*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Sau khi Kỷ Thận Ngữ biết được hẹn ước của Lương Hạc Thừa và Trương Tư Niên thì cảm giác rất áp lực, cái nghề này, khó tránh khỏi tranh cao thấp với người khác, huống hồ cậu cũng kiêu ngạo hết phần thiên hạ. Nhưng cậu có một ưu điểm, kiêu ngạo nhưng không khinh địch, sau khi nghe kể về những sự tích của Trương Tư Niên, cũng không dám khinh thường đồ đệ của đối phương.
Quan trọng nhất là, việc này liên quan đến mặt mũi của Lương Hạc Thừa, cậu sợ ông lão thua sẽ lúng túng lắm.
Một khối thanh ngọc ra được hai tác phẩm, ngọc đồng tử không được ngừng điêu khắc, còn phải tiến hành mấy chục bước làm cũ, lò hương thể tích lớn, đạt tới độ khó trước nay chưa từng có. Kỷ Thận Ngữ trong lúc nhất thời sứt đầu mẻ trán, hận không thể sinh ra ba đầu sáu tay.
Cơm tối trên bàn, Đinh Nhĩ Hòa khoan thai đến chậm, giải thích cửa hàng số hai xẩm tối có một khách hàng cũ tới, vì một cái bình phong làm phiền đến bây giờ. Đinh Duyên Thọ vội vàng nói vất vả rồi, Đinh Nhĩ Hòa liền nhân tiện nói về chất ngọc của mình, giao lưu với Đinh Duyên Thọ nửa ngày.
Mọi người cùng bắt đầu ăn, Đinh Hán Bạch hôm nay cũng bận rộn trong cửa hàng, còn ngày đêm đẩy nhanh tốc độ hai cái đế cắm hoa ngọc lan, bởi vậy ăn mau cho xong. Hai vị đồ đệ còn lại cũng không tự do lắm, đặc biệt là Kỷ Thận Ngữ, ban ngày cậu đi học, buổi tối liều sống liều chết đẩy nhanh tốc độ, hoàn toàn không đến tiệm hỗ trợ.
Thật ra cũng không cần gấp, nhưng cậu còn phân thời gian công sức để làm ngọc đồng tử, liên tục bị chột dạ.
Đinh Hán Bạch thành thói, lại dùng cùi chỏ húc người bên cạnh, lúc này không phản ứng, quay đầu thấy Kỷ Thận Ngữ vùi đầu trong bát ngẩn ngơ. Anh gắp một miếng gừng, muốn chơi xấu: “Ăn đi, nghĩ gì thế.”
Kỷ Thận Ngữ giật mình nhận lấy, nhai nhai một hồi mặt nhíu lại, nhổ ra húp một hớp canh. Khóe mắt thoáng nhìn Đinh Hán Bạch đang cười trên sự đau khổ của người khác, cậu không nổi nóng, trái lại nhỏ giọng hỏi: “Sư ca, ban ngày anh đến tiệm, không cần đi làm sao?”
Đinh Hán Bạch cây ngay không sợ chết đứng: “Lần đầu tiên cậu thấy tôi cúp à?”
Lời này làm người ta phải im bặt, Kỷ Thận Ngữ mãi đến tận đêm khuya lên giường cũng còn yên ắng. Cậu nằm thẳng suy nghĩ, mọi việc phân ra nặng nhẹ, trước mắt làm cái quan trọng nhất, còn cái nghề phụ này nên để từ từ.
Cậu không hề ủ rũ, ngược lại rất có chủ kiến, hôm sau học tiết ngữ văn xong liền trốn.
Ngọc đồng tử có đầu nhỏ, điêu khắc đối với Kỷ Thận Ngữ mà nói cũng không gọi là khó, cậu từ bỏ phương pháp của Kỷ Phương Hứa, làm theo quy trình truyền thống khắc thô để ra phôi, rồi mới đi chi tiết và đánh bóng, sau khi hoàn thành mới bắt đầu tiến hành quá trình làm cũ phiền phức.
Cứ như vậy, ngày này sang ngày khác cậu đều trốn học đến chỗ Lương Hạc Thừa, mãi đến khi ngọc đồng tử hoàn thành.
Lương Hạc Thừa còn kích động hơn cả đồ đệ, đôi tay ông tạo ra bao nhiêu món đồ, vốn cho là những đồ vật chạm khắc ngọc sẽ trở thành tiếc nuối cả đời, lại không nghĩ rằng mộng đẹp lúc sinh thời đã thành sự thật.
“Đồ đệ?” Ông gọi.
Kỷ Thận Ngữ không có động tĩnh, tay không chống đỡ nổi nữa, gục xuống bàn ngủ, buổi tối còn phải làm bộ tan học đến Ngọc Tiêu Ký hỗ trợ.
Lại một ngày, Lương Hạc Thừa đeo chiếc túi cũ rích đạp xe ba bánh, xuyên qua màn sương mù sáng sớm, đến chợ đồ cổ bày hàng. Lúc này ông đến còn sớm, may mắn chiếm một vị trí rất tốt, ngồi ở trên ghế nhỏ giấu tay, giấu ngón út, chờ mặt trời lên.
Không lâu sau trời sáng hẳn, tất cả số đồ cổ quý giá đều tỏa sáng, đã đẹp lại càng thêm sáng loáng, bao nhiêu khuyết điểm cũng không giấu được. Người dần dần nhiều hơn, Lương Hạc Thừa không cố gắng tìm kiếm, dù sao lão già kia luôn đeo kính râm, cực kì dễ thấy.
Có một cô gái đến, hỏi: “Sư phụ, cái chậu xanh lục trong suốt này đẹp thật đấy, bốn bề vuông vức, để làm gì thế?”
Lương Hạc Thừa nói: “Chậu thủy tiên (*) cạnh vuông, men xanh lục trong suốt thì mới nổi bật màu sắc của thủy tiên.”
(*) chậu thủy tiên: chậu dùng để trồng hoa thủy tiên
Phái đẹp yêu hoa, chị gái cầm lên xem qua xem lại, nhìn thấy chữ khắc: “Ồ, niên chế Ung Chính.”
Lương Hạc Thừa thẳng thắn: “Dân quốc phỏng chế.” Nghề này làm gì mà thẳng thắn, đồ vật có giả cũng không địch nổi một cái miệng lừa người. Chậu thủy tiên ông đem ra bán kiếm tiền thôi, làm từ mấy năm trước, lúc đó làm để trồng tỏi tươi, ăn thịt xào tỏi.
