.
Năm mươi người của mật điệp Phi Hổ từ năm ngoái đã mở rộng tăng lên gấp bội, bây giờ có khoảng 500 người có đặc vụ cơ cấu thuần túy của mật điệp. Loạn thế sắp đến, cả Đại Tùy phải lâm vào chiến tranh liên miên không dứt. Mà chiến tranh, bất luận là thời đại của vũ khí lạnh hay là chiến tranh hiện đại thì tình báo vẫn là khâu quan trọng nhất. Lý Nhàn có cái đầu của người hiện đại, tuy không phải là người yêu thích quân sự nhưng hắn cũng biết trong chiến tranh muốn lấy được thời cơ thì chắc chắn phải biết người biết ta.
Năm trăm mật điệp Phi Hổ đã trải qua ba tháng huấn luyện đã nắm được những thủ đoạn tình báo cơ bản. Nhưng lý luận thế nào thì cũng có vẻ như tất cả đều là trống rỗng. Bọn họ cần chính là huấn luyện thực chiến. Cho nên, sau khi vào tháng chạp Lý Nhàn đã chọn 200 mật điệp Phi Hổ để bọn họ mang tiền, bạc xuống Yến Sơn đi về phía nam một chuyến. Những mật điệp này cứ 10 người chia làm một tổ phân chia tiềm nhập vào các mục tiêu đã đặt ra của mình.
Những người này, nhiệm vụ của bọn họ chính là thu thập tất cả tin tình báo cho đại quân rời núi tác chiến vào mùa xuân sang năm. Tình báo không chỉ là các loại tin tức mà còn có cả hành động của quan phủ địa phương, tin tức về thế gia địa phương hoặc vọng tộc cùng địa hình và rất nhiều công việc khác.
Lần này Trần Tước Nhi đích thân dẫn đội, một năm nay Lý Nhàn đã giao tất cả kiến thức đặc vụ trong đầu mình có cho Trần Tước Nhi, ở trong Thiết Phù Đồ vẫn là người phụ trách thu thập tình báo, đang từng bước trở thành người phụ trách cao nhất của tổ chức tình báo.
Sắp xếp chuyện của mật điệp Phi Hổ xong, thời gian này Lý Nhàn có vẻ như không có việc gì. Phủ binh Đại Tùy có phương thức huấn luyện hoàn chỉnh, đám phủ binh này có kỷ luật rất tốt. Một ngàn hai trăm sơn tặc dưới sự ảnh hưởng của bọn họ cũng dần trở nên chính quy. Đạt Khê Trường Nho và đám người Thiết Lão Lang hiểu rõ phương thức luyện binh của phủ binh, thường ngày việc huấn luyện trên cơ bản đều do Đạt Khê Trường Nho phụ trách.
Lý Nhàn chia hai vạn chín ngàn binh lính làm sáu doanh, doanh thứ nhất là Nhuệ Kim Doanh có năm ngàn binh lính. Chỉ huy sứ gọi là Đô úy, Đô úy của Nhuệ Kim Doanh là Thiết Lão Lang. Doanh thứ hai là Thanh Mộc Doanh, năm nghìn binh lính, Đô úy là Lạc Phó. Doanh thứ ba là Hồng Thủy Doanh, năm nghìn binh lính, Đô úy là Triều Cầu Ca. Doanh thứ tư là Liệt Hỏa Doanh, có năm ngàn binh lính, Đô úy là Đông Phương Liệt Hỏa. Doanh thứ năm là Hậu Thổ Doanh, có năm ngàn binh lính, Đô úy là Hùng Khoát Hải. Doanh thứ sáu là Truy Trọng Doanh, có hai ngàn binh lính, Đô úy là Vương Khải Niên. Năm doanh chiến binh trong này được gọi là Ngũ Hành đại doanh.
Còn Độc Cô Nhuệ Chí, Ngưu Tiến Đạt, Lưu Hắc Thát được Lý Nhàn quy về làm thủ lĩnh của mật điệp Phi Hổ. Mỗi người bọn họ đều có sở trường của bản thân. Như Ngưu Tiến Đạt xuất thân là thương nhân, các nghành nghề đối với y đều rất quen thuộc, mà mật điệp chính là phải dung nhập ẩn nấp trong các ngành nghề.
Còn có một đội quân chấp pháp hơn một ngàn người, Lý Nhàn sai Phục Hổ Nô chưởng quản. Đội ngũ chấp pháp quân hơn một ngàn người này từ ban đầu đã dưa vào Hậu Thổ Doanh, hơn một ngàn quân này cơ bản đều là lão binh Yến Sơn trại và người của Tả Đồn Vệ đã đi theo Lý Nhàn sớm nhất.
