Nhưng tại sao họ gọi Lâm Viết Hùng bằng sư phụ ? Điều này chàng thật bù đầu không hiểu nổi !
Chàng ấp úng hỏi :
- Tại sao các người lại gọi ta bằng sư phụ ?
Quái nhân tóc xanh nói :
- Đệ tử là Thanh Nhạn còn tiểu muội là Hồng Nhạn, trước đây ba năm, chúng tôi là đôi uyên ương sát cánh nhau ngang dọc giang hồ.
Lâm Viết Hùng nói :
- Ta có nghe giang hồ ca tụng. Nhưng vì sao hai người lại mất tích và ẩn mặt nơi đây ?
Hồng Nhạn nói :
- Chỉ vì quyển Bí Kiếp Kinh Thư mà chúng tôi bị mắc tai nạn này.
Lâm Viết Hùng nghe nói đến Bí Kiếp Kinh Thư như một luồng điện giật, chàng hỏi vội :
- Bí Kiếp Kinh Thư ở đâu mà mang hoa. ?
Thanh Nhạn nói :
- Trước đây ba năm, chúng tôi có nghe đồn Điên ác Sát vì luyện Bí Kiếp Kinh Thư nên bị tẩu hoa? nhập ma. Chúng tôi đến tìm lão điên để thu đoạt báu vật, chẳng ngườ võ công của lão quá thâm hậu, chúng tôi bị đánh một chiêu học máu, còn bị lão rợt chạy suốt một ngày đêm tưởng đâu bỏ mạng. Nhưng cũng may, sau đó lão nổi điên, không rợt chúng tôi nữa, chúng tôi mới có dịp vận công chữa thương.
Dù vậy, chúng tôi là hai nhân vật nổi tiếng trên giang hồ, dễ gì bị một thất bại mà bỏ qua. Chúng tôi trở lại tìm lão Điên ác Sát. Lần này chúng tôi không ra mặt giao đấu mà cố công theo dõi hành động của lão.
Một đêm, chúng tôi thấy lão cắm đầu xuống đất chạy như tên bắn. Chúng tôi lập tức đuổi theo. Lão băng rừng, qua suối, chạy từ lúc xẩm tối đến nữa đêm thì đến một bãi tha ma, lão dừng lại. Chúng tôi núp vào một bụi cây, cách xa lão hơn ba chục bước, trông thấy lão ngồi bệt trước một ngôi mộ mới đắp sục sùi khóc.
Lão nói :
- Hà nương nương ! Em nỡ bỏ anh, để anh ngày đêm thương nhớ.
Khóc than một lúc, lão cúi xuống hai tay moi đất lên, đất đá bị lão đánh tung lên trời rơi lộp bộp như ma vậy.
Đào một lúc, lão kéo lên một chiếc quan tài. Lão ôm chiếc quan tài ấy khóc than thảm thiết.
N Tuy nhiên, chỉ được một lúc, da mặt bỗng nhăn lại, đôi mắt lão đỏ ngầu rú lên một tiếng, và nói :
- Ngươi là đứa phản phúc ! Ngươi đã làm hại đời ta ! Ta phải giết ngươi !
Dứt lời lão tung song chưởng đánh thẳng vào chiếc quan tài bể nát. Trời tối, chúng tôi đứng cách xa, không rõ chiếc quan tài ấy có xác chết hay không, mà nếu có xác chết thì với chưởng lực của lão, xác chết ấy cũng tan nát thành đất bụi.
Đánh nát chiếc quan tài ấy rồi, lão bỏ đi lang thang tìm một ngôi mộ khác cũng mới đắp và lão cũng khóc than, rồi moi đất, rôi lôi chiếc quan tài lên, đánh tan nát ra.
Chúng tôi biết lão già điên có một mối tình u uất nào đó, nên núp vào bụi cây, giả giọng nói :
- Anh ơi ! Em đâu có bạc tình với anh, chỉ vì anh không chìu ý Em đó thôi.
Đôi mắt lão bỗng dịu lại, lão nói :
- Hà nương ! Em muốn gì em cứ nói, dù khó khăn đến đâu, dù đi đến tận cùng chân trời góc bể để gặp em, anh cũng không từ chối !
Chúng tôi giả giọng tiếp :
- Hãy đưa cho em mợn cuốn Bí Kiếp Kinh Thư thì em toại nguyện rồi.
Lão nghe nói, liền rú lên một tiếng, cấm đầu xuống đất chạy như bay, chúng tôi là những tay có bản lãnh giang hồ mà vẫn không sao đuổi theo kịp lão.
Thất vọng, chúng tôi không đuổi theo lão nữa, trở lại những ngôi một mà lão v à đào để xem xét. Nhưng chúng tôi không tìm thấy gì cả, vì những chiếc hòm và những xác chết bị lão đánh nát ra từng mãnh.
Trong lúc chúng tôi đang lay hoay tìm thử có gì khả nghi, thì lão Điên ác Sát trở lại. Lão chạy đến như bay ! May mà lão không rú lên mấy tiếng thì chúng tôi không tài nào trốn kịp.
Chúng tôi nép vào một bụi rậm gần đó, thì thấy lão đến trước một ngôi một khác, lấy tay moi đất, và than thở :
- Hà nương ơi ! Anh chìu ý em đấy ! Em đừng trốn tránh anh nữa, hãy để cho anh gặp mặt.
Moi đất xong, lão rút trong bụng ra một gói lụa màu vàng, chôn xuống ngôi mộ, rồi lấp đất lại.
Chúng tôi hồi hộp vô cùng, vì biết trong gói lụa vàng ấy là quyển Bí Kiếp Kinh Th, nhưng lão ngồi trước ngôi mộ ấy khóc mãi không chịu đi. Chúng tôi không biết làm sao, buộc lòng phải giả giọng nói :
- Anh ơi ! Anh đừng khóc nữa ! Ngày mai anh trở lai đây sẽ gặp em !
Lão nghe chúng tôi nói, liền rú lên một tiếng, cấm đầu xuống đất chạy mất.
Thế là chúng tôi lập tức phóng mình ra, moi đất lên, đoạt lấy báu vật võ lâm.
- Thưa sư phụ ! Chắc sư phụ cũng đoán biết lúc ấy lòng chúng tôi vui sướng đến bực nào rồi. Tuy nhiên, vì chuyện Bí Kiếp Kinh Thư mà lão già ấy mang cái tên Điên ác Sát thì chúng tôi dại gì mà dẫm lên vết chân của lão. Chúng tôi bàn với nhau tìm một nơi hẻo lánh để nghiên cứu thật kỹ, rồi sẽ tập luyện sau.
Chúng tôi đi quanh quẩn suốt thời gian nữa tháng trời mới tìm được nơi thâm cốc này. Nhưng chẳng may, chúng tôi vừa vào đến cửa động thì gặp con Cửu Vĩ Đại Xừa, phải cùng nó giao đấu. Kết cuộc chúng tôi bị rắn độc cắn, mình mẫy chúng tôi xng lên, ngứa ngáy một tháng trời, sau đó cả mình chúng tôi đều mọc lông dài như lông thú, trông dễ sợ làm sao !
Lâm Viết Hùng xen vào, hỏi :
- Sưao không tìm nơi chữa độc ?
Thanh Nhan nói :
- Chúng tôi bị con rắn độc ấy nhốt nơi đây không cho ra. Nó canh nơi cửa động suốt ba năm nay, chúng tôi đã mấy lần giao tranh nhưng không thắng nổi, vì nó có loại hơi độc, mỗi lần phun ra là chúng tôi ói mữa đến ngất xỉu.
Chúng tôi có lời nguyền, kẻ nào giết được Cửu Vĩ Đại Xừa cứu chúng tôi ra, chúng tôi hiến thân làm đệ tử theo hầu hạ suốt đời. Hôm nay, sư phụ đã giết được Cửu Vĩ Đại Xừa, xin cho chúng tôi làm tròn lời nguyện ấy.
Lâm Viết Hùng lưỡng lự :
- Việc nầy tôi đâu dám… Hồng Nhạn tỏ vẽ đau khổ, cất giọng buồn buồn :
- Hai anh em tôi chờ đợi suốt ba năm, thời gian ấy đâu phải là ngắn.
Lâm Viết Hùng nghe nói cảm động. Tuy nhiên, với tuổi tác của chàng, chàng không thể chấp nhận được.
Chàng nói :
- Ưước vọng của hai vị là được thoát ra khỏi u cốc nầy. Bây giờ tôi đã giết được rắn độc, hai vị cứ ra đi, cần gì phải tự buộc mình vào lời nguyền.
Hồng Nhạn nói :
- Bỏ lời nguyền trọn đời chúng tôi không sống an tâm.
Lâm Viết Hùng trầm mặt, qua một lúc chàng nghiêm giọng nói :
- Thôi được ! Ta nhân lời yêu cầu của hai người !
Nét mừng rỡ thoảng qua trên mặt Song Nhạn.
Thanh Nhạn nói :
- Xin sư phụ cho biết tôn hiệu !
