Quách Tương càng nghe càng thấy mù mờ, từ nhỏ tới giờ nàng học võ chỉ nghe thấy nói tới việc ra tay trước để chế ngự người, ra tay sau thì bị người ta chế ngự mình (tiên phát chế nhân, hậu phát chế ư nhân) lúc nào cũng cần nhanh nhẹn, lúc nào cũng cần đi trước. Bây giờ nghe Giác Viễn đọc quyền kinh yếu quyết, cái gì mà "theo mình thì sẽ vướng mắc, do người thì sẽ linh hoạt", khác hẳn với những gì nàng đã biết, nghĩ thầm: "Khi gặp địch phải ra tay, hai bên tính mệnh đem ra đánh đổi, nếu như mình cứ bỏ mình, theo người, địch bảo mình bên đông thì mình đi bên đông, bảo mình qua bên tây thì mình qua bên tây, thì có khác gì đứng yên cho người ta đánh?".
Lại nghe Giác Viễn tụng:
- Âm đáo cực thịnh, tiện tiệm chuyển suy, thiểu dương ám sinh, âm tiệm suy nhi dương tiệm thịnh, âm dương hỗ tể, hỗ sinh hỗ tể, thiểu dương sinh vu lão âm, thiểu âm sinh vu lão dương. Phàm sự bất khả cập, cực tắc dịch biến, do trọng chuyển khinh, do khinh chuyển trọng…
Quách Tương chợt ngộ ra, một quyền đánh ra, càng về sau kình lực càng hết, nếu muốn thêm một ly cũng không thể được. Chiếu theo lời Giác Viễn tụng, tựa như sau khi kình lực đã hết, bỗng nhiên lại có kình lực sinh ra, hơn nữa càng sinh càng mạnh, thật là kì lạ. Ông ấy nội công thâm hậu như vậy, chẳng lẽ là từ đạo lí đó mà ra?
Nàng còn đang trù trừ suy nghĩ nên những gì Giác Viễn đọc tiếp nàng không nghe thấy, nghe mà không vào. Dưới ánh trăng suông, bỗng thấy Trương Quân Bảo cũng đang xếp bằng lắng tai nghe. Quách Tương nghĩ thầm: "Không cần biết những gì ông ta đọc đúng hay không đúng, ta cứ ghi nhớ là được. Lão hòa thượng này chấn thương Tiêu Tương Tử, lại dọa cho Hà Túc Đạo chạy dài, đều chính mắt mình trông thấy. Những gì ông ta đọc là pháp môn võ công, ắt phải có lý do cả". Nghĩ thế nên nàng dụng tâm cố nhớ.
Nguyên Lăng Già Kinh lúc đầu lưu truyền ở Thiên Trúc, lúc đó Thiên Trúc chưa chế tạo ra giấy viết, lấy mũi kim châm khắc kinh văn lên bối diệp, Đạt Ma Tổ Sư từ thời Lương Vũ Đế đem bối diệp kinh từ Thiên Trúc đến trung thổ truyền vào Thiếu Lâm tự, bối diệp không ngay ngắn đọc không tiện, tăng nhân Thiếu Lâm sao chép lại lên giấy trắng đóng thành sách, bản sao Phạn văn lưu hành một thời gian thì phổ biến rộng rãi, không biết lúc nào lại có một vị cao tăng viết một bộ Hán văn Cửu Dương Chân Kinh vào những chỗ trống trên quyển kinh, giải thích đó là một môn tu tập nội công cao thâm trong võ học. Hơn ngàn năm qua tăng nhân Thiếu Lâm đều đọc Lăng Già Kinh bằng bản dịch tiếng Hán, không ai đọc nguyên văn chữ Phạn, bộ Cửu Dương Chân Kinh này được cất ở Tàng Kinh Các đã bao lâu rồi, không một ai lật xem qua một câu một tờ. Vị cao tăng sáng tác ra bộ Cửu Dương Chân Kinh này vốn là một đạo sĩ quy y, tinh thông đạo tạng, võ kinh soạn ra thì cương nhu đều xem trọng, âm dương viện trợ, tùy cơ mà thi triển, hậu phát chế nhân; so với võ học truyền thống phái Thiếu Lâm chú trọng dương cương có phần bất đồng, so với công thu Cửu Âm Chân Kinh thuần túy Đạo gia chú trọng âm nhu cũng có chỗ khác. Vị cao tăng năm đó ngộ ra lí lẽ võ học thâm sâu đến vậy, không dám cùng người Thiếu Lâm tự nghiên cứu thảo luận, chỉ tùy tay viết vào trong bản sao. Giác Viễn có thể tu tập được công phu này, thứ nhất là vì tính cách của ông, thứ hai có thể là do vận mệnh ngẫu nhiên.