Cuối cùng cái chậu cũng bán đi, chị gái vừa rời đi, người thích đeo kính râm đến. Lương Hạc Thừa đếm tiền được một nửa thì cất đi, nhắm mắt dưỡng thần, không bắt chuyện với Trương Tư Niên.
Chỉ cần hay cắm rễ ở chợ đồ cổ, thì đều quen mặt nhau, Trương Tư Niên đương nhiên cũng bị người ta nhận ra. Nhưng ông không thích như vậy, mắt mù xấu xí, ông ghét bị đánh giá.
Cách thấu kính, ông vừa nhìn vừa nói: “Nào bình nào lọ nào khay, không phải là để xem tay nghề đồ đệ của ông sao? Mang nhiều món như vậy, ông không mệt à?”
Đương nhiên không thể chỉ mang ngọc đồng tử, chờ lúc đó nói cho đối phương biết đây là đồ đệ mình làm, là hàng nhái. Trộn lẫn các món với nhau, thử giám định coi. Lương Hạc Thừa đáp: “Đạp ba cuốc, không mệt, an nhàn hơn đẩy xe ba gác nhiều.”
Lại bắt đầu cạnh khóe, Trương Tư Niên bắt đầu xem từ khay lá sen (*), sát bên cạnh là ngọc đồng tử. Ông xem một vòng, cuối cùng cầm ngọc đồng tử lên, hỏi trước: “Đồ đệ ông tự làm hay là có ké của ông nữa?”
(*) khay lá sen:
Lương Hạc Thừa nhấc chân đạp Trương Tư Niên, nhưng đáng tiếc tuổi già sức yếu: “Không có tôi.”
Trương Tư Niên tiếp tục xem, xem xong cũng gác lại, khụ một tiếng. “Ống đựng bút hoa mai, thật.” Lúc ông nói, âm thanh cực thấp, “Đồ gác tay bằng trúc, thật. Khay lá sen, nhái. Nghiên mực đá tùy dạng (*), nhái. Ngọc bội trơn bằng ngọc Hòa Điền, nhái.”
(*) nghiên mực đá tùy dạng: loại nghiên mực tùy thuộc vào hình dạng của đá
Đang lúc lựa chọn thật giả, kính râm của Trương Tư Niên hạ xuống sống mũi, lộ ra đôi mắt một sáng một tối. Cuối cùng, chỉ còn ngọc đồng tử đời Tống, ông bỗng nhiên nở nụ cười.
Ông biết Lương Hạc Thừa sẽ không điêu khắc, vậy theo lý đồ đệ của Lương Hạc Thừa hẳn là cũng không biết. Nhưng vật này ông nhìn ra là hàng nhái, nhưng trong tất cả những phương pháp ngụy tạo thì vết tích này giống như là tay nghề của Lương Hạc Thừa, vậy thì thú vị đấy.
Nếu như không phải đồ đệ làm, Lương Hạc Thừa thu thập có mưu đồ gì? Cho nên Trương Tư Niên cười, cười Lương Hạc Thừa vậy mà nhận được một đồ đệ biết điêu khắc. Ông hỏi: “Tôi nói này, đồ đệ kia của ông bao nhiêu tuổi rồi?”
Lương Hạc Thừa tùy tiện đáp: “Mười bảy.”
Trương Tư Niên nghĩ thầm: Tiền đồ vô lượng. Nghĩ đi nghĩ lại cảm thấy không hẳn, trò giỏi hơn thầy thì có làm sao, nhìn lại chính mình, rồi nhìn đối phương lúc này, lúc đó chẳng phải ăn cơm no đi dạo, ngày ngày tiêu pha sao?
Ông cầm ống đựng bút và khay lá sen, cùng ngọc đồng tử, trả tiền rời đi, trước khi đi vứt câu tiếp theo: “Đồ đệ cao tay của ông cũng không qua nổi cửa tôi, chờ coi có thể qua cửa đồ đệ tinh mắt của tôi không.”
Lương Hạc Thừa nhàn nhạt cười, ông là người trong nghề, Kỷ Thận Ngữ làm cái ngọc đồng tử này như thế nào ông biết rõ, đặt ở cái chợ này có thể doạ mấy phần mười người ông cũng biết. Trương Tư Niên là giới hạn cao nhất, những món cậu làm đem ra đều bị Trương Tư Niên giám định ra hết, tự nhiên cảm thấy ngọc đồng tử có vẻ giả hơn một chút.
Nhưng Trương Tư Niên cũng nói —— đồ đệ cao tay.
Hai người bọn họ đều tán thành đó là đồ đệ cao tay, cho nên ông vui vẻ ra mặt.
Cũng như thế, nếu như đồ đệ của Trương Tư Niên có thể giám định ra ngọc đồng tử, ông cũng thừa nhận đối phương là đồ đệ cao tay.
Trương Tư Niên ôm đồ về nhà, vừa vào đầu ngõ đã ngửi thấy mùi hương, đến cửa nhà hương vị càng nồng, là đồ ăn ngon của Truy Phượng lâu. Xốc màn cửa lên, Đinh Hán Bạch kéo ống tay áo dựa vào khung cửa, đầu ngón tay đỏ chót.
“Mấy ngày không lộ diện, hôm nay rảnh rồi à?” Ông hỏi.
“Không rảnh sao tới được?” Đinh Hán Bạch trước giờ đều không hiểu tôn sư trọng đạo, quay người chuẩn bị ăn cơm. Anh bận làm hai cái đế cắm hoa, buổi sáng tự mình giao cho khách hàng, cuối cùng cũng coi như có thể sống yên ổn lấy hơi.
Hai người dùng bữa uống rượu, Đinh Hán Bạch nhìn thấy túi đồ, thẳng thắn đặt đũa trước xuống xem đồ trước. Vừa mở ra, “Ống đựng bút khá tốt, nhưng con không thích hoa mai.” Chỉ liếc qua một lần, cũng không quay lại, anh tiếp tục nhìn, biểu cảm nhẹ nhàng thay đổi.
“Ngọc đồng tử này…” Đinh Hán Bạch nhìn chăm chú, tay áo hẹp sát y phục, trán hình trái xoan, tóc ngắn, đầu to cổ ngắn, hai tay nắm tay, anh nhìn kỹ mấy lần, giải quyết dứt khoát, “Đặc thù đều là thời Tống.”
Anh liếc mắt nhìn Trương Tư Niên, có chút nghi hoặc.
Trương Tư Niên há miệng lớn ăn, hàm hồ nói: “Cảm thấy thế nào?”
