Năm ngàn tinh binh Hữu Kiêu Vệ của Đại Tuỳ xuyên qua hạp cốc núi Lang Nhũ, sau khi ra khỏi cốc lại tiến về phía tây thêm năm dặm nữa rồi ngừng lại, thiết lập đội hình phòng ngự, nhanh chóng bố trí chướng ngại vật ở vòng ngoài cùng. Các cung thủ đi lên trước theo trật tự, đứng trong chướng ngại vật, tạo thành một trận hình dày đặc.
Bảy tám kỵ binh của Mãn Đô Kỳ trước đó đã dùng tính mạng của mình để tranh thủ chút thời gian cho đồng đội chạy về báo tin. Trong tay Lý Hiếu Tông chỉ có hai trăm kỵ binh, quý giá vô cùng. Y không có lệnh cho kỵ binh tiếp tục truy đuổi ba kỵ binh tẩu thoát của Mông Nguyện đó. Đại quân đi ra khỏi Thanh Hạp thì đã không còn giấu được nữa rồi, nếu vì đuổi theo ba tên thám báo mà tổn thất mấy mươi kỵ binh, rất không đáng.
Cho dù không để ba tên thám báo đó trốn thoát, thì du kỵ Mãn Đô Kỳ cũng sẽ rất nhanh phát hiện quân đội Đại Tuỳ.
Năm ngàn bộ binh Đại Tuỳ, dàn trận hình nan quạt, xếp thành nhiều hàng ngang, tạo thành một bức tường kiên cố. Nhiệm vụ của họ chính là trấn giữ cửa khẩu phía tây của hạp cốc núi Lang Nhũ cho đại đội binh mã đến sau. Đây là thông đạo quan trọng kết nối đông tây, tuyệt nhiên không thể để người Mông Nguyên lấy lại. Một khi Mãn Đô Lạp Đồ điều trọng binh phòng thủ hạp cốc, cho dù phía đông núi Lang Nhũ có bảy mươi vạn tinh binh Đại Tuỳ, muốn xông qua đó cũng không phải chuyện dễ.
Trị thành của Mãn Đô Kỳ, thành Vân Đài cách núi Lang Nhũ không dưới một ngàn năm trăm dặm. Cho dù Mãn Đô Lạp Đồ nhận được tin trọng binh Đại Tuỳ tập kết, điều động nhân mã tới Thanh Hạp này cũng không phải một sớm một chiều. Còn trong thành Niết Bàn, chỉ có hai ngàn kỵ binh Mãn Đô Kỳ. Nếu tướng thủ thành Mãn Đô Lang có đủ thông minh, điều duy nhất y có thể làm được chính là giữ vững thành trì, đợi viện binh của Mãn Đô Lạp Đồ tới.
Cho nên, xem ra nhiệm vụ của Lý Hiếu Tông dường như không mấy khó khăn.
Các tinh binh Hữu Kiêu Vệ được huấn luyện nghiêm chỉnh nhanh chóng dàn thành thế trận trong thời gian ngắn nhất. Ba mươi chiếc xe nỏ được xếp trước mặt các cung thủ, trọng nỏ do phường Võ Công của Đại Tuỳ tinh công chế tạo có thể dễ dàng bắn các tên nỏ loại lớn ra xa sáu trăm bộ, ngoài ba trăm bộ có thể bắn xuyên giáp trụ của chiến mã, trong vòng hai trăm bộ có thể cả người lẫn ngựa đều xé làm đôi, trong vòng một trăm bộ… nếu muốn trọng nỏ ngừng lại, trừ phi xiên một lúc sáu bảy cái thi thể như cây hồ lô nước đường vậy.
Vì cuộc chiến lần này, Thiên Hữu Hoàng đế của Đại Tuỳ từ lúc mới đăng cơ đã bắt tay chuẩn bị. Hơn mười một năm nay, các công phường của Đại Tuỳ đều đang bí mật chế tạo các trang bị vũ khí cho chiến tranh. Các trang bị này đều do “Hoá thông thiên hạ hành” chuyển đi, giấu trong các hành cung ở tây bắc. Cho nên, khi Hoàng Đế hạ quyết tâm khai chiến, giáp trụ máy mác đủ để trang bị cho một trăm vạn đại quân sớm đã nằm trong kho rồi.
Theo quân chế Đại Tuỳ: mỗi năm mươi người là một “đội”, thủ lĩnh gọi là “Đội chính”; mỗi một trăm người là một “lữ”, thủ lĩnh gọi là “Lữ suất”; mỗi ba trăm người là một “đoàn”, thủ lĩnh gọi là “Giáo uý”; mỗi một ngàn hai trăm người là một “Chiết xung doanh”, thủ lĩnh gọi là ”Nha tướng” ; một vạn hai ngàn người là một “quân”, thủ lĩnh là “Tướng quân”; bốn vạn tám ngàn người là một “vệ”, thủ lĩnh là “Đại Tướng quân”.
Lý Hiếu Tông chỉ là Nha tướng, nhận lệnh thống lĩnh binh lực của bốn cái “Chiết xung doanh”. Quan chỉ huy của bốn chiết xung doanh này tuy cùng cấp bậc với y, nhưng phải chịu sự điều khiển của y.
