều hoa, giữa bụi hoa thấp thoáng một bóng người.
Nàng đến gần thì nhận ra, hóa ra là Tiết Thái. Lẽ nào hắn cũng cả đêm không ngủ?
Chỉ thấy Tiết Thái ngồi xổm trước một cây hoa rất đặc biệt, sắc hoa đỏ như máu, cánh hoa nhỏ dài khum khum như móng rồng, Trầm Ngư chưa từng nhìn thấy bao giờ, không kìm được tò mò hỏi: “Đây là hoa gì?”.
Tiết Thái nghe thấy giọng nói, quay đầu lại nhìn nàng một cái rồi mới đáp: “Mạn Châu Sa Hoa”.
A, đây chính là hoa Bỉ Ngạn được nhắc đến trong ‘Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh’ sao?”. Khương Trầm Ngư cũng ngồi xuống, vừa ngắm vừa nói: “Hoa Bỉ Ngạn, một nghìn năm hoa nở, một nghìn năm hoa tàn, hoa và lá chẳng bao giờ gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định sống chết. Đúng là một loại hoa đau thương…”.
“Phật nói bờ bên kia (Bỉ Ngạn), không sống không chết, không khổ không sầu, không muốn không cầu – Đã là như thế, sao còn bi ai?”. Tiết Thái khẽ nhếch khóe môi, có vẻ không đồng ý.
Khương Trầm Ngư nhìn hắn, bật cười.
Tiết Thái lạnh nhạt nói: “Ngươi cười cái gì?”.
“Ta đang nghĩ thực ra chúng ta rất có duyên phận, chẳng phải sao? Thân ở dị quốc xa xôi ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau”.
“Có lẽ người thực sự có duyên với ngươi là người khác mà không phải là ta?”.
Khương Trầm Ngư cau mày, đứa trẻ này đúng là không đáng yêu chút nào, nàng tìm hắn gợi chuyện cũ, hắn lại chuyên chọc ngoáy vào nỗi đau của nàng.
Thấy nàng thần sắc ủ rũ, Tiết Thái bỏ vẻ châm chích lạnh lùng, ánh mắt lướt qua gian phòng khách mà nàng vừa mới bước ra kia: “Người đó đã chết chưa?”
“Ngươi nói Sư Tẩu?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu, thần sắc lại rầu rĩ thêm mấy phần, “Tuy không chết, nhưng mà… đến khi hắn tỉnh lại, ta thật sự không biết phải đối diện với hắn như thế nào”.
“Con kiến còn ham sống, huống hồ con người. Cho dù thế nào, sống được vẫn tốt hơn là chết”.
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn hắn, chậm rãi nói: “Đối với ngươi cũng như thế phải không?”.
Tiết Thái lại cười lạnh lùng, ánh mắt lóe sáng không ngừng, cuối cùng nghiêng đầu, liếc nàng nói: “Chẳng phải ngươi rất thương hại ta sao?”.
Khương Trầm Ngư sững sờ.
“Đừng chối, mỗi lần ngươi nhìn thấy ta, trong ánh mắt đều ngập tràn sự thương xót, để lộ biểu cảm từ bi như Bồ Tát, lần trong hoàng cung Bích quốc và cả đêm qua cũng thế”.
Khương Trầm Ngư nói: “Đêm qua tối như thế, ngươi cũng có thể nhìn thấy biểu cảm của ta?”
“Là ta biết”. Tiết Thái hơi ngẩng đầu, ánh mắt đảo một vòng trên bầu trời, rồi lại rớt xuống gương mặt nàng, “Thế nhưng, ta cảm thấy so với một người vì không còn gì để mất, cho nên cũng không sợ hãi thứ gì như ta, người nào đó càng đáng thương hơn, càng nên cảm thấy đau buồn cho bản thân mình”.
“Người nào đó mà ngươi nói là ta?”. “Nếu không còn ai vào đây?”.
Khương Trầm Ngư cảm thấy hứng thú, cười hỏi: “Sao ta lại đáng thương?”.
“Thiên kim của tể tướng, lá ngọc cành vàng, nhưng không thể gả được cho người mình yêu, vì lợi ích gia tộc mà buộc phải tiến cung, từ bỏ đứng đầu quần phi, phải chạy đến đảo quốc xa xôi ngàn dặm làm gián điệp, dọc đường nguy hiểm trùng trùng, phiền phức liên miên, đêm qua còn suýt mất cả cái mạng nhỏ. Ngươi nói xem, lẽ nào ngươi không đáng thương?”.
Khương Trầm Ngư nghe ra hắn có ẩn ý, lập tức ngưng cười, nghiêm mặt nói: “Ngươi biết đêm qua ai phát sát thủ truy sát ta?”.
Tiết Thái chớp chớp mắt, “Ngươi đoán xem”.
Cùng là chớp mắt, khi Hách Dịch chớp mắt luôn mang theo vẻ dịu dàng, Di Phi lại có vẻ giảo hoạt đặc thù, nhưng ở Tiết Thái lại biến thành sự linh hoạt và thanh tú khó tả thành lời có chút xấu tính, lại có chút trẻ con.
Là ai đi chăng nữa cũng không thể nổi giận với một đứa trẻ như thế, hơn nữa còn là một đứa trẻ xinh đẹp đến vậy, đáng thương đến vậy.
Khương Trầm Ngư cũng không thể, vì thế nàng chỉ có thể nói: “Ta đoán không ra”.
“Vậy thì ta sẽ tốt bụng dẫn ngươi đi xem nhé”. Tiết Thái quay người dẫn đường, “Đi theo ta”.
Khương Trầm Ngư đành đi theo. Đi vòng vèo quanh co hơi lâu, nhìn thấy một cổng vòm, Tiết Thái không đi thẳng qua cửa, mà đi sang bức tường thấp bên cạnh, dưới chân tường có chất mấy tảng đá, hắn giẫm lên trên, sau đó vẫy tay gọi nàng.
Tuy cảm thấy hành động này có hơi thất thố, nhưng không nén nổi tò mò, Khương Trầm Ngư cũng giẫm lên tảng đá, nhòm qua bên kia tường, vừa nhìn một cái, liền thở hắt ra một hơi lạnh.
Bên kia tường là một cái sân.
Trong sân không có gì đặc biệt, thứ đặc biệt chính là trên chiếc bàn đá bày la liệt sơn hào hải vị, sơn hào hải vị cũng không có gì đặc biệt, thứ đặc biệt chính là hai người ngồi bên bàn.
Một người áo xống xênh xang, như tiên trong núi; một người mày mắt thanh tú như hoa trong nước.
Không phải ai khác, chính là Cơ Anh và… Di Thù.
Hai người bọn họ tại sao lại ở cùng nhau? Hơn nữa còn vào lúc này?
Tiết Thái giật giật tay áo nàng, ra hiệu giữ im lặng. Khương Trầm Ngư cho dù có một bụng nghi hoặc cũng chỉ có thể kìm nén, im lặng quan sát.
Chỉ thấy Di Thù tự tay múc một bát canh, đưa đến trước mặt Cơ Anh, ngọt ngào cười nói: “Đây là canh Kim Phong Ngọc Lộ nổi tiếng nhất nước ta, đều dùng sương trên hoa buổi sớm, cùng với bảy bảy bốn mươi chín nguyên liệu quý hiếm nấu thành, ngọt mà không ngấy, tan liền trong miệng, lưỡi răng thơm lừng, dư vị đậm sâu. Hơn nữa, tốt nhất nên ăn vào buổi sáng, có thể giữ cho tinh thần sảng khoái cả ngày. Ngài nếm thử xem?”.
Cơ Anh đưa tay nhận lấy, lịch sự nhã nhặn đáp: “Đã nghe danh từ lâu, vậy thì Anh không khách sáo nữa”. Nói đoạn cầm thìa nếm một ngụm.
Di Thù hỏi: “Thế nào?”
Cơ Anh mỉm cười: “Công chúa nấu thật khéo”.
Di Thù “ha” một tiếng, vuốt tóc nói: “Sao ngài biết là ta nấu?”.
Cơ Anh buông bát canh xuống, “Công chúa muốn đáp tạ ta, đương nhiên sẽ dùng món quà quý trọng nhất, canh Kim Phong Ngọc Lộ lại là bí mật của hoàng thất Trình quốc, người khác xưa nay không có phúc được hưởng, huống hồ còn là canh do công chúa đích thân nấu”.
Di Thù che miệng cười: “Từ lâu đã nghe nói tài ăn nói của công tử thiên hạ vô song, khi sắc bén thì như dao sắc, khi vi diệu lại như thổi khói giữa sương, mà khi dịu dàng, càng say đắm lòng người hơn cả gió xuân…”.
Cơ Anh cười nhạt.
Di Thù bỗng dựa sát chàng thêm, giọng nói buông thật khẽ thật ngọt ngào: “Thế nhưng, sở dĩ ta nấu món canh này cho công tử, thực ra còn có ý tứ khác nữa…”.
Cơ Anh nhướn mày.
“Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số”
(Gió vàng móc ngọc một gặp nhau, Hơn biết mấy người đời gần gụi) (3) . Di Thù vừa thân mật nói vừa khẽ chọc ngón tay lên ngực Cơ Anh.
Đầu óc Khương Trầm Ngư lập tức trở nên trống rỗng.
Nàng làm sao có thể ngờ rằng mình sẽ nhìn thấy cảnh tượng này, chẳng trách khi Tiết Thái chớp mắt, lộ rõ vẻ cổ quái xấu xa. Hắn cố ý! Hắn biết ở đây sẽ diễn ra màn kịch như thế nào, cũng biết màn kịch này làm tổn thương nàng nhất, cho nên cố ý dẫn nàng đến!
Quá… quá… thật quá đáng…
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, định quay người bỏ đi, liền bị Tiết Thái giữ chặt lại, nàng trợn mắt gườm Tiết Thái, Tiết Thái lắc đầu với nàng, ánh mắt bảo nàng đừng nóng vội.
Khương Trầm Ngư vừa giận vừa tức, lại sợ gây ra tiếng động khiến đối phương phát giác, đành tiếp tục đứng xem. Trong lòng như bị thứ gì đó lăn qua, vì không thể vỡ hẳn ra, cho nên dính với nhau nhơm nhớp.
Mà bên kia, Cơ Anh không hề đẩy Di Thù ra, chỉ nhìn xuống vạt áo của mình theo ngón tay nàng ta, một lát sau mới nhướn mày, cười hỏi: “Công chúa đã biết câu này, đương nhiên cũng nên biết một câu khác”.
“Một câu khác gì?”.
“Nhân các hữu ngẫu, Tề đại, phi ngô ngẫu dã”(4).
Di Thù giận dỗi nói: “Hóa ra công tử chê người ta, ta không chịu, ta không chịu…”, nói rồi, giơ nắm tay trắng trẻo lên khẽ đập lên người chàng.
Cơ Anh nắm lấy tay Di Thù, thở dài nói: “Ngày mai công chúa sẽ là quân vương Trình quốc, e là không còn thời gian mà hờn giận như thế nữa”.
Di Thù ngưng cười, nhìn chàng chằm chằm, ánh mắt thâm trầm, “Công tử…
thực sự không cần ta báo đáp?”.
Cơ Anh nghiêm mặt đáp: “Những điều công chúa báo đáp ta đã viết đủ nhiều trên quốc thư rồi”.
Di Thù cắn môi, hạ giọng nói: “Chàng… không thích ta sao?”.
“Ta rất thích công chúa”, Cơ Anh nói, từ nắm tay đổi thành dắt tay nàng ta, “giống như thích một đứa trẻ kiên cường đứng dậy bước tiếp trong gian khó, mất mát rất nhiều, từ bỏ rất nhiều, phản bội rất nhiều, nhưng trước sau vẫn không hối hận”.
Di Thù im lặng, rất lâu sau mới chầm chậm rút tay khỏi tay chàng, đồng thời cũng tách ra khỏi chàng. Khương Trầm Ngư xem đến đây, tảng đá nặng trịch trong lồng ngực mới miễn cưỡng hạ xuống và một cảm giác rất vi diệu theo đó dâng trào.
Trước đó, khi Di Thù khêu gợi Cơ Anh, nàng chỉ cảm thấy giận dữ, nhưng nhìn thấy Di Thù bị Cơ Anh cự tuyệt xong, sự giận dữ đó liền chuyển thành cảm khái – Công tử khi từ chối người khác vẫn luôn dịu dàng như thế.
Dịu dàng đến mức khiến người ta đau lòng.
Di Thù quay người lại, chăm chú nhìn ánh mặt trời mỏng manh xuyên qua màn sương trắng, chậm rãi nói: “Ta cũng thích công tử. Bởi vì, công tử là nam nhân duy nhất giúp ta, nhưng không hề nhân cơ hội lợi dụng ta, cho dù ta thực sự cam tâm tình nguyện”.