Đinh Hán Bạch nói: “Chạm nổi, sợi tóc và ngũ quan đều khắc chìm, mỗi nét đều nhọn, nếp y phục tỉ mỉ, mà hoàn toàn không có đường nét trùng lặp.” Anh im lặng, ngón tay đỏ lét chỉ ra vài điểm, “Một trong những phẩm chất của ngọc chính là nhuận, nếu vết tích sửa chữa không sâu và kéo dài thì có thể nhìn ra, nhưng cũng có thể sờ rất trơn mượt.”
Trương Tư Niên gật đầu, chờ lời sau.
“Cái này có thể rõ ràng sờ ra, hơn nữa không chỉ có một nét, chứng tỏ sửa chữa sau. Có khả năng trôi qua mấy triều đại, khó tránh khỏi va chạm, nhưng đường viền xung quanh dài nhất, quả thật hơi khéo đấy.” Đinh Hán Bạch đặt đồ xuống, “Nhưng cái đường dài nhất đó vừa vặn lại nằm ngay vị trí viền ố vàng, cho nên người này khắc xong rồi cắt bỏ một khối, phần thấm nước ở phía ngoài mặt cắt, sau khi đính lại thì mới tạo được hiệu quả thấm nước, vết sửa chữa chỉ là thủ thuật che mắt mà thôi.”
Trương Tư Niên bưng chung rượu lắc đầu, vừa lắc đầu vừa cười, lắc đầu là tiếc ông thua đồ đệ của Lương Hạc Thừa, cười là đắc ý đồ đệ của mình quá giỏi. Đinh Hán Bạch nhìn thấu, hiếm khi khiêm tốn: “Nếu như có dư thời gian, người thợ làm món này sửa lại hai lần, chắc là con cũng sẽ không nhìn ra được.”
Trương Tư Niên nói: “Một thợ khác, mới mười bảy.”
Đinh Hán Bạch cả kinh đứng phắt dậy, cầm lấy ngọc đồng tử lên nhìn ngắm. Anh sở dĩ chú ý tới vật này, là bởi vì mới đầu anh đã bị tài nghệ điêu khắc tinh xảo thu hút, không cần biết thật giả, đối với lĩnh vực điêu khắc thì đều là thượng đẳng. Nhưng không nghĩ tới chính là, ngoài điêu khắc còn có một đống kĩ thuật cao siêu khác, vậy mà lại xuất phát từ tay của một người trẻ tuổi.
Anh bội phục trong lòng, không tự chủ hỏi thăm Trương Tư Niên, nhưng đáng tiếc Trương Tư Niên cũng chỉ biết tuổi tác, mà tuổi tác còn không chuẩn xác.
Đồ vật lục tục bán đi người nhẹ nhõm hẳn, Lương Hạc Thừa mang theo tiền ngồi xe đến cổng trường trung học số 6, chờ Kỷ Thận Ngữ buổi trưa tan học cùng nhau ăn cơm.
Kỷ Thận Ngữ nghĩ đến chuyện này, sau khi biết được bị Trương mù nhìn ra thật giả thì tự tin giảm đi nhiều, nhất thời không còn khẩu vị. Lúc tách ra Lương Hạc Thừa kín đáo đưa cho cậu một bao tiền, khối thanh ngọc kia là của Ngọc Tiêu Ký, nếu như cần thiết thì bồi thường, không cần thì cho cậu tiêu.
Kỷ Thận Ngữ nhận lấy, lấy tiền bồi thường ra, còn lại trả cho Lương Hạc Thừa mua thuốc. Có lẽ là gần đây quá mệt mỏi, lại nhớ tới ngọc đồng tử không qua được pháp nhãn của đối phương, cho nên buổi chiều lên lớp liên tục ngẩn ngơ.
Chờ tiếng chuông vừa vang, lần đầu tiên trong đời cậu bị gọi lên văn phòng, vào lớp không chuyên tâm là phụ, chủ yếu là gần đây cúp học hơi nhiều, thù mới nợ cũ, giáo viên bảo cậu ngày mai gọi phụ huynh đến.
Tuổi mụ mười bảy, Kỷ Thận Ngữ từ trong ra ngoài đều chột dạ, lớn tướng như vậy lần đầu tiên bị mời phụ huynh.
Cậu phải nói làm sao? Nói với ai?
Đầu tiên gạch bỏ Đinh Duyên Thọ, Kỷ Thận Ngữ nào dám cho Đinh Duyên Thọ biết, cậu cũng không có mặt mũi để cho Đinh Duyên Thọ biết. Khương Sấu Liễu cũng không được, sư mẫu biết là sư phụ sẽ biết, sau khi tan học cậu lo sợ suốt dọc đường, tâm tư chuyển tới Khương Thải Vi.
Không được, Khương Thải Vi đối xử với cậu tốt như vậy, cậu sợ Khương Thải Vi thất vọng.
Kỷ Thận Ngữ hồn bay phách lạc về đến nhà, ủ rũ giống y như đám hoa hồng héo tàn, giương mắt nhìn thấy cánh cửa phòng bên, trong lòng tuôn ra hai chữ “Cứu tinh”. Thật ra cậu đã nghĩ đến Đinh Hán Bạch từ lâu rồi, nhưng mà Đinh Hán Bạch chắc chắn sẽ mắng chửi cậu, cậu lại có chút sợ.
Trong phòng, Đinh Hán Bạch mở mắt ra đã hoàng hôn, ngồi dậy gật gù, thoáng nhìn khe cửa có bóng người lấp ló, chẳng đáng sợ chút nào. Anh khoanh tay chờ, mắt nhìn khe cửa dần dần mở rộng, Kỷ Thận Ngữ nghiêng đầu đi vào.
Anh ho nhẹ: “Cứ như ăn trộm vậy.”
Kỷ Thận Ngữ đóng cửa lại không tới gần: “Sư ca, ngày mai anh có rảnh không?”
Đinh Hán Bạch nói: “Rảnh cũng không chơi với cậu, không rảnh lại càng không chơi với cậu.” Vỗ vỗ bên giường, chờ Kỷ Thận Ngữ đi tới ngồi xuống, “Lò hương ra phôi xong lại đặt trong phòng cơ khí, cậu chờ tôi khắc cho cậu à?”
Kỷ Thận Ngữ vội vàng phủ nhận, nhìn chằm chằm tua rua trên chao đèn, cảm thấy căng thẳng. “Sư ca, ngày mai có thể tới trường với em không?” Biểu cảm lúng ta lúng túng, ngữ khí yểu xìu, “Thầy… Thầy bảo mời phụ huynh đến.”
