Dạo này, Duệ ca nhi lại say mê tranh ghép. Ôn Uyển thấy vậy, cũng phải cảm thán, rốt cuộc con trai lớn nhất này của nàng là thần tiên chốn nào hạ phàm thế? Chính nàng ghép cũng phải mất nửa ngày, thì càng đừng nói đến một đứa trẻ. Nhưng Duệ ca nhi thì khác, tuy nhỏ nhưng vô cùng hăng hái, từ từ ghép, một ngày cũng có thể ghép xong (chỉ ghép xong thôi, chứ không phải là ghép đúng). Nhỏ như vậy mà đã có tính nhẫn nại mười phần. Chỉ cần tính tình này không thay đổi, thì Ôn Uyển thật sự không cần lo lắng cho tương lai của tiểu tử này. Có một đứa con trai thông tuệ, chững chạc như vậy, thì cần vạch kế hoạch làm gì nữa, kế hoạch gì cũng không cần.
Mỗi lần Hạ Dao nghe thấy Ôn Uyển cảm thán, liền cười nói, đây là do di truyền từ Ôn Uyển, làm việc không chút hoang mang, tính nhẫn nại mười phần (lực nhẫn nại của Ôn Uyển không phải là người bình thường có thể sánh được). Chắc lúc nhỏ Quận chúa cũng giống như vậy.
Ôn Uyển cẩn thận suy nghĩ, thật sự rất giống nàng, từ nhỏ đến lớn, đúng là không tức giận vì chuyện gì cả. Ôn Uyển ôm con lớn nhất vui tươi hớn hở nói: “Tướng mạo của Duệ ca nhi nhà ta giống cha, nhưng tính tình thì lại giống mẹ.”
Cẩn ca nhi thấy Ôn Uyển chỉ ôm ca ca mà không ôm bé, liền không chịu ngồi yên, bò đến bên cạnh Ôn Uyển, bày ra khuôn mặt vô cùng tủi thân. Ôn Uyển ôm hai đứa con, vui tươi hớn hở cười nói: “Cẩn ca nhi thì chắc là tướng mạo giống ta, nhưng tính tình thì lại giống cha nó đây!”
Hạ Dao nghe vậy, cười to: “Nghe nói, năm đó, tướng quân cũng là bá chủ một phương của kinh thành. Bây giờ, còn có người vừa nói đến tướng quân, là đã nghĩ ngay đến, lúc nhỏ tướng quân đã đánh khắp kinh thành không có đối thủ a!”
Ôn Uyển tin tưởng lời này không đúng chút nào: “Từ nhỏ Bạch Thế Niên lớn lên ở chùa miếu, tính tình hẳn phải rất ôn hòa mới đúng chứ? Làm sao lại trở thành tiểu bá vương kinh thành được?” Ôn Uyển vô cùng hoài nghi tin đồn này, có thể phía sau có chuyện xưa gì mà người khác không biết, còn không là bị nói xấu rồi.
Hạ Dao xì cười một tiếng: “Quận chúa, người cảm thấy tính tình của tướng quân ôn hòa?” Ôn hòa mới kỳ quái đấy! Nếu ôn hòa, thì làm sao sẽ chạy đi tham gia võ cử, làm sao lại đi đầu quân đây? Phải là một thư sinh văn nhược mới đúng.
Ôn Uyển lầm bầm, chùa miếu này cũng đã ngây người không công rồi: “Tiểu Bảo, ngàn vạn lần đừng giống cha con nha. Nếu giống cha con, còn không phải mẹ sẽ nhức đầu chết sao?” Tiểu bá vương kinh thành, đó là bán lưu manh rồi, chỉ khác ở chỗ, đây là lưu manh cao cấp mà thôi.
Cẩn ca nhi cũng không hiểu Ôn Uyển đang nói gì, nhìn thấy một lọn tóc rũ xuống trên trán của Ôn Uyển, liền bắt lấy, dùng sức kéo, làm cho da đầu của Ôn Uyển đau điếng, đau đến nỗi, Ôn Uyển rất muốn đánh vào cái mông nhỏ của bé một cái.
Sau khi tóc của Ôn Uyển được giải cứu, liền nói: “Tiểu tử thúi này tuyệt đối giống cha nó. Ngươi nói xem, cha nó ngây người ở chùa miếu năm sáu năm, mà cũng không diệt được cái tính tình này, không lẽ tương lai thực sự trở thành quần là áo lụa sao?”