Lâm Viết Hùng nói :
- Thừa kế Chưởng môn Huyền Cung Ngọc Diện Nhân Lâm Viết Hùng.
Song Nhạn vập đầu lạy ba lạy, rồi đứng dậy, nói :
- Xin mời sư phụ vào động đá để chúng tôi dâng nạp quyển Bí Kiếp Kinh Th.
Lâm Viết Hùng nói :
- Bí Kiếp Kinh Thư do hai người lấy được đâu phải của ta ?
Song Nhạn nói :
- Chúng tôi đã có lời nguyện, xin ân sư vui lòng chấp thuận lời nguyện ấy.
Dứt lời, Song Nhan đưa Lâm Viết Hùng vào chổ họ trú ngụ.
Chẳng mấy chốc, ba người đã đến trước một hang đá sâu ngòm. Trước cửa hang có hai cây cổ thụ to tướng, rặn cây che khuất cả một khoảng đất rộng. Trên cửa hang reu phong phủ đầy, những loại dây rừng leo chằn chịt và rũ xuống như một bức rèm, điểm thêm mấy bông hoa dại trông rất đẹp mắt.
Đường vào hang không rộng lắm, chen lẫn vào đám lau cao quá ngực. Quang cảnh tuy không là danh lam thắng cảnh song không đến nổi khô cằn trơ trọi, và nếu dùng vào chổ tập luyện võ công thì không tìm ra được nơi nào hơn.
Lâm Viết Hùng ngồi xếp bằng trên giường đá trong hang. Song Nhạn liền đem một số trái cây tư ơi và một tô nước lã trong mát và cung kính nói :
- Mời sư phu dùng tạm mấy trái cây rừng này.
Lâm Viết Hùng thấy bụng đã đói, nên không thèm khách khí loi thoi, ăn một bụng no nê.
Ăn xong, chàng uống một hoi cạn bát nước rồi bảo Song Nhạn ngồi đối diện với chàng rồi hỏi :
- Bây giờ ta muốn biết lai lịch của hai ngươi.
Song Nhạn đưa mắt nhìn nhau. Hồng Nhạn nói với Thanh Nhạn :
- Ca ca để em thay mặt kể hầu sư phụ nhé !
Thanh Nhạn nói :
- Được ! Hồng muội cứ kể đi.
Hồng Nhạn hướng vào Lâm Viết Hùng nói :
- Đây là câu chuyện mời năm về trước… Cách đây mời năm, có một tổ chức võ lâm gọi là Thiên Nhất Môn. Vị chưởng môn của tổ chức này là một vị tiền bối lừng danh giang hồ tên Quỷ Kiếm Vương.
Lâm Viết Hùng kinh ngạc :
- Quỷ Kiếm Vương ?
- Phải ! Vị tiền bối giang hồ ấy là một trong Tam Vương. Sau khi tổ chức xong môn phái, Quỷ Kiếm Vương giao quyền chưởng môn cho người đồ đệ thừa kế là Khúc Nguyên Thông.
Khúc Nguyên Thông không lấy vợ, chỉ thu nhận hai đồ đệ, một trai một gái làm con nuôi, truyền dạy võ học, và có ý cho hai đồ đệ ấy trở thành cặp vợ chồng sau này.
Lâm Viết Hùng gật đầu, biết cặp vợ chồng ấy là ai rồi.
Thanh Nhạn tiếp lời, kể :
- Cặp tình nhân ấy lúc bấy giờ mới mời bảy tuổi. Tuy còn trẻ nhưng võ học quán thế. Sư phụ họ rất hài lòng.
Thế rồi một ngày kia, ba sư đồ dắt nhau đến núi Hồng Lãnh để du ngoạn, tình cờ bắt gặp được hai quả nhục chi.
Lâm Viết Hùng trố mắt hỏi :
- Nhục Chi ? Đó là một loại trái cây rất quý kia mà ?
- Phải ! Loại trái cây đó rất quý, hai trăm năm mới đậu thành một quả, trong giang hồ ít ai trông thấy, trừ những kẻ có duyên may. Người nào ăn được một quả thì công lực tăng lên một trăm năm.
Ba thầy trò chúng tôi mừng quá, vội rời khỏi núi Hồng Lãnh trở về.
Nhưng chẳng hiểu vì đâu, tin nầy lại truyền vào giang hồ quá nhanh. Khi ba thầy trò chúng tôi về đến Thiên Nhất Môn thì đã có hơn một trăm cao thủ hắc bạch võ lâm chia nhau vây chúng tôi để giao đấu. Dĩ nhiên là với mục đích tranh đoạt hai quả nhục chi.
Vì tai hoa. bất ngườ, tất cả các môn đồ Thiên Nhất Môn đều nhảy ra ứng chiến.
Thế là một cuộc tử chiến xảy ra vô cùng ác liệt.
Nhưng, Hắc Bạch Võ Lâm toàn là những tay cao thủ, còn Thiên Nhất Môn trừ thầy trò Khúc Nguyên Thông thì hầu hết là thủ hạ đánh sao cho lại. Vì vậy, trải qua một thời gian giao đấu, môn đệ của Thiên Nhất Môn thây chất như rạ, máu chảy thành sông.
Khúc Nguyên Thông tuy có võ công xuất thần, nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ, một mình làm sao cự lại cả hàng trăm cao thủ cùng một lúc.
Hai đồ đệ của Khúc Nguyên Thông liều chết, quần áo nhuộm đầy máu, theo sát gót sư phụ họ để bảo vệ.
Tuy nhiên, sức người có hạng, ba thầy trò Khúc Nguyên Thông dần dần yếu thế.
Biết không thể tránh khỏi hiểm nguy, nhưng Khúc Nguyên Thông là một vị chưởng môn, không thể vì nguy hiểm mà bỏ chạy, nên đã chống cự đến lúc cuối cùng.
Trước khi chết, ông còn cất trong người hai quả nhục chi, và bảo hai đồ đệ hãy thoát thân để sau này báo thù.
Hai tên đồ đệ không nở bỏ thầy, nhưng cuối cùng cũng phải tuân lệnh.
Quần hùng đánh ngã Khúc Nguyên Thông xong, họ xúm nhau dành dựt xác chết ấy để đoạt báu vật. Thế là một cuộc huyết chiến thứ hai xảy ra.
Trong lúc họ đang tàn sát lẫn nhau thì chiến tràng xuất hiện một gã thanh y bịt mặt. Người này võ công khá cao, lại gặp lúc quần hùng đã đánh nhau chí tử, không còn sức lực nàu đương cự, nên gã cớp lấy xác chết và chạy như tên bay không ai đuổi theo kịp.
Thế là hai quả nhục chi về tay gã thanh y bịt mặt ấy.
Không ai biết gã thuộc môn phái nào. Nhưng sau thời gian hai năm, giang hồ lại xuất hiện một tổ chức mang tên U Vương Quỷ Điện. Các môn hạ của U Vương Quỷ Điện đều mặc áo xanh bịt mặt, và vị Đế Quân Quỷ Điện thỉnh thoảng cũng có xuất hiện giang hồ, cũng mặc áo xanh bịt mặt, lại có một nội công quái ác. Người ta đồn rằng người cớp được hai quả nhục chi trước kia chính là hắn và nhờ ăn hai quả ấy mà công lức của hắn trở thành vô địch thiên hạ.
Lâm Viết Hùng xen vào hỏi :
- Hai ngươi có biết U Vương Quỷ Điện thiết lập nơi nào không ?
- Không rõ ! Nhưng hắn đã dùng một phù hiệu là Quỷ lệnh điều khiển khắp các tổ chức ở mọi nơi ! Người của hắn thường cải trang đủ hình thức, nên tai mắt đâu cũng có.
Chúng tôi chính là hai tên đệ tử Khúc Nguyên Thông, quyết chí trả thù cho sphụ, đã một thời gian xuất hiện giang hồ, cố tìm tung tích của Đế Quân Quỷ Điện, nhưng vì thế lực không có, môn đồ của Thiên Nhất Môn tan rã hết, nên việc làm ấy không thành công. Vã lại võ công của chúng tôi cha phải là đối thủ của Đế Quân Quỷ Điện, đành phải nhẫn nhục.
Vừa rồi, chúng tôi cố tâm chiếm đoạt Bí Kiếp Kinh Thư để tập luyện nuôi chí báo thù, nhưng chúng tôi lại cũng bị thất bại vì không tìm được ngọc bích Ma Đầu.
Lâm Viết Hùng nói :
- Hai ngươi đã có sư phụ rồi, mặc dù hai ngươi có lời nguyền ước, nhưng ta không thể nhận làm đồ đệ được.
- Nếu không làm đồ đệ, chúng tôi xin nguyện làm tùy nô, và gọi sư phụ bằng chủ nhân.
Lâm Viết Hùng mĩm cười :
- Ừ ! Thế cũng được ! Từ nay các ngươi chỉ gọi ta bằng chủ nhân thôi.
Song Nhạn mừng rỡ, rút trong kẹt đá lấy ra một gói lụa màu vàng, và nói :
- Đây là Bí Kiếp Kinh Th, Song nô xin dâng nạp cho chủ nhân gọi là chút lễ mọn ra mắt.