Đinh Hán Bạch lập tức ngồi thẳng lưng, mời phụ huynh? Anh chỉ từng thấy học sinh yếu bị mời phụ huynh, chưa từng thấy hạng nhất cũng bị mời phụ huynh. Anh lại nhìn dáng vẻ kia của Kỷ Thận Ngữ, giống như sắp khóc tới nơi, chắc là lại phạm lỗi rồi.
“Cậu chắc không phải…” anh do dự, “Không phải là trêu đùa bạn học nữ, bén lửa rồi chứ?”
Kỷ Thận Ngữ giật mình nói: “Không phải, là bởi vì em không nghiêm túc nghe giảng, với cả, còn trốn học quá nhiều…”
Đinh Hán Bạch còn kinh ngạc hơn: “Cậu trốn học? Cậu không quen nơi này trốn học làm gì hả?”
Kỷ Thận Ngữ nói quanh co: “Cũng là bởi vì không quen, thấy mới mẻ, có nhiều nơi để đi chơi…” Cậu nhìn ánh mắt Đinh Hán Bạch, không cách nào nói hết câu, ngoại trừ né tránh thì không có biện pháp nào chống đỡ.
Thật ra đối với Đinh Hán Bạch trốn học không là gì cả, nhưng không có so sánh thì không có đau thương.
Đinh Hán Bạch chỉ vào trán Kỷ Thận Ngữ: “Nhìn mặt ngoan ngoãn thế này mà trốn học à? Cậu đã sắp mười bảy rồi, người ta mười bảy đã có thể…” Anh dừng lại, miễn cưỡng nuốt xuống, “Người so với người, tức chết tôi luôn!” (*)
(*) TQ có câu “Người so với người, tức chết người”, còn anh Bạch sửa lại là “tức chết tôi”
Kỷ Thận Ngữ truy hỏi: “Người ta là ai?”
Đinh Hán Bạch đáp: “Là người cậu không thể sánh được, cũng cùng mười bảy tuổi, người ta không biết lợi hại đến cỡ nào, cậu còn không thấy ngại mà tìm tòi vấn đề này à? Bài tập làm xong chưa? Lò hương khi nào khắc?”
Mặt trời bên ngoài đã mất dạng, tối om om, Kỷ Thận Ngữ bị mắng đến đỏ hết hai má. Tiếng mắng ngừng lại, nếu cậu muốn sống yên ổn thì không nên nói gì, nhưng nhịn mãi cũng không nhịn được, nhỏ giọng hỏi: “Có phải là anh ghét em không?”
Cậu hơi run lên: “Bởi vì em không đi học đàng hoàng cho nên ghét em, em sẽ thay đổi. Nhưng nếu như bởi vì anh gặp được người giỏi hơn em, sau khi so sánh thì ghét em, em phải làm sao đây?”
Đinh Hán Bạch tĩnh tâm, hơi thở cũng ổn định, trong lòng lại khẽ khàng hỗn loạn, đáp không ra chữ nào.
Kỷ Thận Ngữ đứng lên, hoảng sợ đi lòng vòng trong phòng, sau đó mới đi ra hướng cửa, cực kỳ giống như một chú chim nhỏ không tìm được tổ. Đinh Hán Bạch nhìn thấy hết, cắn chặt răng không gây tiếng động, dạy bảo xong lại dỗ dành, vậy còn có tác dụng gì nữa.
Tiếng bước chân đi xa, ngoài phòng cứ yên tĩnh như vậy.
Đinh Hán Bạch nằm đến tám giờ rưỡi, đi ra phòng ngủ thấy khu nam đèn sáng, Kỷ Thận Ngữ ở bên trong làm việc. Anh đến phòng khách tiền viện xem phim, xem phim võ hiệp hơn một tiếng đồng hồ, ai đánh chết ai cũng không chú ý.
Mười giờ trở về tiểu viện, khu nam vẫn sáng.
Đinh Hán Bạch tắm xong tản bộ ngoài hiên, mệt mỏi liền dựa vào lan can buồn bực, cứ dằn vặt như vậy đến hừng đông, khu nam vẫn sáng. Anh trở về phòng ngủ, lật chăn, túm gối, mãi mà vẫn chưa gặp được Chu Công.
Trằn trọc đến hơn hai giờ, anh đi tiểu đêm, đi nửa đường giật mình thấy ánh đèn bên trong khu nam.
Máy móc trong phòng cơ khí đã tắt, nửa tiếng trước Kỷ Thận Ngữ đã yên lặng, ngày đêm cực nhọc không thể yên ổn nghỉ ngơi, mệt quá cậu gục xuống ngủ.
Đinh Hán Bạch rốt cuộc nhớ ra, Kỷ Thận Ngữ mấy ngày qua đều chong đèn khắc khối thanh ngọc, lò hương quá phức tạp, ra phôi cũng phải tỉ mỉ. Đẩy cửa ra, anh bật cười, đi tới rút dao trong tay cậu ra. “Dậy đi.” Anh vỗ lên mặt cậu, rồi đẩy vai, “Về phòng mà ngủ, Kỷ Trân Châu?”
Kỷ Thận Ngữ bị lay tỉnh, nằm sấp lâu tê dại ngồi không yên, nghiêng người dựa vào lòng Đinh Hán Bạch. Vừa ấm áp vừa thoải mái, cậu mơ màng, nhắm mắt lại.
Đinh Hán Bạch hiểu lầm nói: “Mèo lười, muốn tôi bế cậu à?”
Anh khom lưng đỡ mông cậu, bế cậu lên, tắt đèn đóng cửa, dưới ánh trăng chiếu vào viện, đi qua vườn hoa hồng thưa thớt. Từ khu nam đến khu bắc, rõ ràng tận mười mấy bước, mà lại mau chóng chỉ như một cái chớp mắt.
Kỷ Thận Ngữ thở nhẹ: “Anh thử mắng em nữa coi.”
Đinh Hán Bạch nói: “Không phục à?”
Giọng điệu Kỷ Thận Ngữ rất đáng thương: “Anh đừng ghét em.”
Cơm nước Giang Nam sao nuôi ra người như vậy được nhỉ, chuyên phá hỏng phòng bị của người khác, làm mềm lòng người khác, Đinh Hán Bạch bế Kỷ Thận Ngữ vào phòng, còn mắng cái gì nữa, chỉ có thể im lặng đắp chăn.
Ba giờ, anh trở về phòng bắt đầu chọn lựa quần áo để đi gặp giáo viên, cẩn thận cứ như sắp đi gặp cha mẹ vợ.