Cơ Anh dịu dàng đáp: “Công chúa sắp là Trình vương, chỉ cần nàng muốn, không có nam nhân nào có thể lợi dụng nàng”.
Di Thù buồn bã mỉm cười: “Kéo một nam nhân lên giường thì dễ, nhưng muốn đuổi họ xuống thì quá khó”.
Cơ Anh im lặng một hồi, mới nói: “Nàng là Trình vương”.
Vì bốn chữ này, đôi mắt Di Thù lại lần nữa tỏa sáng, nhắc lại một lần thật chậm, thật chậm: “Ta – là – Trình – vương”.
Di Thù hít một hơi thật sâu, cao giọng nói: “Không sai! Công tử nói đúng, từ ngày hôm nay trở đi, ở Trình quốc, ta chính là người đứng trên vạn người, không ở dưới ai, không ai có thể tùy ý trêu đùa sự tôn nghiêm của ta, nắm giữ vận mệnh của ta! Ta là Trình vương”.
Cơ Anh mỉm cười với Di Thù. Nụ cười đó còn ấm áp hơn cả ánh dương.
Ánh mắt Di Thù trầm xuống, lại nhìn chàng chằm chằm hồi lâu, rồi nhướn mày nói: “Công tử thực sự không muốn ta báo đáp công tử trên giường?”.
Khóe mắt Cơ Anh run run.
Thế là Di Thù bắt đầu cười ha ha(5): “Đùa công tử thôi, công tử chính là Liễu Hạ Huệ chính nhân quân tử của ta! Được rồi, ta lại giới thiệu với công tử mấy món ăn nữa nhé? Qua thôn này, sẽ không còn quán này nữa(6) đâu, sau này sẽ không còn cơ hội bắt quân vương Trình quốc xuống bếp vì ngài đâu…”. Nói đoạn, cầm chiếc thìa lên bắt đầu xúc những món ăn khác.
Khương Trầm Ngư nhìn đến đây, nhẹ nhõm thở nhẹ một hơi.
Tiết Thái lập tức quay đầu lại, nhìn nàng bằng đôi mắt đen lay láy, lạnh lùng nói: “Tật xấu của ngươi lại bắt đầu rồi đấy”.
“Hả?”. Thế là có ý gì?
“Sự thương hại của ngươi lại bắt đầu dâng trào phải không? Ngươi rất thương hại ả công chúa kia sao?”.
“Cô ta bị phụ vương mình… lại nhập nhèm với mấy vị ca ca, kỳ thực rất đáng thương…”.
“Xem kìa, lại bắt đầu diễn vai Bồ Tát rồi”, Tiết Thái tặc lưỡi nói.
Khương Trầm Ngư không khỏi xấu hổ, hỏi: “Tại sao ngươi lại cười ta? Lẽ nào ta không thể thương hại cô ta?”.
“Đương nhiên không thể”. Tiết Thái nghiêm mặt, ánh mắt trở nên vừa thâm trầm vừa lạnh lùng, “Bởi vì, kẻ sai sát thủ giết ngươi chính là vị công chúa Trình quốc đáng thương đáng được đồng tình này”.
Sét đánh giữa trời quang, đánh thẳng vào trái tim Khương Trầm Ngư như thế.
Giả sơn, bàn đá, sơn hào hải vị… hết thảy trước mắt bỗng nhòa đi, chỉ còn lại áo trắng tóc đen của công tử là rõ ràng biết mấy.
Là Di Thù sai người giết nàng?
Là Di Thù sai người giết nàng?
Phút giây này, điều Khương Trầm Ngư nghĩ không phải là tại sao Di Thù phải sai người giết nàng, mà là – Di Thù muốn giết nàng, công tử lại giúp Di Thù!
Công tử biết rõ!
Đến Tiết Thái cũng biết, làm sao công tử có thể không hay?
Chàng biết, chàng biết, chàng biết!
Mà chàng, bây giờ, đang nhàn nhã ngồi bên bàn, dịu dàng nhìn Di Thù, nói chuyện với ả, mỉm cười với ả.
Thậm chí chàng còn giúp ả trở thành nữ đế của Trình quốc!
Làm sao nàng chịu nổi?
Những chữ này lờ mờ nổi lên trong đầu Khương Trầm Ngư, trong nháy mắt, lệ sa từng hàng, không rõ nguyên nhân, không có lý do, đáng sợ mà chua xót.
“Ta… thực sự là kẻ không quan trọng đến vậy…”. Khương Trầm Ngư lẩm nhẩm, muốn cười nhưng không sao cười nổi.
Đúng lúc đó, một tên thị vệ vội vã bước vào, ghé tai Di Thù nói gì đó, Di Thù gật đầu, quay người cười nói: “Ta phải đi rồi”.
Cơ Anh đứng dậy, đáp: “Nội loạn mới yên, công chúa đương nhiên có nhiều việc cần xử lý, là Anh đã quấy rầy. Công chúa cứ tự nhiên”.
Di Thù nhìn chàng đăm đăm, “Đại ân không lời nào cảm tạ hết được”.
Cơ Anh không nói gì thêm nữa, chỉ chắp tay hành lễ.
Di Thù theo sau tên thị vệ kia rảo bước rời đi.
Cơ Anh bấy giờ mới chầm chậm ngồi xuống chiếc đôn đá, khẽ thở dài, nói: “Các ngươi có thể ra được rồi”.
Tiết Thái kéo tay Khương Trầm Ngư, nàng vẫn bàng hoàng, đờ đẫn theo hắn bước qua cửa vòm.
Ánh mắt Cơ Anh tựa như một cơn gió mát lướt qua mặt hồ đậu lại trên gương mặt nàng.
Khuôn mặt của Khương Trầm Ngư trắng bệch như tuyết.
Cơ Anh nhìn Tiết Thái thoáng vẻ trách móc, cất tiếng: “Khương tiểu thư…”.
Khương Trầm Ngư đột ngột ngắt lời chàng: “Tại sao Di Thù muốn giết tiểu nữ?”.
Làn môi Cơ Anh run run giây lát, nhưng chàng không trả lời.
Tiết Thái đáp thay chàng: “Rất đơn giản. Bởi vì nữ nhân đó không chịu được nữ nhân khác được yêu thích hơn mình mà thôi”.
Khương Trầm Ngư không nhìn hắn, chỉ dán mắt vào Cơ Anh, khẽ hỏi: “Là như thế sao?”.
Tiết Thái lại trả lời thay: “Ngươi có biết, nửa tháng nay, nữ nhân nổi bật nhất ở Trình quốc là ai không?”. Không đợi Khương Trầm Ngư trả lời, hắn tự nói tiếp: “Là ngươi, chính là ngươi. A Ngu cô nương. Ngươi là sư muội của Đông Bích hầu, ngươi xin hắn cái gì liền được cái nấy, ngươi cứu tính mệnh của Nghi vương, khiến Nghi vương thần hồn điên đảo vì ngươi; ngươi còn chỉ dùng một khúc nhạc mà khiến Yên vương cảm phục, vì thế có được danh cầm và cầm phổ tuyệt thế; ngươi bị hôn mê, quan viên khắp triều lũ lượt tặng quà; một đêm ngươi không về, Nghi vương đích thân đến vương phủ đòi người; không chỉ như thế, ngươi còn khiến ba vị hoàng tử hoặc nhiều hoặc ít đều đối xử với ngươi khác người bình thường… Mà những nam nhân này đều là người mà Di Thù lợi dụng, hoặc là có ý đồ muốn lợi dụng, ngươi cảm thấy cô ta không có lý do gì để giết ngươi sao?”.
Khương Trầm Ngư vẫn đứng bất động, trên gương mặt không chút biểu cảm, nhưng rèm mi nhướn dần lên, để lộ đôi đồng tử bên trong, sâu thẳm như ngọc đen huyền, “Đó… đều không phải là lỗi của ta”.
Nụ cười của Tiết Thái vì câu nói này mà biến mất trong nháy mắt.
Khương Trầm Ngư nhìn thẳng Cơ Anh, nói từng chữ rành rọt: “Đây không phải là lỗi của ta… Không phải! Không phải là lỗi của ta!”. Nàng bỗng giơ tay, gạt đám bát đĩa trên mặt bàn xuống đất, loảng xoảng loảng xoảng, hết thảy đều vỡ vụn. Đến bát canh Kim Phong Ngọc Lộ đó cũng chảy lênh láng ra đất.
Tiết Thái chưa bao giờ thấy nàng kích động như thế, không khỏi biến sắc, có chút bất ngờ, cũng có chút chấn động.
Ánh mắt Trầm Ngư sắc lẹm như một lưỡi dao, nhìn mọi thứ ngổn ngang trên mặt đất, cười nhạt, nói: “Thật nực cười! Lý do này! Vì lý do này, sai sát thủ đến lấy mạng ta, khiến ta suýt chút nữa chết nơi đất khách, không thể gặp lại người thân, còn hại Sư Tẩu tàn phế suốt đời, vĩnh viễn mất đi một cánh tay, một con mắt và đôi chân, thật nực cười! Thật nực cười!”.
“Trầm Ngư”. Cơ Anh khẽ gọi một tiếng.
Cả người Khương Trầm Ngư run bắn, sau đó bình tĩnh trở lại. Nhưng đôi mắt trở nên bi thương khôn xiết. Nàng chăm chú nhìn chàng, dùng giọng nói còn nhạt hơn gió thoảng hỏi: “Công tử, tại sao ngài giúp ả?… Tại sao?”.
Tại sao phải giúp Di Thù.
Thực ra, vấn đề này đêm qua Cơ Anh đã nói rồi.
Khi chiếc ghế nhô cao, Di Thù từ trong cơ quan bước ra, Nghi vương và Yên vương đều ngạc nhiên, mà chính lúc đó, Cơ Anh lên tiếng, nói ra câu then chốt nhất: “Ta xin các vị lên tiếng ủng hộ công chúa xưng đế vì ba lý do”.
“Thứ nhất loạn ở Trình quốc, đối với ba nước không phải là may mắn, mà là tai họa. Cuộc hỗn chiến bốn nước mười năm về trước đã mang lại tổn thất vô cùng to lớn cho các nước, mười năm nay, chúng ta nghỉ ngơi an dưỡng, khó khăn lắm mới có chút khởi sắc, hiện giờ nên là một giai đoạn chấn hưng tiếp tục đi lên, đối với các nước mà nói, đều yên tĩnh không nên động. Nghi vương bệ hạ, nếu Trình quốc cứ chiến loạn mãi thế này, con dân của ngài sẽ tiếp tục buôn bán làm sao? Phải biết rằng, trong thời gian chiến loạn, chỉ có một thứ có thể hái ra tiền, đó chính là vũ khí. Nhưng vô cùng không may là vũ khí không phải là sở trường của Nghi quốc, mà là sở trường của Trình quốc. Đối với vương bệ hạ, một khi Trình loạn bắt đầu, bách tính tha phương cầu thực, tất sẽ ồ ạt di dời, đến lúc đó, nạn dân đàn bà trẻ con người già kẻ tàn tật hết thảy đều chạy đến Yên quốc, đuổi đi thì thất đức, giữ lại thì sinh hậu họa, đối với ngài mà nói, cũng là một phiền phức to lớn, đúng không?”.
“Thứ hai, Trình quốc hiện tại, ai là người lòng quân hướng về? Hàm Kỳ?
Không sai, y là danh tướng. Nhưng đồng thời y cũng là một hoàng tử cao ngạo, tính tình nóng vội bạo ngược, người sùng bái nhiều, nhưng người bất mãn y còn nhiều hơn. Y cay nghiệt thiếu đức, lại tự cho là mình giỏi, không coi những tướng sĩ xuất thân nghèo hèn ra gì, vì thế, quân đội của y tuy quân kỷ nghiêm minh, nhưng cũng bị người ta căm ghét. Còn Di Phi? Y là một kẻ thông minh, đáng tiếc có chút mưu lược nhưng không có tài năng của đại tướng quân Lân Tố? Đối với đất nước sùng võ như Trình quốc mà nói, y hoàn toàn là một kẻ bỏ đi! Cho nên, ai là người lòng quân hướng về? Đáp án chỉ có một – công chúa.
Công chúa xuất thân cao quý, lễ hiền đãi sĩ, binh không phân quý tiện, đối xử công bằng, hơn nữa, văn tài võ học thứ nào cũng là cao thủ. Có thể nói, ở Trình quốc, nàng là độc nhất vô nhị”.
“Thứ ba, Trình quốc hiện giờ, ai là người lòng dân hướng về?