Lâm Viết Hùng cũng rút trong bọc ra một cuốn sách, đem so với quyển sách của Song Nhạn thì quả thật đó là bộ Bí Kiếp Kinh Thư gồm cả hai quyển thượng và hạ.
Lâm Viết Hùng mừng rỡ, dù chàng cha có ngọc Ma Đầu, cha luyện được môn võ công tuyệt học, nhưng ít ra chàng cũng thực hiện được nhiệm vụ của chàng là đem bộ Bí Kiếp Kinh Thư chôn vào Cổ Tháp với xác lão nhân trong hang đá.
Chàng lại tự nghĩ :
- Lâu nay ta cất giữ Bí Kiếp Kinh Thư nhưng cha có dịp xem qua. Nơi đây kín đáo, ta lại tìm được đủ bộ, ta thử xem qua cho biết.
Thấy Song Nhạn đứng hầu trước mặt, chàng nói :
- Sưau khi rời khỏi nơi đây, ta sẽ cố gắng tìm thuốc giãi độc cho hai ngươi để hai ngươi thực hiện lời di mệnh của lệnh s.
Song Nhạn cung kính nói :
- Xin cảm ơn chủ nhân.
Lâm Viết Hùng nói :
- Hiện nay, ta cần có nơi tịnh dưỡng nghĩ ngơi để xem qua bộ Kinh Th.
Sau đó chúng ta sẽ rời khỏi nơi đây cũng chẵng muộn.
Song Nhạn nói :
- Xin Chủ nhân thận trọng ! Chúng tôi nghe nói muốn luyện Bí Kiếp Kinh Thph ải có Ma Đầu Ngọc Bích, nếu không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Chính Điên ác Sát đã là một trong những nạn nhân ấy.
Lâm Viết Hùng nói :
- Điều ấy ta đã có nghe một lão nhân trong hang đá nói lại. Nhưng Ma Đầu Ngọc Bích biết đâu mà tìm ?
Song Nhạn nói :
- Trước đây chúng tôi có nghe tôn sư Quỷ Kiếm Vương kể lại lai lịch viên ngọc ấy.
Lâm Viết Hùng nghe nói hỏi vội :
- Lai lịch như thế nào ?
- Trước đây hai trăm năm, lúc Hoàng Dược Sư và Âu Dương Phong soạn ra bộ Bí Kiếp Kinh Thư trên đỉnh Hoa Sơn, thì sau khi hai người luận xong các môn võ học, công lực đã quá hao mòn, nên ban ngày không còn đủ sức ghi chép nữa, chỉ có ban đêm họ mới tỉnh trí nối tiếp công việc ghi vào đó những khẩu quyết võ công.
Tuy nhiên, ban đêm trời lại tối, đó là một trở ngại lớn lao. Hai người tìm được một loại cỏ chế ra một thứ mực lân tinh, nghĩa là thứ nước gặp bóng tối tự nhiên sáng lên lóng lánh.
Nhờ chất nước của loại cỏ ấy, hai người dùng làm mực viết trong đêm tối rất tiện lợi. Tất cả các khẩu quyết đều ghi vào những trang sau cùng một quyển sách.
Nhưng, khi họ làm xong thì họ lại thất vọng vì chất mực ấy biến đi đâu mất, trong bóng tối không còn hiện lên nét chữ nữa.
Hai người lại bàn tính tìm một thứ cỏ có chất lân tinh khác.
Chẳng ngườ trong lúc họ đang bỏ óc ra để suy nghĩ thì đêm đó có một con rắn khổng lồ bò đến, le lỡi hút chất nước cỏ mà họ dùng làm mực để ghi chép.
Điều làm cho họ ngạc nhiên là mỗi khi con rắn le lỡi ra thì có một luồng ánh sáng lạ. Luồng ánh sáng ấy làm cho những trang chữ bi mất hiện lên rất rõ.
Hai người vì quá mệt mõi, tuy nhiên, thấy sự kiện lạ lùng xảy ra như vậy, nhưng họ cũng không có phản ứng nào.
Rồi đếm một đêm khác, con rắn khổng lồ ấy cũng đến hút mực, và ánh sáng trong lỡi nó cũng làm nỗi lên những dòng chữ bị mất trên những trang sách để gần nơi đó.
Thấy vậy, hai vị tiền bối võ lâm đoán biết trong đầu con rắn có ngọc quý, thứ ngọc cấu tạo do chất cỏ lân tinh mà thành. Họ liền hợp công đánh chết con rắn lấy ngọc, và dùng viên ngọc rọi vào những trang sách đã ghi các khẩu quyết. Viên ngọc ấy giống hình chiếc sọ, nên họ đặt tên là Ma Đầu Ngọc Bích.
Để cho người đời sau biết, hai vị tiền bối ấy có ghi trong sách dặn:
muốn luyện các môn võ công phải có Ma Đầu Ngọc Bích.
Nhưng về sau, chẳng biết viên ngọc ấy thất lạc nơi đâu, cũng không biết người nào đã tìm thấy nó chăng ?
Lâm Viết Hùng buồn bã nói :
- Như vậy chắc là đã thất lạc rồi, làm sao còn tìm lại được nữa.
Song Nhạn nói :
- Nếu chủ nhân muốn xem cho biết bộ ky thư võ lâm ấy thì được, còn việc tập luyện chúng tôi e nguy hiểm.
Lâm Viết Hùng nói :
- Ta cũng biết rõ điều ấy, các ngươi khỏi lo.
Song Nhạn nói :
- Gần đây có căn nhà đá rất sạch sẽ. Đó là thạch động, vừa xinh xắn, vừa mát mẻ, xin mời chủ nhân đến đó nghĩ ngơi.
Lâm Viết Hùng gật đầu :
- Được lắm !
Song Nhạn đứng dậy đi trước dẫn đường.
Hai người đưa Lâm Viết Hùng vào một cái hang đá khác, ở đây toàn loại đá trắng lóng lánh như một viên ngọc khổng lồ, mỗi bề rộng độ năm trượng, không khí mát mẻ dể chịu vo cùng.
Lâm Viết Hùng mỉm cười khoang khoái, ngồi xuống mặt đá, tỏ lời cám ơn Song Nhạn đã dành riêng cho chàng một nơi đắc ý.
Song Nhạn cúi chào Lâm Viết Hùng rồi dắt nhau trở về hang đá trước kia nghĩ ngơi.
ánh trăng vàng nhợt rải trên động đá lóng lánh như muôn ngàn viên kim cương.
Lâm Viết Hùng nằm nghĩ một lúc thấy trong người đã khoẻ khoắn. Chàng không ngủ được, lần mò bước ra ngoài cửa động.
Bốn bề lặng ngắt như tờ. Xung quanh vắng vẻ làm cho chàng có cái cảm giác cô đơn.
Chàng thả bước đi lần về phía suối nước, bỗng trước mắt chàng hiện ra một cái gì là lạ. Chàng thấy trên mặt đất cách chổ chàng đứng chừng vài chục bước có một vệt sáng màu xanh. Vệt sáng nhấp nháy toa? ra một vòng tròn to bằng cái nia vậy.
Lâm Viết Hùng dừng bước, quan sát cảnh vật xung quanh, thấy nơi đó là chỗ ban chiều chàng bỏ xác con rắn ở đấy.
Sực nhớ lại câu chuyện Song Nhạn vừa kể, chàng nhủ thầm :
- Tại sao con rắn này phát ra ánh sáng, hay đây cũng là loại rắn có ngọc, mà ánh sáng có thể làm nổi lên chất mực lân tinh ?
Chàng chạy đến. Quả nhiên ánh sáng từ đầu con rắn phát ra.
Để khỏi nghi ngườ, chàng thò tay vào túi, lấy hai quyển Bí Kiếp Kinh Thư lật từng trang để xem xét. Quả nhiên, đến những trang cuối cùng những dòng chữ màu xanh nhạt bỗng hiện lên rất rõ rệt.
Chàng “á” lên một tiếng kinh ngạc. May là trong động đá thâm u không một ai hay biết.
Chàng nhủ thầm :
- Thế là ta đã gặp được kỳ duyên rồi. Có lẽ trước đây hai vị tiền bối cũng đã gặp được loại rắn chín đuôi này. Ngọc nó có thể dùng soi sáng chất lân tinh. Ồ ! Ta đã tìm được Ma Đầu Ngọc Bích.
Không chần chờ, chàng lấy tay xé hai đầu con Cửu Vĩ Đại Xừa ra, móc lấy viên ngọc. Rõ ràng viên ngọc có hình một chiếc sọ.
Chàng mừng quá, lẫm bẫm :
- Ma Đầu Bích Ngọc ! Ma Đầu Bích Ngọc !
Chàng vội quay về thạch động, đặt viên ngọc lên các trang sách, nằm úp bụng xuống mặt đá, đọc từng dòng chữ một.
Sau khi đọc hết hai quyển Bí Kiếp Kinh Thư và các khẩu quyết, chàng phân tách rất rõ ràng.