Ngoài ra, điều khiến các nghĩa quân khác vô cùng hâm mộ Lý Nhàn là đội kỵ binh hơn năm ngàn người của hắn trên Yến Sơn. Điều này đối với các nghĩa quân khác chính là chuyện nghìn lẻ một đêm. Năm ngàn kỵ binh Nhuệ Kim Doanh dưới trướng Thiết Lão Lang, hầu hết đều có xuất thân từ phủ binh Đại Tùy, chiến lực không cần nghĩ cũng biết. Mà đội kỵ binh này thuộc quyền quản lý của Lý Nhàn, thực ra Thiết Lão Lang chỉ có thể coi là Phó đô úy.
Lý Nhàn biết, chắc chắn đội kỵ binh sau này sẽ có đất dụng võ, bất kể là chiến đấu anh dũng hay chỉ là bảo toàn sinh mệnh đều là một thanh lợi khí.
Hai doanh tinh nhuệ nhất trong Yến Sơn trại, một chính là khinh kỵ Nhuệ Kim Doanh, hai là Trọng giáp bộ binh của Hùng Khoát Hải.
Chiến lực của hai doanh trại này còn mạnh hơn cả phủ binh chính quy của Đại Tùy. Cho nên Trương Trọng Kiến mới nói với Lý Nhàn, không cần quan trọng quá đám người Cao Sĩ Đạt, Đậu Kiến Đức ở Hồ Cao Kê. Thực ra, Lý Nhàn cũng biết, nếu đánh nhau thật, một Nhuệ Kim Doanh dưới tay mình cũng đủ chiến thắng đội ngũ mấy vạn người trang bị như dân chạy nạn kia.
Sắp xếp chuyện quân vụ xong, Lý Nhàn ngoài việc buổi sáng hằng ngày luyện tập xạ nghệ, đao pháp ra, hắn đã bắt đầu tìm đọc tất cả binh thư. Kết hợp với bút ký hành quân của Hạ Nhược Bật, kết hợp với những gì được nhìn, được nghe trong hành trình Liêu Đông, hắn đã dần dần thông hiểu những kiến thức này.
Nếu như nói hơn một năm kia ở Tái Bắc khiến Lý Nhàn tu luyện được bản lĩnh tự bảo vệ mình thì hành trình Liêu Đông này đã khiến hắn có được binh pháp thao lược của Vạn Nhân Địch.
Nếu không trải qua cuộc chiến tranh quy mô lớn, hắn cũng không thể nào lý giải một cách thấu đáo bút ký hành quân của Hạ Nhược Bật. Hành trình Liêu Đông này đối với Lý Nhàn mà nói cho dù không có đội quân hơn hai vạn người kia thì cũng là một khoản thu hoạch lớn.
Tháng chạp trên Yến Sơn rất lạnh, dùng cách khoa trương của Lý Nhàn so sánh, thời tiết này tuyệt đối không cần nữ nhân. Bởi vì thứ kia một khi đã rắn lên rồi muốn mềm xuống thì phải đợi đến mùa xuân năm sau hoa nở…
Đương nhiên đây chỉ là đùa cho vui, nhưng không thể phủ nhận trải qua mùa đông trên núi thực không dễ chút nào. Đây cũng là lý do tại sao Lý Nhàn phải dẫn đại quân xuôi nam, có một căn cứ địa tốt mới mong sống yên phận.
Nhưng Yến Sơn lạnh, Liêu Đông cũng lạnh chẳng kém cho nên các binh lính đã dần quen với kiểu thời tiết này. Vì tất cả mọi người đã biết Đại Nghiệp hoàng đế Dương Quảng đã hạ lệnh đầu xuân năm sau còn tiến hành cuộc chiến tranh chinh phạt Cao Cú Lệ lần thứ hai. Cho nên, mỗi người đều cảm giác rất may mắn, nếu không theo chân tướng quân đến Yến Sơn… cho dù lần đầu tiên chinh phạt Cao Cú Lệ mà có thể may mắn sống sót thì ai dám đảm bảo trong cuộc chinh Liêu lần thứ hai mình sẽ sống sót. Đối với Liêu Đông, bọn họ đi một lần là đủ rồi, cũng không muốn đến Liêu Đông chịu chết nữa.
Sinh mạng của các binh lính này đã không là gì trong mắt Đại tướng quân triều đình, cho nên bọn họ sớm đã nản lòng.