Nha tướng Phan Mỹ phụng mệnh giám sát công việc bố trí phòng ngự của các chiến sĩ, đây là lần đầu tiên y tham gia chiến tranh đối ngoại, cho nên không khỏi có chút kích động. Sau khi bố trí xong tuyến phòng ngự, y liền đi báo cáo cho Lý Hiếu Tông. Nhìn vị tướng quân trạc tuổi mình trước mặt, tuy trong lòng y có hơi không phục, nhưng quân kỉ nghiêm khắc của Đại Tuỳ vẫn khiến y lựa chọn phục tùng và duy trì một sự kính trọng nhất định đối với cấp trên.
- Tướng quân!
Phan Mỹ kêu một tiếng, rồi ôm quyền nói:
- Cung thủ đã bố trí xong, người của Mãn Đô Lang chỉ cần dám đến, thì chắc chắn sẽ không thoát khỏi trận mưa tên.
- Đừng tự cao!
Lý Hiếu Tông lắc đầu:
- Ngươi chưa từng giao thủ với kỵ binh Mông Nguyên, không biết tốc độ khinh kỵ của họ nhanh như thế nào. Ta hỏi ngươi, theo như tình hình thực tế khi ngươi đem quân huấn luyện, bộ binh từ khi bước vào phạm vi bắn của cung thủ đến tiến tới trước mặt cung thủ, cung thủ có thể bắn ra bao mấy phát?
- Một cung thủ đạt tiêu chuẩn, ít nhất có thể bắn ra tám phát. Nếu là quân tinh nhuệ, có thể bắn mười phát.
Phan Mỹ có hơi không thích ứng với ngữ khí của Lý Hiếu Tông, nhưng vẫn trả lời một cách nghiêm túc.
Lý Hiếu Tông gật đầu:
- Vậy thì, để ta nói ngươi biết… Nếu kẻ địch là khinh kỵ Mông Nguyên, từ khi họ bước vào phạm vi ngắm bắn cho đến khi tiến tới trước mặt, cho dù là cung thủ tinh nhuệ cũng chỉ miễn cưỡng bắn được bốn phát. Vả lại còn phải dự trù thời gian để cung thủ nhanh chóng rút lui về phía sau giáo binh. Có nghĩa là… cung thủ tinh nhuệ nhiều nhất chỉ bắn được ba phát, sau đó phải lập tức quay người rút lui.
Mặt Phan Mỹ biến sắc, y không kiềm chế được hỏi:
- Tướng quân từng giao đấu với người Mông Nguyên?
- Không có.
Lý Hiếu Tông lắc lắc đầu, sau đó nghiêm túc trả lời:
- Nhưng ta dùng mười năm để tìm hiểu kỵ binh Mông Nguyên. Trước khi vào Viện Diễn Võ, ta từng giả làm trẻ em hành thương, lén ra khỏi biên giới đi một vòng quanh phần rìa của thảo nguyên. Tuy không có vào sâu bên trong lãnh địa người Mông Nguyên, nhưng cũng xem như tận mắt chứng kiến uy lực kỵ binh của họ. Ba năm làm tướng ở Phàn Cố, ta vô số lần phái người đi trinh sát động tĩnh của kỵ binh Mãn Đô Kỳ, chỉ để tích luỹ nhiều hơn nữa thông tin về kẻ địch, ta tổn thất mười lăm vị thám báo giỏi nhất.
- Khoan chưa nói tới kỵ binh chính quy của người Mông Nguyên, chỉ nói mục dân của họ thôi. Con trai bốn tuổi đã dám leo lên lưng ngựa, sáu bảy tuổi đã có thể phóng ngựa phi nước đại, mấy đứa trẻ mười hai ba tuổi đã có thể cung ngựa thuần thục, có thể vừa phi ngựa vừa bắn trúng thỏ hoang ngoài ba mươi bộ! Cho dù là phụ nữ Mông Nguyên, chỉ cần họ leo lên lưng ngựa tay cầm loan đao thì chính là chiến sĩ!
Phan Mỹ có chút bất mãn:
- Tướng quân, lời của người sao mà giống khen kẻ địch quá vậy?
- Không.
Lý Hiếu Tông nói:
- Là hiểu biết cơ bản nhất đối với kẻ địch. Quân nhân Đại Tuỳ ta chưa từng bị người khác đánh bại qua, vì thế mà tự hào… Nhưng tự hào, không có nghĩa là tự cao.
Một viên nha tướng khác, Triệu Sâm nhìn không khí giữa hai người có chút bất ổn, vội hoà hoãn nói:
- Thật ra đây chỉ là sự chuẩn bị trước của tướng quân thôi. Nếu Mãn Đô Lang không ngốc thì nên thành thành thật thật rụt đầu trong thành Niết Bàn, mà không phải đem hai ngàn kỵ binh phát động tiến công.
- Ai mà biết được?
Lý Hiếu Tông hơi thở nhẹ một tiếng, trầm mặc một hồi rồi nói:
- Nếu là các ngươi, cho dù biết rõ số lượng kẻ địch nhiều hơn rất nhiều so với quân đội của mình, nhưng kẻ địch đã đặt một trước cửa nhà rồi, ngươi có ra nghênh chiến không?
- Đương nhiên là ra chứ!
Phan Mỹ ngạo nghễ nói:
- Nhưng không lẽ tướng quân cảm thấy, người Mông Nguyên cũng có huyết tính như người Đại Tuỳ ta?
Lời còn chưa dứt, đột nhiên từ xa rống lên tiếng kèn báo động.
- Địch tấn công!
