Đối với binh mã Mãn Châu mà nói việc đánh Thiên Tân tam vệ cũng chẳng là việc khó, Thiên Tân đã bị tấn công nhiều lần nên công sự phòng ngự đã bị tàn phá nghiêm trọng.
Hơn nữa dựa vào hơn một vạn binh mã trong thành, mấy nghìn kỵ binh tiến đánh chỉ dễ dàng như đuổi vịt bắt gà mà thôi. Ngược lại điều làm A Ba Thái hao tổn công sức chính là thuyết phục được Đồ Lý Sâm bối lặc này, làm thế nào làm cho Đồ Lý Sâm bối lặc hiểu là đánh giặc không thể khinh địch, làm cho bối lặc hiểu thế nào là tác chiến, đánh trận thật sự.
Đồ Lý Sâm bối lạc này thứ nhất có tỷ tỷ là sủng phi của Hoàng Thái Cực, còn có một tỷ tỷ là phúc tấn của Duệ Thân Vương Đa Nhĩ Cổn.
Nhưng bây giờ ở trong quân doanh, tốt xấu gì cũng là địa bàn của mình, Xuất chinh bên ngoài, dù gì đi nữa cũng phải thuyết phục được vị Đồ Lý Sâm bối lặc này ủng hộ. Tới khi đó, vàng bạc, nữ tử cướp bóc được đều phải phân chia cho Bối lặc nhiều hơn một chút là được. Bối lặc Khoa Nhĩ Thâm dù cao quý nhưng chưa từng tới Đại Minh , cũng không được coi là đã từng hưởng thụ cái gì đó.
Chắc hẳn những nữ tử xinh đẹp, vàng bạc, châu báu, tơ lụa của Đại Minh đều biểu hiện cho giàu sang. Cướp bóc được nhiều, càng thoả mãn đương nhiên mọi người càng một lòng.
Lần hội đàm này trong quân trướng, xem như A Ba Thái đã bộc lộ phân nửa tâm tư của mình, ngược lại Đồ Lý Sâm bối lặc có thể phân rõ đúng sai, có thể hiểu rõ được mọi chuyện.
Sau khi hội đàm xong, hai người lại nói chuyện huyên thuyên một hồi, nói chuyện cũ về Thịnh kinh. Hai người vốn định dùng cơm trưa cùng nhau nhưng không ngờ ngay lúc đó Nhạc Nhạc đi vào trướng, hắn thấy Đồ Lý Sâm trong trướng thì ngẩn người ra nhưng ngay sau đó hắn khôi phục lại tinh thần nói:
- Đại tướng quân, Bối lạc gia, cách đây bốn, năm ngày quân chúng ta bắt được hơn một trăm thám tử và gian tế của nước Minh. Ngày mai chúng ta xuất quân tấn công Thiên Tân. Dựa theo quy củ hôm nay chúng ta phải chém đầu, tế cờ.
Dùng máu tế cờ, kích thích tinh thần tướng sĩ chính là truyền thống của Bát Kỳ. Dựa theo quy định, chủ tướng đại quân phải tới quan sát. A Ba Thái và Đồ Lý Sâm đều biết quy định này, cả hai liếc mắt nhìn nhau. Đồ Lý Sâm giơ tay ra làm tư thế mời, trong lòng A Ba Thái vô cùng vui mừng, hắn cười đứng dậy, cả hai cùng nhau đi ra ngoài.
Đừng coi Đồ Lý Sâm này chỉ là công tử quyền quý, hắn khác với công tử con nhà thế gia Giang Nam, Giang Bắc của Đại Minh, Nói thẳng ra là hắn xuất thân từ Man nhân. Hàng ngày sống trong bộ lạc, ở Thịnh Kinh đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu lần cảnh giết người, máu chảy đầm đìa. Chuyện giết người tế cờ cũng không có gì lạ với hắn mà ngược lại còn khiến hắn có đôi chút hưng phấn.
- Nhạc Nhạc, ngày mai các đội tấn công theo thứ tự đã định. Đêm nay ngươi phải tới tất cả các doanh, các bộ xác nhận lại lần nữa, tránh xảy ra sai sót.
Nhạc Nhạc đi trước dẫn đường khom người trả lời, khi Nhạc Nhạc ngẩng đầu lên hắn liếc mắt nhìn Đồ Lý Sâm, lập tức Đồ Lý Sâm hiểu ý, hắn cười nói:
- Đại tướng quân, ta về doanh trướng của mình thu thập chút đồ đạc. Hẹn gặp nhau ở giáo trường.