Quyển thượng do Âu Dương Phong ghi lại, toàn là những môn võ công khảo cứu theo cách giao đấu của loài vật. Lối võ công nầy không chú trọng về tâm mà chú trọng về lực, nghĩa là một công phu rèn luyện về sức mạnh của gân và bắp thịt. Mọi khí lực trong người đều dồn hết ra ngoài. Hiệu năng của lối đánh này là bạo.
Ngược lại, quyển hạ do Hoàng Dược Sư ghi, toàn là những môn võ công khảo cứu theo lối phản ứng tự nhiên. Lối võ công nầy không trọng về tâm, cũng không chú trọng về lực mà chú trọng về thần. Mọi khí lực trong người được luân chuyển đều đặn trong cơ thể từ trong ra ngoài. Hiệu năng của lối võ công này là phản ứng tự nhiên.
Hai lối công phu nầy đều được nghiên cứu đến trác tuyệt tinh túy. Tuy mỗi bên có khác nhau, song bên nào cũng có những nét đặc biệt.
ở quyển thượng có môn Hoá Huyết Thần Công. Môn võ công nầy có thể dùng sức mạnh đánh đến nát đá thành bùn, chảy sắt thành nước, vì nội lực phát ra một sức nóng phi thường.
ở quyển hạ có môn Phản Xưa. Thần Công. Môn võ nầy tạo sức phản ứng ngược chiều. Đối phương đánh ra mạnh bao nhiêu thì sức mạnh quay dội ngược trở về bấy nhiêu.
Lâm Viết Hùng mê mang trong các khẩu quyết. Chàng đọc mãi cho đến lúc trời hừng sáng chàng mới gấp sách lại nghĩ thầm :
- Hiện nay ta chỉ có một thời gian ngắn để hoàn thành trách nhiệm, nếu đem những khẩu quyết này tập luyện cho thấu triệt thì biết bao giờ mới xong.
Cuối cùng chàng quyết định chỉ tập luyện hai môn Hoá Huyết Thần Công và Phản Xưa. Thần Công mà thôi. Với hai môn võ nầy ít ra chàng cũng phải tập luyện hơn hai tháng trời mới hoàn tất được.
Đã dứt khoác về ý định, chàng cảm thấy như trong người nhẹ nhàng khoan khoái, nên cất hai quyển Bí Kiếp Kinh Thư vào bọc, rồi nằm nhắm mắt điều dưỡng công lực.
Bỗng thấy Song Nhạn đem trái cây và nước lã vào. Chàng ăn uống xong, liền dặn hai người song nô :
- Từ nay các ngươi cứ canh chừng ngoài động. Ta cần thời gian hai tháng để luyện một môn võ công. Cứ mỗi ngày vào giờ ngọ, các ngươi mới được vào đây đem trái cây và nước uống.
Song Nhạn thấy lời nói và thái độ của chàng rất nghiêm chỉnh, không dám hỏi lời nào, cúi đầu tuân lệnh.
Từ đó, Lâm Viết Hùng chăm chú luyện công. Chàng đang ở trong một hoàn cảnh thuận tiện, suốt ngày ngồi xếp bằng tròn giữa thạch động, đôi mắt nhắm nghiền, chỉ ăn uống một lần vào buổi tra mà thôi.
Một tháng trôi qua ! Việc tập luyện của chàng có mới tấn tới. Trong khi ngồi tham luyện thần công tự nhiên trong người chàng phát ra một luồng cang khí vô hình bao phủ cả thạch động. Nhiều khi Song Nhạn muốn thăm chàng, nhưng không làm sao bước tới được.
Họ có cảm tưởng thạch động đã bị thần công của chàng kết tinh lại thành một khối ngọc rắn chắc vậy.
Thấm thoát đã hai tháng, Lâm Viết Hùng không biết gì về thay đổi của giang hồ.
Việc luyện công của chàng cũng đã thành công.
Gương mặt của chàng bấy giờ tư ơi trẻ hơn, nhưng có điều lạ là đôi mắt chàng không còn sáng quắc như trước kia nữa, mà chỉ bình thản, dịu dàng, và sáng hơn đôi mắt người thường một tí thôi.
Trông bề ngoài không ai có thể biết chàng có tuyệt đỉnh võ công được.
Nhưng đó là hiện tượng của một người đã đạt đến mức thượng thừa trong võ thuật.
Ngày mà chàng luyện xong hai môn thần công thì chàng mới thu hồi luồng cang khí lại.
Song Nhạn bấy giờ mới tự do ra vào, thắm viếng.
Hai người cúng kín nói :
- Mừng chưởng môn đã đạt được ý nguyện.
Lâm Viết Hùng tư ơi cười nói :
- Cảm ơn hai ngươi đã chăm sóc cho ta trong thời gian vừa rồi.
Song Nhạn hỏi :
- Chủ nhân có thể cho chúng tôi biết chủ nhân vừa luyện thứ thần công gì mà ghê gớm thế ?
Lâm Viết Hùng đáp :
- Đó là hai môn thần công gọi là Hoá Huyết Thần Công và Phản Xưa. Thần Công.
Một loại thế công và một loại thế thủ.
- Do đâu mà Chủ nhân luyện được ?
- Hai môn này đều rút trong Bí Kiếp Kinh Th.
- Bí Kiếp Kinh Thư ? Chủ nhân không có ngọc Ma Đầu thì làm sao luyện được ?
Lâm Viết Hùng cầm viên ngọc đưa lên cao, nói :
- Đây là ngọc Ma Đầu.
- Chủ nhân tìm ra lúc nào ?
- Chính trong đầu con Cửu Vĩ Đại Xừa mà ta đã giết nó trước kia.
Song Nhạn reo lên :
- Nếu vậy chủ nhân là một người có duyên may nhất thế gian này. Xin chủ nhân cho chúng tôi thấy qua uy lực của hai môn thần công.
Lâm Viết Hùng nói :
- Việc ấy đâu có khó gì. Nhưng trong Bí Kiếp Kinh Thư còn rất nhiều điều nói về bí học, mà ta cha có thì giờ khảo cứu.
Song Nhạn nói :
- Chỉ hai môn thần công ấy, chủ nhân đã trở thành giang hồ đệ nhất nhân rồi.
Ba người bước ra khỏi thạch động, tiến về phía trước.
Đột nhiên cả ba dừng lại, Lâm Viết Hùng đưa mắt nhìn một tảng đá cao quá đầu người, cách đấy hơn ba trượng, rồi đưa tay phất một cái.
Thấy không gây phản ứng gì, Song Nhạn trố mắt nhìn Lâm Viết Hùng ngở chàng cha ra tay.
Ngườ đâu, một luồng gió cuốn tới, đánh ập vào tảng đá đổ nhào xuống, bụi cát bốc lên rồi lắng dần.
Tảng đá bị chưởng lực của chàng đánh nát ra thành bột.
Ngoài ba trượng mà chỉ phất nhẹ một cái đã đánh tan tảng đá to tướng thì ai trông thấy không khiếp người.
Nội lực của Song Nhạn đứng vào bậc cao thủ nhưng cũng phải lắc đầu le lỡi khiếp phục.
Chính Lâm Viết Hùng cũng không ngườ uy lực của Hoá Huyết Thần Công kinh khủng đến như vậy, bất giác chàng rùng mình.
Song Nhạn ngẩn ngơ một lúc, rồi quay lại hỏi Lâm Viết Hùng :
- Xin chủ nhân cho biết chừng nào rời khỏi u cốc nầy ?
Lâm Viết Hùng nói :
- Các ngươi trở về hang thu xếp hành lý rồi đi ngay bây giờ.
Song Nhạn bị nhốt trong u cốc hơn ba năm, giờ đây được thoát ra thì còn gì mừng rỡ bằng. Cả hai phóng mình trở về động đá nhanh như tên bắn.
Lâm Viết Hùng đứng một mình, suy nghĩ :
- Ta đã luyện được hai môn thần công rồi thì cất trong người bộ Bí Kiếp Kinh Thl àm gì ! Ta tìm chổ cất giấu, chừng nào trả xong cừu hận sẽ đến đây lấy nó đem chôn vào cổ tháp, thực hiện lời hứa của lão nhân trong hang đá.
Nghĩ như vậy, chàng đưa mắt nhìn lên, thấy gần đấy có một tảng đá rất lớn nhô ra cách mời hai trượng.
Tảng đá trông có vẻ khác thường.
Chàng dùng thuật kinh công nhảy phóch lên, dùng bàn tay chặt tảng đá ra thủng thành một lỗ vuông, bề sâu một thước.
Chàng liền bỏ bộ Bí Kiếp Kinh Thư và viên ngọc Ma Đầu vào rồi dùng tảng đá lớn lấp cái lỗ vuông ấy lại.
Thực hiện xong ý định, chàng đứng nhìn khoang khoái.
Bấy giờ Song Nhạn cũng đã sắp đặt xong hành trang, hai người chạy đến nơi, nói với Lâm Viết Hùng :
- Thưa chủ nhân ! Chúng tôi xin theo chủ nhân rời khỏi u cốc nầy.