Sau khi Kỷ Thận Ngữ biết được hẹn ước của Lương Hạc Thừa và Trương Tư Niên thì cảm giác rất áp lực, cái nghề này, khó tránh khỏi tranh cao thấp với người khác, huống hồ cậu cũng kiêu ngạo hết phần thiên hạ. Nhưng cậu có một ưu điểm, kiêu ngạo nhưng không khinh địch, sau khi nghe kể về những sự tích của Trương Tư Niên, cũng không dám khinh thường đồ đệ của đối phương.
Quan trọng nhất là, việc này liên quan đến mặt mũi của Lương Hạc Thừa, cậu sợ ông lão thua sẽ lúng túng lắm.
Một khối thanh ngọc ra được hai tác phẩm, ngọc đồng tử không được ngừng điêu khắc, còn phải tiến hành mấy chục bước làm cũ, lò hương thể tích lớn, đạt tới độ khó trước nay chưa từng có. Kỷ Thận Ngữ trong lúc nhất thời sứt đầu mẻ trán, hận không thể sinh ra ba đầu sáu tay.
Cơm tối trên bàn, Đinh Nhĩ Hòa khoan thai đến chậm, giải thích cửa hàng số hai xẩm tối có một khách hàng cũ tới, vì một cái bình phong làm phiền đến bây giờ. Đinh Duyên Thọ vội vàng nói vất vả rồi, Đinh Nhĩ Hòa liền nhân tiện nói về chất ngọc của mình, giao lưu với Đinh Duyên Thọ nửa ngày.
Mọi người cùng bắt đầu ăn, Đinh Hán Bạch hôm nay cũng bận rộn trong cửa hàng, còn ngày đêm đẩy nhanh tốc độ hai cái đế cắm hoa ngọc lan, bởi vậy ăn mau cho xong. Hai vị đồ đệ còn lại cũng không tự do lắm, đặc biệt là Kỷ Thận Ngữ, ban ngày cậu đi học, buổi tối liều sống liều chết đẩy nhanh tốc độ, hoàn toàn không đến tiệm hỗ trợ.
Thật ra cũng không cần gấp, nhưng cậu còn phân thời gian công sức để làm ngọc đồng tử, liên tục bị chột dạ.
Đinh Hán Bạch thành thói, lại dùng cùi chỏ húc người bên cạnh, lúc này không phản ứng, quay đầu thấy Kỷ Thận Ngữ vùi đầu trong bát ngẩn ngơ. Anh gắp một miếng gừng, muốn chơi xấu: “Ăn đi, nghĩ gì thế.”
Kỷ Thận Ngữ giật mình nhận lấy, nhai nhai một hồi mặt nhíu lại, nhổ ra húp một hớp canh. Khóe mắt thoáng nhìn Đinh Hán Bạch đang cười trên sự đau khổ của người khác, cậu không nổi nóng, trái lại nhỏ giọng hỏi: “Sư ca, ban ngày anh đến tiệm, không cần đi làm sao?”
Đinh Hán Bạch cây ngay không sợ chết đứng: “Lần đầu tiên cậu thấy tôi cúp à?”
Lời này làm người ta phải im bặt, Kỷ Thận Ngữ mãi đến tận đêm khuya lên giường cũng còn yên ắng. Cậu nằm thẳng suy nghĩ, mọi việc phân ra nặng nhẹ, trước mắt làm cái quan trọng nhất, còn cái nghề phụ này nên để từ từ.
Cậu không hề ủ rũ, ngược lại rất có chủ kiến, hôm sau học tiết ngữ văn xong liền trốn.
Ngọc đồng tử có đầu nhỏ, điêu khắc đối với Kỷ Thận Ngữ mà nói cũng không gọi là khó, cậu từ bỏ phương pháp của Kỷ Phương Hứa, làm theo quy trình truyền thống khắc thô để ra phôi, rồi mới đi chi tiết và đánh bóng, sau khi hoàn thành mới bắt đầu tiến hành quá trình làm cũ phiền phức.
Cứ như vậy, ngày này sang ngày khác cậu đều trốn học đến chỗ Lương Hạc Thừa, mãi đến khi ngọc đồng tử hoàn thành.
Lương Hạc Thừa còn kích động hơn cả đồ đệ, đôi tay ông tạo ra bao nhiêu món đồ, vốn cho là những đồ vật chạm khắc ngọc sẽ trở thành tiếc nuối cả đời, lại không nghĩ rằng mộng đẹp lúc sinh thời đã thành sự thật.
“Đồ đệ?” Ông gọi.
Kỷ Thận Ngữ không có động tĩnh, tay không chống đỡ nổi nữa, gục xuống bàn ngủ, buổi tối còn phải làm bộ tan học đến Ngọc Tiêu Ký hỗ trợ.
Lại một ngày, Lương Hạc Thừa đeo chiếc túi cũ rích đạp xe ba bánh, xuyên qua màn sương mù sáng sớm, đến chợ đồ cổ bày hàng. Lúc này ông đến còn sớm, may mắn chiếm một vị trí rất tốt, ngồi ở trên ghế nhỏ giấu tay, giấu ngón út, chờ mặt trời lên.
Không lâu sau trời sáng hẳn, tất cả số đồ cổ quý giá đều tỏa sáng, đã đẹp lại càng thêm sáng loáng, bao nhiêu khuyết điểm cũng không giấu được. Người dần dần nhiều hơn, Lương Hạc Thừa không cố gắng tìm kiếm, dù sao lão già kia luôn đeo kính râm, cực kì dễ thấy.
Có một cô gái đến, hỏi: “Sư phụ, cái chậu xanh lục trong suốt này đẹp thật đấy, bốn bề vuông vức, để làm gì thế?”
Lương Hạc Thừa nói: “Chậu thủy tiên (*) cạnh vuông, men xanh lục trong suốt thì mới nổi bật màu sắc của thủy tiên.”
(*) chậu thủy tiên: chậu dùng để trồng hoa thủy tiên
Phái đẹp yêu hoa, chị gái cầm lên xem qua xem lại, nhìn thấy chữ khắc: “Ồ, niên chế Ung Chính.”
Lương Hạc Thừa thẳng thắn: “Dân quốc phỏng chế.” Nghề này làm gì mà thẳng thắn, đồ vật có giả cũng không địch nổi một cái miệng lừa người. Chậu thủy tiên ông đem ra bán kiếm tiền thôi, làm từ mấy năm trước, lúc đó làm để trồng tỏi tươi, ăn thịt xào tỏi.