Mọi người đều biết, người Trình vương sủng ái là công chúa, người bách quan thần phục là công chúa, người con dân yêu mến là công chúa. Là công chúa, chứ không phải các huynh trưởng của nàng”.
Khi Cơ Anh nói xong, căn phòng chìm trong im lặng.
Rất lâu sau, Hách Dịch mới lên tiếng phá vỡ sự yên tĩnh: “Những gì ngài nói đều rất lọt tai, nhưng chớ có quên, Di Thù xưng đế, có một khiếm khuyết lớn nhất, mà khiếm khuyết này đủ để xóa tan hết thảy ưu điểm của nàng”.
Chương Hoa tiếp lời: “Bởi vì nàng là nữ nhi”.
Hách Dịch nói: “Không sai. Nữ nhi xưng đế, không có tiền lệ. Cứ coi như ngài có thể thuyết phục hai người bọn ta, nhưng làm thế nào để thuyết phục thiên hạ?”.
Cơ Anh khẽ cười: “Nữ nhi xưng đế, không có tiên lệ. Vậy giải thích thế nào về truyền thuyết Nữ Oa tạo người? Tại sao lại có thuyết Cung Công thị và Nữ Oa tranh ngôi đế? Tại sao lại có truyền thuyết Nữ Oa vá trời?”.
“Đó là truyền thuyết”.
“Không sai, đó là truyền thuyết”. Cơ Anh trầm giọng nói: “Thế nhưng ai có thể nói, bây giờ không thể lại dựng lên một truyền thuyết nữa? Nếu một nữ tử là huyết mạch hoàng tộc duy nhất còn sót lại, năng lực tài hoa đều cao hơn người khác, tại sao nàng không thể xưng đế? Điều quan trọng nhất là có được sự ủng hộ của ba vị quân chủ, sao nàng không thể xưng đế được đây? Chớ quên rằng, ba vị bệ hạ mới là chủ tể của thiên hạ hiện nay”.
Căn phòng lại lần nữa chìm trong sự im lặng.
Hồi lâu Hách Dịch và Chương Hoa đều không nói gì, rõ ràng là đang đấu tranh tâm lý hết sức phức tạp.
Lúc này, nếu không thể thúc đẩy, rất có thể thuyền lội ngược dòng, sẽ không tiến mà lùi.
Thế là Cơ Anh thở dài, khẽ nói: “Công chúa, hãy nói cho hai vị bệ hạ, tại sao nàng buộc phải xưng đế?”.
Di Thù trước sau vẫn giữ nụ cười mỉm, nửa lời không nói, sau khi nghe thấy câu này, liền đi về trước mấy bước. Mấy tên thị vệ bước vào, khiêng tấm bình phong trước mặt Nghi vương và Yên vương đi, sau đó lui ra, đóng kín toàn bộ cửa ra vào, cửa sổ.
Trong phòng vẫn chỉ có một ngọn đèn cô lẻ, bóng sáng loang lổ chiếu sáng cả phòng. Mà trong quầng sáng đó, người sáng rõ nhất chính là Di Thù, nàng ta tắm mình trong ánh sáng vàng vọt, đưa tay ra, nhẹ nhàng cởi thắt lưng, trút bỏ chiếc áo khoác ngoài.
Hách Dịch và Chương Hoa đều biến sắc.
Điều khiến họ kinh ngạc không phải là hành vi to gan dám cởi áo trước mặt mọi người của Di Thù, mà là sau khi nàng ta trút xiêm y, trên bờ vai và bầu ngực để trần đều chi chít những vết sẹo.
Tròn có, méo có, dài có, ngắn có, sâu có, nông có, từng đường từng vết giống như những con côn trùng bò lổm ngổm trên người nàng ta, lại thêm nước da trắng nõn nà, cho nên trông càng chấn động.
Hách Dịch đứng lên trước tiên, kinh ngạc hỏi: “Là ai làm?”.
Di Thù mặt lạnh lùng, đáp: “Phụ vương”.
“Cái gì? Trình vương”, bấy giờ, đến Chương Hoa cũng không ngồi yên nổi nữa. Như Ý sửng sốt kêu lên: “Công chúa không phải là con gái được sủng ái nhất của ông ta sao?”.
Di Thù nhếch mép cười nhạt: “Không sai, chính là ta. Hơn nữa, những vết sẹo này đều là bằng chứng cho sự sủng ái của ông ta với ta”.
Hách Dịch và Chương Hoa nhìn nhau, thần sắc phức tạp.
Cơ Anh nói: “Con người Minh Cung không bằng loài cầm thú, đến con gái ruột của mình cũng không tha, công chúa đã bị hắn lăng nhục từ năm bảy tuổi đến tận bây giờ, không thể nào tỏ bày với người ngoài. Chư vị, cho dù không vì thời cuộc chỉnh sự, đối với một cô gái yếu đuối như thế này, hai vị thân là nam tử, lẽ nào sẽ khoanh tay bàng quan?”.
Khi ấy Khương Trầm Ngư đứng ở một bên, quan sát từ đầu đến cuối, trong lòng rúng động, không lời nào tả xiết.
Không thể không nói, chiêu này thực sự quá tuyệt diệu. Đặc biệt là trước đó Di Thù luôn ẩn nấp, khi nàng ta xuất hiện, việc đầu tiên nàng ta làm chính là thoát y. Hai tầng kích thích thị giác và tư duy, khiến bầu không khí trong phòng hoàn toàn biến đổi. Nàng dường như có thể cảm thấy một thứ gọi là “thương xót” bắt đầu lan tỏa ra xung quanh, một nữ nhân như nàng nhìn thấy đã như vậy, huống hồ là những nam nhân này, những nam nhân nắm trọng quyền trong tay, có khả năng tối thượng, vì thế cũng luôn có ý thức trên mình gánh vác sứ mệnh và trách nhiệm.
Ánh đèn chiếu trên người Di Thù, đôi mắt cụp xuống, tư thế yểu điệu của nàng ta đều làm nổi bật vẻ đẹp rực rỡ của nàng ta, mà nàng ta càng đẹp, những vết sẹo trên cơ thể lại càng rõ ràng, lại càng đáng thương.
Khương Trầm Ngư không nghĩ ra được, còn có thứ gì có thể chống đỡ được sức mạnh to của vẻ đẹp và sự yếu đuối này cộng sinh ra.
Và kết quả cũng đúng như suy đoán, Chương Hoa và Hách Dịch sau một hồi lâu chấn động, cuối cùng đã đồng ý với yêu cầu của Cơ Anh – dùng thế lực ba nước, phù trợ Di Thù xưng đế.
Không sai, đó chính là toàn bộ quá trình sự việc đã xảy ra trong căn phòng nhỏ tối hôm qua. Cơ Anh lợi dụng vốn liếng nguyên thủy nhất của một nữ nhân, lay động hai vị đế vương, giành được thắng lợi.
Thế nhưng, tất cả thực sự như những lời chàng nói tối qua sao?
Khương Trầm Ngư nhìn nam tử quan trọng nhất đời mình, nhắc lại câu hỏi lần nữa bằng một giọng nói tuyệt vọng, bi ai khôn xiết: “Công tử, tại sao công tử phải giúp ả…?”.
Cơ Anh im lặng, Tiết Thái nhìn Khương Trầm Ngư rồi lại nhìn chàng, tiến lên phía trước một bước định nói, Cơ Anh lắc đầu với hắn, Tiết Thái lại lùi xuống.
Bấy giờ Cơ Anh mới ngước mắt, nhìn trả Khương Trầm Ngư, giọng nói nhẹ nhàng: “Trầm Ngư”.
Đây là lần thứ hai chàng trực tiếp gọi tên nàng mà không giống như trước đó, luôn chỉ là “tiểu thư”.
Khương Trầm Ngư không kìm được đau đớn nghĩ, công tử thật giảo hoạt, rõ làng biết nàng không có sức kháng cự với cách gọi này, cho nên luôn sử dụng trong những thời khắc then chốt như bây giờ để nàng không thể giận dữ, không thể tức tối, không thể oán hận. Quá giảo hoạt, công tử quá giảo hoạt…
Thế nhưng, tại sao rành rành biết là công tử giảo hoạt như thế, nhưng chỉ cần nghe thấy chàng dùng giọng điệu dịu dàng đó nói ra hai từ này, tất cả những cảm xúc tiêu cực đều tan chảy, đều biến mất như mây khói, không thể kiên cường tiếp được?
T
“Chủ nhân, Phong Nhiêu hầu và Cấm quân thống lĩnh Vương Ngũ đều phản bội rồi, bây giờ đang chĩa giáo về phía chúng ta!”.
“Chủ nhân, thám tử chúng ta phái đi đều bị giết sạch rồi, Tố kỳ quân chặt đầu họ treo ngoài doanh trại thị uy, chúng ta phải làm sao?”.
“Chủ nhân! Trốn đi!”.
“Chủ nhân, trốn đi!”.
“Chủ nhân…”.
Di Phi cảm thấy mình như đang nằm mơ, vì tầm nhìn trở nên mơ hồ, những gương mặt của thuộc hạ đều chỉ còn lại những đường viền mơ mơ hồ hồ, khuôn miệng họ đóng đóng mở mở, mỗi chữ phát ra đều rất rõ ràng, nhưng không có cách nào hiểu được họ nói gì.
Gã im lặng ngồi trên thuyền hoa.
Đây là nơi gã thích nhất – gã không thích đất liền, gã thích nước.
Khi còn nhỏ gã cảm thấy rất lạ lùng, tại sao nước nhẹ như vậy lại có thể đẩy được gỗ nổi lên, còn con người rơi xuống nước, vốn sẽ bị chìm xuống, nhưng có người lại biết bơi… Gã bị hấp dẫn bởi những sự vật thần kỳ của thế giới tự nhiên, nghiên cứu đến quên ăn quên ngủ, muốn tìm cách hiểu rõ.
Mẫu thân của gã là một phi tử bình thường, hoàng đế thi thoảng qua đêm ở chỗ bà, không đặc biệt sủng ái, nhưng cũng không quá lạnh nhạt. Phụ hoàng thấy gã nhìn hồ nước đến ngẩn người, thấy rất không vui. Mỗi lần như thế, mẫu thân liền khuyên gã luyện võ.
Mẫu thân nói: “Nếu con luyện võ giỏi, phụ hoàng con sẽ thích con”.
Thế nhưng, tại sao gã phải cần nam nhân trong mắt chỉ có tranh đoạt, giết chóc đó ưa thích? Cùng là nhìn một con chim, gã sẽ quan tâm tại sao con chim đó lại có thể bay, mà nam nhân đó lại quan tâm làm sao có thể dùng đao giết chết con chim đó một cách nhanh nhất.
Căn bản không phải là người cùng một thế giới, không có điểm chung, cũng sẽ không có gì luyến tiếc…
Thế nên, gã đắm chìm trong thế giới của mình, sống rất giản đơn, cũng rất vui vẻ. Mẫu thân rất thương gã, tuy cũng từng hy vọng gã chịu khó luyện võ, giành được sự yêu mến của hoàng đế, nhưng chung quy vẫn không cưỡng ép gã. Bà xuất thân thương gia, nhà mẹ đẻ không có tư cách vào cung thăm nom, chỉ có thể gửi chút đồ vào dịp Tết mỗi năm, có lúc thạch lựu của Giang Bắc, có lúc là bánh quả hồng của Tây Đảo,… bà rất thích những đồ ăn vặt này, nhưng lại sợ bị người khác chê cười, lần nào cũng ăn một cách lén lút.
Nhờ mẫu thân, gã bắt đầu thích những đồ ăn vặt địa phương đủ mùi đủ vị đó, mà thứ gã thích nhất trong số đó chính là tranh đường.
Bởi vì tranh đường chỉ có thể gửi vào cung vào mùa đông, nếu để lâu một chút sẽ bị cứng hoặc chảy ra. Cho nên, mỗi lần chỉ cần mở tay nải ra thấy bên trong có tranh đường, việc đầu tiên gã và mẫu thân làm là trốn trong một căn phòng nhỏ, tránh khỏi tầm nhìn của người khác, chỉ có hai mẹ con chia nhau một miếng tranh đường… Những tháng ngày ấy đối với một đứa trẻ mà nói hiển nhiên là rất vui vẻ, rất vui vẻ…
Cho đến một ngày…
Ngày đó, quân Trình thất bại ê chề rút từ biên cương Yên quốc về đến đế đô, phụ hoàng vì thế mà nổi giận lôi đình, mà đêm đó, ngài vô tình đi ngang qua nơi ở của mẫu thân, nghe thấy mẫu thân đang hát.