Sau tháng chạp, việc huấn luyện quân lính đã giảm đi tương đối. Thay vào đó, là để các binh lính có hành động “cắt cỏ” rồi.
Ba ngày đầu tháng chạp, Lý Nhàn triệu tập các Đô úy lại cho bọn họ lệnh luyện binh thực chiến. Cái gọi là luyện binh thực chiến, dùng cách nói của Lý Nhàn chính là để cho mọi người có chút thịt ăn. Mục tiêu đương nhiên là những người trong thảo nguyên thường xuyên xuôi nam đến đây Đả thảo cốc. Người thảo nguyên đến Đả thảo cốc, Lý Nhàn sẽ đi cắt cỏ.
Vào giữa mùa đông, các bộ lạc lớn nhỏ trên thảo nguyên cũng đã tạm thời định cư, là lúc dê bò của bọn họ béo chảy mỡ. Sắp bước sang năm mới rồi, dù sao cũng phải có miếng thịt bự uống rượu mới được.
Đối với đám mọi rợ thảo nguyên ngoài Trường Thành, từ trước đến nay đám binh sĩ luôn căm thù. Trường Thành không cản nổi người thảo nguyên ước mơ về một Trung Nguyên phồn hoa, gấm vóc. Chỉ có đao thương trong tay các binh lính mới ngăn cản được bọn họ. Nếu người thảo nguyên đánh tới không kiêng nể gì, như vậy thì vì sao người Trung Nguyên không thể gậy ông đập lưng ông?
Lúc bọn họ là phủ binh Đại Tùy, không có cơ hội đánh thật với người thảo nguyên. Triều đình sẽ không có lý do để khai chiến với ngoại tộc, cho dù người thảo nguyên vẫn gây uy hiếp lớn cho dân Đại Tùy vùng biên giới, triều đình Đại Tùy vì củng cố giang sơn cũng sẽ không ứng đối với người Đột Quyết hùng mạnh, nhưng Lý Nhàn có thể.
Loại khoái cảm muốn đánh ai là đánh này khiến các binh sĩ xuất thân phủ binh cảm thấy rất phấn khích.
Từ lúc mới vào tháng chạp, từng đội ngũ bắt đầu lục tục xuống núi, bắt đầu trù bị thịt dê bò tươi mới ngon miệng ch lễ mừng năm mới.
...
Hồ Cao Kê
Đậu Kiến Đức ngồi ở ghế thứ hai trong đại sảnh cúi thấp đầu thưởng thức trà. Thực ra tất cả những lá trà mà y thưởng thức cũng không phải trà ngon gì hiếm gặp, mà chỉ là loại bánh trà thường thấy nhất trên thị trường, loạn trà này ở Trung Nguyên không đáng giá, chỉ đến thảo nguyên nó mới đáng bạc. Mặc dù Hồ Cao Kê có mấy vạn người, nếu tính cả trẻ con, người già… toàn bộ Hồ Cao Kê ít nhất có đến sáu, bảy vạn người nhưng tìm được một người tinh thông pha trà trong đám dân chạy loạn cũng khó như lên trời vậy.
Cho nên, với thân phận Nhị đương gia của Đậu Kiến Đức ở Hồ Cao Kê này cũng không được hưởng thụ cuộc sống xa hoa của nhà giàu. Ngược lại, vì vào đông, cộng thêm đại quân chinh Liêu đã trở về, trong thời gian này đám phản tặc Hồ Cao Kê sẽ không được thoải mái, lương thực đã nguy cấp, nếu không đánh hạ một hai thị trấn cướp kho lương thực… có lẽ sáu – bảy vạn người này sẽ phải đói đến tết.
Nhưng hôm nay Đại đương gia Cao Sĩ Đạt tụ tập mọi người lại thảo luận, không phải tấn công huyện nào để cướp lương thực mà là một chuyện khác. Chuyện này trong mắt Cao Sĩ Đạt còn quan trọng gấp trăm lần chuyện lương thực.
Nghe mọi người bàn luận, Đậu Kiến Đức cũng không muốn chen mồm vào. Thoạt nhìn thấy y an nhàn thưởng thức trà, dường như không hề nghe thấy mọi người nói đang tức giận.
Đại đương gia Cao Sĩ Đạt ngồi ghế trên mặc áo gấm hoa rất đẹp, chiếc áo nhìn nhìn qua lão mặc có vẻ thùng thình, không vừa nhưng dường như Cao Sĩ Đạt cũng không ngại. Nếu như không tụ chúng tạo phản… với thân phận như lão đâu có tư cách mặc áo gấm. Càng không nói chi đến tự hiệu Đông Hải Công, nắm trong tay sinh mạng của sáu, bảy vạn người.