Giác Viễn sau khi vừa đại hao chân lực, nửa đêm lại tụng niệm, không khỏi tinh thần không ổn, hơi có chút lộn xộn, rối ren hỗn tạp, may mắn Quách Tương từ nhỏ thông minh, dụng tâm ghi nhớ, nhưng cũng chỉ có thể nhớ rõ hai ba phần.
Mặt trăng từ từ chếch về hướng tây, bóng người cũng dần dần dài ra, tiếng tụng kinh của Giác Viễn càng lúc càng nhỏ, âm thanh phát ra mơ hồ không rõ tiếng. Quách Tương khuyên:
- Đại hòa thượng, ông đã mỏi mệt cả ngày rồi, ngủ thêm một giấc nữa đi.
Thế nhưng dường như Giác Viễn không nghe nàng nói, vẫn tiếp tục đọc:
- … lực tòng nhân tá, khí do tích phát. Hà năng khí do tích phát? Khí hướng hạ trầm, do lưỡng kiên thu nhập tích cốt, chú ư yêu gian, thử khí chi do thượng nhi hạ dã, vị chi hợp. Do yêu triển ư tích cốt, bố ư lưỡng bác, thi ư thủ chỉ, thử khí chi do thượng nhi hạ dã, vị chi khai. Hợp tiên thị thu, khai tiện thị phóng. Năng đổng đắc khai hợp, tiện tri âm dương? (lực theo người mà mượn, khí do xương sống mà ra. Tại sao khí lại do xương sống mà ra? Khí đi xuống dưới, từ hai vai thu vào trong xương sống, chảy vào eo, khí đó từ trên chạy xuống dưới vậy, nên gọi là hợp. Từ eo chạy vào xương sống, rồi ra hai cánh tay, đi ra tới tận ngón tay, khí đó từ dưới mà chạy lên trên vậy, nên gọi là khai. Hợp nên thu vào, khai nên thả ra. Biết được lẽ khai hợp, tức là biết được âm dương?).
Ông ta càng tụng đọc, thanh âm càng nhỏ dần, sau cùng không còn nghe thấy gì nữa, chắc đã ngủ thiếp đi rồi. Quách Tương và Trương Quân Bảo không dám kinh động, chỉ cố gắng nhớ những kinh văn vừa mới nghe.
Thời gian trôi đi, trăng đã lặn về hướng tây, từ đâu đến các đàn chim bay lại, làm đen cả một vùng. Lại thêm độ tàn một bữa ăn, phương đông trời sáng dần, chỉ thấy Giác Viễn mắt nhắm nghiền, vai xuôi xuống, tĩnh tọa không động đậy, nét mặt trông như đang mỉm cười.
Trương Quân Bảo chợt quay đầu, thấy sau gốc cây có bóng người thấp thoáng, nhưng cũng kịp nhìn thấy một góc áo cà sa màu vàng. Y giật mình kinh hãi, quát lớn:
- Ai đó?
Chỉ thấy một lão tăng gầy cao từ sau gốc cây bước ra, chính là thủ tọa La Hán Đường Vô Sắc thiền sư. Quách Tương vừa mừng vừa lo, hỏi: Bạn đang xem tại TruyệnYY - www.truyenyy_com
- Đại hòa thượng, sao ông nhất định không bỏ cuộc, đuổi tới tận đây? Chẳng lẽ không bắt thầy trò y về chùa không được hay sao?
Vô Sắc nói:
- Thiện tai, thiện tai! Lão tăng biết lẽ phải trái, đâu phải là người chấp nhặt cái quy luật cũ từ đời nảo đời nao? Lão tăng đến đây từ lúc nửa đêm, nếu như muốn động thủ, đâu có chờ đến bây giờ. Giác Viễn sư đệ, Vô Tướng sư đệ chỉ huy tăng chúng trong Đạt Ma Đường đang tìm ở hướng đông, các ngươi mau nhắm thẳng hướng tây mà chạy. Ta vẫn muốn đến Đạt Ma Đường nhận trách nhiệm.
Chỉ thấy Giác Viễn vẫn cúi đầu nhắm mắt, dường như chưa tỉnh. Trương Quân Bảo tiến lên thưa:
- Sư phụ tỉnh dậy đi, thủ tọa La Hán Đường đang nói chuyện với sư phụ đó.
Giác Viễn vẫn không động đậy. Trương Quân Bảo kinh hoảng chạy tới, giơ tay sờ vào trán ông ta, thấy lạnh ngắt, hóa ra đã viên tịch từ lâu rồi. Trương Quân Bảo đau đớn quá, phục xuống kêu lên:
- Sư phụ, sư phụ!
Thế nhưng ông ta làm sao có thể sống lại được. Vô Sắc thiền sư chắp tay hành lễ, đọc một bài kệ:
Chư phương vô vân ế,
Tứ diện giai thanh minh.