…
…
Mặt Phan Mỹ hơi ửng đỏ, không kìm nổi nhìn Lý Hiếu Tông một cái. Y phát hiện sự chú ý của Lý Hiếu Tông hoàn toàn tập trung vào kẻ địch, mới khẽ thở phào một cái. Y khinh thường người Mông Nguyên, xem họ là dân man rợ. Y nghĩ người Mông nguyên không dám ra khỏi thành Niết Bàn. Nhưng y sai rồi, Mãn Đô Lang không chỉ ra khỏi thành, mà đem theo toàn bộ nhân mã tới đây.
Hai ngàn kỵ binh.
- Không ngờ họ lại dám bỏ thành Niết bàn.
Triệu Sâm không hiểu:
- Nếu họ có dũng khí như vậy, sao lúc đó không trực tiếp phái quân trấn giữ cửa tây Thanh Hạp? Nếu như vậy, e rằng chúng ta vẫn còn trong huyết chiến, chưa chắc xông được tới đây. Hạp cốc tuy không quá hẹp, nhưng dùng hai ngàn binh mã chặn đường, muốn công phá cũng không phải chuyện một sớm một chiều.
- Đúng vậy.
Phan Mỹ cũng cảm thấy thắc mắc:
- Vì sao vậy?
- Bởi vì hắn muốn nuốt chửng chúng ta.
Lý Hiếu Tông nói một cách nghiêm trọng:
- Trước đó ta từng nói, người Đại Tuỳ ta kiêu ngạo, người Mông Nguyên cũng có kiêu ngạo của chính họ. Ta biết tính cách của Mãn Đô Lang. Hắn cố ý để chúng ta đi qua hạp cốc. Hắn đang đợi trận chiến đầu tiên này, sau đó đem kỵ binh của hắn đánh bại chúng ta, dùng trận chiến đầu tiên này để nâng cao sĩ khí của người Mông Nguyên.
- Đây mới là tự đại!
Phan Mỹ hơi tức giận:
- Mãn Đô Lang thật không coi ai ra gì. Hắn nghĩ rằng chỉ với hai ngàn kỵ binh thì có thể đánh thắng năm ngàn tinh binh của chúng ta sao?
Lý Hiếu Tông chậm rãi lắc đầu, trong mắt chứa đầy âu lo:
- Có gì đó không ổn… Truyền lệnh xuống, phái hết hai trăm kỵ binh đó ra, đi lại tuần tra trong năm dặm từ hạp cốc đến đây, một khi phát hiện kẻ địch lập tức báo tin.
- Tướng quân lo lắng người Mông Nguyên sẽ cắt đường lui của chúng ta sao?
Triệu Sâm hỏi.
Lý Hiếu Tông uhm một tiếng, sau đó hít một hơi thật sâu:
- Bất luận thế nào, đây là trận chiến đầu tiên. Chúng ta cũng không được làm mất mặt Đại Tuỳ, mất mặt Bệ Hạ. Cho dù chỉ còn lại một binh một tốt, cũng phải giữ lấy hạp cốc. Phan Mỹ, ngươi lập tức đem một chiết xung doanh lui về sau, trở về miệng cốc phòng thủ. Chúng ta vì bố trí phòng thủ mà đi xa miệng cốc năm dặm, năm dặm đó chính là sơ hở lớn nhất của chúng ta.
- Còn chưa khai chiến, tướng quân kêu tôi rút lui?
Phan Mỹ bất mãn nói:
- Đánh còn chưa đánh, tướng quân kêu tôi rút lui tức là diệt uy phong của quân Đại Tuỳ ta. Ta cảm thấy…
- Ngươi không cần cảm thấy!
Lý Hiếu Tông quay đầu nhìn thẳng vào mắt Phan Mỹ, lạnh giọng nói:
- Ngươi có còn nhớ luật quân Đại Tuỳ không? Ta là chủ tướng, mệnh lệnh của ta ngươi ngoài việc phục tùng ra không có lựa chọn nào hết.
- Tôi…
Phan Mỹ ngẩn người, rồi sau đó căm tức ôm quyền nói:
- Thuộc hạ tuân lệnh.
Triệu Sâm kéo y một cái từ phía sau, nhìn y một cái, ra dấu y đừng tranh cãi nữa. Phan Mỹ tức giận dẫm chân, quay đầu đi điểm nhân mã.
- Tuổi trẻ nóng nảy là chuyện khó tránh.
Triệu Sâm cười cười với Lý Hiếu Tông rồi nói:
- Tướng quân đừng để ý, cẩn thận một chút, thế nào cũng không sai đâu. Trận chiến này rất quan trọng, quyết định của tướng quân không có vấn đề gì cả.
- Vấn đề ở chỗ.
Lý Hiếu Tông khẽ thở dài:
- Rất nhiều người xem chiến tranh quá đơn giản rồi.
Ngay lúc này, đội ngũ kỵ binh của Mông Nguyên phía đối diện đột nhiên chia ra một nhóm khoảng mười mấy kỵ binh phóng nhanh tới bên này. Lý Hiếu Tông hạ lệnh cung thủ đừng bắn, để cho những kỵ binh đó đi tới. Không lâu sau, kỵ binh Mãn Đô Kỳ dừng lại trước quân Tuỳ ba mươi mét. Thập phu trưởng dẫn đầu dùng ngôn ngữ người Hán hô lớn:
- Ai là Tướng quân lĩnh quân, Mãn Đô Lang đại nhân cần nói chuyện với ngươi!
- To gan!