Hạ Dao bĩu môi nhìn Duệ ca nhi: “Quận chúa yên tâm đi. Có Duệ ca nhi thì Cẩn ca nhi sẽ không trở thành quần là áo lụa đâu.” Duệ ca nhi có tính nhẫn nại tốt, lại cộng thêm một người mẹ cũng có tính nhẫn nại tốt. Như vậy, Cẩn ca nhi muốn trở thành quần là áo lụa cũng rất khó.
Linh Đông đến phủ Quận chúa. Lần này lại trực tiếp đi đến phòng chính ở phía sau, nhưng cũng không vào phòng ngủ, mà đi vào căn phòng đối diện với phòng ngủ. Lúc này, Ôn Uyển đang chơi với hai đứa bé, Đông ca nhi nhìn thấy Ôn Uyển không trang điểm gì, lại càng không có dáng vẻ đoan trang hiền thục thường ngày, lúc này đang vô cùng tùy ý ngồi dưới đất, bên cạnh là Duệ ca nhi và Cẩn ca nhi.
Nha hoàn cởi giày cho Linh Đông. Linh Đông mang vớ vào nhà, đi tới quy củ hành lễ với Ôn Uyển: “Cháu chào cô cô.”
Ôn Uyển kêu Linh Đông qua: “Đây là trò chơi mà cô cô mới nghĩ ra, cháu có muốn biết cách chơi hay không?”
Linh Đông do dự một chút, nhưng cuối cùng vẫn gật đầu: “Dạ, muốn.” Có chơi thì đương nhiên là vui rồi. Mỗi ngày bé ở Đông Cung đều phải đọc sách, sắp mệt chết rồi.
Thiên tính của trẻ con đương nhiên là ham chơi, Ôn Uyển cũng hy vọng sau này con của nàng có thể có nhiều thời gian để chơi đùa, cho trẻ con chơi, chưa chắc sẽ làm lãng phí thời gian học tập.
Ôn Uyển bắt đầu dạy Linh Đông cách ghép tranh, Linh Đông cũng học nghiêm túc. Duệ ca nhi thì cảm thấy không sao cả, chỉ ngồi ở một bên nhìn, nhưng còn Cẩn ca nhi thì lại không ngồi yên được, cảm thấy có người tới đoạt mẫu thân với bé, liền kéo Ôn Uyển, muốn Linh Đông phải đi ra ngoài, nếu Ôn Uyển không chiều theo, thì sẽ khóc.
Ôn Uyển không còn cách nào khác, đành phải để cho Hạ Dao dạy Linh Đông.
Ôn Uyển ôm Cẩn ca nhi chuẩn bị đi ra ngoài, lúc này, Duệ ca nhi lại không ngồi yên nữa, chơi ở trong phòng thì cũng được, nhưng không được bỏ bé lại một mình a, chơi một mình rất buồn, muốn chơi, thì phải cùng nhau chơi a. Ôn Uyển nhức đầu nói: “Hai tiểu khắc tinh này thật sự biết cách giày vò ta mà.”
Ôn Uyển đặt hai đứa bé vào trong xe đẩy, Linh Đông cũng đi theo ra. Hai đứa bé thì không cảm thấy hăng hái gì, dù sao, mỗi ngày Ôn Uyển cũng sẽ mang các bé ra ngoài một chút. Nếu nắng không gắt, thì Ôn Uyển sẽ mang các bé ra ngoài vào ban ngày; còn nếu như nắng gắt, Ôn Uyển sẽ mang các bé ra ngoài vào ban đêm. Mỗi lần đi ra ngoài, đều là cả ba mẹ con. Ôn Uyển đi mệt, thì lại nói chuyện với các bé. Hôm nay cũng không ngoại lệ, chỉ khác là, thỉnh thoảng lại hỏi Linh Đông hai câu, không có gạt Linh Đông qua một bên.
Linh Đông an tĩnh nghe Ôn Uyển nói huyên thuyên với Duệ ca nhi và Cẩn ca nhi, hâm mộ trong mắt có muốn che giấu cũng không che giấu được. Hình như trong một tháng, mẫu phi cũng không nói nhiều với bé như vậy.
Ôn Uyển thấy Linh Đông mới đi gần nửa ngày, mà cái trán đã đầy mồ hôi: “Sao thân thể lại yếu đến như vậy?” Đường cũng không xa, sao mới đi một chút mà đã đổ mồ hôi nhiều rồi?
Khuôn mặt nhỏ nhắn của Linh Đông đỏ rực: “Cô cô, bình thường cháu rất ít khi đi đường xa như vậy.” Linh Đông ngượng ngùng trả lời, phần lớn thời gian, bé đều được ôm đi.