Lâm Viết Hùng gật đầu. Cả ba cùng nhau phi thân ra miệng cốc.
Chàng ấp úng hỏi :
- Tại sao các người lại gọi ta bằng sư phụ ?
Quái nhân tóc xanh nói :
- Đệ tử là Thanh Nhạn còn tiểu muội là Hồng Nhạn, trước đây ba năm, chúng tôi là đôi uyên ương sát cánh nhau ngang dọc giang hồ.
Lâm Viết Hùng nói :
- Ta có nghe giang hồ ca tụng. Nhưng vì sao hai người lại mất tích và ẩn mặt nơi đây ?
Hồng Nhạn nói :
- Chỉ vì quyển Bí Kiếp Kinh Thư mà chúng tôi bị mắc tai nạn này.
Lâm Viết Hùng nghe nói đến Bí Kiếp Kinh Thư như một luồng điện giật, chàng hỏi vội :
- Bí Kiếp Kinh Thư ở đâu mà mang hoa. ?
Thanh Nhạn nói :
- Trước đây ba năm, chúng tôi có nghe đồn Điên ác Sát vì luyện Bí Kiếp Kinh Thư nên bị tẩu hoa? nhập ma. Chúng tôi đến tìm lão điên để thu đoạt báu vật, chẳng ngườ võ công của lão quá thâm hậu, chúng tôi bị đánh một chiêu học máu, còn bị lão rợt chạy suốt một ngày đêm tưởng đâu bỏ mạng. Nhưng cũng may, sau đó lão nổi điên, không rợt chúng tôi nữa, chúng tôi mới có dịp vận công chữa thương.
Dù vậy, chúng tôi là hai nhân vật nổi tiếng trên giang hồ, dễ gì bị một thất bại mà bỏ qua. Chúng tôi trở lại tìm lão Điên ác Sát. Lần này chúng tôi không ra mặt giao đấu mà cố công theo dõi hành động của lão.
Một đêm, chúng tôi thấy lão cắm đầu xuống đất chạy như tên bắn. Chúng tôi lập tức đuổi theo. Lão băng rừng, qua suối, chạy từ lúc xẩm tối đến nữa đêm thì đến một bãi tha ma, lão dừng lại. Chúng tôi núp vào một bụi cây, cách xa lão hơn ba chục bước, trông thấy lão ngồi bệt trước một ngôi mộ mới đắp sục sùi khóc.
Lão nói :
- Hà nương nương ! Em nỡ bỏ anh, để anh ngày đêm thương nhớ.
Khóc than một lúc, lão cúi xuống hai tay moi đất lên, đất đá bị lão đánh tung lên trời rơi lộp bộp như ma vậy.
Đào một lúc, lão kéo lên một chiếc quan tài. Lão ôm chiếc quan tài ấy khóc than thảm thiết.
N Tuy nhiên, chỉ được một lúc, da mặt bỗng nhăn lại, đôi mắt lão đỏ ngầu rú lên một tiếng, và nói :
- Ngươi là đứa phản phúc ! Ngươi đã làm hại đời ta ! Ta phải giết ngươi !
Dứt lời lão tung song chưởng đánh thẳng vào chiếc quan tài bể nát. Trời tối, chúng tôi đứng cách xa, không rõ chiếc quan tài ấy có xác chết hay không, mà nếu có xác chết thì với chưởng lực của lão, xác chết ấy cũng tan nát thành đất bụi.
Đánh nát chiếc quan tài ấy rồi, lão bỏ đi lang thang tìm một ngôi mộ khác cũng mới đắp và lão cũng khóc than, rồi moi đất, rôi lôi chiếc quan tài lên, đánh tan nát ra.
Chúng tôi biết lão già điên có một mối tình u uất nào đó, nên núp vào bụi cây, giả giọng nói :
- Anh ơi ! Em đâu có bạc tình với anh, chỉ vì anh không chìu ý Em đó thôi.
Đôi mắt lão bỗng dịu lại, lão nói :
- Hà nương ! Em muốn gì em cứ nói, dù khó khăn đến đâu, dù đi đến tận cùng chân trời góc bể để gặp em, anh cũng không từ chối !
Chúng tôi giả giọng tiếp :
- Hãy đưa cho em mợn cuốn Bí Kiếp Kinh Thư thì em toại nguyện rồi.
Lão nghe nói, liền rú lên một tiếng, cấm đầu xuống đất chạy như bay, chúng tôi là những tay có bản lãnh giang hồ mà vẫn không sao đuổi theo kịp lão.
Thất vọng, chúng tôi không đuổi theo lão nữa, trở lại những ngôi một mà lão v à đào để xem xét. Nhưng chúng tôi không tìm thấy gì cả, vì những chiếc hòm và những xác chết bị lão đánh nát ra từng mãnh.
Trong lúc chúng tôi đang lay hoay tìm thử có gì khả nghi, thì lão Điên ác Sát trở lại. Lão chạy đến như bay ! May mà lão không rú lên mấy tiếng thì chúng tôi không tài nào trốn kịp.
Chúng tôi nép vào một bụi rậm gần đó, thì thấy lão đến trước một ngôi một khác, lấy tay moi đất, và than thở :
- Hà nương ơi ! Anh chìu ý em đấy ! Em đừng trốn tránh anh nữa, hãy để cho anh gặp mặt.
Moi đất xong, lão rút trong bụng ra một gói lụa màu vàng, chôn xuống ngôi mộ, rồi lấp đất lại.
Chúng tôi hồi hộp vô cùng, vì biết trong gói lụa vàng ấy là quyển Bí Kiếp Kinh Th, nhưng lão ngồi trước ngôi mộ ấy khóc mãi không chịu đi. Chúng tôi không biết làm sao, buộc lòng phải giả giọng nói :
- Anh ơi ! Anh đừng khóc nữa ! Ngày mai anh trở lai đây sẽ gặp em !
Lão nghe chúng tôi nói, liền rú lên một tiếng, cấm đầu xuống đất chạy mất.
Thế là chúng tôi lập tức phóng mình ra, moi đất lên, đoạt lấy báu vật võ lâm.
- Thưa sư phụ ! Chắc sư phụ cũng đoán biết lúc ấy lòng chúng tôi vui sướng đến bực nào rồi. Tuy nhiên, vì chuyện Bí Kiếp Kinh Thư mà lão già ấy mang cái tên Điên ác Sát thì chúng tôi dại gì mà dẫm lên vết chân của lão. Chúng tôi bàn với nhau tìm một nơi hẻo lánh để nghiên cứu thật kỹ, rồi sẽ tập luyện sau.
Chúng tôi đi quanh quẩn suốt thời gian nữa tháng trời mới tìm được nơi thâm cốc này. Nhưng chẳng may, chúng tôi vừa vào đến cửa động thì gặp con Cửu Vĩ Đại Xừa, phải cùng nó giao đấu. Kết cuộc chúng tôi bị rắn độc cắn, mình mẫy chúng tôi xng lên, ngứa ngáy một tháng trời, sau đó cả mình chúng tôi đều mọc lông dài như lông thú, trông dễ sợ làm sao !
Lâm Viết Hùng xen vào, hỏi :
- Sưao không tìm nơi chữa độc ?
Thanh Nhan nói :
- Chúng tôi bị con rắn độc ấy nhốt nơi đây không cho ra. Nó canh nơi cửa động suốt ba năm nay, chúng tôi đã mấy lần giao tranh nhưng không thắng nổi, vì nó có loại hơi độc, mỗi lần phun ra là chúng tôi ói mữa đến ngất xỉu.
Chúng tôi có lời nguyền, kẻ nào giết được Cửu Vĩ Đại Xừa cứu chúng tôi ra, chúng tôi hiến thân làm đệ tử theo hầu hạ suốt đời. Hôm nay, sư phụ đã giết được Cửu Vĩ Đại Xừa, xin cho chúng tôi làm tròn lời nguyện ấy.
Lâm Viết Hùng lưỡng lự :
- Việc nầy tôi đâu dám… Hồng Nhạn tỏ vẽ đau khổ, cất giọng buồn buồn :
- Hai anh em tôi chờ đợi suốt ba năm, thời gian ấy đâu phải là ngắn.
Lâm Viết Hùng nghe nói cảm động. Tuy nhiên, với tuổi tác của chàng, chàng không thể chấp nhận được.
Chàng nói :
- Ưước vọng của hai vị là được thoát ra khỏi u cốc nầy. Bây giờ tôi đã giết được rắn độc, hai vị cứ ra đi, cần gì phải tự buộc mình vào lời nguyền.
Hồng Nhạn nói :
- Bỏ lời nguyền trọn đời chúng tôi không sống an tâm.
Lâm Viết Hùng trầm mặt, qua một lúc chàng nghiêm giọng nói :
- Thôi được ! Ta nhân lời yêu cầu của hai người !
Nét mừng rỡ thoảng qua trên mặt Song Nhạn.
Thanh Nhạn nói :
- Xin sư phụ cho biết tôn hiệu !
Lâm Viết Hùng nói :
- Thừa kế Chưởng môn Huyền Cung Ngọc Diện Nhân Lâm Viết Hùng.