Lữ Suất Đại Tuỳ đứng trước trận địa hô lớn:
- Còn không lui ra sau, chém không tha!
Lý Hiếu Tông thúc ngựa đi về phía trước, đi tới trước trận thì giật cương dừng chiến mã lại. Ra dấu cho sĩ binh đừng rat ay, y ngẩng đầu nói với kỵ binh Mãn Đô Kỳ cách đó không xa:
- Ta là Nha tướng Đại Tuỳ Lý Hiếu Tông, kêu Mãn Đô Lang ra đây.
Vừa dứt lời, mười mấy kỵ binh tách ra hai bên, một kỵ binh chậm rãi đi ra từ phía sau. Mông Nguyên rất nhiều chiến mã nhưng không có nhiều khoáng sản, nên đồ sắt vô cùng quý giá. Chỉ có Tướng quân cấp cao, mới được pháp mặc giáp sắt, cho dù là Thiên Phu trưởng, cũng chỉ có thể mặc giáp da.
Người đó thúc ngựa đi đến phía trước, dùng lễ nghi Đại Tuỳ chào Lý Hiếu Tông, rồi ôm quyền nói:
- Ta chính là tướng thủ thành Niết Bàn, Mãn Đô Lang, nghe danh Lý Tướng quân đã lâu.
- Mãn Đô Tướng quân.
Lý Hiếu Tông cũng ôm quyền hoàn lễ.
- Lý Tướng quân, đột nhiên đem quân xông vào lãnh thổ Mông Nguyên ta, có phải nên cho ta một lý do không?
Mãn Đô Lang hỏi.
Lý Hiếu Tông cao giọng nói:
- Tướng quân hà tất biết mà còn hỏi? Vào đêm của một năm trước, kỵ binh Mông Nguyên của ngươi tập kích thành Phàn Cố, tàn sát hơn ngàn bá tánh nước ta.Món nợ máu này thế nào cũng phải trả. Hp6m nay Lý mỗ đem quân tới đây, chính là muốn Mãn Đô tướng quân thanh toaq1n món nợ này. Nếu Tướng quân bằng lòng đem ra ba ngàn cái đầu người trả nợ, Lý mỗ lập tức rút binh.
- Ai cũng nói người Đại Tuỳ vô sỉ, quả nhiên là như vậy.
Mãn Đô Lang tuổi khảng ba mươi, râu lá lùm xùm, thân hình cao to, y cười lạnh:
- Người Mông Nguyên ta tuân thủ Hiệp ước mà Đại Hán ký kết với Hoàng Đế các ngươi, không từng có một binh sĩ vượt qua biên giới. Ngươi nói người của bọn ta tàn sát thành Phàn Cố, có chứng cứ gì không? Những lời vô căn cứ như thế chỉ có thể lừa được trả con, không nói cũng thôi. Nếu ta nói người Tuỳ các ngươi tàn sát thành Niết Bàn, có phải ta cũng có thể đem quân vượt Thanh Hạp tiến thẳng đến Phàn Cố?
- Đương nhiên là được.
Lý Hiếu Tông mỉm cười nói:
- Nhưng bây giờ người đòi nợ là ta.
- Nếu muốn khai chiến, không lẽ Đại Tuỳ các ngươi không hạ chiến thư trước sao?
Mãn Đô Lang cao giọng nói:
- Người Tuỳ các ngươi tự xưng là “lễ nghi chi bang”, không lẽ chỉ biết chơi trò đánh lén?
- Chiến thư?
Lý Hiếu Tông lắc đầu nói:
- Ta đến để đòi nợ, hà tất cần đến chiến thư?
Mãn Đô Lang cười lạnh:
- Người Tuỳ các ngươi luôn miệng nói ra quân phải có lý do, không có lý do gì tuỳ tiện khai chiến, không lẽ bá tánh Đại Tuỳ lại đồng ý sao? Nên biết địch thủ lần này của các ngươi, không phải loại tiểu quốc yếu ớt như Thương quốc, mà là Đế quốc Mông Nguyên mạnh nhất thế gian! Nếu kkho6ng có một lý do chính đáng, chỉ sợ bá tánh của các ngươi cũng sẽ không đồng ý.
- Lí do thì ta đã nói rồi.
Lý Hiếu Tông nói:
- Các ngươi giết ba ngàn bá tánh binh sĩ của Phàn Cố ta, Hoàng Đế Bệ Hạ ta đã chiếu cố thiên hạ. Ngươi đoán xem… bá tánh sẽ như thế nào?
Mãn Đô Lang thở dài:
- Thì ra… Lời nói dối trước đó của ngươi không phải nói cho ta nghe, mà là Hoàng Đế các ngươi nói cho người dân của mình nghe. Chiến tranh do lời nói dối mà ra, các ngươi thua chắc rồi.
Lý Hiếu Tông cười nói:
- Thắng bại không phải do ngươi quyết định.
Y nói xong câu này, quay đầu nói với Triệu Sâm:
- Mau kêu người nói với Phan Mỹ, Mãn Đô Lang ở đây kéo dài thời gian, chắc chắn là có âm mưu gì đó, nói với y nhất định phải tử thủ hạp cốc.
Ngay lúc này, phía hạp cốc đột nhiên truyền đến tiếng giết nhau, khiến cho tim ai cũng đột nhiên đập nhanh hơn.
- Kinh ngạc lắm sao?