Ôn Uyển nhíu chân mày. Chờ đến lúc dùng bữa, lại thấy Linh Đông ăn cái gì cũng đều kén chọn. Tay nghề của Hạ Nhàn đã là đỉnh cao rồi. Vậy mà nhìn cái bộ dáng đau khổ ăn rau dưa kia của Linh Đông, người không biết còn tưởng rằng, bé đang bị bắt uống thuốc độc đó!
Trong lòng của Ôn Uyển không biết đã muốn nói bao nhiêu lần, nhưng cuối cùng vẫn bỏ qua, đây cũng không phải là chuyện mà chỉ với hai ba câu thì sửa đổi được.
Buổi trưa, Ôn Uyển kể cho hai đứa bé nghe một câu chuyện cổ tích với kết thúc có hậu.
Linh Đông nghe rất nghiêm túc, thỉnh thoảng lại hỏi thêm mấy câu, Ôn Uyển cũng trả lời vô cùng kiên nhẫn. Sau khi kể chuyện xong, lại không quên nói với Linh Đông: “Khi gặp chuyện, thì phải tự động não suy nghĩ, phải tự mình giải quyết vấn đề, đừng nên lúc nào cũng trông cậy vào người khác.” Về phần Đại Bảo và Tiểu Bảo, thì chờ lớn hơn một chút, hiểu chuyện rồi, thì lại nói lại một lần nữa, dù sao Ôn Uyển cũng không ngại phiền.
Linh Đông cái hiểu cái không gật đầu.
Dùng xong bữa tối, Ôn Uyển phái người đưa Linh Đông về: “Linh Đông, năm nay cháu đã bốn tuổi rồi, lớn rồi mà vẫn để cho người ta ôm thì coi sao được. Nghe lời cô cô, sau này tự đi nhiều hơn, thân thể cũng sẽ khỏe hơn.”
Linh Đông ngoan ngoãn đáp: “Dạ, cháu nhớ rồi.”
Ôn Uyển chỉ vuốt vuốt cái trán của Linh Đông: “Đứa bé ngốc này. Hứa với cô cô một chuyện, không được kể lại truyện cổ tích mà cô cô kể cho người khác. Cho dù là mẫu phi của cháu, cũng không được. Cháu có làm được không?” Tất nhiên, truyện cổ tích thì không phải không thể cho người khác biết. Ôn Uyển chỉ muốn nhìn tính tình của Linh Đông, xem có thể giữ được lời hứa hay không mà thôi. Nếu ngay cả chút chuyện nhỏ này mà còn không giữ được, thì sau này cũng không làm được chuyện gì cả.
Linh Đông do dự một chút, nhưng vẫn gật đầu: “Dạ, cháu sẽ không nói với bắt cứ ai.” Lúc đi, Ôn Uyển tặng cho Linh Đông một bộ tranh ghép, để cho lúc bé buồn chán thì có thể lấy ra chơi.
Như Vũ hỏi Linh Đông, hôm nay ở trong phủ Quận chúa đã làm gì, Linh Đông chỉ nói đơn giản một chút, cũng không nói gì đến truyện cổ tích.
Vốn trong lòng Linh Đông cũng hơi lo lắng không yên, nhưng khi thấy mẫu phi không để ý, thì trong lòng cũng càng kiên định hơn. Vậy thì sau này, cũng không cần nói chuyện này cho mẫu phi biết.
Ôn Uyển nghe được thế tử phi Thuần Vương sinh được một đứa con gái. Ôn Uyển bật cười: “Thật sự sinh được một đứa con gái a!” Sinh con trai thì còn dễ nói, đến lúc đó chỉ xem như chuyện đùa thôi. Nhưng sinh con gái, thì, Yến Kỳ Hiên thật sự không sợ hại danh tiếng con gái của mình sao?
Sắc mặt Ôn Uyển vẫn bình thường, chỉ dựa theo quan hệ thân thích mà đưa lễ đến. Hạ Dao cười nói: “Quận chúa không vui sao?”
Ôn Uyển lắc đầu: “Ta có gì mà không vui. Chỉ cảm thấy, Yến Kỳ Hiên này đã lớn rồi, mà còn không biết suy nghĩ. Ngươi nói xem, đến lúc đó, nếu Cẩn ca nhi nhà ta không thích cô nương này, không muốn cưới vào cửa, thì chẳng phải sẽ làm hại cô nương người ta sao? Đứa bé này có một người cha không biết suy nghĩ như vậy, vận số thật không tốt.” Coi như thân là Quận chúa, thì nếu thanh danh không tốt, cũng rất khó tìm được người trong sạch.