Nói xong Đồ Lý Sâm dẫn thân binh của mình quay người bước đi. A Ba Thái cau mày, Nhạc Nhạc vội vàng bước tới, hắn ghé sát vào A Ba Thái nói nhỏ:
- A Mã, không phải người đã giao cho Lưỡng Bạch Kỳ nhiều chỗ tốt sao? Lần này Lưỡng Bạch Kỳ đánh tiên phong nhưng vừa rồi Hồ Lý Hải bối tử của tương Bạch Kỳ lén tìm hài nhi nói là tình nguyện không làm quân tiên phòng mà tình nguyện làm hậu đội.
A Ba Thái mở to mắt kinh ngạc nhìn khi nghe Nhạc Nhạc nói chuyện này, Việc phân phối nhiệm vụ cho các kỳ ai xông lên đầu tiên chính là điều đau đầu nhất trong xuất chinh. Chiến tranh tác chiến thật ra chỉ là chuyện thứ yếu dù sao việc đánh thắng quân Minh cũng nắm chắc mười phần nhưng bên cạnh đó còn có các kỳ như Mông Bát Kỳ, Hán Bát Kỳ, đó là quân đội của Tam Thuận Vương. Người nào cũng muốn xông lên phía trước, người nào cũng muốn chiếm được nhiều lợi ích. Mỗi một đội lại có một thế lực lớn đứng sau lưng, không thể đắc tội.
Trong những thế lực này ngoài Lưỡng Hoàng Kỳ ra thì Lưỡng Bạch Kỳ chính là người thứ hai không thể đắc tội, vì vậy tất cả binh mã của Lưỡng Bạch Kỳ đều bố trí ở phía trước nhưng không ai ngờ xảy ra tình trạng bối tử của tương Bạch Kỳ lại không muốn xông lên phía trước, nguyện ý ở lại phía sau. Điều này thực sự vô cùng kỳ quái.
- Tại sao lại không muốn đi?.
- Hài nhi cũng cười hỏi lại mấy câu nhưng coi bộ Hồ Lý Hải không có tinh thần, dáng vẻ của hắn rất rầu rĩ, nói không ăn nhập gì cả. A Mã còn nhớ lần trước Duệ Thân Vương đánh Sơn Đông chịu thiệt hại tổn thất mấy trăm người không?.
Nghe vậy, A Ba Thái thoáng rúng mình. Chuyện đó có lưu truyền trong đám bối lặc và hoàng thân quốc thích thế nhưng Lưỡng Bạch Kỳ giấu giếm sự thật rất tốt nên vẫn không ai tìm hiểu được tột cùng đã xảy ra chuyện gì, chỉ nghe tiếng đồn mơ hồ mà thôi.
Nhạc Nhạc lại nói tiếp: “Nhìn Hồ Lý Hải thì có cảm giác hắn chính là bại tướng của lần đó. Thuộc hạ dưới kỳ của hắn chính xác là có một nửa là người Hán, Nếu không bị thiệt hại nặng nề, có ai nguyện ý dùng nhiều người Hán như vậy không?”
- Đúng là đồ không có khí phách, Lần này đại quân hành động, làm gì có gì thiệt thòi, cho hắn phát tài hắn còn không muốn đi.
A Ba Thái mắng nhỏ một câu rồi nghiêm mặt nói với Nhạc Nhạc: “Chuyện này không cần nói nữa. Hắn không muốn đi cũng tốt. Ngày mai chúng ta phái quân Tương Lam Kỳ và Hộ quân kỳ tấn công. Chúng ta không thể khắt khe với binh lính của mình được”.
Nhạc Nhạc vô cùng vui mừng, hắn vội vàng khom người trả lời.
Không để chậm trễ thời gian, A Ba Thái và Nhạc Nhạc dẫn theo thân binh đi tới giáo trường. Lúc này các doanh quân đã lập trận theo thứ tự. Sau khi vệ binh lớn tiếng thông báo. A Ba Thái bước lên đài gỗ dựng tạm. Chúng tướng bên dưới nhất tề đứng dậy hành lễ.
A Ba Thái đứng trên đài gỗ, chỉ tay xuống phía dưới, chúng tướng ầm ầm ngồi xuống. Địa hình bắc Trực Lệ phần lớn là bình nguyên. Bên ngoài quân doanh có một đài đất bằng phẳng, phía trước các chư tướng có hơn một trăm người Hán bị trói. Phía sau mỗi người Hán bị trói đó lại có một binh sĩ quân Thanh cầm đao đứng chờ mệnh lệnh.