Vi phong suy hương khí,
Chúng sơn tĩnh vô thanh.
Kim nhật đại hoan hỉ,
Xá khước nguy thúy thân.
Vô sân diệc vô ưu,
Ninh bất đương hân khánh?
(Bốn phương không mây phủ,
Mọi mặt đều sáng trong,
Gió nhẹ đưa hương tới,
Tĩnh lặng núi thinh không.
Hôm nay thật hoan hỉ,
Cởi được thân mong manh.
Không giận cũng không lo,
Lẽ đâu không chúc khánh?).
Tụng xong ông lặng lẽ bỏ đi.
Trương Quân Bảo khóc lóc một hồi, Quách Tương cũng sụt sùi mãi. Tăng chúng chùa Thiếu Lâm khi viên tịch đều hỏa hóa. Cho nên hai người đi kiếm cành khô thiêu pháp thân của Giác Viễn. Quách Tương nói:
- Trương huynh đệ, tăng chúng chùa Thiếu Lâm chắc chưa bỏ qua cho ngươi đâu, ngươi nên hết sức cẩn thận. Chúng ta từ biệt nhau nơi này, sau này có lúc gặp lại.
Trương Quân Bảo gạt lệ đáp:
- Quách cô nương, cô đi đâu? Cho tôi đi theo với được không?
Quách Tương thấy y hỏi mình đi đâu, trong lòng chua chát, nói:
- Ta chân trời góc biển, hành tung không nhất định, chính mình cũng chưa biết đi đâu. Trương huynh đệ, ngươi tuổi còn nhỏ, lại không có chút lịch duyệt giang hồ nào, tăng chúng chùa Thiếu Lâm đang đi tìm bắt ngươi ở hướng đông, chỉ biết thế.
Nàng tháo chiếc vòng đeo tay đưa cho y, nói:
- Ngươi đem chiếc vòng này đến thành Tương Dương kiếm cha mẹ ta, hai ông bà ắt sẽ đối đãi với ngươi tử tế. Chỉ cần ngươi ở với cha mẹ ta thì dù tăng chúng chùa Thiếu Lâm có hung ác đến đâu, cũng không dám đến tìm ngươi làm khó dễ.
Trương Quân Bảo nuốt lệ nhận chiếc vòng. Quách Tương lại nói tiếp:
- Ngươi nói với cha mẹ ta rằng, ta vẫn khỏe mạnh, ông bà đừng mong đợi. Cha ta rất yêu kẻ thiếu niên anh hùng, thấy ngươi là một nhân tài thế này, không chừng sẽ thu ngươi làm đồ đệ. Em trai ta trung hậu thật thà, chắc sẽ thân thiết với ngươi lắm đấy. Chỉ có chị ta tính tình hơi nóng, mỗi khi không vừa ý, ăn nói chẳng nể nang ai. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn vâng lời, thì không sao cả.
Nàng còn nói tình hình của cha mẹ, nói rõ sau khi đến Tương Dương thì gặp cha mẹ nàng thế nào. Nói xong nàng quay đầu đi thẳng.
Trương Quân Bảo thấy trời đất mênh mông nhưng sao không có chỗ nào cho mình an thân, đứng trước đống tro hỏa táng sư phụ trầm ngâm cả nửa ngày, mới ra đi. Đi được một quãng, chợt quay đầu, gánh đôi thùng sắt sư phụ để lại, thất thểu bước đi. Trong núi rừng hoang vu, một thiếu niên gầy gò lặng lẽ theo hướng tây mà đi, lòng buồn rười rượi, nói sao cho xiết cái cảnh thân cô chiếc bóng, lênh đênh không nhà.
Đi được nửa tháng, đã đến cảnh giới tỉnh Hồ Bắc, không còn cách thành Tương Dương bao xa. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm trước sau vẫn không đuổi kịp y chính vì Vô Sắc thiền sư có lòng che chở, cố ý dẫn tăng chúng theo hướng đông mà tìm, thành ra hai bên càng lúc càng xa hơn.
Xế trưa hôm đó y đến trước một ngọn núi lớn, thấy cây cối rậm rạp um tùm, sơn thế cực kỳ hùng vĩ. Hỏi thăm những người dân quanh đó, mới biết núi này tên gọi là Võ Đương. Y ngồi dưới chân núi, tựa lưng vào một hòn đá mà nghỉ, bỗng thấy một đôi nam nữ nhà quê từ con đường nhỏ bên núi đi tới. Hai người sánh vai mà đi, trông thật thân mật, rõ ràng là một đôi vợ chồng trẻ. Người đàn bà vừa đi vừa liến thoắng luôn mồm phiền trách anh chồng. Người đàn ông thì chỉ cúi đầu, lặng thinh không đáp.