Lão rất hài lòng với phản ứng của các tiểu đầu mục cấp dưới, duy nhất khiến lão không vui chính là phản ứng của Nhị đương gia Đậu Kiến Đức. Chuyện hôm nay triệu tập mọi người thảo luận, đối với Cao Sĩ Đạt mà nói nói rất quan trọng. Nhưng vẻ mặt không nóng vội của Đậu Kiến Đức ít nhiều khiến lão cảm thấy không thoải mái.
- Trọng Thận.
Cao Sĩ Đạt hơi hơi nghiêng đầu gọi một câu.
Đậu Kiến Đức vội vàng đặt chén trà xuống, ôm quyền nói:
- Đại đương gia có gì chỉ bảo?
- Lần này chuyện các huynh đệ đề cử minh chủ của lục lâm Hà Bắc đạo, ngươi thấy thế nào?
Đậu Kiến Đức cười nói:
- Đại đương gia hoàn toàn xứng đáng, trên lục lâm đạo ai có thể bằng với Đại đương gia ngài? Trong mắt ta, toàn bộ lục lâm phía bắc Hoàng Hà, Tri thế Lang Vương Bạc chẳng qua chỉ là thần côn giả thần giả quỷ. Trương Kim Xưng nhát như chuột không đáng nhắc tới… đâu có tư cách so sánh với Đại đương gia.
Nghe thấy Đậu Kiến Đức ca ngợi như vậy. Những gì không vui trong lòng Cao Sĩ Đại đã nguôi đi nhiều. Lão cười nhẹ khoát tay nói:
- Ta đâu có uy vọng như ngươi nói, còn không phải các huynh đệ lục lâm đạo xem trọng ta sao. Nhưng… nếu trước đó mấy ngày mọi người đẩy ta làm minh chủ, ta cũng sẽ không biết tự lượng sức mình dẫn mọi người lên trước.
Ngay sau đó lão lại xoay chuyển nói:
- Nhưng nếu tôn là làm minh chủ mà có người không nghe hiệu lệnh thì chẳng phải làm hỏng quy củ sao? Chư vị Đại đương gia trên lục lâm đạo Hà Bắc đều đến kết minh với Hồ Cao Kê ta, nhưng Cự Dã Trạch Trương Kim Xưng cố tình không đến, Trọng Thận, ngươi xem việc này phải xử trí thế nào?
Không đợi cho Đậu Kiến Đức nói gì, ở dưới đã có người lỗ mãng la lớn:
- Giết nó!
- Những kẻ trong Cự Dã Trạch nhát như lũ chuột, cũng dám không tôn trọng Đại đương gia, vậy chúng ta còn do dự gì nữa, cứ giết chúng đi!
Cao Sĩ Đạt gật đầu hài lòng, mỉm cười giơ tay trấn áp. Sau đó lão nhìn Đậu Kiến Đức chờ câu trả lời.
- Đại đương gia, bây giờ chưa phải là thời cơ tốt để khai chiến.
Suy nghĩ một chút, Đậu Kiến Đức nói cụ thế:
- Sang năm triều đình còn muốn đánh Cao Cú Lệ, đối phó với Trương Kim Xưng không nên nóng vội nhất thời. Hơn nữa, mặc dù khai chiến cùng cần thầy có tiếng. Trương Kim Xưng viện cớ bệnh không đến, về đạo nghĩa có thể bỏ qua. Theo ta thấy, chi bằng phái nhân lực đến Cự Dã Trạch. Không phải dưới tay Trương Kim Xưng có Lục đương gia sao? Vậy chúng ta phái người đi làm Thất đương gia để y chia người cho chúng ta. Đại đương gia ngài làm minh chủ Lục lâm đạo sắp xếp như vậy Trương Kim Xưng có thể không tuân theo sao? Nếu như y không thuận, vậy chẳng phải tốt nhất sao? Không tuân theo hiệu lệnh của minh chủ, Đại đương gia có thể mời các hào kiệt khác trên Bắc Hà đạo cùng phát binh giết chết Trương Kim Xưng!
Sắc mặt của Cao Sĩ Đạt hơi đổi, lão trầm ngâm một lát rồi nói:
- Lời của Trọng Thận chính là mưu của ta!
Đậu Kiến Đức lắc đầu nói:
- So với Cự Dã Trạch thực ra ta lại lo lắng đám người trên Yến Sơn Trác quận hơn.