Cuối cùng cái chậu cũng bán đi, chị gái vừa rời đi, người thích đeo kính râm đến. Lương Hạc Thừa đếm tiền được một nửa thì cất đi, nhắm mắt dưỡng thần, không bắt chuyện với Trương Tư Niên.
Chỉ cần hay cắm rễ ở chợ đồ cổ, thì đều quen mặt nhau, Trương Tư Niên đương nhiên cũng bị người ta nhận ra. Nhưng ông không thích như vậy, mắt mù xấu xí, ông ghét bị đánh giá.
Cách thấu kính, ông vừa nhìn vừa nói: “Nào bình nào lọ nào khay, không phải là để xem tay nghề đồ đệ của ông sao? Mang nhiều món như vậy, ông không mệt à?”
Đương nhiên không thể chỉ mang ngọc đồng tử, chờ lúc đó nói cho đối phương biết đây là đồ đệ mình làm, là hàng nhái. Trộn lẫn các món với nhau, thử giám định coi. Lương Hạc Thừa đáp: “Đạp ba cuốc, không mệt, an nhàn hơn đẩy xe ba gác nhiều.”
Lại bắt đầu cạnh khóe, Trương Tư Niên bắt đầu xem từ khay lá sen (*), sát bên cạnh là ngọc đồng tử. Ông xem một vòng, cuối cùng cầm ngọc đồng tử lên, hỏi trước: “Đồ đệ ông tự làm hay là có ké của ông nữa?”
(*) khay lá sen:
Lương Hạc Thừa nhấc chân đạp Trương Tư Niên, nhưng đáng tiếc tuổi già sức yếu: “Không có tôi.”
Trương Tư Niên tiếp tục xem, xem xong cũng gác lại, khụ một tiếng. “Ống đựng bút hoa mai, thật.” Lúc ông nói, âm thanh cực thấp, “Đồ gác tay bằng trúc, thật. Khay lá sen, nhái. Nghiên mực đá tùy dạng (*), nhái. Ngọc bội trơn bằng ngọc Hòa Điền, nhái.”
(*) nghiên mực đá tùy dạng: loại nghiên mực tùy thuộc vào hình dạng của đá
Đang lúc lựa chọn thật giả, kính râm của Trương Tư Niên hạ xuống sống mũi, lộ ra đôi mắt một sáng một tối. Cuối cùng, chỉ còn ngọc đồng tử đời Tống, ông bỗng nhiên nở nụ cười.
Ông biết Lương Hạc Thừa sẽ không điêu khắc, vậy theo lý đồ đệ của Lương Hạc Thừa hẳn là cũng không biết. Nhưng vật này ông nhìn ra là hàng nhái, nhưng trong tất cả những phương pháp ngụy tạo thì vết tích này giống như là tay nghề của Lương Hạc Thừa, vậy thì thú vị đấy.
Nếu như không phải đồ đệ làm, Lương Hạc Thừa thu thập có mưu đồ gì? Cho nên Trương Tư Niên cười, cười Lương Hạc Thừa vậy mà nhận được một đồ đệ biết điêu khắc. Ông hỏi: “Tôi nói này, đồ đệ kia của ông bao nhiêu tuổi rồi?”
Lương Hạc Thừa tùy tiện đáp: “Mười bảy.”
Trương Tư Niên nghĩ thầm: Tiền đồ vô lượng. Nghĩ đi nghĩ lại cảm thấy không hẳn, trò giỏi hơn thầy thì có làm sao, nhìn lại chính mình, rồi nhìn đối phương lúc này, lúc đó chẳng phải ăn cơm no đi dạo, ngày ngày tiêu pha sao?
Ông cầm ống đựng bút và khay lá sen, cùng ngọc đồng tử, trả tiền rời đi, trước khi đi vứt câu tiếp theo: “Đồ đệ cao tay của ông cũng không qua nổi cửa tôi, chờ coi có thể qua cửa đồ đệ tinh mắt của tôi không.”
Lương Hạc Thừa nhàn nhạt cười, ông là người trong nghề, Kỷ Thận Ngữ làm cái ngọc đồng tử này như thế nào ông biết rõ, đặt ở cái chợ này có thể doạ mấy phần mười người ông cũng biết. Trương Tư Niên là giới hạn cao nhất, những món cậu làm đem ra đều bị Trương Tư Niên giám định ra hết, tự nhiên cảm thấy ngọc đồng tử có vẻ giả hơn một chút.
Nhưng Trương Tư Niên cũng nói —— đồ đệ cao tay.
Hai người bọn họ đều tán thành đó là đồ đệ cao tay, cho nên ông vui vẻ ra mặt.
Cũng như thế, nếu như đồ đệ của Trương Tư Niên có thể giám định ra ngọc đồng tử, ông cũng thừa nhận đối phương là đồ đệ cao tay.
Trương Tư Niên ôm đồ về nhà, vừa vào đầu ngõ đã ngửi thấy mùi hương, đến cửa nhà hương vị càng nồng, là đồ ăn ngon của Truy Phượng lâu. Xốc màn cửa lên, Đinh Hán Bạch kéo ống tay áo dựa vào khung cửa, đầu ngón tay đỏ chót.
“Mấy ngày không lộ diện, hôm nay rảnh rồi à?” Ông hỏi.
“Không rảnh sao tới được?” Đinh Hán Bạch trước giờ đều không hiểu tôn sư trọng đạo, quay người chuẩn bị ăn cơm. Anh bận làm hai cái đế cắm hoa, buổi sáng tự mình giao cho khách hàng, cuối cùng cũng coi như có thể sống yên ổn lấy hơi.
Hai người dùng bữa uống rượu, Đinh Hán Bạch nhìn thấy túi đồ, thẳng thắn đặt đũa trước xuống xem đồ trước. Vừa mở ra, “Ống đựng bút khá tốt, nhưng con không thích hoa mai.” Chỉ liếc qua một lần, cũng không quay lại, anh tiếp tục nhìn, biểu cảm nhẹ nhàng thay đổi.
“Ngọc đồng tử này…” Đinh Hán Bạch nhìn chăm chú, tay áo hẹp sát y phục, trán hình trái xoan, tóc ngắn, đầu to cổ ngắn, hai tay nắm tay, anh nhìn kỹ mấy lần, giải quyết dứt khoát, “Đặc thù đều là thời Tống.”
Anh liếc mắt nhìn Trương Tư Niên, có chút nghi hoặc.
Trương Tư Niên há miệng lớn ăn, hàm hồ nói: “Cảm thấy thế nào?”