Song Nhạn vập đầu lạy ba lạy, rồi đứng dậy, nói :
- Xin mời sư phụ vào động đá để chúng tôi dâng nạp quyển Bí Kiếp Kinh Th.
Lâm Viết Hùng nói :
- Bí Kiếp Kinh Thư do hai người lấy được đâu phải của ta ?
Song Nhạn nói :
- Chúng tôi đã có lời nguyện, xin ân sư vui lòng chấp thuận lời nguyện ấy.
Dứt lời, Song Nhan đưa Lâm Viết Hùng vào chổ họ trú ngụ.
Chẳng mấy chốc, ba người đã đến trước một hang đá sâu ngòm. Trước cửa hang có hai cây cổ thụ to tướng, rặn cây che khuất cả một khoảng đất rộng. Trên cửa hang reu phong phủ đầy, những loại dây rừng leo chằn chịt và rũ xuống như một bức rèm, điểm thêm mấy bông hoa dại trông rất đẹp mắt.
Đường vào hang không rộng lắm, chen lẫn vào đám lau cao quá ngực. Quang cảnh tuy không là danh lam thắng cảnh song không đến nổi khô cằn trơ trọi, và nếu dùng vào chổ tập luyện võ công thì không tìm ra được nơi nào hơn.
Lâm Viết Hùng ngồi xếp bằng trên giường đá trong hang. Song Nhạn liền đem một số trái cây tư ơi và một tô nước lã trong mát và cung kính nói :
- Mời sư phu dùng tạm mấy trái cây rừng này.
Lâm Viết Hùng thấy bụng đã đói, nên không thèm khách khí loi thoi, ăn một bụng no nê.
Ăn xong, chàng uống một hoi cạn bát nước rồi bảo Song Nhạn ngồi đối diện với chàng rồi hỏi :
- Bây giờ ta muốn biết lai lịch của hai ngươi.
Song Nhạn đưa mắt nhìn nhau. Hồng Nhạn nói với Thanh Nhạn :
- Ca ca để em thay mặt kể hầu sư phụ nhé !
Thanh Nhạn nói :
- Được ! Hồng muội cứ kể đi.
Hồng Nhạn hướng vào Lâm Viết Hùng nói :
- Đây là câu chuyện mời năm về trước… Cách đây mời năm, có một tổ chức võ lâm gọi là Thiên Nhất Môn. Vị chưởng môn của tổ chức này là một vị tiền bối lừng danh giang hồ tên Quỷ Kiếm Vương.
Lâm Viết Hùng kinh ngạc :
- Quỷ Kiếm Vương ?
- Phải ! Vị tiền bối giang hồ ấy là một trong Tam Vương. Sau khi tổ chức xong môn phái, Quỷ Kiếm Vương giao quyền chưởng môn cho người đồ đệ thừa kế là Khúc Nguyên Thông.
Khúc Nguyên Thông không lấy vợ, chỉ thu nhận hai đồ đệ, một trai một gái làm con nuôi, truyền dạy võ học, và có ý cho hai đồ đệ ấy trở thành cặp vợ chồng sau này.
Lâm Viết Hùng gật đầu, biết cặp vợ chồng ấy là ai rồi.
Thanh Nhạn tiếp lời, kể :
- Cặp tình nhân ấy lúc bấy giờ mới mời bảy tuổi. Tuy còn trẻ nhưng võ học quán thế. Sư phụ họ rất hài lòng.
Thế rồi một ngày kia, ba sư đồ dắt nhau đến núi Hồng Lãnh để du ngoạn, tình cờ bắt gặp được hai quả nhục chi.
Lâm Viết Hùng trố mắt hỏi :
- Nhục Chi ? Đó là một loại trái cây rất quý kia mà ?
- Phải ! Loại trái cây đó rất quý, hai trăm năm mới đậu thành một quả, trong giang hồ ít ai trông thấy, trừ những kẻ có duyên may. Người nào ăn được một quả thì công lực tăng lên một trăm năm.
Ba thầy trò chúng tôi mừng quá, vội rời khỏi núi Hồng Lãnh trở về.
Nhưng chẳng hiểu vì đâu, tin nầy lại truyền vào giang hồ quá nhanh. Khi ba thầy trò chúng tôi về đến Thiên Nhất Môn thì đã có hơn một trăm cao thủ hắc bạch võ lâm chia nhau vây chúng tôi để giao đấu. Dĩ nhiên là với mục đích tranh đoạt hai quả nhục chi.
Vì tai hoa. bất ngườ, tất cả các môn đồ Thiên Nhất Môn đều nhảy ra ứng chiến.
Thế là một cuộc tử chiến xảy ra vô cùng ác liệt.
Nhưng, Hắc Bạch Võ Lâm toàn là những tay cao thủ, còn Thiên Nhất Môn trừ thầy trò Khúc Nguyên Thông thì hầu hết là thủ hạ đánh sao cho lại. Vì vậy, trải qua một thời gian giao đấu, môn đệ của Thiên Nhất Môn thây chất như rạ, máu chảy thành sông.
Khúc Nguyên Thông tuy có võ công xuất thần, nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ, một mình làm sao cự lại cả hàng trăm cao thủ cùng một lúc.
Hai đồ đệ của Khúc Nguyên Thông liều chết, quần áo nhuộm đầy máu, theo sát gót sư phụ họ để bảo vệ.
Tuy nhiên, sức người có hạng, ba thầy trò Khúc Nguyên Thông dần dần yếu thế.
Biết không thể tránh khỏi hiểm nguy, nhưng Khúc Nguyên Thông là một vị chưởng môn, không thể vì nguy hiểm mà bỏ chạy, nên đã chống cự đến lúc cuối cùng.
Trước khi chết, ông còn cất trong người hai quả nhục chi, và bảo hai đồ đệ hãy thoát thân để sau này báo thù.
Hai tên đồ đệ không nở bỏ thầy, nhưng cuối cùng cũng phải tuân lệnh.
Quần hùng đánh ngã Khúc Nguyên Thông xong, họ xúm nhau dành dựt xác chết ấy để đoạt báu vật. Thế là một cuộc huyết chiến thứ hai xảy ra.
Trong lúc họ đang tàn sát lẫn nhau thì chiến tràng xuất hiện một gã thanh y bịt mặt. Người này võ công khá cao, lại gặp lúc quần hùng đã đánh nhau chí tử, không còn sức lực nàu đương cự, nên gã cớp lấy xác chết và chạy như tên bay không ai đuổi theo kịp.
Thế là hai quả nhục chi về tay gã thanh y bịt mặt ấy.
Không ai biết gã thuộc môn phái nào. Nhưng sau thời gian hai năm, giang hồ lại xuất hiện một tổ chức mang tên U Vương Quỷ Điện. Các môn hạ của U Vương Quỷ Điện đều mặc áo xanh bịt mặt, và vị Đế Quân Quỷ Điện thỉnh thoảng cũng có xuất hiện giang hồ, cũng mặc áo xanh bịt mặt, lại có một nội công quái ác. Người ta đồn rằng người cớp được hai quả nhục chi trước kia chính là hắn và nhờ ăn hai quả ấy mà công lức của hắn trở thành vô địch thiên hạ.
Lâm Viết Hùng xen vào hỏi :
- Hai ngươi có biết U Vương Quỷ Điện thiết lập nơi nào không ?
- Không rõ ! Nhưng hắn đã dùng một phù hiệu là Quỷ lệnh điều khiển khắp các tổ chức ở mọi nơi ! Người của hắn thường cải trang đủ hình thức, nên tai mắt đâu cũng có.
Chúng tôi chính là hai tên đệ tử Khúc Nguyên Thông, quyết chí trả thù cho sphụ, đã một thời gian xuất hiện giang hồ, cố tìm tung tích của Đế Quân Quỷ Điện, nhưng vì thế lực không có, môn đồ của Thiên Nhất Môn tan rã hết, nên việc làm ấy không thành công. Vã lại võ công của chúng tôi cha phải là đối thủ của Đế Quân Quỷ Điện, đành phải nhẫn nhục.
Vừa rồi, chúng tôi cố tâm chiếm đoạt Bí Kiếp Kinh Thư để tập luyện nuôi chí báo thù, nhưng chúng tôi lại cũng bị thất bại vì không tìm được ngọc bích Ma Đầu.
Lâm Viết Hùng nói :
- Hai ngươi đã có sư phụ rồi, mặc dù hai ngươi có lời nguyền ước, nhưng ta không thể nhận làm đồ đệ được.
- Nếu không làm đồ đệ, chúng tôi xin nguyện làm tùy nô, và gọi sư phụ bằng chủ nhân.
Lâm Viết Hùng mĩm cười :
- Ừ ! Thế cũng được ! Từ nay các ngươi chỉ gọi ta bằng chủ nhân thôi.
Song Nhạn mừng rỡ, rút trong kẹt đá lấy ra một gói lụa màu vàng, và nói :
- Đây là Bí Kiếp Kinh Th, Song nô xin dâng nạp cho chủ nhân gọi là chút lễ mọn ra mắt.