Năm mươi người của mật điệp Phi Hổ từ năm ngoái đã mở rộng tăng lên gấp bội, bây giờ có khoảng 500 người có đặc vụ cơ cấu thuần túy của mật điệp. Loạn thế sắp đến, cả Đại Tùy phải lâm vào chiến tranh liên miên không dứt. Mà chiến tranh, bất luận là thời đại của vũ khí lạnh hay là chiến tranh hiện đại thì tình báo vẫn là khâu quan trọng nhất. Lý Nhàn có cái đầu của người hiện đại, tuy không phải là người yêu thích quân sự nhưng hắn cũng biết trong chiến tranh muốn lấy được thời cơ thì chắc chắn phải biết người biết ta.
Năm trăm mật điệp Phi Hổ đã trải qua ba tháng huấn luyện đã nắm được những thủ đoạn tình báo cơ bản. Nhưng lý luận thế nào thì cũng có vẻ như tất cả đều là trống rỗng. Bọn họ cần chính là huấn luyện thực chiến. Cho nên, sau khi vào tháng chạp Lý Nhàn đã chọn 200 mật điệp Phi Hổ để bọn họ mang tiền, bạc xuống Yến Sơn đi về phía nam một chuyến. Những mật điệp này cứ 10 người chia làm một tổ phân chia tiềm nhập vào các mục tiêu đã đặt ra của mình.
Những người này, nhiệm vụ của bọn họ chính là thu thập tất cả tin tình báo cho đại quân rời núi tác chiến vào mùa xuân sang năm. Tình báo không chỉ là các loại tin tức mà còn có cả hành động của quan phủ địa phương, tin tức về thế gia địa phương hoặc vọng tộc cùng địa hình và rất nhiều công việc khác.
Lần này Trần Tước Nhi đích thân dẫn đội, một năm nay Lý Nhàn đã giao tất cả kiến thức đặc vụ trong đầu mình có cho Trần Tước Nhi, ở trong Thiết Phù Đồ vẫn là người phụ trách thu thập tình báo, đang từng bước trở thành người phụ trách cao nhất của tổ chức tình báo.
Sắp xếp chuyện của mật điệp Phi Hổ xong, thời gian này Lý Nhàn có vẻ như không có việc gì. Phủ binh Đại Tùy có phương thức huấn luyện hoàn chỉnh, đám phủ binh này có kỷ luật rất tốt. Một ngàn hai trăm sơn tặc dưới sự ảnh hưởng của bọn họ cũng dần trở nên chính quy. Đạt Khê Trường Nho và đám người Thiết Lão Lang hiểu rõ phương thức luyện binh của phủ binh, thường ngày việc huấn luyện trên cơ bản đều do Đạt Khê Trường Nho phụ trách.
Lý Nhàn chia hai vạn chín ngàn binh lính làm sáu doanh, doanh thứ nhất là Nhuệ Kim Doanh có năm ngàn binh lính. Chỉ huy sứ gọi là Đô úy, Đô úy của Nhuệ Kim Doanh là Thiết Lão Lang. Doanh thứ hai là Thanh Mộc Doanh, năm nghìn binh lính, Đô úy là Lạc Phó. Doanh thứ ba là Hồng Thủy Doanh, năm nghìn binh lính, Đô úy là Triều Cầu Ca. Doanh thứ tư là Liệt Hỏa Doanh, có năm ngàn binh lính, Đô úy là Đông Phương Liệt Hỏa. Doanh thứ năm là Hậu Thổ Doanh, có năm ngàn binh lính, Đô úy là Hùng Khoát Hải. Doanh thứ sáu là Truy Trọng Doanh, có hai ngàn binh lính, Đô úy là Vương Khải Niên. Năm doanh chiến binh trong này được gọi là Ngũ Hành đại doanh.
Còn Độc Cô Nhuệ Chí, Ngưu Tiến Đạt, Lưu Hắc Thát được Lý Nhàn quy về làm thủ lĩnh của mật điệp Phi Hổ. Mỗi người bọn họ đều có sở trường của bản thân. Như Ngưu Tiến Đạt xuất thân là thương nhân, các nghành nghề đối với y đều rất quen thuộc, mà mật điệp chính là phải dung nhập ẩn nấp trong các ngành nghề.
Còn có một đội quân chấp pháp hơn một ngàn người, Lý Nhàn sai Phục Hổ Nô chưởng quản. Đội ngũ chấp pháp quân hơn một ngàn người này từ ban đầu đã dưa vào Hậu Thổ Doanh, hơn một ngàn quân này cơ bản đều là lão binh Yến Sơn trại và người của Tả Đồn Vệ đã đi theo Lý Nhàn sớm nhất.