Đầu tiên là tát mãn giả thần giả quỷ một hồi ở giữa giáo trường. Mọi người ngồi chứng kiến các nghi thức. Đồ Lý Sâm bối lặc ngồi sau lưng A Ba Thái. Bọn họ không có biểu hiện kính sợ nào đối với nghi thức tát mãn này, vẫn xì xào bàn tán to nhỏ với nhau.
“Bối lặc gia, ngài xem gương mặt của những tên Hán cẩu dưới kia. Dáng vẻ của chúng không khác gì dê, lợn, không tên nào dám nhúc nhích. Nước Minh, coi là nước lớn thì đã sao nào. Bọn chúng chỉ là dê, lợn. Người Mãn chúng ta chính là dũng sĩ hổ lang, hổ lang ăn thịt dê, lợn, không cần phải lo lắng”.
Đồ Lý Sâm mất hứng khi nhìn dáng vẻ phờ phạc chờ đợi làm thịt của đám người Hán đó, trên gương mặt của chúng không có sự phẫn nộ, chỉ có dáng vẻ ngoan ngoãn phục tùng. Hắn còn tự giễu cợt sự lo lắng mấy ngày trước của mình. Người nước Minh như vậy, dù là nước lớn cũng chẳng đáng nhắc tới.
Bên dưới tát mãn đã làm xong các nghi thức, hắn đang đứng trước mặt những “gian tế”, “thám báo” người Hán kia. Tát mãn người Mãn châu trong con mắt người Hán thật sự giống như ma quỷ. Trên mặt bôi máu, trên người đeo đủ các loại xương cùng lông vũ, giương nanh múa vuốt, nhảy múa loạn xạ.
Những người Hán bị bắt tới đây biết là sắp tới lúc chết nhưng vẫn không dám ngẩng đầu lên nhìn. Đôi khi tát mãn nhảy gần tới một chút, đám người Hán bị trói lại sợ hãi lui lại sau nhưng điều đó lại khiến tát mãn càng có uy phong. Hắn còn cố ý nhảy tới chỗ đám tù binh đó mấy lần.
Sau khi tiến hành xong nghi thức, tát mãn đang định nói mấy câu thần chú phù hộ cho đại quân xuất chinh chiến thắng ngay trận đầu thì bất chợt phía sau hắn vang lên tiếng động. Hắn quay đầu nhìn thì thấy một tên người Hán từ trong đám người bị trói nhảy ra hung tợn chạy lại phía tên Tát Mãn. Tát mãn giật mình hoảng hốt trước hành động bất ngờ này. Hắn không kịp phòng bị, lảo đảo lui lại sau nhưng không biết vấp phải cái gì, trượt chân ngã xuống đất. Tất cả hào khí giả thần giả quỷ vừa rồi đã bị cú ngã đó biến tan thành mây khói.
Tên người Hán chạy ra nhanh chóng bị đám binh sĩ phía sau kịp phản ứng bắt lại, ấn xuống đất. Đám tướng lĩnh quân Thát trên đài gỗ vốn đang buồn bực lập tức tập trung chú ý tới đó, nhìn chằm chằm xuống giữa sân. Cái nghi thức này tuy nhàm chán nhưng vẫn có ý nghĩa của nó.
Nhìn thấy dáng vẻ chật vật của tát mãn, một số quân tướng Bát Kỳ còn trẻ tuổi bật cười thành tiếng nhưng sắc mặt A Ba Thái đang ngồi trên đài gỗ thì lại trở nên vô cùng khó coi, vô cùng âm trầm, không nói câu nào.
Tên tù binh quân Hán đột nhiên nhảy ra làm loạn, có lẽ do mấy ngày nay bị đối xử không tốt, vừa rồi gom hết sức lực ra tay, bị binh sĩ ấn xuống đất, hắn chỉ giãy giụa mấy cái rồi không động đậy nữa. Hành động lần này của hắn đã mang tới hoạ sát thân cho mình trước tiên.
Tên tát mãn đứng dậy, nghe thấy tiếng cười trên đài khiến hắn thẹn quá hoá giận, nhảy tới chỉ vào tên người Hán đang bị đè xuống gào lên: “Trước tiên hãy làm thịt con lợn này. Trước tiên hãy làm thịt nó”.
Đám binh sĩ quân Thanh thấy lệnh kỳ trên đài đã vung lên. Người nào chết trước chết sau cũng không bằng để cho Tát Mãn có chút thể diện. Mấy tên lính vội vàng dựng tên người Hán dậy. Một tên lính cầm đại đao vung lên, chuẩn bị chặt đầu. Tên người Hán sắp bị giết trước tiên này không hiểu từ đâu hắn lại gom được sức lực, hắn ngẩng đầu gào lên:”
“Quân Thát, hãy chờ đó, sẽ có người báo thù cho ta..