Bỗng nghe người vợ nói với chồng:
- Huynh là một nam tử hán, đại trượng phu, lại không chịu tự mình làm ăn riêng, lại đến ăn nhờ ở đậu chị và anh rể, nếu không đâu đến nỗi bị nhục nhã như thế. Vợ chồng mình còn mạnh chân khỏe tay, tay làm hàm nhai, dù rau dưa cà muối, cơm cháo qua ngày cũng được, có phải thảnh thơi không? Chứ huynh không dám tự lập ở riêng, sinh ra trên đời này cũng uổng.
Người đàn ông ậm ừ mấy tiếng, người đàn bà lại tiếp:
- Người đời có nói rằng, ngoài cái chết ra chẳng có cái gì gọi là lớn hết, chẳng lẽ không nhờ vả người khác không sống được hay sao?
Người chồng nghe vợ dồn cho một trận không dám mở lời đáp lại, cái mặt bành bạnh bây giờ tím lại.
- Những câu nói của người vợ từng chữ len vào tim Trương Quân Bảo: "Huynh là một nam tử hán, đại trượng phu, lại không chịu tự mình làm ăn riêng? Nếu không đâu đến nỗi bị nhục nhã như thế? Người đời có nói rằng, ngoài cái chết ra chẳng có cái gì gọi là lớn hết, chẳng lẽ không nhờ vả người khác không sống được hay sao?".
Y nhìn theo đôi vợ chồng nhà quê, đứng ngơ ngẩn một hồi, trong lòng trăn qua trở lại, nghĩ đến những câu của người đàn bà. Chỉ thấy người đàn ông đứng thẳng người lên, không biết nói mấy câu gì với vợ, mà nghe hai người cười rộ lên, tựa hồ người chồng đã quyết chí tự lập, nên cả hai đều sung sướng.
Trương Quân Bảo lại nghĩ tiếp: "Quách cô nương có nói rằng, bà chị cô ta tính tình nóng nảy, ăn nói không nể mặt ai nên muốn ta chiều lòng bà ấy. Ta đường đường là một người đàn ông, đâu lẽ phải hạ mình quỵ lụy người khác, cong lưng uốn gối mong được yên thân. Đến như hai người nhà quê kia còn dám hiên ngang đứng ra ở riêng, ta Trương Quân Bảo lẽ nào lại phải nép mình trong hàng rào nhà người ta, chờ người ta sai bảo".
Y nghĩ tới đó, trong lòng đã quyết nên gánh đôi thùng sắt, trèo lên núi Võ Đang, kiếm một cái hang, khát thì tìm suối, đói ăn trái hoang, chăm chỉ tập luyện Cửu Dương Chân Kinh mà Giác Viễn đã truyền cho.
Y được Giác Viễn dạy dỗ đã lâu, bộ Cửu Dương Chân Kinh này mười phần cũng biết được năm sáu, trong mươi năm sau nội lực lại càng tiến bộ. Về sau y lại đọc kỹ Đạo Tạng, tâm đắc được phép luyện khí của đạo gia. Một ngày kia, y tại trong núi nhàn du, ngẩng lên xem mây bay, nhìn xuống ngắm nước chảy, chợt nhớ tới cái Lão Tử gọi là "nhu nhược thắng cương cường", "vật cực tất phản", "chính phục vi kì, thiện phục vi yêu", "khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đa, đa tắc hoặc". Lại nhớ Lão Tử có câu "Dĩ thiên hạ chi chí nhu, trì sính thiên hạ chi chí kiên", "Thiên hạ nhu nhược mạc quá vu thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng", "Vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn", "Chính ngôn nhược phản", "Huyền đức thâm hĩ viễn hĩ, dữ vật phản hĩ, nhiên hậu nãi chí đại thuận", bởi vậy ngộ ra một bộ quyền lí lấy nhu khắc cương, chính là Lão Tử đã từng viết "Thiên hạ văn đạo đại tiếu chi, bất tiếu bất túc dĩ vi đạo". Đó là "Dục tương hấp chi, tất cố trương chi; dục tương nhược chi, tất cố cường chi; dục tương phế chi, tất cố hưng chi; dục tương đoạt chi, tất cố dữ chi; thị vị vi minh. Nhu thắng cương, nhược thắng cường" trong Đạo Đức Kinh.
Y ở trong động suy nghĩ liên tiếp bảy ngày bảy đêm, bỗng nhiên quán thông được cái lẽ âm dương hỗ trợ trong võ học, vui sướng quá, ngẩng mặt lên cười một hồi dài.
Chính tiếng cười đó đã khai sinh ra một vị đại tông sư trước chưa có ai mà sau cũng không ai theo kịp. Những gì y tự mình tìm ra, cộng thêm với lẽ xung hư viên thông của Đạo gia, và nội công của pho Cửu Dương Chân Kinh đã khai sáng ra nền tảng cho võ công của phái Võ Đương mà nghìn năm sau vẫn còn chói lọi.