Mãn Đô Lang ha hả cười to:
- Đã nói người Tuỳ các ngươi quỷ kế đa đoan, ta thấy cũng chỉ là những kẻ ngốc cuồng ngông kiêu ngạo! Đường lui của các ngươi đã bị cắt đứt, đầu hàng… ta cũng không tha cho các ngươi con đường sống.
----------oOo----------
Bảy tám kỵ binh của Mãn Đô Kỳ trước đó đã dùng tính mạng của mình để tranh thủ chút thời gian cho đồng đội chạy về báo tin. Trong tay Lý Hiếu Tông chỉ có hai trăm kỵ binh, quý giá vô cùng. Y không có lệnh cho kỵ binh tiếp tục truy đuổi ba kỵ binh tẩu thoát của Mông Nguyện đó. Đại quân đi ra khỏi Thanh Hạp thì đã không còn giấu được nữa rồi, nếu vì đuổi theo ba tên thám báo mà tổn thất mấy mươi kỵ binh, rất không đáng.
Cho dù không để ba tên thám báo đó trốn thoát, thì du kỵ Mãn Đô Kỳ cũng sẽ rất nhanh phát hiện quân đội Đại Tuỳ.
Năm ngàn bộ binh Đại Tuỳ, dàn trận hình nan quạt, xếp thành nhiều hàng ngang, tạo thành một bức tường kiên cố. Nhiệm vụ của họ chính là trấn giữ cửa khẩu phía tây của hạp cốc núi Lang Nhũ cho đại đội binh mã đến sau. Đây là thông đạo quan trọng kết nối đông tây, tuyệt nhiên không thể để người Mông Nguyên lấy lại. Một khi Mãn Đô Lạp Đồ điều trọng binh phòng thủ hạp cốc, cho dù phía đông núi Lang Nhũ có bảy mươi vạn tinh binh Đại Tuỳ, muốn xông qua đó cũng không phải chuyện dễ.
Trị thành của Mãn Đô Kỳ, thành Vân Đài cách núi Lang Nhũ không dưới một ngàn năm trăm dặm. Cho dù Mãn Đô Lạp Đồ nhận được tin trọng binh Đại Tuỳ tập kết, điều động nhân mã tới Thanh Hạp này cũng không phải một sớm một chiều. Còn trong thành Niết Bàn, chỉ có hai ngàn kỵ binh Mãn Đô Kỳ. Nếu tướng thủ thành Mãn Đô Lang có đủ thông minh, điều duy nhất y có thể làm được chính là giữ vững thành trì, đợi viện binh của Mãn Đô Lạp Đồ tới.
Cho nên, xem ra nhiệm vụ của Lý Hiếu Tông dường như không mấy khó khăn.
Các tinh binh Hữu Kiêu Vệ được huấn luyện nghiêm chỉnh nhanh chóng dàn thành thế trận trong thời gian ngắn nhất. Ba mươi chiếc xe nỏ được xếp trước mặt các cung thủ, trọng nỏ do phường Võ Công của Đại Tuỳ tinh công chế tạo có thể dễ dàng bắn các tên nỏ loại lớn ra xa sáu trăm bộ, ngoài ba trăm bộ có thể bắn xuyên giáp trụ của chiến mã, trong vòng hai trăm bộ có thể cả người lẫn ngựa đều xé làm đôi, trong vòng một trăm bộ… nếu muốn trọng nỏ ngừng lại, trừ phi xiên một lúc sáu bảy cái thi thể như cây hồ lô nước đường vậy.
Vì cuộc chiến lần này, Thiên Hữu Hoàng đế của Đại Tuỳ từ lúc mới đăng cơ đã bắt tay chuẩn bị. Hơn mười một năm nay, các công phường của Đại Tuỳ đều đang bí mật chế tạo các trang bị vũ khí cho chiến tranh. Các trang bị này đều do “Hoá thông thiên hạ hành” chuyển đi, giấu trong các hành cung ở tây bắc. Cho nên, khi Hoàng Đế hạ quyết tâm khai chiến, giáp trụ máy mác đủ để trang bị cho một trăm vạn đại quân sớm đã nằm trong kho rồi.
Theo quân chế Đại Tuỳ: mỗi năm mươi người là một “đội”, thủ lĩnh gọi là “Đội chính”; mỗi một trăm người là một “lữ”, thủ lĩnh gọi là “Lữ suất”; mỗi ba trăm người là một “đoàn”, thủ lĩnh gọi là “Giáo uý”; mỗi một ngàn hai trăm người là một “Chiết xung doanh”, thủ lĩnh gọi là ”Nha tướng” ; một vạn hai ngàn người là một “quân”, thủ lĩnh là “Tướng quân”; bốn vạn tám ngàn người là một “vệ”, thủ lĩnh là “Đại Tướng quân”.
Lý Hiếu Tông chỉ là Nha tướng, nhận lệnh thống lĩnh binh lực của bốn cái “Chiết xung doanh”. Quan chỉ huy của bốn chiết xung doanh này tuy cùng cấp bậc với y, nhưng phải chịu sự điều khiển của y.
Nha tướng Phan Mỹ phụng mệnh giám sát công việc bố trí phòng ngự của các chiến sĩ, đây là lần đầu tiên y tham gia chiến tranh đối ngoại, cho nên không khỏi có chút kích động. Sau khi bố trí xong tuyến phòng ngự, y liền đi báo cáo cho Lý Hiếu Tông. Nhìn vị tướng quân trạc tuổi mình trước mặt, tuy trong lòng y có hơi không phục, nhưng quân kỉ nghiêm khắc của Đại Tuỳ vẫn khiến y lựa chọn phục tùng và duy trì một sự kính trọng nhất định đối với cấp trên.