Thực ra mẫu thân luôn là một người biết thích nghi với hoàn cảnh, những ngày hoàng đế không đến lâm hạnh, bà thường thêu hoa, hát ca, nghe nói năm đó phụ hoàng vì nghe thấy bà hát trên phố, cho nên mới chọn bà vào cung.
Hát có lẽ cũng không sai, sai ở chỗ bà hát quá vui vẻ, mà ca từ lại là: “Chim yến(1) phương nam hỡi, khi quay về mi có mang tin tức của chàng chăng?”.
Phụ hoàng đang giận dữ vì thua trận, lại thêm nghe thấy chữ “Yến”, lập tức không nén được giận xông vào, rút cây roi bên hông ra đánh mẫu thân.
Mẫu thân kêu lên thất thanh, khiến gã đang ngồi khắc con thuyền nhỏ trong gian phòng sát vách giật mình, vội vã mở cửa ra, liền nhìn thấy cảnh phụ hoàng đang dùng roi điên cuồng đánh mẫu thân.
Mẫu thân lăn lộn không ngừng dưới mặt đất, rên rỉ đau đớn nhưng không dám cầu xin.
Gã bị cảnh tượng ấy làm cho sợ hãi, mãi một lúc sau mới phản ứng lại là nên ngăn cản, thế nên gã nhào tới muốn ngăn làn roi của phụ hoàng lại, nhưng chiếc roi đó lại vút qua đôi tay gã, quất mạnh vào lưng gã.
Sức mạnh, tốc độ và cảm giác đau đớn đó đến bây giờ có thể gã vẫn còn nhớ như in.
Gã bị đánh ngã lăn ra đất, va mạnh vào người mẫu thân.
Phụ hoàng quay đầu nhìn thấy căn phòng chất đầy gỗ, càng giận dữ hơn: “Khắc khắc khắc, ngươi nhìn xem ngươi đã sinh ra cái giống quỷ gì, ngoài ngây người chỉ biết khắc gỗ, vô dụng hết chỗ nói, đứa nào cũng thế! Nếu ta có một đứa con giỏi giang, hôm nay đâu đến nỗi thất bại thế này!”.
Phụ hoàng giận dữ đùng đùng bước vào căn phòng đó, châm lửa đốt. Ánh lửa bốc cao rừng rực, phụ hoàng phất tay áo bỏ đi.
Gã sững sờ nhìn ánh lửa tuyệt đẹp nhảy múa, nhìn những khúc gỗ bị cắn xé vô tình trong ánh lửa, cảm thấy cả thế giới của mình cũng bị thiêu đốt từng chút từng chút một.
Thế nhưng, điều tồi tệ hơn là tiếng rên rỉ của mẫu thân trong lòng gã đã im bặt.
Gã đờ đẫn cúi đầu, nhìn thấy một nữ tử yếu đuối không còn hơi thở và nửa miếng tranh đường rơi trên mặt đất, đó là thân một con phượng hoàng, đầu phượng hoàng đã bị vỡ nát, đôi cánh nhuốm máu. Hai cảnh ấy đối chọi với nhau, khiến gã động phách kinh tâm…
Di Phi nhớ đến đây, mệt mỏi nhắm mắt lại.
Đó là chuyện xảy ra khi gã lên chín, bao nhiêu năm đã trôi qua, chưa có một ngày nào quên. Từ đó, gã thường xuyên mơ một giấc mơ, mơ thấy mẫu thân đang bay trên mặt nước, gã ở trên bờ gọi bà, nhưng bà lắc đầu không chịu lại gần.
Bà nói bà rất sợ đất liền, vì mặt đất vừa lạnh vừa cứng, khi roi quất xuống, thậm chí bà không có nơi nào để tránh. Nhưng nước thì khác, nếu như có roi đánh bà nữa, bà có thể lặn xuống dưới nước, như thế roi không thể đánh vào bà được.
Hết lần này đến lần khác gã mơ thấy bà, hết lần này đến lần khác đau đớn cầu xin, lại hết lần này đến lần khác bị chối từ.
Giấc mơ đó trở đi trở lại, gã nghĩ chắc chắn gã đã bị nguyền rủa, bởi vì gã chỉ mải chìm đắm trong thế giới của mình, cho nên, mới để mẫu thân thất vọng và đau lòng đến thế.
Năm mười tám tuổi, theo tổ huấn, gã có thể dọn ra khỏi cung, thế là gã chọn một mảnh đất ven hồ có một cây cổ thụ ngàn năm. Gã xây nhà trên cây, neo thuyền dưới nước, ra vào đều dùng ngựa xe, cố gắng hết sức không để hai chân của mình chạm xuống đất.
“Chủ nhân! Tiếp theo phải làm thế nào? Mau quyết định đi!”.
“Chủ nhân…”. “Chủ nhân…”.
Những tiếng kêu sốt ruột đó không ngừng vang lên.
Di Phi bỗng nhếch khóe miệng, khẽ cười một tiếng: “Giấc mộng lớn này…
cuối cùng cũng tỉnh rồi…”.
“Chủ nhân, người nói gì vậy”. Sơn Thủy, Tùng Trúc, Cầm Tửu đều vây quanh gã.
Ánh mắt gã chầm chậm lướt qua gương mặt bọn họ, ba người này là tùy tùng của gã, là bảo tiêu của gã, cũng là bạn thân của gã. Chỉ có họ mới biết đêm đêm gã đều bị ác mộng vây khốn, biết nguyên nhân gã miệt mài luyện võ, càng biết được vì cái gì mà gã trăm mưu ngàn kế muốn làm hoàng đế.
Nếu như năm đó gã chịu luyện võ, có lẽ sẽ ngăn được đòn roi của phụ hoàng và mẫu thân cũng không chết.
Thứ gã ghét nhất chính là đất liền, vậy thì, biến toàn bộ đất liền thành của mình, nếu là của mình rồi, khi nằm mộng, gã có thể giơ hai tay ra, nói với mẫu thân: “Mẹ, mẹ có thể lên bờ rồi. Tất cả đất liền đều là của con, tất cả mọi người đều nghe theo mệnh lệnh của con, tất cả mọi người đều không đánh lại con, không còn roi có thể đánh mẹ, mẹ cũng không cần trốn trong phòng tối ăn đồ nữa, mẹ có thể quay về rồi”.
Ánh mắt Di Phi tối dần, chợt lóe sáng, rồi tất cả biến thành tịch liêu. Con xin lỗi mẹ, hình như con… thất bại rồi.
Cho nên, mẹ không thể quay về được… con xin lỗi.
Gã bỗng đứng dậy, đi ra phía ngoài khoang thuyền, tiện tay gỡ một miếng ngọc bội xuống, cắt đứt dây thừng, sau đó lại đạp một cái, tấm ván đột nhiên nứt toác, nước ào ào tràn vào.
Cầm Tửu cả kinh, kêu: “Chủ nhân, người định?”.
Di Phi quay đầu, khoanh tay cười với ba người: “Là anh hùng, đường cùng mạt lộ, duy chỉ có phá phủ trầm chu, phá sạch đường lùi quyết sống mái một phen thôi”.
Sơn Thủy và Tùng Trúc đưa mắt nhìn nhau.
Câu sau của Di Phi lại du dương lọt vào tai bọn họ: “Có điều rất đáng tiếc, từ xưa đến nay ta không phải là anh hùng, cho nên, ta phải trốn. Các người có bằng lòng theo một kẻ đường cùng ngõ cụt như ta lưu lạc chân trời không?”.
Ba người cơ hồ không hề do dự quỳ sụp xuống, đồng thanh đáp: “Chúng thuộc hạ nguyện đồng sinh cộng tử với chủ nhân!”.
“Rất tốt”. Di Phi phất tay áo, ngẩng đầu nhìn bầu trời, đã qua giờ Tí, một vầng trăng khuyết treo lơ lửng phía chân trời, lạnh lẽo thê lương vô hạn, đối lập với nó là ánh lửa sáng như ban ngày và tiếng giao chiến sục sôi bên ngoài tường cao của vương phủ.
Gã chăm chú nhìn ánh lửa nhảy nhót, tựa như ánh lửa trong ký ức tuổi thơ, nói rành rọt từng tiếng từng tiếng: “Khi ta chín tuổi, phụ hoàng dùng lửa thiêu thứ ta yêu quý nhất, mười năm sau, tiện nhân kia dùng lửa thiêu hoàng vị gần như đã là của ta… Không sao, Di Phi ta thề tại đây, mười năm sau, khi ta đặt chân lên đất Trình quốc, món nợ mà các ngươi nợ ta sẽ phải trả lại gấp mười, hai mươi lần, thậm chí gấp trăm lần!”.
Gã cởi áo khoác, lao xuống hồ trước tiên. Bọn Cầm Tửu cũng lần lượt nhảy theo.
Nước hồ lạnh như băng ào tới ước nhìn tưởng như rất nhẹ rất mềm, nhưng lúc này lại ép chặt trên từng bộ phận của cơ thể. Khi Di Phi men theo mật đạo dưới đáy hồ vội vàng trốn thoát không khỏi nghĩ đến một vấn đề thực ra không hề quan trọng cũng không chút liên quan: Ngày hôm đó, khi Ngu thị nhảy xuống nước tìm bông tai, liệu có chung cảm giác này không?
Trăng treo giữa trời, gió lạnh ù ù, mười dặm phố biến thành địa ngục.
Trung lang tướng Vân Địch đứng trên lầu cao, nhìn chiến trường phía dưới, sắc mặt đanh lạnh.
Họ đã dùng ba nghìn thiết giáp quân để mai phục Hàm Kỳ, tám mươi viên tùy tùng của Hàm Kỳ bị vây giết, chỉ còn lại chín người, mười người này bị đại quân bao vây, rành rành là cá nằm trên thớt, thế nhưng, hai canh giờ trôi qua, Tố kỳ quân hết người này đến người khác ngã xuống, còn mười người vẫn sừng sững không đổ.(2)
Đặc biệt là Hàm Kỳ, vẫn là áo giáp đỏ tươi như máu, trường đao lạnh sắc như nước, khi lưỡi đao vung lên hạ xuống, tất có người ngã xuống.
Cái danh Hồng Dực quả không phải hư truyền.
“Tướng quân, đánh mãi không thắng, phải làm sao?”. Quân sư lại gần Vân Địch, thấp giọng nói.
Vân Địch nhìn chằm chằm vào thân hình thấp bé mà tráng kiện đó, hồi lâu, làn môi mỏng khẽ hé, nói hai chữ: “Bắn tên”.
Tuy không thể bắt sống cũng hơi đáng tiếc, nhưng hắn đã không còn đủ nhẫn nại tiếp tục theo chiến đấu với gã chiến ma (Hàm Kỳ) tưởng chừng như không biết mệt mỏi đó.
Tay phải đang định chém xuống, lại có một giọng nói từ phía sau gấp gáp vang lên: “Dừng tay!”.
Vân Địch quay người, thấy thị vệ hai bên đều cúi người khấu lạy, người kia khoác áo lông, sắc mặt ửng đỏ đầy bệnh tật, vẻ mặt vừa giận dữ vừa lo lắng.
Không phải ai khác, đó chính là Lân Tố.
Vân Địch lập tức cúi người hành lễ: “Thuộc hạ tham kiến đại hoàng tử”.
Lân Tố tung cước, đá hắn ngã lăn ra, quát lớn: “Ai cho phép các ngươi bắn tên?”.
“Không thể bắt sống, mất bao thời giờ, quân ta càng lúc càng ít, cho nên…”, còn chưa dứt lời, lại bị một cước nữa. Vì Lân Tố đá quá mạnh, không kìm được ho húng hắng, vừa ho vừa nói: “Hắn là đệ đệ của bản vương, là đệ đệ ruột đó…
Ngươi… nếu các ngươi giết hắn, ta sẽ chém đầu các ngươi!”
“Nhưng công chúa có lệnh…”.
“Các ngươi nghe công chúa hay là nghe ta?”. Chúng tướng sĩ nhất thời im lặng.
Lân Tố chầm chậm thở ra, đi đến bên cửa sổ, nhìn khung cảnh chém giết phía dưới, không chịu được nhắm mắt lại, quay đầu nói: “Các ngươi phái người nói với hắn, chỉ cần hắn chịu quy thuận, không những không phải lo về tính mạng, còn có thể tiếp tục làm vương gia, hơn nữa…”.
Lời còn chưa nói hết, một cung tiễn thủ đứng bên một cửa sổ khác đã bắn tên, chỉ nghe “vút” một tiếng, mũi tên lao đi như sao băng, không thiên không lệch, nhắm trúng yết hầu của Hàm Kỳ, Hàm Kỳ kêu lên một tiếng thảm thiết, từ trên ngựa ngã lăn ra đất.
