Vân Tranh thích cảm giác ở chiến trường ở chỗ, y giống như một vị thần.
Y muốn có nỏ tiễn, thế là mưa tên trút xuống.
Y muốn nỏ pháo ném đá, thế là đá như xao băng xẹt ngang trời.
Nắm trong tay sinh mạng của hàng chục vạn người, y cũng cần có tâm thái coi chúng sinh như chó rơm của thần linh để dẫn dắt toàn quân đi tới chiến thắng.
Y lạnh lùng nhìn binh sĩ hai bên bị nỏ tiễn xuyên qua, bị đá đập vỡ đầu chảy máu, nhìn nỏ tám trâu xiên qua như xiên thịt nướng, nhìn hỏa pháo xé người ta thành từng mảnh vụn.
Cho dù trước mắt là kẻ địch, Vương An Thạch cũng bất giác nhắm mắt lại, lúc này hẳn ông ta đang nghĩ tới ba lần bắc phạt của Tống thái tông, thảm cảnh khi đó đoán chừng cũng không khác gì bây giờ?
Lang Thản ngủ suốt một ngày đã tỉnh dậy tập kết sở bộ sau tường băng thứ hai, hoa chân múa tay đợi lên chiến trường, hắn là tướng lĩnh Vân Tranh tin cậy nhất, quân của hắn là đội quân tinh nhuệ nhất, trang bị tốt nhất.
Máy ném đá của người Liêu đã bị phá hủy quá nhiều, tuy vẫn lác đác tấn công, nhưng không còn tạo ra nguy hiểm đáng kể nữa.
Hỏa pháo xạ kích cũng chậm đi nhiều rồi, vì phòng nòng pháo quá nóng phát nổ, Tôn Tiết đang không ngừng dùng tuyết giảm nhiệt, nơi khác là băng giá bao phủ, chỉ có ba chỗ đặt hỏa pháo là hơi nước nhi ngút như xưởng rượu.
Vân Tranh nheo mắt nhìn quân Liêu bất chấp sinh mạng tấn công vào ba chỗ đặt hỏa pháo, nhìn một lúc chuyển ánh mắt sang tường thành Tây Kinh, trăng lạnh phủ xuống, nơi đó yên tĩnh như đang ngủ.
Chiến trường đã không còn nghe thấy tiếng hát của người Liêu nữa, chỉ có tiếng nổ, tiếng binh khí va chạm, tiếng nỏ tiễn ù ù, cả tiếng la hét cũng chẳng nghe thấy.
Với sự gia nhập của đội quân sinh lực do Lang Thản chỉ huy, quân Tống chuyển từ phòng ngự sang tấn công, quân Liêu thấy không phá được vũ khí của quân Tống cũng dần lùi vào thành, quân Tống tiến thêm một trăm trượng, đứng ngoài tầm tên bắn của người Liêu.
Những chiếc máy ném đá còn sót lại của người Liêu đã được chuyển hết vào thành, Vân Tranh hạ lệnh, một khẩu pháo rời đồi tới ngoài thành Tây Kinh, nòng pháo hướng thẳng về phía cổng thành.
Một tiếng nổ như sấm rền, cửa thành đóng chặt bị đạn pháo bắn một lỗ, người Liêu trên tường thành thất kinh, hoảng loạn ném bao cát xuống trước cổng thành, chẳng mấy chốc cổng thành, chẳng mấy chốc bịt kín cổng.
Vân Tranh ra lệnh thu binh, quân Tống không tiến lên nữa, dân phu tới phòng tuyến như nhất, sửa sang lại rào chông cùng dây thép gai.
Trong thành không còn quân đánh ra nữa, phía Khương Triết, Hầu Đại Chí không có cảnh báo chiến đấu, đợt tấn công này của quân Liêu rõ ràng chỉ nhắm vào ba khẩu pháo, Tiêu Đả Hổ đã nhận ra sự đáng sợ của thần chiến tranh rồi.
Vân Tranh không định công thành, qua cuộc chiến những ngày qua chứng tỏ, một khi giáp chiến, quân Liêu dù thể lực kiệt quệ vẫn đủ khiến cho quân Tống trả giá đắt, một khi lún vào chiến tranh đường phố, quân Tống sẽ thiệt hại nặng.
Vì thế giờ chỉ cần đợi quy luật tự nhiên giết Tiêu Đả Hổ.