Về sau y du ngoạn phương Bắc đến vùng Bảo Minh, nhìn thấy ba ngọn núi tú lệ hùng vĩ, vươn lên đâm vào mây, lại nhân đã sở ngộ về võ học nên tự đặt cho mình tên hiệu Tam Phong. Đó chính là kỳ nhân Trương Tam Phong trong lịch sử võ học của Trung Quốc.
Lại nghe Giác Viễn tụng:
- Âm đáo cực thịnh, tiện tiệm chuyển suy, thiểu dương ám sinh, âm tiệm suy nhi dương tiệm thịnh, âm dương hỗ tể, hỗ sinh hỗ tể, thiểu dương sinh vu lão âm, thiểu âm sinh vu lão dương. Phàm sự bất khả cập, cực tắc dịch biến, do trọng chuyển khinh, do khinh chuyển trọng…
Quách Tương chợt ngộ ra, một quyền đánh ra, càng về sau kình lực càng hết, nếu muốn thêm một ly cũng không thể được. Chiếu theo lời Giác Viễn tụng, tựa như sau khi kình lực đã hết, bỗng nhiên lại có kình lực sinh ra, hơn nữa càng sinh càng mạnh, thật là kì lạ. Ông ấy nội công thâm hậu như vậy, chẳng lẽ là từ đạo lí đó mà ra?
Nàng còn đang trù trừ suy nghĩ nên những gì Giác Viễn đọc tiếp nàng không nghe thấy, nghe mà không vào. Dưới ánh trăng suông, bỗng thấy Trương Quân Bảo cũng đang xếp bằng lắng tai nghe. Quách Tương nghĩ thầm: "Không cần biết những gì ông ta đọc đúng hay không đúng, ta cứ ghi nhớ là được. Lão hòa thượng này chấn thương Tiêu Tương Tử, lại dọa cho Hà Túc Đạo chạy dài, đều chính mắt mình trông thấy. Những gì ông ta đọc là pháp môn võ công, ắt phải có lý do cả". Nghĩ thế nên nàng dụng tâm cố nhớ.
Nguyên Lăng Già Kinh lúc đầu lưu truyền ở Thiên Trúc, lúc đó Thiên Trúc chưa chế tạo ra giấy viết, lấy mũi kim châm khắc kinh văn lên bối diệp, Đạt Ma Tổ Sư từ thời Lương Vũ Đế đem bối diệp kinh từ Thiên Trúc đến trung thổ truyền vào Thiếu Lâm tự, bối diệp không ngay ngắn đọc không tiện, tăng nhân Thiếu Lâm sao chép lại lên giấy trắng đóng thành sách, bản sao Phạn văn lưu hành một thời gian thì phổ biến rộng rãi, không biết lúc nào lại có một vị cao tăng viết một bộ Hán văn Cửu Dương Chân Kinh vào những chỗ trống trên quyển kinh, giải thích đó là một môn tu tập nội công cao thâm trong võ học. Hơn ngàn năm qua tăng nhân Thiếu Lâm đều đọc Lăng Già Kinh bằng bản dịch tiếng Hán, không ai đọc nguyên văn chữ Phạn, bộ Cửu Dương Chân Kinh này được cất ở Tàng Kinh Các đã bao lâu rồi, không một ai lật xem qua một câu một tờ. Vị cao tăng sáng tác ra bộ Cửu Dương Chân Kinh này vốn là một đạo sĩ quy y, tinh thông đạo tạng, võ kinh soạn ra thì cương nhu đều xem trọng, âm dương viện trợ, tùy cơ mà thi triển, hậu phát chế nhân; so với võ học truyền thống phái Thiếu Lâm chú trọng dương cương có phần bất đồng, so với công thu Cửu Âm Chân Kinh thuần túy Đạo gia chú trọng âm nhu cũng có chỗ khác. Vị cao tăng năm đó ngộ ra lí lẽ võ học thâm sâu đến vậy, không dám cùng người Thiếu Lâm tự nghiên cứu thảo luận, chỉ tùy tay viết vào trong bản sao. Giác Viễn có thể tu tập được công phu này, thứ nhất là vì tính cách của ông, thứ hai có thể là do vận mệnh ngẫu nhiên.
Giác Viễn sau khi vừa đại hao chân lực, nửa đêm lại tụng niệm, không khỏi tinh thần không ổn, hơi có chút lộn xộn, rối ren hỗn tạp, may mắn Quách Tương từ nhỏ thông minh, dụng tâm ghi nhớ, nhưng cũng chỉ có thể nhớ rõ hai ba phần.