Ngoài ra, điều khiến các nghĩa quân khác vô cùng hâm mộ Lý Nhàn là đội kỵ binh hơn năm ngàn người của hắn trên Yến Sơn. Điều này đối với các nghĩa quân khác chính là chuyện nghìn lẻ một đêm. Năm ngàn kỵ binh Nhuệ Kim Doanh dưới trướng Thiết Lão Lang, hầu hết đều có xuất thân từ phủ binh Đại Tùy, chiến lực không cần nghĩ cũng biết. Mà đội kỵ binh này thuộc quyền quản lý của Lý Nhàn, thực ra Thiết Lão Lang chỉ có thể coi là Phó đô úy.
Lý Nhàn biết, chắc chắn đội kỵ binh sau này sẽ có đất dụng võ, bất kể là chiến đấu anh dũng hay chỉ là bảo toàn sinh mệnh đều là một thanh lợi khí.
Hai doanh tinh nhuệ nhất trong Yến Sơn trại, một chính là khinh kỵ Nhuệ Kim Doanh, hai là Trọng giáp bộ binh của Hùng Khoát Hải.
Chiến lực của hai doanh trại này còn mạnh hơn cả phủ binh chính quy của Đại Tùy. Cho nên Trương Trọng Kiến mới nói với Lý Nhàn, không cần quan trọng quá đám người Cao Sĩ Đạt, Đậu Kiến Đức ở Hồ Cao Kê. Thực ra, Lý Nhàn cũng biết, nếu đánh nhau thật, một Nhuệ Kim Doanh dưới tay mình cũng đủ chiến thắng đội ngũ mấy vạn người trang bị như dân chạy nạn kia.
Sắp xếp chuyện quân vụ xong, Lý Nhàn ngoài việc buổi sáng hằng ngày luyện tập xạ nghệ, đao pháp ra, hắn đã bắt đầu tìm đọc tất cả binh thư. Kết hợp với bút ký hành quân của Hạ Nhược Bật, kết hợp với những gì được nhìn, được nghe trong hành trình Liêu Đông, hắn đã dần dần thông hiểu những kiến thức này.
Nếu như nói hơn một năm kia ở Tái Bắc khiến Lý Nhàn tu luyện được bản lĩnh tự bảo vệ mình thì hành trình Liêu Đông này đã khiến hắn có được binh pháp thao lược của Vạn Nhân Địch.
Nếu không trải qua cuộc chiến tranh quy mô lớn, hắn cũng không thể nào lý giải một cách thấu đáo bút ký hành quân của Hạ Nhược Bật. Hành trình Liêu Đông này đối với Lý Nhàn mà nói cho dù không có đội quân hơn hai vạn người kia thì cũng là một khoản thu hoạch lớn.
Tháng chạp trên Yến Sơn rất lạnh, dùng cách khoa trương của Lý Nhàn so sánh, thời tiết này tuyệt đối không cần nữ nhân. Bởi vì thứ kia một khi đã rắn lên rồi muốn mềm xuống thì phải đợi đến mùa xuân năm sau hoa nở…
Đương nhiên đây chỉ là đùa cho vui, nhưng không thể phủ nhận trải qua mùa đông trên núi thực không dễ chút nào. Đây cũng là lý do tại sao Lý Nhàn phải dẫn đại quân xuôi nam, có một căn cứ địa tốt mới mong sống yên phận.
Nhưng Yến Sơn lạnh, Liêu Đông cũng lạnh chẳng kém cho nên các binh lính đã dần quen với kiểu thời tiết này. Vì tất cả mọi người đã biết Đại Nghiệp hoàng đế Dương Quảng đã hạ lệnh đầu xuân năm sau còn tiến hành cuộc chiến tranh chinh phạt Cao Cú Lệ lần thứ hai. Cho nên, mỗi người đều cảm giác rất may mắn, nếu không theo chân tướng quân đến Yến Sơn… cho dù lần đầu tiên chinh phạt Cao Cú Lệ mà có thể may mắn sống sót thì ai dám đảm bảo trong cuộc chinh Liêu lần thứ hai mình sẽ sống sót. Đối với Liêu Đông, bọn họ đi một lần là đủ rồi, cũng không muốn đến Liêu Đông chịu chết nữa.
Sinh mạng của các binh lính này đã không là gì trong mắt Đại tướng quân triều đình, cho nên bọn họ sớm đã nản lòng.