Lân Tố trợn mắt trừng trừng, con ngựa của Hàm Kỳ bị kinh sợ, giẫm lên cơ thể Hàm Kỳ, trong nháy mắt máu thịt bầy nhầy máu tươi tung tóe, cảnh tượng hết sức ghê rợn. Lân Tố đờ đẫn hồi lâu mới tỉnh lại, nhìn chằm chằm cung tiễn thủ kia: “Ngươi… giết hắn?”.
Cung tiễn thủ vứt cây cung trong tay đi, quỳ sụp xuống: “Thuộc hạ là nghĩ cho điện hạ”.
Lân Tố bước nhanh lên phía trước, kéo cổ áo hắn, gằn giọng: “Ngươi, giết hắn!”.
Cung tiễn thủ đó không hề hoảng loạn, nhắc lại lần nữa: “Thuộc hạ vì điện hạ!”.
“Ngươi ngươi ngươi…”. Lân Tố nổi giận, rút thanh đao giắt bên người, nhằm người kia mà chém xuống, một đôi tay đột nhiên xuất hiện, nhẹ nhàng giữ y lại. Y không biết võ công, vì thế chỉ cảm thấy bả vai đau buốt, đại đao rơi keng xuống đất.
Lân Tố quay đầu lại, người cản y chính là Vân Địch.
“Vân Địch ngươi làm gì vậy?”.
Vân Địch lạnh nhạt đáp: “Điện hạ vất vả một đêm, nên quay về nghỉ ngơi rồi”.
“Cái gì?”. Lân Tố kinh ngạc.
Vân Địch cao giọng: “Hiện tại trong thành đại loạn, điện hạ thân thể ngàn vàng, tuyệt đối không nên bị tổn hại mới phải. Người đâu, đưa điện hạ về cung!”.
“Đợi đã! Vân Địch, ngươi – ngươi – ngươi dám làm thế với ta”.
Vân Địch cười mỉm, nhưng trong nụ cười ẩn chứa sự lạnh lẽo tàn khốc: “Công chúa đang ở trong cung đợi điện hạ, có gì muốn nói, điện hạ có thể nói với người”. Nói đoạn khoát tay, mấy tên binh sĩ tiến lên, xốc Lân Tố kéo đi, suốt dọc đường chỉ nghe thấy tiếng kêu kinh ngạc, tiếng chửi mắng và tiếng ho không ngừng của y.
Quân sư cau mày hỏi: “Như thế có được không? Nói gì đi nữa, hắn cũng là hoàng tử, hiện giờ cũng là hoàng tử duy nhất đắc tội với hắn…”.
Vân Địch nhướn mày, “Quân sư sao thông minh một đời, hồ đồ nhất thời vậy, ngươi cho rằng, ở Trình quốc hiện nay, là ai làm chủ?”.
“Đương nhiên là công chúa, nhưng công chúa cũng chỉ là một nữ nhi…”.
Vân Địch cười lạnh: “Nữ nhi sao? Nữ nhi không thể gánh được chữ ‘vương’
sao?”.
Quân sư “a” một tiếng, như người tỉnh mộng, kinh ngạc bịt miệng lại.
Vân Địch nhìn thấy phía dưới, chín người vì Hàm Kỳ đã chết mà như rắn mất đầu, từng tên từng tên bị bắn chết, thong thả nói: “Mười năm mài một kiếm, sương đao nay đã thành. Công chúa, giờ đây nàng thắng lợi, phải chăng đã được giải thoát một chút rồi?”.
Dưới ánh trăng, vẻ mặt hắn bỗng trở nên ảm đạm, thương tiếc khôn tả, bi thương khôn tả.
“Mười năm… mười năm…”.
Lân Tố bị quân đội của mình bán đứng, cưỡng ép vương cung với danh nghĩa là bảo vệ mà kỳ thực là giam lỏng, đang chăm chú nhìn ánh trăng bên ngoài cửa sổ, thì thào.
Có cung nữ bưng lên mỹ tửu điểm tâm, đặt trên bàn cạnh rồi lại nhẹ nhàng nhón bước lui ra.
Y nhìn bình rượu có điêu khắc hình lưỡng xà tranh trong đáy mắt diễn ra một loạt thay đổi, có sợ hãi, có ngờ, có phẫn nộ, nhưng cuối cùng lắng đọng thành thương cảm.
Y từ từ đưa tay về phía bình rượu đó, ngón tay không ngừng run rẩy, chần chừ do dự, rõ ràng là một khoảng cách rất ngắn, nhưng mất thời gian nửa tuần nhang mới chạm tới bình rượu.
Thân bình khẽ nghiêng, mỹ tửu màu hổ phách mang theo hương thơm nồng được rót vào chén.
Y chăm chú nhìn chất lỏng trong chén, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc, cuối cùng y thở dài thườn thượt, nói: “Bỏ đi. Vua muốn thần chết, thần không thể không chết…”. Nói rồi, như lấy hết dũng khí, uống một hơi cạn chén rượu đó… Chén rượu sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình rơi cạch xuống đất, rơi mà không vỡ, thuận thế lăn mấy vòng, lăn đến bên chân một người.
Người đó nhẹ nhàng đi vào, chiếc váy dài thướt tha như nước quét trên mặt đất, bước chân của nàng khẽ khàng như hoa rơi.
Lân Tố tựa bên bàn, mơ mơ hồ hồ nhìn nàng, gương mặt nàng mông lung mông lung, có chút rõ ràng, lại có chút nhòe nhoẹt như thành một bức họa khác: Mười năm trước, khi thiếu nữ ấy từ ngoài cửa bước vào, cũng như thế này.
Từng bước từng bước, chậm rãi như thế.
Khi nàng cách y chỉ còn một bước, bỗng nhào tới ôm chặt lấy y, òa lên nức nở, nói: “Đại hoàng huynh! Đại hoàng huynh…”.
Mà lần này, người đó dừng cách y ba bước, không lại gần nữa, chỉ im lặng nhìn y, không nói nửa lời.
Thế nên y cười, cất tiếng: “Tất cả đều đúng như ước nguyện của muội phải không?”.
Người đó vẫn nhìn y, không nói.
Y cười càng lúc càng lớn, y vừa cười vừa ho: “Muội giết Hàm Kỳ, cũng giết Di Phi, đến cả phụ hoàng cũng trong tay muội, muốn sống muốn chết, chẳng qua cũng chỉ là một câu nói của muội. Tâm nguyện của muội đã thành hiện thực cả rồi? Bây giờ muội đến giết ta đúng không? Ôi không, ta quên mất, muội đã ban rượu độc cho ta, vậy thì, muội đến để nhìn ta chết phải không?”.
Người đó cụp mắt, lát sau, mới khẽ nói: “Di Phi trốn thoát rồi”.
“Sao cơ? Vậy thật là đáng tiếc… Nhưng không sao, một hoàng tử thất thế, cùng đường mạt lộ, sao có thể thoát khỏi sự truy đuổi của một người quyền bính trong tay, lòng dân hướng về như muội? Bắt hắn cũng chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi”.
“Đại hoàng huynh…”, người đó lên tiếng, cuối cùng đã bước qua khoảng cách ba bước cuối cùng, đến trước mặt y, sau đó từ từ ngồi xuống, ngả đầu trên đầu gối y.
Khi đầu nàng ngả lên đầu gối y, cùng lúc ấy, cơ thể vốn lạnh băng trở nên ấm áp hơn vì cảm nhận được nhiệt độ của đối phương, Lân Tố không kìm được bi ai nghĩ: Y rốt cuộc không thể nào ghét được người này, cho dù bị lợi dụng, bị phản bội, thậm chí bây giờ bị hạ độc, y đều không thể oán ghét người này. Đầu nàng ngả trên đùi y, một nơi đã chết trong tim bỗng giãy giụa sống trở lại.
“Di Thù… Di Thù… Di Thù ơi…”
Y chầm chậm đưa tay ra, chạm lên mái tóc nàng. Nàng có một mái tóc dài cực kỳ mềm mượt như tơ lụa mát lạnh, hệt như mười năm về trước.
“Muội xử trí phụ hoàng thế nào?”.
“Muội chặt đứt hai chân hai tay ông ta, móc mắt, cắt tai, cắt lưỡi ném vào ống sành, làm con người lợn”. Giọng nói của nàng rất khẽ rất dịu dàng, khi nói chuyện này, thậm chí còn không hề có chút lên giọng nào.
“Ta có thể cầu xin muội một việc không?”.
“Huynh muốn muội giết ông ta? Để ông ta mau chóng kết thúc đau khổ?”.
Di Thù cười ha ha, “Không thể được, huynh biết mà, tuyệt đối không thể”.
Lân Tố nhắm mắt lại.
Di Thù ngẩng đầu, ngước nhìn gương mặt y, khẽ nói: “Huynh thương ông ta? Đến bây giờ huynh vẫn thương ông ta?”.
Giọng Lân Tố dịu đi: “Rốt cuộc ông ấy vẫn là phụ thân của chúng ta”.
“Có phụ thân như ông ta sao?”. Di Thù bỗng trở nên kích động, tóm áo y, rít lên: “Hãy nghĩ xem ông ta đã làm những gì? Đã làm những gì đối với muội! Dã tâm bành trướng vọng tưởng thôn tính Yên quốc cũng đã đành, thực lực không bằng người ta, thua là chuyện bình thường, nhưng ông ta lại trút giận lên người bên cạnh, thế nên ông ta dùng roi đánh chết mẹ của Di Phi; mẫu thân của chúng ta cũng vì nói sai một câu mà bị đẩy vào lãnh cung, u uất mà chết; còn muội!
Còn muội!”. Tay nàng túm áo mình, run rẩy, nước mắt ào ra như suối: “Cái gì mà con gái được Trình vương sủng ái nhất, cái gì mà Di Thù công chúa dưới một người trên vạn người ở Trình quốc, những chuyện vẻ vang tột cùng mà người khác thấy đó, thực ra là tấm vải che đậy tội lỗi của ông ta! Ông ta… ông ta…!!”.
Lân Tố bỗng mở to mắt, nhìn chằm chằm muội muội cùng một mẹ sinh ra với y, hai giọt nước mắt trào khỏi vành mắt, lăn xuống theo gò má.
Trong khoảnh khắc, dường như quay trở lại mười năm trước đứa trẻ đó tột cùng hoảng sợ, nhục nhã, đau đớn không thiết sống lao vào ôm y, nức nở gào khóc, gào lên từng tiếng từng tiếng: “Đại hoàng huynh, đại hoàng huynh, muội phải làm sao? Muội phải làm sao?…”.
Gia đình đế vương, lắm chuyện xấu xa.
Mà họ chẳng qua là bất hạnh hơn người khác, có một người cha không bằng loài cầm thú.
Di Thù gạt lệ, gằn giọng nói: “Cho nên, những gì phải chịu bây giờ đều là đáng đời ông ta. Muội sẽ không để ông ta được chết nhanh chóng đâu, muội phải để ông ta sống, sống hết ngày này qua ngày khác, một ngày còn sống là một ngày chịu thêm giày vò”.
Lân Tố lại lần nữa nhắm mắt lại. Y cảm thấy rất mệt mỏi.
Y thật sự rất mệt. Cơ thể không còn chút sức lực, trong lòng cũng trăm ngàn vết thủng lỗ chỗ. Thật sự không muốn bận tâm đến bất cứ thứ gì nữa, cứ thế thiếp đi.
Nhưng, Di Thù lại giơ tay ôm lấy y, tựa đầu vào lồng ngực y, thì thầm: “Đại hoàng huynh… huynh hận muội ư? Đại hoàng huynh, đừng hận muội được không? Người muội thích nhất là huynh, chỉ có huynh mới có thể khiến muội tạm thời quên đi tất cả bất hạnh, chỉ có huynh mới toàn tâm toàn ý ủng hộ muội mà không đòi hỏi bất cứ thứ gì, muội thích đại hoàng huynh nhất nhất nhất…”.
Lân Tố cười cay đắng: “Chẳng phải muội cũng thích Hàm Kỳ nhất sao?”.
Sắc mặt Di Thù thoắt biến đổi.
“Những lời như thế, muội đều nói với Hàm Kỳ và Di Phi rồi, đúng không?”. Di Thù ngẩng đầu, mặt không biểu cảm nhìn y.
Lân Tố không mở mắt, chỉ lạnh nhạt nói: “Nếu không, với sự vũ dũng nhường ấy của Hàm Kỳ, sự tinh ranh nhường ấy của Di Phi, sao có thể đều bại trong tay muội chứ?”.
“Đại hoàng huynh đang nói gì, muội nghe không hiểu”.