Mặt trăng từ từ chếch về hướng tây, bóng người cũng dần dần dài ra, tiếng tụng kinh của Giác Viễn càng lúc càng nhỏ, âm thanh phát ra mơ hồ không rõ tiếng. Quách Tương khuyên:
- Đại hòa thượng, ông đã mỏi mệt cả ngày rồi, ngủ thêm một giấc nữa đi.
Thế nhưng dường như Giác Viễn không nghe nàng nói, vẫn tiếp tục đọc:
- … lực tòng nhân tá, khí do tích phát. Hà năng khí do tích phát? Khí hướng hạ trầm, do lưỡng kiên thu nhập tích cốt, chú ư yêu gian, thử khí chi do thượng nhi hạ dã, vị chi hợp. Do yêu triển ư tích cốt, bố ư lưỡng bác, thi ư thủ chỉ, thử khí chi do thượng nhi hạ dã, vị chi khai. Hợp tiên thị thu, khai tiện thị phóng. Năng đổng đắc khai hợp, tiện tri âm dương? (lực theo người mà mượn, khí do xương sống mà ra. Tại sao khí lại do xương sống mà ra? Khí đi xuống dưới, từ hai vai thu vào trong xương sống, chảy vào eo, khí đó từ trên chạy xuống dưới vậy, nên gọi là hợp. Từ eo chạy vào xương sống, rồi ra hai cánh tay, đi ra tới tận ngón tay, khí đó từ dưới mà chạy lên trên vậy, nên gọi là khai. Hợp nên thu vào, khai nên thả ra. Biết được lẽ khai hợp, tức là biết được âm dương?).
Ông ta càng tụng đọc, thanh âm càng nhỏ dần, sau cùng không còn nghe thấy gì nữa, chắc đã ngủ thiếp đi rồi. Quách Tương và Trương Quân Bảo không dám kinh động, chỉ cố gắng nhớ những kinh văn vừa mới nghe.
Thời gian trôi đi, trăng đã lặn về hướng tây, từ đâu đến các đàn chim bay lại, làm đen cả một vùng. Lại thêm độ tàn một bữa ăn, phương đông trời sáng dần, chỉ thấy Giác Viễn mắt nhắm nghiền, vai xuôi xuống, tĩnh tọa không động đậy, nét mặt trông như đang mỉm cười.
Trương Quân Bảo chợt quay đầu, thấy sau gốc cây có bóng người thấp thoáng, nhưng cũng kịp nhìn thấy một góc áo cà sa màu vàng. Y giật mình kinh hãi, quát lớn:
- Ai đó?
Chỉ thấy một lão tăng gầy cao từ sau gốc cây bước ra, chính là thủ tọa La Hán Đường Vô Sắc thiền sư. Quách Tương vừa mừng vừa lo, hỏi: Bạn đang xem tại TruyệnYY - www.truyenyy_com
- Đại hòa thượng, sao ông nhất định không bỏ cuộc, đuổi tới tận đây? Chẳng lẽ không bắt thầy trò y về chùa không được hay sao?
Vô Sắc nói:
- Thiện tai, thiện tai! Lão tăng biết lẽ phải trái, đâu phải là người chấp nhặt cái quy luật cũ từ đời nảo đời nao? Lão tăng đến đây từ lúc nửa đêm, nếu như muốn động thủ, đâu có chờ đến bây giờ. Giác Viễn sư đệ, Vô Tướng sư đệ chỉ huy tăng chúng trong Đạt Ma Đường đang tìm ở hướng đông, các ngươi mau nhắm thẳng hướng tây mà chạy. Ta vẫn muốn đến Đạt Ma Đường nhận trách nhiệm.
Chỉ thấy Giác Viễn vẫn cúi đầu nhắm mắt, dường như chưa tỉnh. Trương Quân Bảo tiến lên thưa:
- Sư phụ tỉnh dậy đi, thủ tọa La Hán Đường đang nói chuyện với sư phụ đó.
Giác Viễn vẫn không động đậy. Trương Quân Bảo kinh hoảng chạy tới, giơ tay sờ vào trán ông ta, thấy lạnh ngắt, hóa ra đã viên tịch từ lâu rồi. Trương Quân Bảo đau đớn quá, phục xuống kêu lên:
- Sư phụ, sư phụ!
Thế nhưng ông ta làm sao có thể sống lại được. Vô Sắc thiền sư chắp tay hành lễ, đọc một bài kệ:
Chư phương vô vân ế,
Tứ diện giai thanh minh.
Vi phong suy hương khí,
Chúng sơn tĩnh vô thanh.
Kim nhật đại hoan hỉ,
Xá khước nguy thúy thân.
Vô sân diệc vô ưu,
Ninh bất đương hân khánh?
(Bốn phương không mây phủ,
Mọi mặt đều sáng trong,
Gió nhẹ đưa hương tới,
Tĩnh lặng núi thinh không.
Hôm nay thật hoan hỉ,
Cởi được thân mong manh.