Hắn vẫn còn chưa nói xong, đao đã chém xuống, máu tươi phun ra. Tiếng hô của hắn toàn bộ tướng sĩ quân Thanh đều nghe được, sắc mặt A Ba Thái càng thêm âm trầm, hắn cười nhạt, lên tiếng nói:
“Người nào báo thù cho ngươi. Đáng cười thật!”.
Sau khi người thứ nhất bị giết, những người Hán còn lại bị bắt tới đây đều kêu khóc nhưng không có ai giãy giụa, phản kháng, thậm chí là mắng chửi, Tất cả chỉ khóc lóc cầu xin tha thứ, trơ mắt nhìn đồng bạn của mình lần lượt bị chém rơi đầu, cuối cùng tới chính lượt mình.
Quân binh Đại Minh đều là binh lính từ kinh sư điều động tới vậy thì những thám báo này phải là những người có can đảm. Xem ra hơn một trăm người mang danh là “gian tế” và “thám báo” đơn giản chỉ là người Hán bình thường không kịp bỏ trốn hay nhìn không vừa mắt mà thôi.
Một tên thân binh chạy tới bên người A Ba Thái nói nhỏ: “Đại tướng quân người mới hô vừa rồi chính là người bị bắt trên đường, nhân sĩ Sơn Đông, tên là Thành Hải, khai là người bán hàng rong”.
A Ba Thái vẫn chưa nói câu nào. Đồ Lý Sâm đã lên tiếng nói: “Ta thấy hắn bị chém một đao vẫn là tốt quá rồi...
Người Hán phản kháng mới bị giết ban đầu đúng là đầu mục Thành Hải của diêm bang Sơn Đông đóng ở vùng Trực Lệ. Khi đại quân Mãn Thanh nhập quan chuyện tình vô cùng khẩn cấp, cả diêm bang Sơn Đông và thương hàng Linh Sơn trú ở bắc Trực Lệ đều bất ngờ không kịp phản ứng nhưng việc tiếp theo bọn họ muốn làm chính là bằng bất kỳ giá nào cũng phải thông báo tin tức về Sơn Đông.
Tất cả mọi người có thể cưỡi ngựa đều bị động viên. Hơn nữa để đảm bảo an toàn, rất nhiều được phái đi theo các con đường khác nhau. Con đường đi của Thành Hải lại vô cùng xui xẻo, hắn bị quân kỵ binh tuần tra Mãn Thanh bắt được, đưa thẳng về trong đại bản doanh.
Thành Hải hiểu bản thân mình không thể thoát khỏi cái chết thế nhưng hắn cũng biết rằng những người khác mang tin theo những hướng khác rất có thể mang được tin tới nơi. Lần này chỉ mang thông tin truyền miệng. Người của diêm bang Sơn Đông giúp xác nhận thân phận của người đưa tin nên quân Thát không thể phát hiện ra điều gì. Hắn chỉ cần đối phương không phát hiện ra bản thân mình là người của doanh Giao Châu là đủ rồi.
Điều khiến cho diêm bang Sơn Đông tự hào nhất chính là người trong thiên hạ không còn cách nào ngoài liên hệ với Sơn Đông, không có gì ngoài khiến Sơn Đông được nơi khác biết tới còn các tin tức tình báo được phong toả rất tốt.
Người nhà của Thành Hải đều có cuộc sống yên bình giàu có ở Sơn Đông. Hơn nữa Thành Hải còn hiểu rằng một khi hắn chết đi, cuộc sống của người nhà hắn càng thêm giàu có, trợ cấp của doanh Giao Châu đối với binh sĩ tử nạn luôn khiến người ta cực kỳ hài lòng. Trước khi chết Thành Hải chỉ có một điều tiếc nuối, dựa vào sự phát triển thế lực mấy năm nay của doanh Giao Châu, cả địa vị của chính hắn ở trong diêm bang Sơn Đông, kể cả không làm nên đại sự hắn cũng sẽ làm rạng rỡ tổ tông.
Những bản thân hắn lại không chờ được tới ngày đó khiến cho Thành Hải không sao nhẫn nhịn được.
Quá trình tấn công thành Thiên Tân hôm sau so với việc tế cờ trước khi lâm chiến còn có phần nhạt nhẽo hơn. Quân Minh không dám ra khỏi thành dã chiến cùng với quân Mãn Thanh, chúng chỉ dám trú đóng trong công sự. Khi pháo binh của Chân Siêu Cáp phát hoả, chỉ sau mấy tiếng pháo ầm ầm, công sự phòng ngự đã vỡ ra một mảng. Chuyện kế tiếp không còn gì để nói.