“Di Thù, ta biết muội bất hạnh, ta thực sự biết. Cho nên, muội oán hận, muội muốn báo thù, đều là chuyện nên làm. Thế nhưng, muội vì báo thù, mà để bản thân rơi vào vòng xoáy càng đáng sợ hơn, càng nhơ bẩn hơn. Chuyện này thực sự đáng sao?”.
Ánh mắt Di Thù trở nên sắc lẻm: “Hóa ra… huynh biết?”.
“Mỗi lần muội gặp một nam nhân có thể giúp muội là đều tìm cách lợi dụng triệt để, mà lần nào muội cũng dùng cơ thể của mình để trao đổi. Tướng lĩnh, chư hầu, thậm chí đến sứ thần nước khác, tỉ như Giang Vãn Y, muội cũng không bỏ qua”.
“Huynh đang nói muội là dâm phụ đúng không?”. Vẻ mặt Di Thù lạnh đi mấy phần, cười gằn nói: “Huynh có tư cách gì mà chỉ trích muội chứ? Lẽ nào huynh không lợi dụng muội? Rặt một phường lang sói, huynh…”.
“Không, ta chỉ cảm thấy bi ai…”, Lân Tố nhẹ nhàng ngắt lời nàng, “Những chuyện liên quan đến muội, thực ra ta đều biết, chỉ là không nói ra mà thôi. Bởi vì, mỗi một lần, mỗi một lần, đều chỉ khiến ta đau lòng. Phụ hoàng rốt cuộc đã hủy hoại muội đến thế nào, không những khiến muội sinh lòng oán hận, mà còn biến thành méo mó thế này. Di Thù, tại sao muội lại biến thành méo mó thế này?”.
Di Thù ngậm miệng, không nói nữa.
Lân Tố cuối cùng mở mắt ra, nhìn nàng bằng ánh mắt sâu thẳm, nói từng tiếng: “Di Thù, nếu thời gian có thể quay ngược lại mười năm trước, ta nhất định sẽ đi cứu muội, nhất định sẽ đi…”.
Di Thù im lặng hồi lâu, chầm chậm đứng lên, từ trên cao nhìn xuống y, khẽ nói: “Nhưng thời gian không thể quay ngược lại”.
Trong nháy mắt, gương mặt Lân Tố xám ngoét một màu chết chóc.
Di Thù quay người, mái tóc và chiếc váy đều bị gió thổi tung, nàng bước đi theo tiết tấu giống như lúc đến, từng bước từng bước rời đi.
Thân thể Lân Tố chầm chậm đổ xuống, hai dòng máu chảy ra từ mũi y, rỏ xuống chiếc áo trắng của y.
Chân trời đã hé những tia nắng ban mai đầu tiên. Khương Trầm Ngư lại một đêm mất ngủ.
Nàng ngồi trực cả đêm bên giường của Sư Tẩu.
Đêm qua, từ khi Di Thù công chúa xuất hiện đến cuối cùng khi công tử và Yên vương, Nghi vương thỏa thuận xong, nàng và Sư Tẩu liền được sắp xếp ở trong một gian phòng của khu nhà này.
Có lẽ đối với Lô Loan mà nói, đây cũng là nơi duy nhất an toàn.
Sau đó Giang Vãn Y và Phan Phương cũng xuất hiện, đêm đó sau khi đi khởi một lát Phan Phương đã liên lạc được với người của Cơ Anh, sau đó y đưa Giang Vãn Y cùng tới đây.
Giang Vãn Y băng bó lại vết thương cho Sư Tẩu, tuy chân tay bị chặt đứt không thể nối liền, nhưng ít nhất không còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.
Khương Trầm Ngư bây giờ mới hơi an tâm, tựa bên giường mà ngủ thiếp đi.
Nhưng bên ngoài lại vọng tới đủ mọi loại âm thanh, nàng nghe không rõ, nhưng thực sự tồn tại, lại thêm ở nơi lạ lẫm, trên chiếc giường lạ lẫm, chiếc chăn mới mang theo một cảm giác thô nháp, cọ xát trên da, khó chịu đến mức khiến người ta bồn chồn.
Vì thế, khi đồng hồ cát chảy đến vạch giờ Dần, nàng không chịu nổi nữa, đứng dậy chải đầu qua loa, đẩy cửa, khoác áo đi ra ngoài.
Bên ngoài sương giăng dày đặc.
Mọi thứ trong màn sương đều mờ mờ mịt mịt, mông lung như mộng cảnh.
Trong sân, ven chân tường trồng rất nhiều hoa, giữa bụi hoa thấp thoáng một bóng người.
Nàng đến gần thì nhận ra, hóa ra là Tiết Thái. Lẽ nào hắn cũng cả đêm không ngủ?
Chỉ thấy Tiết Thái ngồi xổm trước một cây hoa rất đặc biệt, sắc hoa đỏ như máu, cánh hoa nhỏ dài khum khum như móng rồng, Trầm Ngư chưa từng nhìn thấy bao giờ, không kìm được tò mò hỏi: “Đây là hoa gì?”.
Tiết Thái nghe thấy giọng nói, quay đầu lại nhìn nàng một cái rồi mới đáp: “Mạn Châu Sa Hoa”.
A, đây chính là hoa Bỉ Ngạn được nhắc đến trong ‘Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh’ sao?”. Khương Trầm Ngư cũng ngồi xuống, vừa ngắm vừa nói: “Hoa Bỉ Ngạn, một nghìn năm hoa nở, một nghìn năm hoa tàn, hoa và lá chẳng bao giờ gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định sống chết. Đúng là một loại hoa đau thương…”.
“Phật nói bờ bên kia (Bỉ Ngạn), không sống không chết, không khổ không sầu, không muốn không cầu – Đã là như thế, sao còn bi ai?”. Tiết Thái khẽ nhếch khóe môi, có vẻ không đồng ý.
Khương Trầm Ngư nhìn hắn, bật cười.
Tiết Thái lạnh nhạt nói: “Ngươi cười cái gì?”.
“Ta đang nghĩ thực ra chúng ta rất có duyên phận, chẳng phải sao? Thân ở dị quốc xa xôi ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau”.
“Có lẽ người thực sự có duyên với ngươi là người khác mà không phải là ta?”.
Khương Trầm Ngư cau mày, đứa trẻ này đúng là không đáng yêu chút nào, nàng tìm hắn gợi chuyện cũ, hắn lại chuyên chọc ngoáy vào nỗi đau của nàng.
Thấy nàng thần sắc ủ rũ, Tiết Thái bỏ vẻ châm chích lạnh lùng, ánh mắt lướt qua gian phòng khách mà nàng vừa mới bước ra kia: “Người đó đã chết chưa?”
“Ngươi nói Sư Tẩu?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu, thần sắc lại rầu rĩ thêm mấy phần, “Tuy không chết, nhưng mà… đến khi hắn tỉnh lại, ta thật sự không biết phải đối diện với hắn như thế nào”.
“Con kiến còn ham sống, huống hồ con người. Cho dù thế nào, sống được vẫn tốt hơn là chết”.
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn hắn, chậm rãi nói: “Đối với ngươi cũng như thế phải không?”.
Tiết Thái lại cười lạnh lùng, ánh mắt lóe sáng không ngừng, cuối cùng nghiêng đầu, liếc nàng nói: “Chẳng phải ngươi rất thương hại ta sao?”.
Khương Trầm Ngư sững sờ.
“Đừng chối, mỗi lần ngươi nhìn thấy ta, trong ánh mắt đều ngập tràn sự thương xót, để lộ biểu cảm từ bi như Bồ Tát, lần trong hoàng cung Bích quốc và cả đêm qua cũng thế”.
Khương Trầm Ngư nói: “Đêm qua tối như thế, ngươi cũng có thể nhìn thấy biểu cảm của ta?”
“Là ta biết”. Tiết Thái hơi ngẩng đầu, ánh mắt đảo một vòng trên bầu trời, rồi lại rớt xuống gương mặt nàng, “Thế nhưng, ta cảm thấy so với một người vì không còn gì để mất, cho nên cũng không sợ hãi thứ gì như ta, người nào đó càng đáng thương hơn, càng nên cảm thấy đau buồn cho bản thân mình”.
“Người nào đó mà ngươi nói là ta?”. “Nếu không còn ai vào đây?”.
Khương Trầm Ngư cảm thấy hứng thú, cười hỏi: “Sao ta lại đáng thương?”.
“Thiên kim của tể tướng, lá ngọc cành vàng, nhưng không thể gả được cho người mình yêu, vì lợi ích gia tộc mà buộc phải tiến cung, từ bỏ đứng đầu quần phi, phải chạy đến đảo quốc xa xôi ngàn dặm làm gián điệp, dọc đường nguy hiểm trùng trùng, phiền phức liên miên, đêm qua còn suýt mất cả cái mạng nhỏ. Ngươi nói xem, lẽ nào ngươi không đáng thương?”.
Khương Trầm Ngư nghe ra hắn có ẩn ý, lập tức ngưng cười, nghiêm mặt nói: “Ngươi biết đêm qua ai phát sát thủ truy sát ta?”.
Tiết Thái chớp chớp mắt, “Ngươi đoán xem”.
Cùng là chớp mắt, khi Hách Dịch chớp mắt luôn mang theo vẻ dịu dàng, Di Phi lại có vẻ giảo hoạt đặc thù, nhưng ở Tiết Thái lại biến thành sự linh hoạt và thanh tú khó tả thành lời có chút xấu tính, lại có chút trẻ con.
Là ai đi chăng nữa cũng không thể nổi giận với một đứa trẻ như thế, hơn nữa còn là một đứa trẻ xinh đẹp đến vậy, đáng thương đến vậy.
Khương Trầm Ngư cũng không thể, vì thế nàng chỉ có thể nói: “Ta đoán không ra”.
“Vậy thì ta sẽ tốt bụng dẫn ngươi đi xem nhé”. Tiết Thái quay người dẫn đường, “Đi theo ta”.
Khương Trầm Ngư đành đi theo. Đi vòng vèo quanh co hơi lâu, nhìn thấy một cổng vòm, Tiết Thái không đi thẳng qua cửa, mà đi sang bức tường thấp bên cạnh, dưới chân tường có chất mấy tảng đá, hắn giẫm lên trên, sau đó vẫy tay gọi nàng.
Tuy cảm thấy hành động này có hơi thất thố, nhưng không nén nổi tò mò, Khương Trầm Ngư cũng giẫm lên tảng đá, nhòm qua bên kia tường, vừa nhìn một cái, liền thở hắt ra một hơi lạnh.
Bên kia tường là một cái sân.
Trong sân không có gì đặc biệt, thứ đặc biệt chính là trên chiếc bàn đá bày la liệt sơn hào hải vị, sơn hào hải vị cũng không có gì đặc biệt, thứ đặc biệt chính là hai người ngồi bên bàn.
Một người áo xống xênh xang, như tiên trong núi; một người mày mắt thanh tú như hoa trong nước.
Không phải ai khác, chính là Cơ Anh và… Di Thù.
Hai người bọn họ tại sao lại ở cùng nhau? Hơn nữa còn vào lúc này?
Tiết Thái giật giật tay áo nàng, ra hiệu giữ im lặng. Khương Trầm Ngư cho dù có một bụng nghi hoặc cũng chỉ có thể kìm nén, im lặng quan sát.
Chỉ thấy Di Thù tự tay múc một bát canh, đưa đến trước mặt Cơ Anh, ngọt ngào cười nói: “Đây là canh Kim Phong Ngọc Lộ nổi tiếng nhất nước ta, đều dùng sương trên hoa buổi sớm, cùng với bảy bảy bốn mươi chín nguyên liệu quý hiếm nấu thành, ngọt mà không ngấy, tan liền trong miệng, lưỡi răng thơm lừng, dư vị đậm sâu. Hơn nữa, tốt nhất nên ăn vào buổi sáng, có thể giữ cho tinh thần sảng khoái cả ngày. Ngài nếm thử xem?”.
Cơ Anh đưa tay nhận lấy, lịch sự nhã nhặn đáp: “Đã nghe danh từ lâu, vậy thì Anh không khách sáo nữa”. Nói đoạn cầm thìa nếm một ngụm.
Di Thù hỏi: “Thế nào?”
Cơ Anh mỉm cười: “Công chúa nấu thật khéo”.
Di Thù “ha” một tiếng, vuốt tóc nói: “Sao ngài biết là ta nấu?”.
Cơ Anh buông bát canh xuống, “Công chúa muốn đáp tạ ta, đương nhiên sẽ dùng món quà quý trọng nhất, canh Kim Phong Ngọc Lộ lại là bí mật của hoàng thất Trình quốc, người khác xưa nay không có phúc được hưởng, huống hồ còn là canh do công chúa đích thân nấu”.