Đinh Hán Bạch nói: “Chạm nổi, sợi tóc và ngũ quan đều khắc chìm, mỗi nét đều nhọn, nếp y phục tỉ mỉ, mà hoàn toàn không có đường nét trùng lặp.” Anh im lặng, ngón tay đỏ lét chỉ ra vài điểm, “Một trong những phẩm chất của ngọc chính là nhuận, nếu vết tích sửa chữa không sâu và kéo dài thì có thể nhìn ra, nhưng cũng có thể sờ rất trơn mượt.”
Trương Tư Niên gật đầu, chờ lời sau.
“Cái này có thể rõ ràng sờ ra, hơn nữa không chỉ có một nét, chứng tỏ sửa chữa sau. Có khả năng trôi qua mấy triều đại, khó tránh khỏi va chạm, nhưng đường viền xung quanh dài nhất, quả thật hơi khéo đấy.” Đinh Hán Bạch đặt đồ xuống, “Nhưng cái đường dài nhất đó vừa vặn lại nằm ngay vị trí viền ố vàng, cho nên người này khắc xong rồi cắt bỏ một khối, phần thấm nước ở phía ngoài mặt cắt, sau khi đính lại thì mới tạo được hiệu quả thấm nước, vết sửa chữa chỉ là thủ thuật che mắt mà thôi.”
Trương Tư Niên bưng chung rượu lắc đầu, vừa lắc đầu vừa cười, lắc đầu là tiếc ông thua đồ đệ của Lương Hạc Thừa, cười là đắc ý đồ đệ của mình quá giỏi. Đinh Hán Bạch nhìn thấu, hiếm khi khiêm tốn: “Nếu như có dư thời gian, người thợ làm món này sửa lại hai lần, chắc là con cũng sẽ không nhìn ra được.”
Trương Tư Niên nói: “Một thợ khác, mới mười bảy.”
Đinh Hán Bạch cả kinh đứng phắt dậy, cầm lấy ngọc đồng tử lên nhìn ngắm. Anh sở dĩ chú ý tới vật này, là bởi vì mới đầu anh đã bị tài nghệ điêu khắc tinh xảo thu hút, không cần biết thật giả, đối với lĩnh vực điêu khắc thì đều là thượng đẳng. Nhưng không nghĩ tới chính là, ngoài điêu khắc còn có một đống kĩ thuật cao siêu khác, vậy mà lại xuất phát từ tay của một người trẻ tuổi.
Anh bội phục trong lòng, không tự chủ hỏi thăm Trương Tư Niên, nhưng đáng tiếc Trương Tư Niên cũng chỉ biết tuổi tác, mà tuổi tác còn không chuẩn xác.
Đồ vật lục tục bán đi người nhẹ nhõm hẳn, Lương Hạc Thừa mang theo tiền ngồi xe đến cổng trường trung học số 6, chờ Kỷ Thận Ngữ buổi trưa tan học cùng nhau ăn cơm.
Kỷ Thận Ngữ nghĩ đến chuyện này, sau khi biết được bị Trương mù nhìn ra thật giả thì tự tin giảm đi nhiều, nhất thời không còn khẩu vị. Lúc tách ra Lương Hạc Thừa kín đáo đưa cho cậu một bao tiền, khối thanh ngọc kia là của Ngọc Tiêu Ký, nếu như cần thiết thì bồi thường, không cần thì cho cậu tiêu.
Kỷ Thận Ngữ nhận lấy, lấy tiền bồi thường ra, còn lại trả cho Lương Hạc Thừa mua thuốc. Có lẽ là gần đây quá mệt mỏi, lại nhớ tới ngọc đồng tử không qua được pháp nhãn của đối phương, cho nên buổi chiều lên lớp liên tục ngẩn ngơ.
Chờ tiếng chuông vừa vang, lần đầu tiên trong đời cậu bị gọi lên văn phòng, vào lớp không chuyên tâm là phụ, chủ yếu là gần đây cúp học hơi nhiều, thù mới nợ cũ, giáo viên bảo cậu ngày mai gọi phụ huynh đến.
Tuổi mụ mười bảy, Kỷ Thận Ngữ từ trong ra ngoài đều chột dạ, lớn tướng như vậy lần đầu tiên bị mời phụ huynh.
Cậu phải nói làm sao? Nói với ai?
Đầu tiên gạch bỏ Đinh Duyên Thọ, Kỷ Thận Ngữ nào dám cho Đinh Duyên Thọ biết, cậu cũng không có mặt mũi để cho Đinh Duyên Thọ biết. Khương Sấu Liễu cũng không được, sư mẫu biết là sư phụ sẽ biết, sau khi tan học cậu lo sợ suốt dọc đường, tâm tư chuyển tới Khương Thải Vi.
Không được, Khương Thải Vi đối xử với cậu tốt như vậy, cậu sợ Khương Thải Vi thất vọng.
Kỷ Thận Ngữ hồn bay phách lạc về đến nhà, ủ rũ giống y như đám hoa hồng héo tàn, giương mắt nhìn thấy cánh cửa phòng bên, trong lòng tuôn ra hai chữ “Cứu tinh”. Thật ra cậu đã nghĩ đến Đinh Hán Bạch từ lâu rồi, nhưng mà Đinh Hán Bạch chắc chắn sẽ mắng chửi cậu, cậu lại có chút sợ.
Trong phòng, Đinh Hán Bạch mở mắt ra đã hoàng hôn, ngồi dậy gật gù, thoáng nhìn khe cửa có bóng người lấp ló, chẳng đáng sợ chút nào. Anh khoanh tay chờ, mắt nhìn khe cửa dần dần mở rộng, Kỷ Thận Ngữ nghiêng đầu đi vào.
Anh ho nhẹ: “Cứ như ăn trộm vậy.”
Kỷ Thận Ngữ đóng cửa lại không tới gần: “Sư ca, ngày mai anh có rảnh không?”
Đinh Hán Bạch nói: “Rảnh cũng không chơi với cậu, không rảnh lại càng không chơi với cậu.” Vỗ vỗ bên giường, chờ Kỷ Thận Ngữ đi tới ngồi xuống, “Lò hương ra phôi xong lại đặt trong phòng cơ khí, cậu chờ tôi khắc cho cậu à?”
Kỷ Thận Ngữ vội vàng phủ nhận, nhìn chằm chằm tua rua trên chao đèn, cảm thấy căng thẳng. “Sư ca, ngày mai có thể tới trường với em không?” Biểu cảm lúng ta lúng túng, ngữ khí yểu xìu, “Thầy… Thầy bảo mời phụ huynh đến.”