Hạ Dao cười ha ha không ngừng: “Quận chúa, không phải người đã nói, chỉ cần đứa bé đó tốt, vào được mắt Cẩn ca nhi, thì đã có thể qua được cửa của người rồi sao? Chẳng lẽ muốn đổi ý?”
Ôn Uyển cười một tiếng: “Có gì mà đổi ý. Nhưng mà, nói thì dễ, làm được mới khó! Muốn đạt tới yêu cầu của ta, thì chỉ cần Thuần thế tử phi dạy dỗ thật tốt, nhất định có thể miễn cưỡng đạt yêu cầu. Nhưng để vào được mắt Cẩn ca nhi, thì phải cần duyên phận. Có người thích ôn nhu, có người thích xinh đẹp, cũng có người thích hiền lành. Chuyện vợ chồng thực sự không nói trước được.” Cũng giống như năm đó, nàng có nằm mơ cũng không nghĩ đến, cuối cùng lại gả cho Bạch Thế Niên. Lúc trước, khi nàng biết người kia là Bạch Thế Niên, thì vẫn cho là mình gặp phải nam nhân vô lại. Cho nên nói, làm vợ chồng, thực sự cần duyên phận.
Hạ Dao thật sự không biết nói gì với Ôn Uyển rồi, đứng trước tình cảm mà lại nói thoải mái như vậy, liền cười nói: “Quận chúa chỉ toàn buồn lo vô cớ. Cho dù cửa hôn sự này không thành, thì đường đường phủ Thiết Mạo Tử Vương, mà Quận chúa còn không thèm lấy, thì cũng chẳng ai nói gì. Rồi lại nói, làm ra chuyện hoang đường chính là cha của bé, cũng không liên quan đến Quận chúa.”
Đúng là như thế. Nhưng một cô nương tốt, lại bởi vì phụ thân không biết suy nghĩ, mà cuối cùng phải hứa gả cho một người không vừa ý, không phải tự tay đẩy khuê nữ mình vào hố lửa sao? Ôn Uyển lầm bầm: “Nếu khuê nữ của ta mà bị Bạch Thế Niên tùy tiện hứa gả ra ngoài, thì ta nhất định sẽ khiến cho hắn ăn không hết còn phải đem về.”
Hạ Dao nhớ tới, lần trước nghe được phu nhân La gia sinh con gái, Quận chúa đã vui mừng vạn phần. Nhưng lần này lại buồn phiền. Xem ra trong lòng Quận chúa cũng không muốn nhận cửa hôn sự này, ngay cả cô nương đó có tốt đi nữa, thì cũng không muốn cưới về. Hạ Dao nghĩ lại, cũng cảm thấy, Yến Kỳ Hiên làm việc không phúc hậu. Lần trước làm ra chuyện loạn thất bát tao kia, lần này lại đưa ra vấn đề khó khăn này. Chắc có lẽ, đời trước Quận chúa nợ hắn (Ôn Uyển rất vô tội nói: đời trước, ta không quen biết hắn).
Giang Lâm nghe thấy Ôn Uyển chỉ đưa lễ bình thường tới, căn bản không bằng lễ đưa đến phủ Quốc Công lần trước, liền lập tức buồn phiền. Vốn Giang Lâm còn mong sinh được một tiểu tử, như vậy, cũng chỉ xem như nói đùa thôi. Nhưng hôm nay, Giang Lâm nhìn con gái phấn điêu ngọc mài, trong lòng lại không có tư vị gì. Thế tử thật không biết suy nghĩ cho con gái quá rồi.
Đang thương tâm, thì lại nghe thấy bà vú vui tươi hớn hở nói: “Thế tử phi, thế tử đã đặt tên cho đại cô nương rồi. Thế tử gia gọi cô nương là Minh Châu.” Minh Châu, có nghĩa là như châu như bảo. Có thể thấy được, người cha rất thương yêu con gái.
Giang Lâm nghĩ tới mấy đứa con thứ xuất kia: “Cũng được, phúc hay họa thì không ai biết. Chỉ cần nương dạy dỗ thật tốt, có thể thỏa mãn được yêu cầu của Quận chúa về con dâu, thì Quận chúa sẽ không nuốt lời.” Nếu Ôn Uyển không đồng ý, không biết sau này con gái nàng sẽ như thế nào đây? Khụ, các vấn đề khác không tốt, những cũng có được một chỗ tốt. Bởi vì cửa hôn sự này, nên nhất định Yến Kỳ Hiên sẽ đặc biệt yêu thương con gái. Có phụ thân thương yêu, vẫn tốt hơn bị phụ thân vắng vẻ nhiều. Mấy đứa bé khác trong phủ cũng chỉ được thế tử gia đối xử nhàn nhạt. Lúc trước, đã đối xử với con trai lớn Đình ca nhi khá hơn một chút, vậy thì sau này nhất định sẽ thương yêu con gái. Về phần tương lai, chỉ cần con gái nàng tốt, chắc chắn Ôn Uyển cũng sẽ không cự tuyệt.