Di Thù che miệng cười: “Từ lâu đã nghe nói tài ăn nói của công tử thiên hạ vô song, khi sắc bén thì như dao sắc, khi vi diệu lại như thổi khói giữa sương, mà khi dịu dàng, càng say đắm lòng người hơn cả gió xuân…”.
Cơ Anh cười nhạt.
Di Thù bỗng dựa sát chàng thêm, giọng nói buông thật khẽ thật ngọt ngào: “Thế nhưng, sở dĩ ta nấu món canh này cho công tử, thực ra còn có ý tứ khác nữa…”.
Cơ Anh nhướn mày.
“Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số”
(Gió vàng móc ngọc một gặp nhau, Hơn biết mấy người đời gần gụi) (3) . Di Thù vừa thân mật nói vừa khẽ chọc ngón tay lên ngực Cơ Anh.
Đầu óc Khương Trầm Ngư lập tức trở nên trống rỗng.
Nàng làm sao có thể ngờ rằng mình sẽ nhìn thấy cảnh tượng này, chẳng trách khi Tiết Thái chớp mắt, lộ rõ vẻ cổ quái xấu xa. Hắn cố ý! Hắn biết ở đây sẽ diễn ra màn kịch như thế nào, cũng biết màn kịch này làm tổn thương nàng nhất, cho nên cố ý dẫn nàng đến!
Quá… quá… thật quá đáng…
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, định quay người bỏ đi, liền bị Tiết Thái giữ chặt lại, nàng trợn mắt gườm Tiết Thái, Tiết Thái lắc đầu với nàng, ánh mắt bảo nàng đừng nóng vội.
Khương Trầm Ngư vừa giận vừa tức, lại sợ gây ra tiếng động khiến đối phương phát giác, đành tiếp tục đứng xem. Trong lòng như bị thứ gì đó lăn qua, vì không thể vỡ hẳn ra, cho nên dính với nhau nhơm nhớp.
Mà bên kia, Cơ Anh không hề đẩy Di Thù ra, chỉ nhìn xuống vạt áo của mình theo ngón tay nàng ta, một lát sau mới nhướn mày, cười hỏi: “Công chúa đã biết câu này, đương nhiên cũng nên biết một câu khác”.
“Một câu khác gì?”.
“Nhân các hữu ngẫu, Tề đại, phi ngô ngẫu dã”(4).
Di Thù giận dỗi nói: “Hóa ra công tử chê người ta, ta không chịu, ta không chịu…”, nói rồi, giơ nắm tay trắng trẻo lên khẽ đập lên người chàng.
Cơ Anh nắm lấy tay Di Thù, thở dài nói: “Ngày mai công chúa sẽ là quân vương Trình quốc, e là không còn thời gian mà hờn giận như thế nữa”.
Di Thù ngưng cười, nhìn chàng chằm chằm, ánh mắt thâm trầm, “Công tử…
thực sự không cần ta báo đáp?”.
Cơ Anh nghiêm mặt đáp: “Những điều công chúa báo đáp ta đã viết đủ nhiều trên quốc thư rồi”.
Di Thù cắn môi, hạ giọng nói: “Chàng… không thích ta sao?”.
“Ta rất thích công chúa”, Cơ Anh nói, từ nắm tay đổi thành dắt tay nàng ta, “giống như thích một đứa trẻ kiên cường đứng dậy bước tiếp trong gian khó, mất mát rất nhiều, từ bỏ rất nhiều, phản bội rất nhiều, nhưng trước sau vẫn không hối hận”.
Di Thù im lặng, rất lâu sau mới chầm chậm rút tay khỏi tay chàng, đồng thời cũng tách ra khỏi chàng. Khương Trầm Ngư xem đến đây, tảng đá nặng trịch trong lồng ngực mới miễn cưỡng hạ xuống và một cảm giác rất vi diệu theo đó dâng trào.
Trước đó, khi Di Thù khêu gợi Cơ Anh, nàng chỉ cảm thấy giận dữ, nhưng nhìn thấy Di Thù bị Cơ Anh cự tuyệt xong, sự giận dữ đó liền chuyển thành cảm khái – Công tử khi từ chối người khác vẫn luôn dịu dàng như thế.
Dịu dàng đến mức khiến người ta đau lòng.
Di Thù quay người lại, chăm chú nhìn ánh mặt trời mỏng manh xuyên qua màn sương trắng, chậm rãi nói: “Ta cũng thích công tử. Bởi vì, công tử là nam nhân duy nhất giúp ta, nhưng không hề nhân cơ hội lợi dụng ta, cho dù ta thực sự cam tâm tình nguyện”.
Cơ Anh dịu dàng đáp: “Công chúa sắp là Trình vương, chỉ cần nàng muốn, không có nam nhân nào có thể lợi dụng nàng”.
Di Thù buồn bã mỉm cười: “Kéo một nam nhân lên giường thì dễ, nhưng muốn đuổi họ xuống thì quá khó”.
Cơ Anh im lặng một hồi, mới nói: “Nàng là Trình vương”.
Vì bốn chữ này, đôi mắt Di Thù lại lần nữa tỏa sáng, nhắc lại một lần thật chậm, thật chậm: “Ta – là – Trình – vương”.
Di Thù hít một hơi thật sâu, cao giọng nói: “Không sai! Công tử nói đúng, từ ngày hôm nay trở đi, ở Trình quốc, ta chính là người đứng trên vạn người, không ở dưới ai, không ai có thể tùy ý trêu đùa sự tôn nghiêm của ta, nắm giữ vận mệnh của ta! Ta là Trình vương”.
Cơ Anh mỉm cười với Di Thù. Nụ cười đó còn ấm áp hơn cả ánh dương.
Ánh mắt Di Thù trầm xuống, lại nhìn chàng chằm chằm hồi lâu, rồi nhướn mày nói: “Công tử thực sự không muốn ta báo đáp công tử trên giường?”.
Khóe mắt Cơ Anh run run.
Thế là Di Thù bắt đầu cười ha ha(5): “Đùa công tử thôi, công tử chính là Liễu Hạ Huệ chính nhân quân tử của ta! Được rồi, ta lại giới thiệu với công tử mấy món ăn nữa nhé? Qua thôn này, sẽ không còn quán này nữa(6) đâu, sau này sẽ không còn cơ hội bắt quân vương Trình quốc xuống bếp vì ngài đâu…”. Nói đoạn, cầm chiếc thìa lên bắt đầu xúc những món ăn khác.
Khương Trầm Ngư nhìn đến đây, nhẹ nhõm thở nhẹ một hơi.
Tiết Thái lập tức quay đầu lại, nhìn nàng bằng đôi mắt đen lay láy, lạnh lùng nói: “Tật xấu của ngươi lại bắt đầu rồi đấy”.
“Hả?”. Thế là có ý gì?
“Sự thương hại của ngươi lại bắt đầu dâng trào phải không? Ngươi rất thương hại ả công chúa kia sao?”.
“Cô ta bị phụ vương mình… lại nhập nhèm với mấy vị ca ca, kỳ thực rất đáng thương…”.
“Xem kìa, lại bắt đầu diễn vai Bồ Tát rồi”, Tiết Thái tặc lưỡi nói.
Khương Trầm Ngư không khỏi xấu hổ, hỏi: “Tại sao ngươi lại cười ta? Lẽ nào ta không thể thương hại cô ta?”.
“Đương nhiên không thể”. Tiết Thái nghiêm mặt, ánh mắt trở nên vừa thâm trầm vừa lạnh lùng, “Bởi vì, kẻ sai sát thủ giết ngươi chính là vị công chúa Trình quốc đáng thương đáng được đồng tình này”.
Sét đánh giữa trời quang, đánh thẳng vào trái tim Khương Trầm Ngư như thế.
Giả sơn, bàn đá, sơn hào hải vị… hết thảy trước mắt bỗng nhòa đi, chỉ còn lại áo trắng tóc đen của công tử là rõ ràng biết mấy.
Là Di Thù sai người giết nàng?
Là Di Thù sai người giết nàng?
Phút giây này, điều Khương Trầm Ngư nghĩ không phải là tại sao Di Thù phải sai người giết nàng, mà là – Di Thù muốn giết nàng, công tử lại giúp Di Thù!
Công tử biết rõ!
Đến Tiết Thái cũng biết, làm sao công tử có thể không hay?
Chàng biết, chàng biết, chàng biết!
Mà chàng, bây giờ, đang nhàn nhã ngồi bên bàn, dịu dàng nhìn Di Thù, nói chuyện với ả, mỉm cười với ả.
Thậm chí chàng còn giúp ả trở thành nữ đế của Trình quốc!
Làm sao nàng chịu nổi?
Những chữ này lờ mờ nổi lên trong đầu Khương Trầm Ngư, trong nháy mắt, lệ sa từng hàng, không rõ nguyên nhân, không có lý do, đáng sợ mà chua xót.
“Ta… thực sự là kẻ không quan trọng đến vậy…”. Khương Trầm Ngư lẩm nhẩm, muốn cười nhưng không sao cười nổi.
Đúng lúc đó, một tên thị vệ vội vã bước vào, ghé tai Di Thù nói gì đó, Di Thù gật đầu, quay người cười nói: “Ta phải đi rồi”.
Cơ Anh đứng dậy, đáp: “Nội loạn mới yên, công chúa đương nhiên có nhiều việc cần xử lý, là Anh đã quấy rầy. Công chúa cứ tự nhiên”.
Di Thù nhìn chàng đăm đăm, “Đại ân không lời nào cảm tạ hết được”.
Cơ Anh không nói gì thêm nữa, chỉ chắp tay hành lễ.
Di Thù theo sau tên thị vệ kia rảo bước rời đi.
Cơ Anh bấy giờ mới chầm chậm ngồi xuống chiếc đôn đá, khẽ thở dài, nói: “Các ngươi có thể ra được rồi”.
Tiết Thái kéo tay Khương Trầm Ngư, nàng vẫn bàng hoàng, đờ đẫn theo hắn bước qua cửa vòm.
Ánh mắt Cơ Anh tựa như một cơn gió mát lướt qua mặt hồ đậu lại trên gương mặt nàng.
Khuôn mặt của Khương Trầm Ngư trắng bệch như tuyết.
Cơ Anh nhìn Tiết Thái thoáng vẻ trách móc, cất tiếng: “Khương tiểu thư…”.
Khương Trầm Ngư đột ngột ngắt lời chàng: “Tại sao Di Thù muốn giết tiểu nữ?”.
Làn môi Cơ Anh run run giây lát, nhưng chàng không trả lời.
Tiết Thái đáp thay chàng: “Rất đơn giản. Bởi vì nữ nhân đó không chịu được nữ nhân khác được yêu thích hơn mình mà thôi”.
Khương Trầm Ngư không nhìn hắn, chỉ dán mắt vào Cơ Anh, khẽ hỏi: “Là như thế sao?”.
Tiết Thái lại trả lời thay: “Ngươi có biết, nửa tháng nay, nữ nhân nổi bật nhất ở Trình quốc là ai không?”. Không đợi Khương Trầm Ngư trả lời, hắn tự nói tiếp: “Là ngươi, chính là ngươi. A Ngu cô nương. Ngươi là sư muội của Đông Bích hầu, ngươi xin hắn cái gì liền được cái nấy, ngươi cứu tính mệnh của Nghi vương, khiến Nghi vương thần hồn điên đảo vì ngươi; ngươi còn chỉ dùng một khúc nhạc mà khiến Yên vương cảm phục, vì thế có được danh cầm và cầm phổ tuyệt thế; ngươi bị hôn mê, quan viên khắp triều lũ lượt tặng quà; một đêm ngươi không về, Nghi vương đích thân đến vương phủ đòi người; không chỉ như thế, ngươi còn khiến ba vị hoàng tử hoặc nhiều hoặc ít đều đối xử với ngươi khác người bình thường… Mà những nam nhân này đều là người mà Di Thù lợi dụng, hoặc là có ý đồ muốn lợi dụng, ngươi cảm thấy cô ta không có lý do gì để giết ngươi sao?”.
Khương Trầm Ngư vẫn đứng bất động, trên gương mặt không chút biểu cảm, nhưng rèm mi nhướn dần lên, để lộ đôi đồng tử bên trong, sâu thẳm như ngọc đen huyền, “Đó… đều không phải là lỗi của ta”.
Nụ cười của Tiết Thái vì câu nói này mà biến mất trong nháy mắt.
Khương Trầm Ngư nhìn thẳng Cơ Anh, nói từng chữ rành rọt: “Đây không phải là lỗi của ta… Không phải! Không phải là lỗi của ta!”. Nàng bỗng giơ tay, gạt đám bát đĩa trên mặt bàn xuống đất, loảng xoảng loảng xoảng, hết thảy đều vỡ vụn. Đến bát canh Kim Phong Ngọc Lộ đó cũng chảy lênh láng ra đất.