Từ lúc bắt đầu công thành tới lúc chấm dứt chỉ mất có nửa ngày. Dưới sự tấn công của quân tiên phong, quân phòng thủ thành bỏ chạy toán loạn. Điều càng trở nên hỗn loạn nữa là chính những bại binh này quay lại cướp bóc, tàn hại dân chúng trong thành, điều vốn là chuyện của binh lính Mãn Thanh.
Cuộc chiến chỉ mất nửa ngày nhưng thời gian ổn định trật tự lại giằng co mất một ngày. Cuối cùng khi đã hoàn toàn chiếm được thành, binh lính được thưởng công lao băng cách tẩy thành một ngày, cái gì có thể vơ vét được thì cướp tất.
Tẩy thành chính là hình thức khích lệ tinh thần đối với binh lính Man tộc, khiến những người dân trong thành bị lạm sát. Binh lính hoàn toàn biến thành cầm thú, giết hại cướp bóc, bộc phát tất cả thú tính. Chuyện này đối với binh lính Mãn Thanh mà nói thì là cực kỳ vui mừng nhưng đối với dân chúng người Hán trong thành Thiên Tân mà nói thì lại là đại hoạ.
Đại quân Mãn Thanh sau khi nhập quan, các thành thị gặp tai nạn, đồ thành huyết tẩy, hành vi cầm thú đó cực kỳ đáng ghê tởm.
Ngày mười chín tháng mười một năm Sùng Trinh thứ mười lăm, sau khi công phá Thiên Tân tam vệ, đại quân Thát một lần nữa chỉnh đốn lại sau đó chúng bắt đầu xuôi theo đường thuỷ Vận Hà hướng tới phủ Hà Gian.
Ngày hai mươi mốt tháng mười một, đại quân Mãn Thanh dễ dàng công phá thành Tĩnh Hải. Huyện lệnh Tĩnh Hải tuẫn tiết vì nước.
Suốt dọc đường tiến quan, Đại tướng quân A Ba Thái phụng mệnh chỉ huy quân đội Mãn Thanh vốn có rất nhiều quân lính Mông Cổ bên Đoá Nhan tam vệ mới quy phục. A Ba Thái vốn lo sợ trong quân đội Mãn Thanh có nhiều tân binh, kinh nghiệm chiến đấu còn ít nhưng dọc đường tiến quân thẳng như chẻ tre, quân Minh bỏ chạy như cỏ lướt theo gió.
Nhưng điều này lại khiến đám mã phỉ Mông Cổ, tân binh Mãn Châu dần dần bồi dưỡng sự tự tin cho chính mình, rèn luyện được sức chiến đấu. Một đội quân vốn có gì đó không ổn nhưng sau khi tiến vào phủ Hà Gian đã chậm rãi kết hợp chặt chẽ, ngày càng mạnh mẽ.
Sau khi tiến vào phủ Hà Gian, việc hành quân, bày trận của A Ba Thái bắt đầu có sự thay đổi không còn tản mát không đầu, không cuối như trước mà là hành quân tác chiến có quy củ.
Cho dù A Ba Thái có bày ra thế trận phân tán, triều đình Đại Minh và quân đội đều không rảnh rang để ý tới, chỉ liều mạng thu nạp binh mã về kinh sư, căn bản coi như không có quân thù tiến vào trong biên giới đất nước, gây tai hoạ, tàn sát con dân Đại Minh . Quân đội Đại Minh đáng lẽ phải có suy nghĩ xuất chiến tới chết trên chiến trường.
Trở lại thời gian mấy ngày trước. Ngày mười lăm tháng mười một, thành Tế Nam, Sơn Đông.
Sau khi phái người đưa tin cho Lý Mạnh ở Nam Trực Lệ, đại quân Mãn Thanh đã ở bắc Trực Lệ. Bắc Trực Lệ tiếp giáp Sơn Đông, không cần phải nói cũng biết phủ Tế Nam gần phủ Hà Gian nhất sẽ là nơi đứng mũi chịu sào.
Phủ Tế Nam vốn là phủ thu thuế má, lương thực lớn thứ hai ở Sơn Đông. Hiện nay Tế Nam cũng là trung tâm hành chính, quân sự của Giao Châu doanh. Hơn nữa cục chế tạo binh khí cùng những nghành quan trọng cũng được lập ở Tế Nam, điều càng quan trọng hơn nữa những kho hàng lớn đã được thành lập trên quan đạo và kênh đào.