Đinh Hán Bạch lập tức ngồi thẳng lưng, mời phụ huynh? Anh chỉ từng thấy học sinh yếu bị mời phụ huynh, chưa từng thấy hạng nhất cũng bị mời phụ huynh. Anh lại nhìn dáng vẻ kia của Kỷ Thận Ngữ, giống như sắp khóc tới nơi, chắc là lại phạm lỗi rồi.
“Cậu chắc không phải…” anh do dự, “Không phải là trêu đùa bạn học nữ, bén lửa rồi chứ?”
Kỷ Thận Ngữ giật mình nói: “Không phải, là bởi vì em không nghiêm túc nghe giảng, với cả, còn trốn học quá nhiều…”
Đinh Hán Bạch còn kinh ngạc hơn: “Cậu trốn học? Cậu không quen nơi này trốn học làm gì hả?”
Kỷ Thận Ngữ nói quanh co: “Cũng là bởi vì không quen, thấy mới mẻ, có nhiều nơi để đi chơi…” Cậu nhìn ánh mắt Đinh Hán Bạch, không cách nào nói hết câu, ngoại trừ né tránh thì không có biện pháp nào chống đỡ.
Thật ra đối với Đinh Hán Bạch trốn học không là gì cả, nhưng không có so sánh thì không có đau thương.
Đinh Hán Bạch chỉ vào trán Kỷ Thận Ngữ: “Nhìn mặt ngoan ngoãn thế này mà trốn học à? Cậu đã sắp mười bảy rồi, người ta mười bảy đã có thể…” Anh dừng lại, miễn cưỡng nuốt xuống, “Người so với người, tức chết tôi luôn!” (*)
(*) TQ có câu “Người so với người, tức chết người”, còn anh Bạch sửa lại là “tức chết tôi”
Kỷ Thận Ngữ truy hỏi: “Người ta là ai?”
Đinh Hán Bạch đáp: “Là người cậu không thể sánh được, cũng cùng mười bảy tuổi, người ta không biết lợi hại đến cỡ nào, cậu còn không thấy ngại mà tìm tòi vấn đề này à? Bài tập làm xong chưa? Lò hương khi nào khắc?”
Mặt trời bên ngoài đã mất dạng, tối om om, Kỷ Thận Ngữ bị mắng đến đỏ hết hai má. Tiếng mắng ngừng lại, nếu cậu muốn sống yên ổn thì không nên nói gì, nhưng nhịn mãi cũng không nhịn được, nhỏ giọng hỏi: “Có phải là anh ghét em không?”
Cậu hơi run lên: “Bởi vì em không đi học đàng hoàng cho nên ghét em, em sẽ thay đổi. Nhưng nếu như bởi vì anh gặp được người giỏi hơn em, sau khi so sánh thì ghét em, em phải làm sao đây?”
Đinh Hán Bạch tĩnh tâm, hơi thở cũng ổn định, trong lòng lại khẽ khàng hỗn loạn, đáp không ra chữ nào.
Kỷ Thận Ngữ đứng lên, hoảng sợ đi lòng vòng trong phòng, sau đó mới đi ra hướng cửa, cực kỳ giống như một chú chim nhỏ không tìm được tổ. Đinh Hán Bạch nhìn thấy hết, cắn chặt răng không gây tiếng động, dạy bảo xong lại dỗ dành, vậy còn có tác dụng gì nữa.
Tiếng bước chân đi xa, ngoài phòng cứ yên tĩnh như vậy.
Đinh Hán Bạch nằm đến tám giờ rưỡi, đi ra phòng ngủ thấy khu nam đèn sáng, Kỷ Thận Ngữ ở bên trong làm việc. Anh đến phòng khách tiền viện xem phim, xem phim võ hiệp hơn một tiếng đồng hồ, ai đánh chết ai cũng không chú ý.
Mười giờ trở về tiểu viện, khu nam vẫn sáng.
Đinh Hán Bạch tắm xong tản bộ ngoài hiên, mệt mỏi liền dựa vào lan can buồn bực, cứ dằn vặt như vậy đến hừng đông, khu nam vẫn sáng. Anh trở về phòng ngủ, lật chăn, túm gối, mãi mà vẫn chưa gặp được Chu Công.
Trằn trọc đến hơn hai giờ, anh đi tiểu đêm, đi nửa đường giật mình thấy ánh đèn bên trong khu nam.
Máy móc trong phòng cơ khí đã tắt, nửa tiếng trước Kỷ Thận Ngữ đã yên lặng, ngày đêm cực nhọc không thể yên ổn nghỉ ngơi, mệt quá cậu gục xuống ngủ.
Đinh Hán Bạch rốt cuộc nhớ ra, Kỷ Thận Ngữ mấy ngày qua đều chong đèn khắc khối thanh ngọc, lò hương quá phức tạp, ra phôi cũng phải tỉ mỉ. Đẩy cửa ra, anh bật cười, đi tới rút dao trong tay cậu ra. “Dậy đi.” Anh vỗ lên mặt cậu, rồi đẩy vai, “Về phòng mà ngủ, Kỷ Trân Châu?”
Kỷ Thận Ngữ bị lay tỉnh, nằm sấp lâu tê dại ngồi không yên, nghiêng người dựa vào lòng Đinh Hán Bạch. Vừa ấm áp vừa thoải mái, cậu mơ màng, nhắm mắt lại.
Đinh Hán Bạch hiểu lầm nói: “Mèo lười, muốn tôi bế cậu à?”
Anh khom lưng đỡ mông cậu, bế cậu lên, tắt đèn đóng cửa, dưới ánh trăng chiếu vào viện, đi qua vườn hoa hồng thưa thớt. Từ khu nam đến khu bắc, rõ ràng tận mười mấy bước, mà lại mau chóng chỉ như một cái chớp mắt.
Kỷ Thận Ngữ thở nhẹ: “Anh thử mắng em nữa coi.”
Đinh Hán Bạch nói: “Không phục à?”
Giọng điệu Kỷ Thận Ngữ rất đáng thương: “Anh đừng ghét em.”
Cơm nước Giang Nam sao nuôi ra người như vậy được nhỉ, chuyên phá hỏng phòng bị của người khác, làm mềm lòng người khác, Đinh Hán Bạch bế Kỷ Thận Ngữ vào phòng, còn mắng cái gì nữa, chỉ có thể im lặng đắp chăn.
Ba giờ, anh trở về phòng bắt đầu chọn lựa quần áo để đi gặp giáo viên, cẩn thận cứ như sắp đi gặp cha mẹ vợ.
/66
|