- Tướng quân!
Phan Mỹ kêu một tiếng, rồi ôm quyền nói:
- Cung thủ đã bố trí xong, người của Mãn Đô Lang chỉ cần dám đến, thì chắc chắn sẽ không thoát khỏi trận mưa tên.
- Đừng tự cao!
Lý Hiếu Tông lắc đầu:
- Ngươi chưa từng giao thủ với kỵ binh Mông Nguyên, không biết tốc độ khinh kỵ của họ nhanh như thế nào. Ta hỏi ngươi, theo như tình hình thực tế khi ngươi đem quân huấn luyện, bộ binh từ khi bước vào phạm vi bắn của cung thủ đến tiến tới trước mặt cung thủ, cung thủ có thể bắn ra bao mấy phát?
- Một cung thủ đạt tiêu chuẩn, ít nhất có thể bắn ra tám phát. Nếu là quân tinh nhuệ, có thể bắn mười phát.
Phan Mỹ có hơi không thích ứng với ngữ khí của Lý Hiếu Tông, nhưng vẫn trả lời một cách nghiêm túc.
Lý Hiếu Tông gật đầu:
- Vậy thì, để ta nói ngươi biết… Nếu kẻ địch là khinh kỵ Mông Nguyên, từ khi họ bước vào phạm vi ngắm bắn cho đến khi tiến tới trước mặt, cho dù là cung thủ tinh nhuệ cũng chỉ miễn cưỡng bắn được bốn phát. Vả lại còn phải dự trù thời gian để cung thủ nhanh chóng rút lui về phía sau giáo binh. Có nghĩa là… cung thủ tinh nhuệ nhiều nhất chỉ bắn được ba phát, sau đó phải lập tức quay người rút lui.
Mặt Phan Mỹ biến sắc, y không kiềm chế được hỏi:
- Tướng quân từng giao đấu với người Mông Nguyên?
- Không có.
Lý Hiếu Tông lắc lắc đầu, sau đó nghiêm túc trả lời:
- Nhưng ta dùng mười năm để tìm hiểu kỵ binh Mông Nguyên. Trước khi vào Viện Diễn Võ, ta từng giả làm trẻ em hành thương, lén ra khỏi biên giới đi một vòng quanh phần rìa của thảo nguyên. Tuy không có vào sâu bên trong lãnh địa người Mông Nguyên, nhưng cũng xem như tận mắt chứng kiến uy lực kỵ binh của họ. Ba năm làm tướng ở Phàn Cố, ta vô số lần phái người đi trinh sát động tĩnh của kỵ binh Mãn Đô Kỳ, chỉ để tích luỹ nhiều hơn nữa thông tin về kẻ địch, ta tổn thất mười lăm vị thám báo giỏi nhất.
- Khoan chưa nói tới kỵ binh chính quy của người Mông Nguyên, chỉ nói mục dân của họ thôi. Con trai bốn tuổi đã dám leo lên lưng ngựa, sáu bảy tuổi đã có thể phóng ngựa phi nước đại, mấy đứa trẻ mười hai ba tuổi đã có thể cung ngựa thuần thục, có thể vừa phi ngựa vừa bắn trúng thỏ hoang ngoài ba mươi bộ! Cho dù là phụ nữ Mông Nguyên, chỉ cần họ leo lên lưng ngựa tay cầm loan đao thì chính là chiến sĩ!
Phan Mỹ có chút bất mãn:
- Tướng quân, lời của người sao mà giống khen kẻ địch quá vậy?
- Không.
Lý Hiếu Tông nói:
- Là hiểu biết cơ bản nhất đối với kẻ địch. Quân nhân Đại Tuỳ ta chưa từng bị người khác đánh bại qua, vì thế mà tự hào… Nhưng tự hào, không có nghĩa là tự cao.
Một viên nha tướng khác, Triệu Sâm nhìn không khí giữa hai người có chút bất ổn, vội hoà hoãn nói:
- Thật ra đây chỉ là sự chuẩn bị trước của tướng quân thôi. Nếu Mãn Đô Lang không ngốc thì nên thành thành thật thật rụt đầu trong thành Niết Bàn, mà không phải đem hai ngàn kỵ binh phát động tiến công.
- Ai mà biết được?
Lý Hiếu Tông hơi thở nhẹ một tiếng, trầm mặc một hồi rồi nói:
- Nếu là các ngươi, cho dù biết rõ số lượng kẻ địch nhiều hơn rất nhiều so với quân đội của mình, nhưng kẻ địch đã đặt một trước cửa nhà rồi, ngươi có ra nghênh chiến không?
- Đương nhiên là ra chứ!
Phan Mỹ ngạo nghễ nói:
- Nhưng không lẽ tướng quân cảm thấy, người Mông Nguyên cũng có huyết tính như người Đại Tuỳ ta?
Lời còn chưa dứt, đột nhiên từ xa rống lên tiếng kèn báo động.
- Địch tấn công!
…
…
Mặt Phan Mỹ hơi ửng đỏ, không kìm nổi nhìn Lý Hiếu Tông một cái. Y phát hiện sự chú ý của Lý Hiếu Tông hoàn toàn tập trung vào kẻ địch, mới khẽ thở phào một cái. Y khinh thường người Mông Nguyên, xem họ là dân man rợ. Y nghĩ người Mông nguyên không dám ra khỏi thành Niết Bàn. Nhưng y sai rồi, Mãn Đô Lang không chỉ ra khỏi thành, mà đem theo toàn bộ nhân mã tới đây.