Sau tháng chạp, việc huấn luyện quân lính đã giảm đi tương đối. Thay vào đó, là để các binh lính có hành động “cắt cỏ” rồi.
Ba ngày đầu tháng chạp, Lý Nhàn triệu tập các Đô úy lại cho bọn họ lệnh luyện binh thực chiến. Cái gọi là luyện binh thực chiến, dùng cách nói của Lý Nhàn chính là để cho mọi người có chút thịt ăn. Mục tiêu đương nhiên là những người trong thảo nguyên thường xuyên xuôi nam đến đây Đả thảo cốc. Người thảo nguyên đến Đả thảo cốc, Lý Nhàn sẽ đi cắt cỏ.
Vào giữa mùa đông, các bộ lạc lớn nhỏ trên thảo nguyên cũng đã tạm thời định cư, là lúc dê bò của bọn họ béo chảy mỡ. Sắp bước sang năm mới rồi, dù sao cũng phải có miếng thịt bự uống rượu mới được.
Đối với đám mọi rợ thảo nguyên ngoài Trường Thành, từ trước đến nay đám binh sĩ luôn căm thù. Trường Thành không cản nổi người thảo nguyên ước mơ về một Trung Nguyên phồn hoa, gấm vóc. Chỉ có đao thương trong tay các binh lính mới ngăn cản được bọn họ. Nếu người thảo nguyên đánh tới không kiêng nể gì, như vậy thì vì sao người Trung Nguyên không thể gậy ông đập lưng ông?
Lúc bọn họ là phủ binh Đại Tùy, không có cơ hội đánh thật với người thảo nguyên. Triều đình sẽ không có lý do để khai chiến với ngoại tộc, cho dù người thảo nguyên vẫn gây uy hiếp lớn cho dân Đại Tùy vùng biên giới, triều đình Đại Tùy vì củng cố giang sơn cũng sẽ không ứng đối với người Đột Quyết hùng mạnh, nhưng Lý Nhàn có thể.
Loại khoái cảm muốn đánh ai là đánh này khiến các binh sĩ xuất thân phủ binh cảm thấy rất phấn khích.
Từ lúc mới vào tháng chạp, từng đội ngũ bắt đầu lục tục xuống núi, bắt đầu trù bị thịt dê bò tươi mới ngon miệng ch lễ mừng năm mới.
...
Hồ Cao Kê
Đậu Kiến Đức ngồi ở ghế thứ hai trong đại sảnh cúi thấp đầu thưởng thức trà. Thực ra tất cả những lá trà mà y thưởng thức cũng không phải trà ngon gì hiếm gặp, mà chỉ là loại bánh trà thường thấy nhất trên thị trường, loạn trà này ở Trung Nguyên không đáng giá, chỉ đến thảo nguyên nó mới đáng bạc. Mặc dù Hồ Cao Kê có mấy vạn người, nếu tính cả trẻ con, người già… toàn bộ Hồ Cao Kê ít nhất có đến sáu, bảy vạn người nhưng tìm được một người tinh thông pha trà trong đám dân chạy loạn cũng khó như lên trời vậy.
Cho nên, với thân phận Nhị đương gia của Đậu Kiến Đức ở Hồ Cao Kê này cũng không được hưởng thụ cuộc sống xa hoa của nhà giàu. Ngược lại, vì vào đông, cộng thêm đại quân chinh Liêu đã trở về, trong thời gian này đám phản tặc Hồ Cao Kê sẽ không được thoải mái, lương thực đã nguy cấp, nếu không đánh hạ một hai thị trấn cướp kho lương thực… có lẽ sáu – bảy vạn người này sẽ phải đói đến tết.
Nhưng hôm nay Đại đương gia Cao Sĩ Đạt tụ tập mọi người lại thảo luận, không phải tấn công huyện nào để cướp lương thực mà là một chuyện khác. Chuyện này trong mắt Cao Sĩ Đạt còn quan trọng gấp trăm lần chuyện lương thực.
Nghe mọi người bàn luận, Đậu Kiến Đức cũng không muốn chen mồm vào. Thoạt nhìn thấy y an nhàn thưởng thức trà, dường như không hề nghe thấy mọi người nói đang tức giận.
Đại đương gia Cao Sĩ Đạt ngồi ghế trên mặc áo gấm hoa rất đẹp, chiếc áo nhìn nhìn qua lão mặc có vẻ thùng thình, không vừa nhưng dường như Cao Sĩ Đạt cũng không ngại. Nếu như không tụ chúng tạo phản… với thân phận như lão đâu có tư cách mặc áo gấm. Càng không nói chi đến tự hiệu Đông Hải Công, nắm trong tay sinh mạng của sáu, bảy vạn người.