Không cần phải nói trong thành Tế Nam có kho ngân khố, quân giới của quân đội, là một nơi quan trọng bậc nhất. Hơn nữa Giao Châu doanh từ Lý Mạnh cho tới các binh lính, người nhà quân nhân đều tập trung ở tại Tế Nam. Nên nhớ khi Giao Châu doanh di chuyển, đại bộ phận người nhà của Linh Sơn vệ, Ngao Sơn vệ đều đã chuyển tới đây.
Cho dù là người, tiền tài hay vị trí địa lý. Xét trên tất cả các phương diện, phủ Tế Nam là nơi tuyệt đối không thể từ bỏ.
“Từ khi đại soái khởi binh bách chiến bách thắng, chưa một lần thất bại. Nếu rút khỏi phủ Tế Nam, đi tránh hoạ ở những châu phủ khác. Trước tiên không nói về chuyện rất nhiều người và tài sản không thể di chuyển, chỉ đơn thuần chuyển đi thôi e rằng cũng khiến dân chúng Sơn Đông và những người có quan hệ mật thiết với Giao Châu doanh náo loạn. Nhất định khi đó mọi người sẽ nghĩ Giao Châu doanh chỉ là miệng cọp gan thỏ mà thôi. Những binh mã khác của Đại Minh không dám đánh quân Mãn. Binh mã Sơn Đông chúng ta cũng không dám đánh quân Mãn Thanh vậy không phải chúng ta chỉ là đồ bị thịt thôi sao? Tình cảnh ngày nay không thể rút lui, chỉ có thể đánh mà thôi”.
Đại địch trước mắt, tất cả tướng lĩnh cai quản Giao Châu doanh ở phủ Tế Nam đều tập trung ở bên nha môn tổng binh, ngay cả mấy người ở trong nhà cũng xuất hiện. Quản gia La Tây chỉ huy gia đinh và người hầu của Lý Mạnh bố trí một chiếc bình phong sau vị trí ngồi của Lý Mạnh để mấy vị phu nhân ngồi trong đó nghe thảo luận.
Đây là phủ tướng quân, bàn luận của tổng binh nha môn, các quan văn khác của Sơn Đông không được phép tham dự, thế nhưng Tuần án Sơn Đông, Bố chánh sứ nha môn, Tri phủ Tế Nam cũng đang rất bối rối không biết nên làm thế nào cho phải.
Khi Chu Dương tới, Tri phủ Tế Nam uỷ thác cho hắn mang thông tin tới nói là hiện nay tất cả các nha môn ở phủ Tế Nam đều muốn tránh đi, muốn tới tam phủ Thanh Châu, Lai Châu, Đăng Châu. Nơi đó có địa hình cách trở, lại là địa bàn kinh doanh nhiều năm của Lý Mạnh nên an toàn hơn những nơi khác.
Chu Dương, Đồng tri phủ Tế Nam mang tin tức tới chính đường nha môn, người đầu tiên phản đối chính là Ninh Càn Quý. Chu Dương đưa ra ý kiến đó đương nhiên chính là trong lòng hắn cũng có suy nghĩ đó, hay có thể nói hiện nay trong hệ thống của Giao Châu doanh có một bộ phận cũng có suy nghĩ đó.
Tính cách của quan văn khi gặp chuyện đại sự có liên quan tới sinh tử thì luôn mềm yếu, có xu hướng né tránh. Điều này cũng bình thường mà thôi. Điều mấu chốt là lúc này Lý Mạnh không có mặt ở đây, hắn đang ở Nam Trực Lệ. Lúc này không có người chủ sự, cho dù sứ giả có đưa tin tới nơi, đại quân gấp rút quay về chỉ e cũng không kịp.
Cho dù là thế nào đi nữa, thành Tế Nam này là một nơi vô cùng nguy hiểm. Chu Dương cùng thủ hạ của hắn có chủ trương né tránh cuộc chiến cũng là điều bình thường.
Và lại Giao Châu doanh hoành hành thiên hạ, quan binh Đại Minh và đại quân lưu dân cũng không phải là đối thủ của quân Giao Châu nhưng trừ mấy trận giao chiến nhỏ mấy năm trước ra còn không có bất kỳ trận chiến nào khác.
Việc đối nội, đối ngoại của Giao Châu doanh hơi thấp kém nhưng binh lính Mãn Thanh này thì rõ ràng là uy danh hiển hách. Rất nhiều danh tướng, trọng thần Đại Minh chết trận trong chiến tranh với quân Mãn Thanh. Gần đây nhất mười mấy vạn quân Minh đã bị đại quân Mãn đánh bại tan tác. So sánh với nhau thì có cảm giác là quân Mãn rõ ràng mạnh hơn rất nhiều.