Không giận cũng không lo,
Lẽ đâu không chúc khánh?).
Tụng xong ông lặng lẽ bỏ đi.
Trương Quân Bảo khóc lóc một hồi, Quách Tương cũng sụt sùi mãi. Tăng chúng chùa Thiếu Lâm khi viên tịch đều hỏa hóa. Cho nên hai người đi kiếm cành khô thiêu pháp thân của Giác Viễn. Quách Tương nói:
- Trương huynh đệ, tăng chúng chùa Thiếu Lâm chắc chưa bỏ qua cho ngươi đâu, ngươi nên hết sức cẩn thận. Chúng ta từ biệt nhau nơi này, sau này có lúc gặp lại.
Trương Quân Bảo gạt lệ đáp:
- Quách cô nương, cô đi đâu? Cho tôi đi theo với được không?
Quách Tương thấy y hỏi mình đi đâu, trong lòng chua chát, nói:
- Ta chân trời góc biển, hành tung không nhất định, chính mình cũng chưa biết đi đâu. Trương huynh đệ, ngươi tuổi còn nhỏ, lại không có chút lịch duyệt giang hồ nào, tăng chúng chùa Thiếu Lâm đang đi tìm bắt ngươi ở hướng đông, chỉ biết thế.
Nàng tháo chiếc vòng đeo tay đưa cho y, nói:
- Ngươi đem chiếc vòng này đến thành Tương Dương kiếm cha mẹ ta, hai ông bà ắt sẽ đối đãi với ngươi tử tế. Chỉ cần ngươi ở với cha mẹ ta thì dù tăng chúng chùa Thiếu Lâm có hung ác đến đâu, cũng không dám đến tìm ngươi làm khó dễ.
Trương Quân Bảo nuốt lệ nhận chiếc vòng. Quách Tương lại nói tiếp:
- Ngươi nói với cha mẹ ta rằng, ta vẫn khỏe mạnh, ông bà đừng mong đợi. Cha ta rất yêu kẻ thiếu niên anh hùng, thấy ngươi là một nhân tài thế này, không chừng sẽ thu ngươi làm đồ đệ. Em trai ta trung hậu thật thà, chắc sẽ thân thiết với ngươi lắm đấy. Chỉ có chị ta tính tình hơi nóng, mỗi khi không vừa ý, ăn nói chẳng nể nang ai. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn vâng lời, thì không sao cả.
Nàng còn nói tình hình của cha mẹ, nói rõ sau khi đến Tương Dương thì gặp cha mẹ nàng thế nào. Nói xong nàng quay đầu đi thẳng.
Trương Quân Bảo thấy trời đất mênh mông nhưng sao không có chỗ nào cho mình an thân, đứng trước đống tro hỏa táng sư phụ trầm ngâm cả nửa ngày, mới ra đi. Đi được một quãng, chợt quay đầu, gánh đôi thùng sắt sư phụ để lại, thất thểu bước đi. Trong núi rừng hoang vu, một thiếu niên gầy gò lặng lẽ theo hướng tây mà đi, lòng buồn rười rượi, nói sao cho xiết cái cảnh thân cô chiếc bóng, lênh đênh không nhà.
Đi được nửa tháng, đã đến cảnh giới tỉnh Hồ Bắc, không còn cách thành Tương Dương bao xa. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm trước sau vẫn không đuổi kịp y chính vì Vô Sắc thiền sư có lòng che chở, cố ý dẫn tăng chúng theo hướng đông mà tìm, thành ra hai bên càng lúc càng xa hơn.
Xế trưa hôm đó y đến trước một ngọn núi lớn, thấy cây cối rậm rạp um tùm, sơn thế cực kỳ hùng vĩ. Hỏi thăm những người dân quanh đó, mới biết núi này tên gọi là Võ Đương. Y ngồi dưới chân núi, tựa lưng vào một hòn đá mà nghỉ, bỗng thấy một đôi nam nữ nhà quê từ con đường nhỏ bên núi đi tới. Hai người sánh vai mà đi, trông thật thân mật, rõ ràng là một đôi vợ chồng trẻ. Người đàn bà vừa đi vừa liến thoắng luôn mồm phiền trách anh chồng. Người đàn ông thì chỉ cúi đầu, lặng thinh không đáp.
Bỗng nghe người vợ nói với chồng:
- Huynh là một nam tử hán, đại trượng phu, lại không chịu tự mình làm ăn riêng, lại đến ăn nhờ ở đậu chị và anh rể, nếu không đâu đến nỗi bị nhục nhã như thế. Vợ chồng mình còn mạnh chân khỏe tay, tay làm hàm nhai, dù rau dưa cà muối, cơm cháo qua ngày cũng được, có phải thảnh thơi không? Chứ huynh không dám tự lập ở riêng, sinh ra trên đời này cũng uổng.