Chiến sự dừng lại, vừa mới trở về soái trướng, Vân Tranh liền thấy Vương An Thạch và Trần Lâm mặt mày hớn hở đợi sẵn.
Làm thần là công việc mệt mỏi, tập trung cao độ trong tình thế khẩn trương dễ khiến tinh thần suy khiệt, Vân Tranh giao mũ trụ cho Hầu Tử, giang tay để thân binh cởi giảp, ngồi xuống xuống chế ghế bọc da hổ, bên cạnh đã có ấm trà pha sẵn.
- Các ông cho rằng chúng ta đã nắm chắc phần thắng rồi sao?
Vương An Thạch đắc ý đưa tay vuốt râu, dù chẳng có lấy một sợi: - Xem tình thế hôm nay là rõ quân Liêu không có khả năng đột vây, cái bụng không đợi người.
Trần Lâm lắc đầu: - Chúng vẫn cầm cự được nửa tháng nữa.
- Chiến mã thì ăn được mấy ngày chứ?
Trần Lâm cười nhạt: - Bọn chúng còn cái khác để ăn.
Trên lịch sử Trung Quốc không thiếu những kẻ ăn thịt người, Tam Quốc chiến hỏa liên miên ví dụ này nhiều không kể siết. Nhưng nói tới tên ăn thịt người trứ danh thì phải kể tới Chu Sán cuối thời Tùy. Khi đó một dải Tương Dương, Đặng Châu gặp nạn đói, vạn đồng một hộc gạo cũng không mua nổi, bách tính ăn thịt lẫn nhau thành phong trào. Chu Sán thừa loạn khởi binh, bắt trẻ con dân gian hấp thịt ăn.
Hắn nói với quân sĩ: Trên đời này món ngon nhất không gì hơn thịt người, chỉ cần có người là không lo thiếu quân lương. Vì thế hạ lệnh bộ hạ bắt phụ nữ và trẻ nhỏ, khi cần dùng làm lương thực ăn.
Đến loạn An Sử, Trương Tuần thủ Tuy Dương, binh sĩ ăn thịt ba vạn người trong thành.
Gần hơn nữa là thời Tống, Vương Kế Huân đệ đệ cùng mẹ khác cha của Hiếu Minh hoàng hậu, chuyên môn giết nô tỳ ăn thịt làm thú vui, kẻ này tính tình tàn bạo, có chút không vừa lòng là giết nô phó, làm thành thức ăn.
Đến khi Triệu Trinh đăng cơ có người vạch trần tội hắn, hắn thừa nhận đã ăn thịt hơn trăm tỳ nữ, chứng cứ xác thực, bị chém đầu ở Lạc Dương.
Vân Tranh uống một ngụm trà: - Ta chỉ muốn kết thúc cuộc chiến thật nhanh, chỉnh quân xong rồi đông tiến, tướng sĩ đã mệt mỏi lắm rồi.
- Còn về ăn thịt người, hắn thích thì hắn cứ ăn, không liên quan tới ta, ta chỉ cần thắng lợi. Nên nếu Tiêu Đả Hổ chấp nhận đầu hàng, ta cũng tiếp nhận, nhưng phải chấp hành thập nhất trừu sát lệnh.
*** thập nhất trừu sát lệnh: Cứ mười người rút thăm chém đầu một người, chủ yếu trừng trị phản loạn, lâm trận bỏ chạy, mang tính trấn áp.
Vương An Thạch gật gù: - Chỉ cần đại soái đưa ra kế hoạch, lão phu đã ở trong quân thì công lao này không nhường ai hết, sẵn sàng vào thành dụ hàng quân Liêu.
Vân Tranh đặt chén trà xuống: - Nếu ta muốn đầu của Tiêu Đả Hổ, hắn sẽ đồng ý, nhưng hắn không đồng ý thập nhất trừu sát lệnh đâu, cho nên ta không nghĩ có thể giải quyết chuyện Đông Kinh thông qua đàm phán.
- Tiêu Đả Hổ có lẽ sẽ phá vây ở phía Khương Triết, thân là Bắc Viện đại vương, hắn thà chết trên hoang nguyên chứ không chịu nhục.
Trần thản nhiên nói: - Vậy cứ để chúng ăn thịt nhau đi.
- Bất kể Tiêu Đả Hổ định chiến hay hàng, tối nay thế nào cũng đưa ra quyết định.