Hai ngàn kỵ binh.
- Không ngờ họ lại dám bỏ thành Niết bàn.
Triệu Sâm không hiểu:
- Nếu họ có dũng khí như vậy, sao lúc đó không trực tiếp phái quân trấn giữ cửa tây Thanh Hạp? Nếu như vậy, e rằng chúng ta vẫn còn trong huyết chiến, chưa chắc xông được tới đây. Hạp cốc tuy không quá hẹp, nhưng dùng hai ngàn binh mã chặn đường, muốn công phá cũng không phải chuyện một sớm một chiều.
- Đúng vậy.
Phan Mỹ cũng cảm thấy thắc mắc:
- Vì sao vậy?
- Bởi vì hắn muốn nuốt chửng chúng ta.
Lý Hiếu Tông nói một cách nghiêm trọng:
- Trước đó ta từng nói, người Đại Tuỳ ta kiêu ngạo, người Mông Nguyên cũng có kiêu ngạo của chính họ. Ta biết tính cách của Mãn Đô Lang. Hắn cố ý để chúng ta đi qua hạp cốc. Hắn đang đợi trận chiến đầu tiên này, sau đó đem kỵ binh của hắn đánh bại chúng ta, dùng trận chiến đầu tiên này để nâng cao sĩ khí của người Mông Nguyên.
- Đây mới là tự đại!
Phan Mỹ hơi tức giận:
- Mãn Đô Lang thật không coi ai ra gì. Hắn nghĩ rằng chỉ với hai ngàn kỵ binh thì có thể đánh thắng năm ngàn tinh binh của chúng ta sao?
Lý Hiếu Tông chậm rãi lắc đầu, trong mắt chứa đầy âu lo:
- Có gì đó không ổn… Truyền lệnh xuống, phái hết hai trăm kỵ binh đó ra, đi lại tuần tra trong năm dặm từ hạp cốc đến đây, một khi phát hiện kẻ địch lập tức báo tin.
- Tướng quân lo lắng người Mông Nguyên sẽ cắt đường lui của chúng ta sao?
Triệu Sâm hỏi.
Lý Hiếu Tông uhm một tiếng, sau đó hít một hơi thật sâu:
- Bất luận thế nào, đây là trận chiến đầu tiên. Chúng ta cũng không được làm mất mặt Đại Tuỳ, mất mặt Bệ Hạ. Cho dù chỉ còn lại một binh một tốt, cũng phải giữ lấy hạp cốc. Phan Mỹ, ngươi lập tức đem một chiết xung doanh lui về sau, trở về miệng cốc phòng thủ. Chúng ta vì bố trí phòng thủ mà đi xa miệng cốc năm dặm, năm dặm đó chính là sơ hở lớn nhất của chúng ta.
- Còn chưa khai chiến, tướng quân kêu tôi rút lui?
Phan Mỹ bất mãn nói:
- Đánh còn chưa đánh, tướng quân kêu tôi rút lui tức là diệt uy phong của quân Đại Tuỳ ta. Ta cảm thấy…
- Ngươi không cần cảm thấy!
Lý Hiếu Tông quay đầu nhìn thẳng vào mắt Phan Mỹ, lạnh giọng nói:
- Ngươi có còn nhớ luật quân Đại Tuỳ không? Ta là chủ tướng, mệnh lệnh của ta ngươi ngoài việc phục tùng ra không có lựa chọn nào hết.
- Tôi…
Phan Mỹ ngẩn người, rồi sau đó căm tức ôm quyền nói:
- Thuộc hạ tuân lệnh.
Triệu Sâm kéo y một cái từ phía sau, nhìn y một cái, ra dấu y đừng tranh cãi nữa. Phan Mỹ tức giận dẫm chân, quay đầu đi điểm nhân mã.
- Tuổi trẻ nóng nảy là chuyện khó tránh.
Triệu Sâm cười cười với Lý Hiếu Tông rồi nói:
- Tướng quân đừng để ý, cẩn thận một chút, thế nào cũng không sai đâu. Trận chiến này rất quan trọng, quyết định của tướng quân không có vấn đề gì cả.
- Vấn đề ở chỗ.
Lý Hiếu Tông khẽ thở dài:
- Rất nhiều người xem chiến tranh quá đơn giản rồi.
Ngay lúc này, đội ngũ kỵ binh của Mông Nguyên phía đối diện đột nhiên chia ra một nhóm khoảng mười mấy kỵ binh phóng nhanh tới bên này. Lý Hiếu Tông hạ lệnh cung thủ đừng bắn, để cho những kỵ binh đó đi tới. Không lâu sau, kỵ binh Mãn Đô Kỳ dừng lại trước quân Tuỳ ba mươi mét. Thập phu trưởng dẫn đầu dùng ngôn ngữ người Hán hô lớn:
- Ai là Tướng quân lĩnh quân, Mãn Đô Lang đại nhân cần nói chuyện với ngươi!
- To gan!
Lữ Suất Đại Tuỳ đứng trước trận địa hô lớn:
- Còn không lui ra sau, chém không tha!