So với một kẻ là văn sĩ thuần tuý như Chu Dương. Ninh Càn Quý lại là người thức thời hơn nhiều. Hắn chỉ là tú tài là thành viên ban quan văn Giao Châu doanh nhưng cuối cùng trong hắn vẫn có tính cách giang hồ mạnh mẽ của một người làm ăn. Ninh Càn Quý vẫn giữ một thái độ rất tỉnh táo để phán đoán lợi hại, hơn nữa cố gắng đấu lý.Hai thủ lĩnh quan văn của Giao Châu doanh. Một người là Chu Dương, một người là Ninh Càn Quý, hai người tranh luận gay gắt với nhau khiến cục diện lập tức trở nên yên ắng. Những người khác trong lúc này không biết cần phải nói thế nào cho phải.
Bầu không khí có vẻ yên tĩnh. Lúc này ánh mắt mọi người đều tập trung vào Triệu Năng ngồi bên tay trái. Bây giờ Lý Mạnh không có mặt ở đây, theo phân công. Tham tướng Đăng Châu, Triệu Năng chính là chỉ huy quân sự cao cấp nhất, trong tay hắn có một vạn năm nghìn quân Đăng Châu, trước mắt là lực lượng vũ trang mạnh nhất Sơn Đông. Ý kiến của hắn đương nhiên là quan trọng nhất.
Lúc này trên gương mặt Triệu Năng lại không có bất kỳ biểu hiện nào, tương đối bình tĩnh. Từ đầu tới giờ hắn vẫn giữ dáng vẻ đó. Cho dù các ánh mắt tập trung vào hắn nhưng Triệu Năng lại không đưa ra ý kiến gì. Mọi người ở đây cho dù là chủ mẫu hay lão thái gia, thậm chí là vị Công Tôn tiên sinh kia cũng có quyền lên tiếng hơn so với cả hắn.
Triệu Năng luôn là người cẩn thận. Bây giờ ở cục diện này nếu tuỳ tiện nói mấy câu, sau này đưa tới tay Lý Mạnh, nhất định chẳng phải là chuyện tốt đẹp gì cho dù tình cảm của hai người như thủ túc.
Đây cũng chính là sự bất đồng giữa văn và võ. Chu Dương và rất nhiều quan văn ở bên ngoài đều cảm thấy tai hoạ ngập đầu nhưng đối với Triệu Năng mà nói đây chỉ là trận chiến phiền phức hơn mà thôi. Địch nhân có thực lực mạnh hơn thì cần phải thận trọng trong hành động. Đó cũng chính là suy nghĩ của tướng sĩ Giao Châu doanh. Có thể nói bọn họ tự tin hơn so với đám quan văn.
“Tình hình lúc này còn chưa tới mức độ xấu như vậy. Điều binh lính trú tại tam phủ Thanh Châu. Lai Châu, Đăng Châu tới Tế Nam thì phủ Tế Nam có thêm hai vạn ba nghìn binh mã, cộng với binh lính trú tại Tế Nam cũng được tới hai vạn bảy nghìn binh mã, chúng ta có thể ngăn cản quân Mãn một thời gian ngắn. Khi binh mã phủ Duyện Châu, binh mã phủ Quy Đức, binh mã của Đại soái kịp thời quay về chi viện, chúng ta sẽ hoàn toàn chiếm ưu thế. Bây giờ chúng ta không thể hoảng sợ”.
Giọng nói có phần the thé nhưng tất cả mọi người đều yên lặng lắng nghe bởi vì người nói chính là bá phụ của Đại soái lão thái giám Lưu Phúc Lai. Hơn nữa năm đó lão thái giám là thái giám chấp chưởng Nam Kinh nên đương nhiên con mắt nhìn đại cục đương nhiên khác với người thường.
“Đại quân Mãn xuôi nam, việc chúng ta làm không chỉ là để tự bảo vệ mình mà còn phải để người trong thiên hạ thấy sự hùng mạnh của binh mã Sơn Đông. Đại soái xuất quân nam chinh, quân Mãn thừa dịp đánh tới. Nay bản thân đang trong tình trạng nguy hiểm. Nếu như chỉ vì chuyện này mà bất hoà với nhau vậy kế hoạch bao năm nay đều là số không, các vị sao có thể cư xử như vậy?”
Đã rất lâu rồi lão thái giám Lưu Phúc Lai không xuất hiện ở bên ngoài. Sức khoẻ của ông càng ngày càng suy giảm. Thế nhưng trong thời điểm khẩn cấp này, ông vẫn xuất hiện trước mắt mọi người, hơn nữa không có gì thể hiện dáng vẻ hồ đồ, tinh thần ông vẫn quắc thước, giọng nói vô cùng kiên định.