Lâm Viết Hùng cũng rút trong bọc ra một cuốn sách, đem so với quyển sách của Song Nhạn thì quả thật đó là bộ Bí Kiếp Kinh Thư gồm cả hai quyển thượng và hạ.
Lâm Viết Hùng mừng rỡ, dù chàng cha có ngọc Ma Đầu, cha luyện được môn võ công tuyệt học, nhưng ít ra chàng cũng thực hiện được nhiệm vụ của chàng là đem bộ Bí Kiếp Kinh Thư chôn vào Cổ Tháp với xác lão nhân trong hang đá.
Chàng lại tự nghĩ :
- Lâu nay ta cất giữ Bí Kiếp Kinh Thư nhưng cha có dịp xem qua. Nơi đây kín đáo, ta lại tìm được đủ bộ, ta thử xem qua cho biết.
Thấy Song Nhạn đứng hầu trước mặt, chàng nói :
- Sưau khi rời khỏi nơi đây, ta sẽ cố gắng tìm thuốc giãi độc cho hai ngươi để hai ngươi thực hiện lời di mệnh của lệnh s.
Song Nhạn cung kính nói :
- Xin cảm ơn chủ nhân.
Lâm Viết Hùng nói :
- Hiện nay, ta cần có nơi tịnh dưỡng nghĩ ngơi để xem qua bộ Kinh Th.
Sau đó chúng ta sẽ rời khỏi nơi đây cũng chẵng muộn.
Song Nhạn nói :
- Xin Chủ nhân thận trọng ! Chúng tôi nghe nói muốn luyện Bí Kiếp Kinh Thph ải có Ma Đầu Ngọc Bích, nếu không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Chính Điên ác Sát đã là một trong những nạn nhân ấy.
Lâm Viết Hùng nói :
- Điều ấy ta đã có nghe một lão nhân trong hang đá nói lại. Nhưng Ma Đầu Ngọc Bích biết đâu mà tìm ?
Song Nhạn nói :
- Trước đây chúng tôi có nghe tôn sư Quỷ Kiếm Vương kể lại lai lịch viên ngọc ấy.
Lâm Viết Hùng nghe nói hỏi vội :
- Lai lịch như thế nào ?
- Trước đây hai trăm năm, lúc Hoàng Dược Sư và Âu Dương Phong soạn ra bộ Bí Kiếp Kinh Thư trên đỉnh Hoa Sơn, thì sau khi hai người luận xong các môn võ học, công lực đã quá hao mòn, nên ban ngày không còn đủ sức ghi chép nữa, chỉ có ban đêm họ mới tỉnh trí nối tiếp công việc ghi vào đó những khẩu quyết võ công.
Tuy nhiên, ban đêm trời lại tối, đó là một trở ngại lớn lao. Hai người tìm được một loại cỏ chế ra một thứ mực lân tinh, nghĩa là thứ nước gặp bóng tối tự nhiên sáng lên lóng lánh.
Nhờ chất nước của loại cỏ ấy, hai người dùng làm mực viết trong đêm tối rất tiện lợi. Tất cả các khẩu quyết đều ghi vào những trang sau cùng một quyển sách.
Nhưng, khi họ làm xong thì họ lại thất vọng vì chất mực ấy biến đi đâu mất, trong bóng tối không còn hiện lên nét chữ nữa.
Hai người lại bàn tính tìm một thứ cỏ có chất lân tinh khác.
Chẳng ngườ trong lúc họ đang bỏ óc ra để suy nghĩ thì đêm đó có một con rắn khổng lồ bò đến, le lỡi hút chất nước cỏ mà họ dùng làm mực để ghi chép.
Điều làm cho họ ngạc nhiên là mỗi khi con rắn le lỡi ra thì có một luồng ánh sáng lạ. Luồng ánh sáng ấy làm cho những trang chữ bi mất hiện lên rất rõ.
Hai người vì quá mệt mõi, tuy nhiên, thấy sự kiện lạ lùng xảy ra như vậy, nhưng họ cũng không có phản ứng nào.
Rồi đếm một đêm khác, con rắn khổng lồ ấy cũng đến hút mực, và ánh sáng trong lỡi nó cũng làm nỗi lên những dòng chữ bị mất trên những trang sách để gần nơi đó.
Thấy vậy, hai vị tiền bối võ lâm đoán biết trong đầu con rắn có ngọc quý, thứ ngọc cấu tạo do chất cỏ lân tinh mà thành. Họ liền hợp công đánh chết con rắn lấy ngọc, và dùng viên ngọc rọi vào những trang sách đã ghi các khẩu quyết. Viên ngọc ấy giống hình chiếc sọ, nên họ đặt tên là Ma Đầu Ngọc Bích.
Để cho người đời sau biết, hai vị tiền bối ấy có ghi trong sách dặn:
muốn luyện các môn võ công phải có Ma Đầu Ngọc Bích.
Nhưng về sau, chẳng biết viên ngọc ấy thất lạc nơi đâu, cũng không biết người nào đã tìm thấy nó chăng ?
Lâm Viết Hùng buồn bã nói :
- Như vậy chắc là đã thất lạc rồi, làm sao còn tìm lại được nữa.
Song Nhạn nói :
- Nếu chủ nhân muốn xem cho biết bộ ky thư võ lâm ấy thì được, còn việc tập luyện chúng tôi e nguy hiểm.
Lâm Viết Hùng nói :
- Ta cũng biết rõ điều ấy, các ngươi khỏi lo.
Song Nhạn nói :
- Gần đây có căn nhà đá rất sạch sẽ. Đó là thạch động, vừa xinh xắn, vừa mát mẻ, xin mời chủ nhân đến đó nghĩ ngơi.
Lâm Viết Hùng gật đầu :
- Được lắm !
Song Nhạn đứng dậy đi trước dẫn đường.
Hai người đưa Lâm Viết Hùng vào một cái hang đá khác, ở đây toàn loại đá trắng lóng lánh như một viên ngọc khổng lồ, mỗi bề rộng độ năm trượng, không khí mát mẻ dể chịu vo cùng.
Lâm Viết Hùng mỉm cười khoang khoái, ngồi xuống mặt đá, tỏ lời cám ơn Song Nhạn đã dành riêng cho chàng một nơi đắc ý.
Song Nhạn cúi chào Lâm Viết Hùng rồi dắt nhau trở về hang đá trước kia nghĩ ngơi.
ánh trăng vàng nhợt rải trên động đá lóng lánh như muôn ngàn viên kim cương.
Lâm Viết Hùng nằm nghĩ một lúc thấy trong người đã khoẻ khoắn. Chàng không ngủ được, lần mò bước ra ngoài cửa động.
Bốn bề lặng ngắt như tờ. Xung quanh vắng vẻ làm cho chàng có cái cảm giác cô đơn.
Chàng thả bước đi lần về phía suối nước, bỗng trước mắt chàng hiện ra một cái gì là lạ. Chàng thấy trên mặt đất cách chổ chàng đứng chừng vài chục bước có một vệt sáng màu xanh. Vệt sáng nhấp nháy toa? ra một vòng tròn to bằng cái nia vậy.
Lâm Viết Hùng dừng bước, quan sát cảnh vật xung quanh, thấy nơi đó là chỗ ban chiều chàng bỏ xác con rắn ở đấy.
Sực nhớ lại câu chuyện Song Nhạn vừa kể, chàng nhủ thầm :
- Tại sao con rắn này phát ra ánh sáng, hay đây cũng là loại rắn có ngọc, mà ánh sáng có thể làm nổi lên chất mực lân tinh ?
Chàng chạy đến. Quả nhiên ánh sáng từ đầu con rắn phát ra.
Để khỏi nghi ngườ, chàng thò tay vào túi, lấy hai quyển Bí Kiếp Kinh Thư lật từng trang để xem xét. Quả nhiên, đến những trang cuối cùng những dòng chữ màu xanh nhạt bỗng hiện lên rất rõ rệt.
Chàng “á” lên một tiếng kinh ngạc. May là trong động đá thâm u không một ai hay biết.
Chàng nhủ thầm :
- Thế là ta đã gặp được kỳ duyên rồi. Có lẽ trước đây hai vị tiền bối cũng đã gặp được loại rắn chín đuôi này. Ngọc nó có thể dùng soi sáng chất lân tinh. Ồ ! Ta đã tìm được Ma Đầu Ngọc Bích.
Không chần chờ, chàng lấy tay xé hai đầu con Cửu Vĩ Đại Xừa ra, móc lấy viên ngọc. Rõ ràng viên ngọc có hình một chiếc sọ.
Chàng mừng quá, lẫm bẫm :
- Ma Đầu Bích Ngọc ! Ma Đầu Bích Ngọc !
Chàng vội quay về thạch động, đặt viên ngọc lên các trang sách, nằm úp bụng xuống mặt đá, đọc từng dòng chữ một.
Sau khi đọc hết hai quyển Bí Kiếp Kinh Thư và các khẩu quyết, chàng phân tách rất rõ ràng.