Mỗi lần Hạ Dao nghe thấy Ôn Uyển cảm thán, liền cười nói, đây là do di truyền từ Ôn Uyển, làm việc không chút hoang mang, tính nhẫn nại mười phần (lực nhẫn nại của Ôn Uyển không phải là người bình thường có thể sánh được). Chắc lúc nhỏ Quận chúa cũng giống như vậy.
Ôn Uyển cẩn thận suy nghĩ, thật sự rất giống nàng, từ nhỏ đến lớn, đúng là không tức giận vì chuyện gì cả. Ôn Uyển ôm con lớn nhất vui tươi hớn hở nói: “Tướng mạo của Duệ ca nhi nhà ta giống cha, nhưng tính tình thì lại giống mẹ.”
Cẩn ca nhi thấy Ôn Uyển chỉ ôm ca ca mà không ôm bé, liền không chịu ngồi yên, bò đến bên cạnh Ôn Uyển, bày ra khuôn mặt vô cùng tủi thân. Ôn Uyển ôm hai đứa con, vui tươi hớn hở cười nói: “Cẩn ca nhi thì chắc là tướng mạo giống ta, nhưng tính tình thì lại giống cha nó đây!”
Hạ Dao nghe vậy, cười to: “Nghe nói, năm đó, tướng quân cũng là bá chủ một phương của kinh thành. Bây giờ, còn có người vừa nói đến tướng quân, là đã nghĩ ngay đến, lúc nhỏ tướng quân đã đánh khắp kinh thành không có đối thủ a!”
Ôn Uyển tin tưởng lời này không đúng chút nào: “Từ nhỏ Bạch Thế Niên lớn lên ở chùa miếu, tính tình hẳn phải rất ôn hòa mới đúng chứ? Làm sao lại trở thành tiểu bá vương kinh thành được?” Ôn Uyển vô cùng hoài nghi tin đồn này, có thể phía sau có chuyện xưa gì mà người khác không biết, còn không là bị nói xấu rồi.
Hạ Dao xì cười một tiếng: “Quận chúa, người cảm thấy tính tình của tướng quân ôn hòa?” Ôn hòa mới kỳ quái đấy! Nếu ôn hòa, thì làm sao sẽ chạy đi tham gia võ cử, làm sao lại đi đầu quân đây? Phải là một thư sinh văn nhược mới đúng.
Ôn Uyển lầm bầm, chùa miếu này cũng đã ngây người không công rồi: “Tiểu Bảo, ngàn vạn lần đừng giống cha con nha. Nếu giống cha con, còn không phải mẹ sẽ nhức đầu chết sao?” Tiểu bá vương kinh thành, đó là bán lưu manh rồi, chỉ khác ở chỗ, đây là lưu manh cao cấp mà thôi.
Cẩn ca nhi cũng không hiểu Ôn Uyển đang nói gì, nhìn thấy một lọn tóc rũ xuống trên trán của Ôn Uyển, liền bắt lấy, dùng sức kéo, làm cho da đầu của Ôn Uyển đau điếng, đau đến nỗi, Ôn Uyển rất muốn đánh vào cái mông nhỏ của bé một cái.
Sau khi tóc của Ôn Uyển được giải cứu, liền nói: “Tiểu tử thúi này tuyệt đối giống cha nó. Ngươi nói xem, cha nó ngây người ở chùa miếu năm sáu năm, mà cũng không diệt được cái tính tình này, không lẽ tương lai thực sự trở thành quần là áo lụa sao?”
Hạ Dao bĩu môi nhìn Duệ ca nhi: “Quận chúa yên tâm đi. Có Duệ ca nhi thì Cẩn ca nhi sẽ không trở thành quần là áo lụa đâu.” Duệ ca nhi có tính nhẫn nại tốt, lại cộng thêm một người mẹ cũng có tính nhẫn nại tốt. Như vậy, Cẩn ca nhi muốn trở thành quần là áo lụa cũng rất khó.