- Lão phu cho rằng bất kể là tiếp tục chiến hay đàm phán, chúng ta đều phải chờ bệ hạ quyết định. Trần Lâm chắp tay về phía Đông Kinh:
Vương An Thạch nhíu mày: - Tấu chương qua lại Đông Kinh dù hỏa tốc tám trăm dặm cũng cần một tháng, khi ấy bất kể bệ hạ trả lời ra sao thì người Liêu cũng chết sạch rồi.
Vân Tranh đưa quyết định cuối cùng: - Qua tối nay hẵng dâng tấu cho bệ hạ cũng không muộn.
Tiêu Đả Hổ bị hỏa pháo của Vân Tranh dọa sợ vỡ mật, hắn không biết rằng Vân Tranh chỉ có ba khẩu đại pháo, thậm chí hắn chẳng biết đó là đại pháo, cho rằng đó là thứ giống nỏ tám trâu nhưng lại có thể bắn ra tảng đá giống máy ném đá.
Như thế thì vấn đề nghiêm trọng rồi, trong quân Tống không thiếu thợ, cho thêm thời gian bọn chúng sẽ làm ra vô số thứ này, khi ấy trăm ngàn cái nỏ dàn hàng trước quân trận, mình làm sao mà đánh nổi, hắn gần như đã tuyệt vọng.
Thế là nửa đêm có sứ giả quân Liêu tới đại doanh quân Tống, người này Vương An Thạch quen, bọn họ từng có thời gian dài tiếp xúc khi thương thảo Tống Liêu thông thương. Hề Cốc Tán có thể coi là bậc chí sĩ tài tuấn hiếm có ở nước Liêu, nghiên cứu rất sâu về về đạo tiền tài hàng hóa.
Khi tiền trang của Đại Tống xuất hiện, ngay người Tống còn không bận tâm thì hắn ta đã tuyên bố chắc nịch, tiền trang sẽ là vũ khí sắc bén nhất của hoàng triều Đại Tống.
Mấy năm sau khi người khác ca ngợi tiền trang không ngớt thì Hề Cốc Tán lại nói, thứ này một khi quản lý không tốt sẽ là nguyên nhân suy bại của Đại Tống.
Qua đó có thể thấy được người này chẳng những tài hoa, mà tầm nhìn cũng hơn người một bậc.
Y muốn có nỏ tiễn, thế là mưa tên trút xuống.
Y muốn nỏ pháo ném đá, thế là đá như xao băng xẹt ngang trời.
Nắm trong tay sinh mạng của hàng chục vạn người, y cũng cần có tâm thái coi chúng sinh như chó rơm của thần linh để dẫn dắt toàn quân đi tới chiến thắng.
Y lạnh lùng nhìn binh sĩ hai bên bị nỏ tiễn xuyên qua, bị đá đập vỡ đầu chảy máu, nhìn nỏ tám trâu xiên qua như xiên thịt nướng, nhìn hỏa pháo xé người ta thành từng mảnh vụn.
Cho dù trước mắt là kẻ địch, Vương An Thạch cũng bất giác nhắm mắt lại, lúc này hẳn ông ta đang nghĩ tới ba lần bắc phạt của Tống thái tông, thảm cảnh khi đó đoán chừng cũng không khác gì bây giờ?
Lang Thản ngủ suốt một ngày đã tỉnh dậy tập kết sở bộ sau tường băng thứ hai, hoa chân múa tay đợi lên chiến trường, hắn là tướng lĩnh Vân Tranh tin cậy nhất, quân của hắn là đội quân tinh nhuệ nhất, trang bị tốt nhất.
Máy ném đá của người Liêu đã bị phá hủy quá nhiều, tuy vẫn lác đác tấn công, nhưng không còn tạo ra nguy hiểm đáng kể nữa.
Hỏa pháo xạ kích cũng chậm đi nhiều rồi, vì phòng nòng pháo quá nóng phát nổ, Tôn Tiết đang không ngừng dùng tuyết giảm nhiệt, nơi khác là băng giá bao phủ, chỉ có ba chỗ đặt hỏa pháo là hơi nước nhi ngút như xưởng rượu.
Vân Tranh nheo mắt nhìn quân Liêu bất chấp sinh mạng tấn công vào ba chỗ đặt hỏa pháo, nhìn một lúc chuyển ánh mắt sang tường thành Tây Kinh, trăng lạnh phủ xuống, nơi đó yên tĩnh như đang ngủ.