Người đàn ông ậm ừ mấy tiếng, người đàn bà lại tiếp:
- Người đời có nói rằng, ngoài cái chết ra chẳng có cái gì gọi là lớn hết, chẳng lẽ không nhờ vả người khác không sống được hay sao?
Người chồng nghe vợ dồn cho một trận không dám mở lời đáp lại, cái mặt bành bạnh bây giờ tím lại.
- Những câu nói của người vợ từng chữ len vào tim Trương Quân Bảo: "Huynh là một nam tử hán, đại trượng phu, lại không chịu tự mình làm ăn riêng? Nếu không đâu đến nỗi bị nhục nhã như thế? Người đời có nói rằng, ngoài cái chết ra chẳng có cái gì gọi là lớn hết, chẳng lẽ không nhờ vả người khác không sống được hay sao?".
Y nhìn theo đôi vợ chồng nhà quê, đứng ngơ ngẩn một hồi, trong lòng trăn qua trở lại, nghĩ đến những câu của người đàn bà. Chỉ thấy người đàn ông đứng thẳng người lên, không biết nói mấy câu gì với vợ, mà nghe hai người cười rộ lên, tựa hồ người chồng đã quyết chí tự lập, nên cả hai đều sung sướng.
Trương Quân Bảo lại nghĩ tiếp: "Quách cô nương có nói rằng, bà chị cô ta tính tình nóng nảy, ăn nói không nể mặt ai nên muốn ta chiều lòng bà ấy. Ta đường đường là một người đàn ông, đâu lẽ phải hạ mình quỵ lụy người khác, cong lưng uốn gối mong được yên thân. Đến như hai người nhà quê kia còn dám hiên ngang đứng ra ở riêng, ta Trương Quân Bảo lẽ nào lại phải nép mình trong hàng rào nhà người ta, chờ người ta sai bảo".
Y nghĩ tới đó, trong lòng đã quyết nên gánh đôi thùng sắt, trèo lên núi Võ Đang, kiếm một cái hang, khát thì tìm suối, đói ăn trái hoang, chăm chỉ tập luyện Cửu Dương Chân Kinh mà Giác Viễn đã truyền cho.
Y được Giác Viễn dạy dỗ đã lâu, bộ Cửu Dương Chân Kinh này mười phần cũng biết được năm sáu, trong mươi năm sau nội lực lại càng tiến bộ. Về sau y lại đọc kỹ Đạo Tạng, tâm đắc được phép luyện khí của đạo gia. Một ngày kia, y tại trong núi nhàn du, ngẩng lên xem mây bay, nhìn xuống ngắm nước chảy, chợt nhớ tới cái Lão Tử gọi là "nhu nhược thắng cương cường", "vật cực tất phản", "chính phục vi kì, thiện phục vi yêu", "khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đa, đa tắc hoặc". Lại nhớ Lão Tử có câu "Dĩ thiên hạ chi chí nhu, trì sính thiên hạ chi chí kiên", "Thiên hạ nhu nhược mạc quá vu thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng", "Vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn", "Chính ngôn nhược phản", "Huyền đức thâm hĩ viễn hĩ, dữ vật phản hĩ, nhiên hậu nãi chí đại thuận", bởi vậy ngộ ra một bộ quyền lí lấy nhu khắc cương, chính là Lão Tử đã từng viết "Thiên hạ văn đạo đại tiếu chi, bất tiếu bất túc dĩ vi đạo". Đó là "Dục tương hấp chi, tất cố trương chi; dục tương nhược chi, tất cố cường chi; dục tương phế chi, tất cố hưng chi; dục tương đoạt chi, tất cố dữ chi; thị vị vi minh. Nhu thắng cương, nhược thắng cường" trong Đạo Đức Kinh.
Y ở trong động suy nghĩ liên tiếp bảy ngày bảy đêm, bỗng nhiên quán thông được cái lẽ âm dương hỗ trợ trong võ học, vui sướng quá, ngẩng mặt lên cười một hồi dài.
Chính tiếng cười đó đã khai sinh ra một vị đại tông sư trước chưa có ai mà sau cũng không ai theo kịp. Những gì y tự mình tìm ra, cộng thêm với lẽ xung hư viên thông của Đạo gia, và nội công của pho Cửu Dương Chân Kinh đã khai sáng ra nền tảng cho võ công của phái Võ Đương mà nghìn năm sau vẫn còn chói lọi.
Về sau y du ngoạn phương Bắc đến vùng Bảo Minh, nhìn thấy ba ngọn núi tú lệ hùng vĩ, vươn lên đâm vào mây, lại nhân đã sở ngộ về võ học nên tự đặt cho mình tên hiệu Tam Phong. Đó chính là kỳ nhân Trương Tam Phong trong lịch sử võ học của Trung Quốc.
/257
|