Linh Đông đến phủ Quận chúa. Lần này lại trực tiếp đi đến phòng chính ở phía sau, nhưng cũng không vào phòng ngủ, mà đi vào căn phòng đối diện với phòng ngủ. Lúc này, Ôn Uyển đang chơi với hai đứa bé, Đông ca nhi nhìn thấy Ôn Uyển không trang điểm gì, lại càng không có dáng vẻ đoan trang hiền thục thường ngày, lúc này đang vô cùng tùy ý ngồi dưới đất, bên cạnh là Duệ ca nhi và Cẩn ca nhi.
Nha hoàn cởi giày cho Linh Đông. Linh Đông mang vớ vào nhà, đi tới quy củ hành lễ với Ôn Uyển: “Cháu chào cô cô.”
Ôn Uyển kêu Linh Đông qua: “Đây là trò chơi mà cô cô mới nghĩ ra, cháu có muốn biết cách chơi hay không?”
Linh Đông do dự một chút, nhưng cuối cùng vẫn gật đầu: “Dạ, muốn.” Có chơi thì đương nhiên là vui rồi. Mỗi ngày bé ở Đông Cung đều phải đọc sách, sắp mệt chết rồi.
Thiên tính của trẻ con đương nhiên là ham chơi, Ôn Uyển cũng hy vọng sau này con của nàng có thể có nhiều thời gian để chơi đùa, cho trẻ con chơi, chưa chắc sẽ làm lãng phí thời gian học tập.
Ôn Uyển bắt đầu dạy Linh Đông cách ghép tranh, Linh Đông cũng học nghiêm túc. Duệ ca nhi thì cảm thấy không sao cả, chỉ ngồi ở một bên nhìn, nhưng còn Cẩn ca nhi thì lại không ngồi yên được, cảm thấy có người tới đoạt mẫu thân với bé, liền kéo Ôn Uyển, muốn Linh Đông phải đi ra ngoài, nếu Ôn Uyển không chiều theo, thì sẽ khóc.
Ôn Uyển không còn cách nào khác, đành phải để cho Hạ Dao dạy Linh Đông.
Ôn Uyển ôm Cẩn ca nhi chuẩn bị đi ra ngoài, lúc này, Duệ ca nhi lại không ngồi yên nữa, chơi ở trong phòng thì cũng được, nhưng không được bỏ bé lại một mình a, chơi một mình rất buồn, muốn chơi, thì phải cùng nhau chơi a. Ôn Uyển nhức đầu nói: “Hai tiểu khắc tinh này thật sự biết cách giày vò ta mà.”
Ôn Uyển đặt hai đứa bé vào trong xe đẩy, Linh Đông cũng đi theo ra. Hai đứa bé thì không cảm thấy hăng hái gì, dù sao, mỗi ngày Ôn Uyển cũng sẽ mang các bé ra ngoài một chút. Nếu nắng không gắt, thì Ôn Uyển sẽ mang các bé ra ngoài vào ban ngày; còn nếu như nắng gắt, Ôn Uyển sẽ mang các bé ra ngoài vào ban đêm. Mỗi lần đi ra ngoài, đều là cả ba mẹ con. Ôn Uyển đi mệt, thì lại nói chuyện với các bé. Hôm nay cũng không ngoại lệ, chỉ khác là, thỉnh thoảng lại hỏi Linh Đông hai câu, không có gạt Linh Đông qua một bên.
Linh Đông an tĩnh nghe Ôn Uyển nói huyên thuyên với Duệ ca nhi và Cẩn ca nhi, hâm mộ trong mắt có muốn che giấu cũng không che giấu được. Hình như trong một tháng, mẫu phi cũng không nói nhiều với bé như vậy.
Ôn Uyển thấy Linh Đông mới đi gần nửa ngày, mà cái trán đã đầy mồ hôi: “Sao thân thể lại yếu đến như vậy?” Đường cũng không xa, sao mới đi một chút mà đã đổ mồ hôi nhiều rồi?
Khuôn mặt nhỏ nhắn của Linh Đông đỏ rực: “Cô cô, bình thường cháu rất ít khi đi đường xa như vậy.” Linh Đông ngượng ngùng trả lời, phần lớn thời gian, bé đều được ôm đi.
Ôn Uyển nhíu chân mày. Chờ đến lúc dùng bữa, lại thấy Linh Đông ăn cái gì cũng đều kén chọn. Tay nghề của Hạ Nhàn đã là đỉnh cao rồi. Vậy mà nhìn cái bộ dáng đau khổ ăn rau dưa kia của Linh Đông, người không biết còn tưởng rằng, bé đang bị bắt uống thuốc độc đó!