Quyển thượng do Âu Dương Phong ghi lại, toàn là những môn võ công khảo cứu theo cách giao đấu của loài vật. Lối võ công nầy không chú trọng về tâm mà chú trọng về lực, nghĩa là một công phu rèn luyện về sức mạnh của gân và bắp thịt. Mọi khí lực trong người đều dồn hết ra ngoài. Hiệu năng của lối đánh này là bạo.
Ngược lại, quyển hạ do Hoàng Dược Sư ghi, toàn là những môn võ công khảo cứu theo lối phản ứng tự nhiên. Lối võ công nầy không trọng về tâm, cũng không chú trọng về lực mà chú trọng về thần. Mọi khí lực trong người được luân chuyển đều đặn trong cơ thể từ trong ra ngoài. Hiệu năng của lối võ công này là phản ứng tự nhiên.
Hai lối công phu nầy đều được nghiên cứu đến trác tuyệt tinh túy. Tuy mỗi bên có khác nhau, song bên nào cũng có những nét đặc biệt.
ở quyển thượng có môn Hoá Huyết Thần Công. Môn võ công nầy có thể dùng sức mạnh đánh đến nát đá thành bùn, chảy sắt thành nước, vì nội lực phát ra một sức nóng phi thường.
ở quyển hạ có môn Phản Xưa. Thần Công. Môn võ nầy tạo sức phản ứng ngược chiều. Đối phương đánh ra mạnh bao nhiêu thì sức mạnh quay dội ngược trở về bấy nhiêu.
Lâm Viết Hùng mê mang trong các khẩu quyết. Chàng đọc mãi cho đến lúc trời hừng sáng chàng mới gấp sách lại nghĩ thầm :
- Hiện nay ta chỉ có một thời gian ngắn để hoàn thành trách nhiệm, nếu đem những khẩu quyết này tập luyện cho thấu triệt thì biết bao giờ mới xong.
Cuối cùng chàng quyết định chỉ tập luyện hai môn Hoá Huyết Thần Công và Phản Xưa. Thần Công mà thôi. Với hai môn võ nầy ít ra chàng cũng phải tập luyện hơn hai tháng trời mới hoàn tất được.
Đã dứt khoác về ý định, chàng cảm thấy như trong người nhẹ nhàng khoan khoái, nên cất hai quyển Bí Kiếp Kinh Thư vào bọc, rồi nằm nhắm mắt điều dưỡng công lực.
Bỗng thấy Song Nhạn đem trái cây và nước lã vào. Chàng ăn uống xong, liền dặn hai người song nô :
- Từ nay các ngươi cứ canh chừng ngoài động. Ta cần thời gian hai tháng để luyện một môn võ công. Cứ mỗi ngày vào giờ ngọ, các ngươi mới được vào đây đem trái cây và nước uống.
Song Nhạn thấy lời nói và thái độ của chàng rất nghiêm chỉnh, không dám hỏi lời nào, cúi đầu tuân lệnh.
Từ đó, Lâm Viết Hùng chăm chú luyện công. Chàng đang ở trong một hoàn cảnh thuận tiện, suốt ngày ngồi xếp bằng tròn giữa thạch động, đôi mắt nhắm nghiền, chỉ ăn uống một lần vào buổi tra mà thôi.
Một tháng trôi qua ! Việc tập luyện của chàng có mới tấn tới. Trong khi ngồi tham luyện thần công tự nhiên trong người chàng phát ra một luồng cang khí vô hình bao phủ cả thạch động. Nhiều khi Song Nhạn muốn thăm chàng, nhưng không làm sao bước tới được.
Họ có cảm tưởng thạch động đã bị thần công của chàng kết tinh lại thành một khối ngọc rắn chắc vậy.
Thấm thoát đã hai tháng, Lâm Viết Hùng không biết gì về thay đổi của giang hồ.
Việc luyện công của chàng cũng đã thành công.
Gương mặt của chàng bấy giờ tư ơi trẻ hơn, nhưng có điều lạ là đôi mắt chàng không còn sáng quắc như trước kia nữa, mà chỉ bình thản, dịu dàng, và sáng hơn đôi mắt người thường một tí thôi.
Trông bề ngoài không ai có thể biết chàng có tuyệt đỉnh võ công được.
Nhưng đó là hiện tượng của một người đã đạt đến mức thượng thừa trong võ thuật.
Ngày mà chàng luyện xong hai môn thần công thì chàng mới thu hồi luồng cang khí lại.
Song Nhạn bấy giờ mới tự do ra vào, thắm viếng.
Hai người cúng kín nói :
- Mừng chưởng môn đã đạt được ý nguyện.
Lâm Viết Hùng tư ơi cười nói :
- Cảm ơn hai ngươi đã chăm sóc cho ta trong thời gian vừa rồi.
Song Nhạn hỏi :
- Chủ nhân có thể cho chúng tôi biết chủ nhân vừa luyện thứ thần công gì mà ghê gớm thế ?
Lâm Viết Hùng đáp :
- Đó là hai môn thần công gọi là Hoá Huyết Thần Công và Phản Xưa. Thần Công.
Một loại thế công và một loại thế thủ.
- Do đâu mà Chủ nhân luyện được ?
- Hai môn này đều rút trong Bí Kiếp Kinh Th.
- Bí Kiếp Kinh Thư ? Chủ nhân không có ngọc Ma Đầu thì làm sao luyện được ?
Lâm Viết Hùng cầm viên ngọc đưa lên cao, nói :
- Đây là ngọc Ma Đầu.
- Chủ nhân tìm ra lúc nào ?
- Chính trong đầu con Cửu Vĩ Đại Xừa mà ta đã giết nó trước kia.
Song Nhạn reo lên :
- Nếu vậy chủ nhân là một người có duyên may nhất thế gian này. Xin chủ nhân cho chúng tôi thấy qua uy lực của hai môn thần công.
Lâm Viết Hùng nói :
- Việc ấy đâu có khó gì. Nhưng trong Bí Kiếp Kinh Thư còn rất nhiều điều nói về bí học, mà ta cha có thì giờ khảo cứu.
Song Nhạn nói :
- Chỉ hai môn thần công ấy, chủ nhân đã trở thành giang hồ đệ nhất nhân rồi.
Ba người bước ra khỏi thạch động, tiến về phía trước.
Đột nhiên cả ba dừng lại, Lâm Viết Hùng đưa mắt nhìn một tảng đá cao quá đầu người, cách đấy hơn ba trượng, rồi đưa tay phất một cái.
Thấy không gây phản ứng gì, Song Nhạn trố mắt nhìn Lâm Viết Hùng ngở chàng cha ra tay.
Ngườ đâu, một luồng gió cuốn tới, đánh ập vào tảng đá đổ nhào xuống, bụi cát bốc lên rồi lắng dần.
Tảng đá bị chưởng lực của chàng đánh nát ra thành bột.
Ngoài ba trượng mà chỉ phất nhẹ một cái đã đánh tan tảng đá to tướng thì ai trông thấy không khiếp người.
Nội lực của Song Nhạn đứng vào bậc cao thủ nhưng cũng phải lắc đầu le lỡi khiếp phục.
Chính Lâm Viết Hùng cũng không ngườ uy lực của Hoá Huyết Thần Công kinh khủng đến như vậy, bất giác chàng rùng mình.
Song Nhạn ngẩn ngơ một lúc, rồi quay lại hỏi Lâm Viết Hùng :
- Xin chủ nhân cho biết chừng nào rời khỏi u cốc nầy ?
Lâm Viết Hùng nói :
- Các ngươi trở về hang thu xếp hành lý rồi đi ngay bây giờ.
Song Nhạn bị nhốt trong u cốc hơn ba năm, giờ đây được thoát ra thì còn gì mừng rỡ bằng. Cả hai phóng mình trở về động đá nhanh như tên bắn.
Lâm Viết Hùng đứng một mình, suy nghĩ :
- Ta đã luyện được hai môn thần công rồi thì cất trong người bộ Bí Kiếp Kinh Thl àm gì ! Ta tìm chổ cất giấu, chừng nào trả xong cừu hận sẽ đến đây lấy nó đem chôn vào cổ tháp, thực hiện lời hứa của lão nhân trong hang đá.
Nghĩ như vậy, chàng đưa mắt nhìn lên, thấy gần đấy có một tảng đá rất lớn nhô ra cách mời hai trượng.
Tảng đá trông có vẻ khác thường.
Chàng dùng thuật kinh công nhảy phóch lên, dùng bàn tay chặt tảng đá ra thủng thành một lỗ vuông, bề sâu một thước.
Chàng liền bỏ bộ Bí Kiếp Kinh Thư và viên ngọc Ma Đầu vào rồi dùng tảng đá lớn lấp cái lỗ vuông ấy lại.
Thực hiện xong ý định, chàng đứng nhìn khoang khoái.
Bấy giờ Song Nhạn cũng đã sắp đặt xong hành trang, hai người chạy đến nơi, nói với Lâm Viết Hùng :
- Thưa chủ nhân ! Chúng tôi xin theo chủ nhân rời khỏi u cốc nầy.
Lâm Viết Hùng gật đầu. Cả ba cùng nhau phi thân ra miệng cốc.
/33
|