Lý Hiếu Tông thúc ngựa đi về phía trước, đi tới trước trận thì giật cương dừng chiến mã lại. Ra dấu cho sĩ binh đừng rat ay, y ngẩng đầu nói với kỵ binh Mãn Đô Kỳ cách đó không xa:
- Ta là Nha tướng Đại Tuỳ Lý Hiếu Tông, kêu Mãn Đô Lang ra đây.
Vừa dứt lời, mười mấy kỵ binh tách ra hai bên, một kỵ binh chậm rãi đi ra từ phía sau. Mông Nguyên rất nhiều chiến mã nhưng không có nhiều khoáng sản, nên đồ sắt vô cùng quý giá. Chỉ có Tướng quân cấp cao, mới được pháp mặc giáp sắt, cho dù là Thiên Phu trưởng, cũng chỉ có thể mặc giáp da.
Người đó thúc ngựa đi đến phía trước, dùng lễ nghi Đại Tuỳ chào Lý Hiếu Tông, rồi ôm quyền nói:
- Ta chính là tướng thủ thành Niết Bàn, Mãn Đô Lang, nghe danh Lý Tướng quân đã lâu.
- Mãn Đô Tướng quân.
Lý Hiếu Tông cũng ôm quyền hoàn lễ.
- Lý Tướng quân, đột nhiên đem quân xông vào lãnh thổ Mông Nguyên ta, có phải nên cho ta một lý do không?
Mãn Đô Lang hỏi.
Lý Hiếu Tông cao giọng nói:
- Tướng quân hà tất biết mà còn hỏi? Vào đêm của một năm trước, kỵ binh Mông Nguyên của ngươi tập kích thành Phàn Cố, tàn sát hơn ngàn bá tánh nước ta.Món nợ máu này thế nào cũng phải trả. Hp6m nay Lý mỗ đem quân tới đây, chính là muốn Mãn Đô tướng quân thanh toaq1n món nợ này. Nếu Tướng quân bằng lòng đem ra ba ngàn cái đầu người trả nợ, Lý mỗ lập tức rút binh.
- Ai cũng nói người Đại Tuỳ vô sỉ, quả nhiên là như vậy.
Mãn Đô Lang tuổi khảng ba mươi, râu lá lùm xùm, thân hình cao to, y cười lạnh:
- Người Mông Nguyên ta tuân thủ Hiệp ước mà Đại Hán ký kết với Hoàng Đế các ngươi, không từng có một binh sĩ vượt qua biên giới. Ngươi nói người của bọn ta tàn sát thành Phàn Cố, có chứng cứ gì không? Những lời vô căn cứ như thế chỉ có thể lừa được trả con, không nói cũng thôi. Nếu ta nói người Tuỳ các ngươi tàn sát thành Niết Bàn, có phải ta cũng có thể đem quân vượt Thanh Hạp tiến thẳng đến Phàn Cố?
- Đương nhiên là được.
Lý Hiếu Tông mỉm cười nói:
- Nhưng bây giờ người đòi nợ là ta.
- Nếu muốn khai chiến, không lẽ Đại Tuỳ các ngươi không hạ chiến thư trước sao?
Mãn Đô Lang cao giọng nói:
- Người Tuỳ các ngươi tự xưng là “lễ nghi chi bang”, không lẽ chỉ biết chơi trò đánh lén?
- Chiến thư?
Lý Hiếu Tông lắc đầu nói:
- Ta đến để đòi nợ, hà tất cần đến chiến thư?
Mãn Đô Lang cười lạnh:
- Người Tuỳ các ngươi luôn miệng nói ra quân phải có lý do, không có lý do gì tuỳ tiện khai chiến, không lẽ bá tánh Đại Tuỳ lại đồng ý sao? Nên biết địch thủ lần này của các ngươi, không phải loại tiểu quốc yếu ớt như Thương quốc, mà là Đế quốc Mông Nguyên mạnh nhất thế gian! Nếu kkho6ng có một lý do chính đáng, chỉ sợ bá tánh của các ngươi cũng sẽ không đồng ý.
- Lí do thì ta đã nói rồi.
Lý Hiếu Tông nói:
- Các ngươi giết ba ngàn bá tánh binh sĩ của Phàn Cố ta, Hoàng Đế Bệ Hạ ta đã chiếu cố thiên hạ. Ngươi đoán xem… bá tánh sẽ như thế nào?
Mãn Đô Lang thở dài:
- Thì ra… Lời nói dối trước đó của ngươi không phải nói cho ta nghe, mà là Hoàng Đế các ngươi nói cho người dân của mình nghe. Chiến tranh do lời nói dối mà ra, các ngươi thua chắc rồi.
Lý Hiếu Tông cười nói:
- Thắng bại không phải do ngươi quyết định.
Y nói xong câu này, quay đầu nói với Triệu Sâm:
- Mau kêu người nói với Phan Mỹ, Mãn Đô Lang ở đây kéo dài thời gian, chắc chắn là có âm mưu gì đó, nói với y nhất định phải tử thủ hạp cốc.
Ngay lúc này, phía hạp cốc đột nhiên truyền đến tiếng giết nhau, khiến cho tim ai cũng đột nhiên đập nhanh hơn.
- Kinh ngạc lắm sao?
Mãn Đô Lang ha hả cười to:
- Đã nói người Tuỳ các ngươi quỷ kế đa đoan, ta thấy cũng chỉ là những kẻ ngốc cuồng ngông kiêu ngạo! Đường lui của các ngươi đã bị cắt đứt, đầu hàng… ta cũng không tha cho các ngươi con đường sống.
----------oOo----------
/802
|