Trong lòng của Ôn Uyển không biết đã muốn nói bao nhiêu lần, nhưng cuối cùng vẫn bỏ qua, đây cũng không phải là chuyện mà chỉ với hai ba câu thì sửa đổi được.
Buổi trưa, Ôn Uyển kể cho hai đứa bé nghe một câu chuyện cổ tích với kết thúc có hậu.
Linh Đông nghe rất nghiêm túc, thỉnh thoảng lại hỏi thêm mấy câu, Ôn Uyển cũng trả lời vô cùng kiên nhẫn. Sau khi kể chuyện xong, lại không quên nói với Linh Đông: “Khi gặp chuyện, thì phải tự động não suy nghĩ, phải tự mình giải quyết vấn đề, đừng nên lúc nào cũng trông cậy vào người khác.” Về phần Đại Bảo và Tiểu Bảo, thì chờ lớn hơn một chút, hiểu chuyện rồi, thì lại nói lại một lần nữa, dù sao Ôn Uyển cũng không ngại phiền.
Linh Đông cái hiểu cái không gật đầu.
Dùng xong bữa tối, Ôn Uyển phái người đưa Linh Đông về: “Linh Đông, năm nay cháu đã bốn tuổi rồi, lớn rồi mà vẫn để cho người ta ôm thì coi sao được. Nghe lời cô cô, sau này tự đi nhiều hơn, thân thể cũng sẽ khỏe hơn.”
Linh Đông ngoan ngoãn đáp: “Dạ, cháu nhớ rồi.”
Ôn Uyển chỉ vuốt vuốt cái trán của Linh Đông: “Đứa bé ngốc này. Hứa với cô cô một chuyện, không được kể lại truyện cổ tích mà cô cô kể cho người khác. Cho dù là mẫu phi của cháu, cũng không được. Cháu có làm được không?” Tất nhiên, truyện cổ tích thì không phải không thể cho người khác biết. Ôn Uyển chỉ muốn nhìn tính tình của Linh Đông, xem có thể giữ được lời hứa hay không mà thôi. Nếu ngay cả chút chuyện nhỏ này mà còn không giữ được, thì sau này cũng không làm được chuyện gì cả.
Linh Đông do dự một chút, nhưng vẫn gật đầu: “Dạ, cháu sẽ không nói với bắt cứ ai.” Lúc đi, Ôn Uyển tặng cho Linh Đông một bộ tranh ghép, để cho lúc bé buồn chán thì có thể lấy ra chơi.
Như Vũ hỏi Linh Đông, hôm nay ở trong phủ Quận chúa đã làm gì, Linh Đông chỉ nói đơn giản một chút, cũng không nói gì đến truyện cổ tích.
Vốn trong lòng Linh Đông cũng hơi lo lắng không yên, nhưng khi thấy mẫu phi không để ý, thì trong lòng cũng càng kiên định hơn. Vậy thì sau này, cũng không cần nói chuyện này cho mẫu phi biết.
Ôn Uyển nghe được thế tử phi Thuần Vương sinh được một đứa con gái. Ôn Uyển bật cười: “Thật sự sinh được một đứa con gái a!” Sinh con trai thì còn dễ nói, đến lúc đó chỉ xem như chuyện đùa thôi. Nhưng sinh con gái, thì, Yến Kỳ Hiên thật sự không sợ hại danh tiếng con gái của mình sao?
Sắc mặt Ôn Uyển vẫn bình thường, chỉ dựa theo quan hệ thân thích mà đưa lễ đến. Hạ Dao cười nói: “Quận chúa không vui sao?”
Ôn Uyển lắc đầu: “Ta có gì mà không vui. Chỉ cảm thấy, Yến Kỳ Hiên này đã lớn rồi, mà còn không biết suy nghĩ. Ngươi nói xem, đến lúc đó, nếu Cẩn ca nhi nhà ta không thích cô nương này, không muốn cưới vào cửa, thì chẳng phải sẽ làm hại cô nương người ta sao? Đứa bé này có một người cha không biết suy nghĩ như vậy, vận số thật không tốt.” Coi như thân là Quận chúa, thì nếu thanh danh không tốt, cũng rất khó tìm được người trong sạch.
Hạ Dao cười ha ha không ngừng: “Quận chúa, không phải người đã nói, chỉ cần đứa bé đó tốt, vào được mắt Cẩn ca nhi, thì đã có thể qua được cửa của người rồi sao? Chẳng lẽ muốn đổi ý?”