Chiến trường đã không còn nghe thấy tiếng hát của người Liêu nữa, chỉ có tiếng nổ, tiếng binh khí va chạm, tiếng nỏ tiễn ù ù, cả tiếng la hét cũng chẳng nghe thấy.
Với sự gia nhập của đội quân sinh lực do Lang Thản chỉ huy, quân Tống chuyển từ phòng ngự sang tấn công, quân Liêu thấy không phá được vũ khí của quân Tống cũng dần lùi vào thành, quân Tống tiến thêm một trăm trượng, đứng ngoài tầm tên bắn của người Liêu.
Những chiếc máy ném đá còn sót lại của người Liêu đã được chuyển hết vào thành, Vân Tranh hạ lệnh, một khẩu pháo rời đồi tới ngoài thành Tây Kinh, nòng pháo hướng thẳng về phía cổng thành.
Một tiếng nổ như sấm rền, cửa thành đóng chặt bị đạn pháo bắn một lỗ, người Liêu trên tường thành thất kinh, hoảng loạn ném bao cát xuống trước cổng thành, chẳng mấy chốc cổng thành, chẳng mấy chốc bịt kín cổng.
Vân Tranh ra lệnh thu binh, quân Tống không tiến lên nữa, dân phu tới phòng tuyến như nhất, sửa sang lại rào chông cùng dây thép gai.
Trong thành không còn quân đánh ra nữa, phía Khương Triết, Hầu Đại Chí không có cảnh báo chiến đấu, đợt tấn công này của quân Liêu rõ ràng chỉ nhắm vào ba khẩu pháo, Tiêu Đả Hổ đã nhận ra sự đáng sợ của thần chiến tranh rồi.
Vân Tranh không định công thành, qua cuộc chiến những ngày qua chứng tỏ, một khi giáp chiến, quân Liêu dù thể lực kiệt quệ vẫn đủ khiến cho quân Tống trả giá đắt, một khi lún vào chiến tranh đường phố, quân Tống sẽ thiệt hại nặng.
Vì thế giờ chỉ cần đợi quy luật tự nhiên giết Tiêu Đả Hổ.
Chiến sự dừng lại, vừa mới trở về soái trướng, Vân Tranh liền thấy Vương An Thạch và Trần Lâm mặt mày hớn hở đợi sẵn.
Làm thần là công việc mệt mỏi, tập trung cao độ trong tình thế khẩn trương dễ khiến tinh thần suy khiệt, Vân Tranh giao mũ trụ cho Hầu Tử, giang tay để thân binh cởi giảp, ngồi xuống xuống chế ghế bọc da hổ, bên cạnh đã có ấm trà pha sẵn.
- Các ông cho rằng chúng ta đã nắm chắc phần thắng rồi sao?
Vương An Thạch đắc ý đưa tay vuốt râu, dù chẳng có lấy một sợi: - Xem tình thế hôm nay là rõ quân Liêu không có khả năng đột vây, cái bụng không đợi người.
Trần Lâm lắc đầu: - Chúng vẫn cầm cự được nửa tháng nữa.
- Chiến mã thì ăn được mấy ngày chứ?
Trần Lâm cười nhạt: - Bọn chúng còn cái khác để ăn.
Trên lịch sử Trung Quốc không thiếu những kẻ ăn thịt người, Tam Quốc chiến hỏa liên miên ví dụ này nhiều không kể siết. Nhưng nói tới tên ăn thịt người trứ danh thì phải kể tới Chu Sán cuối thời Tùy. Khi đó một dải Tương Dương, Đặng Châu gặp nạn đói, vạn đồng một hộc gạo cũng không mua nổi, bách tính ăn thịt lẫn nhau thành phong trào. Chu Sán thừa loạn khởi binh, bắt trẻ con dân gian hấp thịt ăn.
Hắn nói với quân sĩ: Trên đời này món ngon nhất không gì hơn thịt người, chỉ cần có người là không lo thiếu quân lương. Vì thế hạ lệnh bộ hạ bắt phụ nữ và trẻ nhỏ, khi cần dùng làm lương thực ăn.
Đến loạn An Sử, Trương Tuần thủ Tuy Dương, binh sĩ ăn thịt ba vạn người trong thành.
Gần hơn nữa là thời Tống, Vương Kế Huân đệ đệ cùng mẹ khác cha của Hiếu Minh hoàng hậu, chuyên môn giết nô tỳ ăn thịt làm thú vui, kẻ này tính tình tàn bạo, có chút không vừa lòng là giết nô phó, làm thành thức ăn.