Lão rất hài lòng với phản ứng của các tiểu đầu mục cấp dưới, duy nhất khiến lão không vui chính là phản ứng của Nhị đương gia Đậu Kiến Đức. Chuyện hôm nay triệu tập mọi người thảo luận, đối với Cao Sĩ Đạt mà nói nói rất quan trọng. Nhưng vẻ mặt không nóng vội của Đậu Kiến Đức ít nhiều khiến lão cảm thấy không thoải mái.
- Trọng Thận.
Cao Sĩ Đạt hơi hơi nghiêng đầu gọi một câu.
Đậu Kiến Đức vội vàng đặt chén trà xuống, ôm quyền nói:
- Đại đương gia có gì chỉ bảo?
- Lần này chuyện các huynh đệ đề cử minh chủ của lục lâm Hà Bắc đạo, ngươi thấy thế nào?
Đậu Kiến Đức cười nói:
- Đại đương gia hoàn toàn xứng đáng, trên lục lâm đạo ai có thể bằng với Đại đương gia ngài? Trong mắt ta, toàn bộ lục lâm phía bắc Hoàng Hà, Tri thế Lang Vương Bạc chẳng qua chỉ là thần côn giả thần giả quỷ. Trương Kim Xưng nhát như chuột không đáng nhắc tới… đâu có tư cách so sánh với Đại đương gia.
Nghe thấy Đậu Kiến Đức ca ngợi như vậy. Những gì không vui trong lòng Cao Sĩ Đại đã nguôi đi nhiều. Lão cười nhẹ khoát tay nói:
- Ta đâu có uy vọng như ngươi nói, còn không phải các huynh đệ lục lâm đạo xem trọng ta sao. Nhưng… nếu trước đó mấy ngày mọi người đẩy ta làm minh chủ, ta cũng sẽ không biết tự lượng sức mình dẫn mọi người lên trước.
Ngay sau đó lão lại xoay chuyển nói:
- Nhưng nếu tôn là làm minh chủ mà có người không nghe hiệu lệnh thì chẳng phải làm hỏng quy củ sao? Chư vị Đại đương gia trên lục lâm đạo Hà Bắc đều đến kết minh với Hồ Cao Kê ta, nhưng Cự Dã Trạch Trương Kim Xưng cố tình không đến, Trọng Thận, ngươi xem việc này phải xử trí thế nào?
Không đợi cho Đậu Kiến Đức nói gì, ở dưới đã có người lỗ mãng la lớn:
- Giết nó!
- Những kẻ trong Cự Dã Trạch nhát như lũ chuột, cũng dám không tôn trọng Đại đương gia, vậy chúng ta còn do dự gì nữa, cứ giết chúng đi!
Cao Sĩ Đạt gật đầu hài lòng, mỉm cười giơ tay trấn áp. Sau đó lão nhìn Đậu Kiến Đức chờ câu trả lời.
- Đại đương gia, bây giờ chưa phải là thời cơ tốt để khai chiến.
Suy nghĩ một chút, Đậu Kiến Đức nói cụ thế:
- Sang năm triều đình còn muốn đánh Cao Cú Lệ, đối phó với Trương Kim Xưng không nên nóng vội nhất thời. Hơn nữa, mặc dù khai chiến cùng cần thầy có tiếng. Trương Kim Xưng viện cớ bệnh không đến, về đạo nghĩa có thể bỏ qua. Theo ta thấy, chi bằng phái nhân lực đến Cự Dã Trạch. Không phải dưới tay Trương Kim Xưng có Lục đương gia sao? Vậy chúng ta phái người đi làm Thất đương gia để y chia người cho chúng ta. Đại đương gia ngài làm minh chủ Lục lâm đạo sắp xếp như vậy Trương Kim Xưng có thể không tuân theo sao? Nếu như y không thuận, vậy chẳng phải tốt nhất sao? Không tuân theo hiệu lệnh của minh chủ, Đại đương gia có thể mời các hào kiệt khác trên Bắc Hà đạo cùng phát binh giết chết Trương Kim Xưng!
Sắc mặt của Cao Sĩ Đạt hơi đổi, lão trầm ngâm một lát rồi nói:
- Lời của Trọng Thận chính là mưu của ta!
Đậu Kiến Đức lắc đầu nói:
- So với Cự Dã Trạch thực ra ta lại lo lắng đám người trên Yến Sơn Trác quận hơn.
/219
|