Ôn Uyển cười một tiếng: “Có gì mà đổi ý. Nhưng mà, nói thì dễ, làm được mới khó! Muốn đạt tới yêu cầu của ta, thì chỉ cần Thuần thế tử phi dạy dỗ thật tốt, nhất định có thể miễn cưỡng đạt yêu cầu. Nhưng để vào được mắt Cẩn ca nhi, thì phải cần duyên phận. Có người thích ôn nhu, có người thích xinh đẹp, cũng có người thích hiền lành. Chuyện vợ chồng thực sự không nói trước được.” Cũng giống như năm đó, nàng có nằm mơ cũng không nghĩ đến, cuối cùng lại gả cho Bạch Thế Niên. Lúc trước, khi nàng biết người kia là Bạch Thế Niên, thì vẫn cho là mình gặp phải nam nhân vô lại. Cho nên nói, làm vợ chồng, thực sự cần duyên phận.
Hạ Dao thật sự không biết nói gì với Ôn Uyển rồi, đứng trước tình cảm mà lại nói thoải mái như vậy, liền cười nói: “Quận chúa chỉ toàn buồn lo vô cớ. Cho dù cửa hôn sự này không thành, thì đường đường phủ Thiết Mạo Tử Vương, mà Quận chúa còn không thèm lấy, thì cũng chẳng ai nói gì. Rồi lại nói, làm ra chuyện hoang đường chính là cha của bé, cũng không liên quan đến Quận chúa.”
Đúng là như thế. Nhưng một cô nương tốt, lại bởi vì phụ thân không biết suy nghĩ, mà cuối cùng phải hứa gả cho một người không vừa ý, không phải tự tay đẩy khuê nữ mình vào hố lửa sao? Ôn Uyển lầm bầm: “Nếu khuê nữ của ta mà bị Bạch Thế Niên tùy tiện hứa gả ra ngoài, thì ta nhất định sẽ khiến cho hắn ăn không hết còn phải đem về.”
Hạ Dao nhớ tới, lần trước nghe được phu nhân La gia sinh con gái, Quận chúa đã vui mừng vạn phần. Nhưng lần này lại buồn phiền. Xem ra trong lòng Quận chúa cũng không muốn nhận cửa hôn sự này, ngay cả cô nương đó có tốt đi nữa, thì cũng không muốn cưới về. Hạ Dao nghĩ lại, cũng cảm thấy, Yến Kỳ Hiên làm việc không phúc hậu. Lần trước làm ra chuyện loạn thất bát tao kia, lần này lại đưa ra vấn đề khó khăn này. Chắc có lẽ, đời trước Quận chúa nợ hắn (Ôn Uyển rất vô tội nói: đời trước, ta không quen biết hắn).
Giang Lâm nghe thấy Ôn Uyển chỉ đưa lễ bình thường tới, căn bản không bằng lễ đưa đến phủ Quốc Công lần trước, liền lập tức buồn phiền. Vốn Giang Lâm còn mong sinh được một tiểu tử, như vậy, cũng chỉ xem như nói đùa thôi. Nhưng hôm nay, Giang Lâm nhìn con gái phấn điêu ngọc mài, trong lòng lại không có tư vị gì. Thế tử thật không biết suy nghĩ cho con gái quá rồi.
Đang thương tâm, thì lại nghe thấy bà vú vui tươi hớn hở nói: “Thế tử phi, thế tử đã đặt tên cho đại cô nương rồi. Thế tử gia gọi cô nương là Minh Châu.” Minh Châu, có nghĩa là như châu như bảo. Có thể thấy được, người cha rất thương yêu con gái.
Giang Lâm nghĩ tới mấy đứa con thứ xuất kia: “Cũng được, phúc hay họa thì không ai biết. Chỉ cần nương dạy dỗ thật tốt, có thể thỏa mãn được yêu cầu của Quận chúa về con dâu, thì Quận chúa sẽ không nuốt lời.” Nếu Ôn Uyển không đồng ý, không biết sau này con gái nàng sẽ như thế nào đây? Khụ, các vấn đề khác không tốt, những cũng có được một chỗ tốt. Bởi vì cửa hôn sự này, nên nhất định Yến Kỳ Hiên sẽ đặc biệt yêu thương con gái. Có phụ thân thương yêu, vẫn tốt hơn bị phụ thân vắng vẻ nhiều. Mấy đứa bé khác trong phủ cũng chỉ được thế tử gia đối xử nhàn nhạt. Lúc trước, đã đối xử với con trai lớn Đình ca nhi khá hơn một chút, vậy thì sau này nhất định sẽ thương yêu con gái. Về phần tương lai, chỉ cần con gái nàng tốt, chắc chắn Ôn Uyển cũng sẽ không cự tuyệt.
/1357
|