Đến khi Triệu Trinh đăng cơ có người vạch trần tội hắn, hắn thừa nhận đã ăn thịt hơn trăm tỳ nữ, chứng cứ xác thực, bị chém đầu ở Lạc Dương.
Vân Tranh uống một ngụm trà: - Ta chỉ muốn kết thúc cuộc chiến thật nhanh, chỉnh quân xong rồi đông tiến, tướng sĩ đã mệt mỏi lắm rồi.
- Còn về ăn thịt người, hắn thích thì hắn cứ ăn, không liên quan tới ta, ta chỉ cần thắng lợi. Nên nếu Tiêu Đả Hổ chấp nhận đầu hàng, ta cũng tiếp nhận, nhưng phải chấp hành thập nhất trừu sát lệnh.
*** thập nhất trừu sát lệnh: Cứ mười người rút thăm chém đầu một người, chủ yếu trừng trị phản loạn, lâm trận bỏ chạy, mang tính trấn áp.
Vương An Thạch gật gù: - Chỉ cần đại soái đưa ra kế hoạch, lão phu đã ở trong quân thì công lao này không nhường ai hết, sẵn sàng vào thành dụ hàng quân Liêu.
Vân Tranh đặt chén trà xuống: - Nếu ta muốn đầu của Tiêu Đả Hổ, hắn sẽ đồng ý, nhưng hắn không đồng ý thập nhất trừu sát lệnh đâu, cho nên ta không nghĩ có thể giải quyết chuyện Đông Kinh thông qua đàm phán.
- Tiêu Đả Hổ có lẽ sẽ phá vây ở phía Khương Triết, thân là Bắc Viện đại vương, hắn thà chết trên hoang nguyên chứ không chịu nhục.
Trần thản nhiên nói: - Vậy cứ để chúng ăn thịt nhau đi.
- Bất kể Tiêu Đả Hổ định chiến hay hàng, tối nay thế nào cũng đưa ra quyết định.
- Lão phu cho rằng bất kể là tiếp tục chiến hay đàm phán, chúng ta đều phải chờ bệ hạ quyết định. Trần Lâm chắp tay về phía Đông Kinh:
Vương An Thạch nhíu mày: - Tấu chương qua lại Đông Kinh dù hỏa tốc tám trăm dặm cũng cần một tháng, khi ấy bất kể bệ hạ trả lời ra sao thì người Liêu cũng chết sạch rồi.
Vân Tranh đưa quyết định cuối cùng: - Qua tối nay hẵng dâng tấu cho bệ hạ cũng không muộn.
Tiêu Đả Hổ bị hỏa pháo của Vân Tranh dọa sợ vỡ mật, hắn không biết rằng Vân Tranh chỉ có ba khẩu đại pháo, thậm chí hắn chẳng biết đó là đại pháo, cho rằng đó là thứ giống nỏ tám trâu nhưng lại có thể bắn ra tảng đá giống máy ném đá.
Như thế thì vấn đề nghiêm trọng rồi, trong quân Tống không thiếu thợ, cho thêm thời gian bọn chúng sẽ làm ra vô số thứ này, khi ấy trăm ngàn cái nỏ dàn hàng trước quân trận, mình làm sao mà đánh nổi, hắn gần như đã tuyệt vọng.
Thế là nửa đêm có sứ giả quân Liêu tới đại doanh quân Tống, người này Vương An Thạch quen, bọn họ từng có thời gian dài tiếp xúc khi thương thảo Tống Liêu thông thương. Hề Cốc Tán có thể coi là bậc chí sĩ tài tuấn hiếm có ở nước Liêu, nghiên cứu rất sâu về về đạo tiền tài hàng hóa.
Khi tiền trang của Đại Tống xuất hiện, ngay người Tống còn không bận tâm thì hắn ta đã tuyên bố chắc nịch, tiền trang sẽ là vũ khí sắc bén nhất của hoàng triều Đại Tống.
Mấy năm sau khi người khác ca ngợi tiền trang không ngớt thì Hề Cốc Tán lại nói, thứ này một khi quản lý không tốt sẽ là nguyên nhân suy bại của Đại Tống.
Qua đó có thể thấy được người này chẳng những tài hoa, mà tầm nhìn cũng hơn người một bậc.
/594
|