Tiết Thái chưa bao giờ thấy nàng kích động như thế, không khỏi biến sắc, có chút bất ngờ, cũng có chút chấn động.
Ánh mắt Trầm Ngư sắc lẹm như một lưỡi dao, nhìn mọi thứ ngổn ngang trên mặt đất, cười nhạt, nói: “Thật nực cười! Lý do này! Vì lý do này, sai sát thủ đến lấy mạng ta, khiến ta suýt chút nữa chết nơi đất khách, không thể gặp lại người thân, còn hại Sư Tẩu tàn phế suốt đời, vĩnh viễn mất đi một cánh tay, một con mắt và đôi chân, thật nực cười! Thật nực cười!”.
“Trầm Ngư”. Cơ Anh khẽ gọi một tiếng.
Cả người Khương Trầm Ngư run bắn, sau đó bình tĩnh trở lại. Nhưng đôi mắt trở nên bi thương khôn xiết. Nàng chăm chú nhìn chàng, dùng giọng nói còn nhạt hơn gió thoảng hỏi: “Công tử, tại sao ngài giúp ả?… Tại sao?”.
Tại sao phải giúp Di Thù.
Thực ra, vấn đề này đêm qua Cơ Anh đã nói rồi.
Khi chiếc ghế nhô cao, Di Thù từ trong cơ quan bước ra, Nghi vương và Yên vương đều ngạc nhiên, mà chính lúc đó, Cơ Anh lên tiếng, nói ra câu then chốt nhất: “Ta xin các vị lên tiếng ủng hộ công chúa xưng đế vì ba lý do”.
“Thứ nhất loạn ở Trình quốc, đối với ba nước không phải là may mắn, mà là tai họa. Cuộc hỗn chiến bốn nước mười năm về trước đã mang lại tổn thất vô cùng to lớn cho các nước, mười năm nay, chúng ta nghỉ ngơi an dưỡng, khó khăn lắm mới có chút khởi sắc, hiện giờ nên là một giai đoạn chấn hưng tiếp tục đi lên, đối với các nước mà nói, đều yên tĩnh không nên động. Nghi vương bệ hạ, nếu Trình quốc cứ chiến loạn mãi thế này, con dân của ngài sẽ tiếp tục buôn bán làm sao? Phải biết rằng, trong thời gian chiến loạn, chỉ có một thứ có thể hái ra tiền, đó chính là vũ khí. Nhưng vô cùng không may là vũ khí không phải là sở trường của Nghi quốc, mà là sở trường của Trình quốc. Đối với vương bệ hạ, một khi Trình loạn bắt đầu, bách tính tha phương cầu thực, tất sẽ ồ ạt di dời, đến lúc đó, nạn dân đàn bà trẻ con người già kẻ tàn tật hết thảy đều chạy đến Yên quốc, đuổi đi thì thất đức, giữ lại thì sinh hậu họa, đối với ngài mà nói, cũng là một phiền phức to lớn, đúng không?”.
“Thứ hai, Trình quốc hiện tại, ai là người lòng quân hướng về? Hàm Kỳ?
Không sai, y là danh tướng. Nhưng đồng thời y cũng là một hoàng tử cao ngạo, tính tình nóng vội bạo ngược, người sùng bái nhiều, nhưng người bất mãn y còn nhiều hơn. Y cay nghiệt thiếu đức, lại tự cho là mình giỏi, không coi những tướng sĩ xuất thân nghèo hèn ra gì, vì thế, quân đội của y tuy quân kỷ nghiêm minh, nhưng cũng bị người ta căm ghét. Còn Di Phi? Y là một kẻ thông minh, đáng tiếc có chút mưu lược nhưng không có tài năng của đại tướng quân Lân Tố? Đối với đất nước sùng võ như Trình quốc mà nói, y hoàn toàn là một kẻ bỏ đi! Cho nên, ai là người lòng quân hướng về? Đáp án chỉ có một – công chúa.
Công chúa xuất thân cao quý, lễ hiền đãi sĩ, binh không phân quý tiện, đối xử công bằng, hơn nữa, văn tài võ học thứ nào cũng là cao thủ. Có thể nói, ở Trình quốc, nàng là độc nhất vô nhị”.
“Thứ ba, Trình quốc hiện giờ, ai là người lòng dân hướng về?
Mọi người đều biết, người Trình vương sủng ái là công chúa, người bách quan thần phục là công chúa, người con dân yêu mến là công chúa. Là công chúa, chứ không phải các huynh trưởng của nàng”.
Khi Cơ Anh nói xong, căn phòng chìm trong im lặng.
Rất lâu sau, Hách Dịch mới lên tiếng phá vỡ sự yên tĩnh: “Những gì ngài nói đều rất lọt tai, nhưng chớ có quên, Di Thù xưng đế, có một khiếm khuyết lớn nhất, mà khiếm khuyết này đủ để xóa tan hết thảy ưu điểm của nàng”.
Chương Hoa tiếp lời: “Bởi vì nàng là nữ nhi”.
Hách Dịch nói: “Không sai. Nữ nhi xưng đế, không có tiền lệ. Cứ coi như ngài có thể thuyết phục hai người bọn ta, nhưng làm thế nào để thuyết phục thiên hạ?”.
Cơ Anh khẽ cười: “Nữ nhi xưng đế, không có tiên lệ. Vậy giải thích thế nào về truyền thuyết Nữ Oa tạo người? Tại sao lại có thuyết Cung Công thị và Nữ Oa tranh ngôi đế? Tại sao lại có truyền thuyết Nữ Oa vá trời?”.
“Đó là truyền thuyết”.
“Không sai, đó là truyền thuyết”. Cơ Anh trầm giọng nói: “Thế nhưng ai có thể nói, bây giờ không thể lại dựng lên một truyền thuyết nữa? Nếu một nữ tử là huyết mạch hoàng tộc duy nhất còn sót lại, năng lực tài hoa đều cao hơn người khác, tại sao nàng không thể xưng đế? Điều quan trọng nhất là có được sự ủng hộ của ba vị quân chủ, sao nàng không thể xưng đế được đây? Chớ quên rằng, ba vị bệ hạ mới là chủ tể của thiên hạ hiện nay”.
Căn phòng lại lần nữa chìm trong sự im lặng.
Hồi lâu Hách Dịch và Chương Hoa đều không nói gì, rõ ràng là đang đấu tranh tâm lý hết sức phức tạp.
Lúc này, nếu không thể thúc đẩy, rất có thể thuyền lội ngược dòng, sẽ không tiến mà lùi.
Thế là Cơ Anh thở dài, khẽ nói: “Công chúa, hãy nói cho hai vị bệ hạ, tại sao nàng buộc phải xưng đế?”.
Di Thù trước sau vẫn giữ nụ cười mỉm, nửa lời không nói, sau khi nghe thấy câu này, liền đi về trước mấy bước. Mấy tên thị vệ bước vào, khiêng tấm bình phong trước mặt Nghi vương và Yên vương đi, sau đó lui ra, đóng kín toàn bộ cửa ra vào, cửa sổ.
Trong phòng vẫn chỉ có một ngọn đèn cô lẻ, bóng sáng loang lổ chiếu sáng cả phòng. Mà trong quầng sáng đó, người sáng rõ nhất chính là Di Thù, nàng ta tắm mình trong ánh sáng vàng vọt, đưa tay ra, nhẹ nhàng cởi thắt lưng, trút bỏ chiếc áo khoác ngoài.
Hách Dịch và Chương Hoa đều biến sắc.
Điều khiến họ kinh ngạc không phải là hành vi to gan dám cởi áo trước mặt mọi người của Di Thù, mà là sau khi nàng ta trút xiêm y, trên bờ vai và bầu ngực để trần đều chi chít những vết sẹo.
Tròn có, méo có, dài có, ngắn có, sâu có, nông có, từng đường từng vết giống như những con côn trùng bò lổm ngổm trên người nàng ta, lại thêm nước da trắng nõn nà, cho nên trông càng chấn động.
Hách Dịch đứng lên trước tiên, kinh ngạc hỏi: “Là ai làm?”.
Di Thù mặt lạnh lùng, đáp: “Phụ vương”.
“Cái gì? Trình vương”, bấy giờ, đến Chương Hoa cũng không ngồi yên nổi nữa. Như Ý sửng sốt kêu lên: “Công chúa không phải là con gái được sủng ái nhất của ông ta sao?”.
Di Thù nhếch mép cười nhạt: “Không sai, chính là ta. Hơn nữa, những vết sẹo này đều là bằng chứng cho sự sủng ái của ông ta với ta”.
Hách Dịch và Chương Hoa nhìn nhau, thần sắc phức tạp.
Cơ Anh nói: “Con người Minh Cung không bằng loài cầm thú, đến con gái ruột của mình cũng không tha, công chúa đã bị hắn lăng nhục từ năm bảy tuổi đến tận bây giờ, không thể nào tỏ bày với người ngoài. Chư vị, cho dù không vì thời cuộc chỉnh sự, đối với một cô gái yếu đuối như thế này, hai vị thân là nam tử, lẽ nào sẽ khoanh tay bàng quan?”.
Khi ấy Khương Trầm Ngư đứng ở một bên, quan sát từ đầu đến cuối, trong lòng rúng động, không lời nào tả xiết.
Không thể không nói, chiêu này thực sự quá tuyệt diệu. Đặc biệt là trước đó Di Thù luôn ẩn nấp, khi nàng ta xuất hiện, việc đầu tiên nàng ta làm chính là thoát y. Hai tầng kích thích thị giác và tư duy, khiến bầu không khí trong phòng hoàn toàn biến đổi. Nàng dường như có thể cảm thấy một thứ gọi là “thương xót” bắt đầu lan tỏa ra xung quanh, một nữ nhân như nàng nhìn thấy đã như vậy, huống hồ là những nam nhân này, những nam nhân nắm trọng quyền trong tay, có khả năng tối thượng, vì thế cũng luôn có ý thức trên mình gánh vác sứ mệnh và trách nhiệm.
Ánh đèn chiếu trên người Di Thù, đôi mắt cụp xuống, tư thế yểu điệu của nàng ta đều làm nổi bật vẻ đẹp rực rỡ của nàng ta, mà nàng ta càng đẹp, những vết sẹo trên cơ thể lại càng rõ ràng, lại càng đáng thương.
Khương Trầm Ngư không nghĩ ra được, còn có thứ gì có thể chống đỡ được sức mạnh to của vẻ đẹp và sự yếu đuối này cộng sinh ra.
Và kết quả cũng đúng như suy đoán, Chương Hoa và Hách Dịch sau một hồi lâu chấn động, cuối cùng đã đồng ý với yêu cầu của Cơ Anh – dùng thế lực ba nước, phù trợ Di Thù xưng đế.
Không sai, đó chính là toàn bộ quá trình sự việc đã xảy ra trong căn phòng nhỏ tối hôm qua. Cơ Anh lợi dụng vốn liếng nguyên thủy nhất của một nữ nhân, lay động hai vị đế vương, giành được thắng lợi.
Thế nhưng, tất cả thực sự như những lời chàng nói tối qua sao?
Khương Trầm Ngư nhìn nam tử quan trọng nhất đời mình, nhắc lại câu hỏi lần nữa bằng một giọng nói tuyệt vọng, bi ai khôn xiết: “Công tử, tại sao công tử phải giúp ả…?”.
Cơ Anh im lặng, Tiết Thái nhìn Khương Trầm Ngư rồi lại nhìn chàng, tiến lên phía trước một bước định nói, Cơ Anh lắc đầu với hắn, Tiết Thái lại lùi xuống.
Bấy giờ Cơ Anh mới ngước mắt, nhìn trả Khương Trầm Ngư, giọng nói nhẹ nhàng: “Trầm Ngư”.
Đây là lần thứ hai chàng trực tiếp gọi tên nàng mà không giống như trước đó, luôn chỉ là “tiểu thư”.
Khương Trầm Ngư không kìm được đau đớn nghĩ, công tử thật giảo hoạt, rõ làng biết nàng không có sức kháng cự với cách gọi này, cho nên luôn sử dụng trong những thời khắc then chốt như bây giờ để nàng không thể giận dữ, không thể tức tối, không thể oán hận. Quá giảo hoạt, công tử quá giảo hoạt…
Thế nhưng, tại sao rành rành biết là công tử giảo hoạt như thế, nhưng chỉ cần nghe thấy chàng dùng giọng điệu dịu dàng đó nói ra hai từ này, tất cả những cảm xúc tiêu cực đều tan chảy, đều biến mất như mây khói, không thể kiên cường tiếp được?
T
/27
|