Lão thái giám vừa nói xong, Chu Dương vốn đang đỏ mặt tía tai muốn tranh cãi mấy câu cũng bình tĩnh trở lại. Lúc này bầu không khí lại vô cùng yên tĩnh. Nhan Nhược Nhiên ở sau bình phòng hờ hững nói: “Cơ nghiệp của phu quân nhà ta đều ở đây, không thể coi nhẹ được. Các vị đại nhân đừng lo cho mấy thiếp thân tỷ muội chúng ta, Hãy vì đại nghĩa trước, Cái gì nặng, cái gì nhẹ, mấy người chúng ta vẫn hiểu được”.
Một khi Nhan Nhược Nhiên đã nói như vậy, coi như là cơ sở để quyết định, một người có dáng vẻ lúng túng như Chu Dương cũng đã nghiêm nghị trở lại. Triệu Năng từ đầu tới cuối vẫn yên lặng lúc này mới đứng dậy, bực tức nói: “Trên đất phủ Tế Nam này chỉ trong vòng hai ngày có thể tụ tập được khoảng năm nghìn binh mã. Hơn nữa quân bản bộ Đăng Châu đủ sức có thể bảo vệ được phủ Tế Nam”.
Rốt cuộc có thể coi đây là lời hứa của Triệu Năng đối với mọi người. Mặc dù biết đây chỉ là hình thức bề ngoài nhưng rất nhiều người vẫn không nhịn được buông tiếng thở dài. Tôn Truyền Đình vẫn im lặng từ đầu bây giờ mới lên tiếng.
Trong tình huống này, Tôn Truyền Đình tự biết mình như là người ngoài. Khi nãy thể hiện lập trường tranh cãi với nhau không phải là lúc thích hợp cho ông ta lên tiếng nhưng bây giờ chính là phạm vi của ông ta. Giọng nói của ông ta có vẻ rất bực tức nhưng mọi người trong đại đường đều chăm chú lắng nghe. Tất cả đều biết sự nể trọng của Đại soái đối với vị Công Tôn tiên sinh này.
“Vùng tiếp giáp của phủ Tế Nam với Bắc Trực Lệ đều là vùng đồi núi thấp, ruộng đồng bằng phẳng, rất phù hợp cho quân kỵ binh Thát hành động nhưng ngược lại lại là trở ngại đối với bộ binh của quân ta. Đối phương chỉ cần một đội quân nhỏ cũng có thể tung hoành ngang dọc, dựa vào cướp bóc để tiếp viện, trong khi đó việc bố trí chiến trường của binh mã Giao Châu doanh lại cực kỳ khó khăn”.
Bên trong phòng vô cùng yên tĩnh, ai nấy cũng đều chăm chú lắng nghe.
“Lão phu đã nói chuyện với chuyện với Dương Nhân Âu Mạn, đại bộ phận địa hình phủ Tế Nam không có cách nào cho bộ binh của Giao Châu doanh lập thế trận. Không có thế trận, không thể giao chiến. Chiến trận xảy ra ở vùng Tế Nam, quân Giao Châu doanh sẽ rơi vào thế hạ phong. Hơn nữa hành động của thế trận hình vuông của bộ binh chúng ta đương nhiên chậm hơn so với kỵ binh của quân Thát. Quân Thát có thể không cần để ý tới binh mã Sơn Đông chúng ta, chúng có thể di chuyển tới chỗ không binh, trống không mới là điều rất phiền toái”.
Triệu Năng ngồi bên cạnh liên tục gật đầu. Thủ hạ trong tay hắn chỉ có chưa tới hai nghìn kỵ mã, tính cơ động kém hơn rất nhiều so với quân Thát. Nếu quân Thát thật sự không để ý tới mà đi đường vòng, hắn thật sự không có cách nào có thể đuổi kịp.
“Hơn nữa căn cứ theo tin tức từ Bắc Trực Lệ báo về, lần này quân Thát xuôi nam dọc theo Vận Hà, vậy chúng nhất định đi theo Đức Châu tới Lâm Thanh, ngược lại chúng tránh thành Tế Nam. Một khi đại quân Thát đi dọc theo Vận Hà đánh chiếm Lâm Thanh, vào Duyện Châu, mấy nghìn binh lính ở phủ Duyện Châu chỉ sợ là không chống nổi. Hai phủ Đông Xương. Duyện Châu chính là vùng đất màu mỡ, trái tim của Sơn Đông. Nếu để cho quân Thát tuỳ ý cướp bóc, phá huỷ, chỉ e là sẽ tổn thương tới nguyên khí của Sơn Đông chúng ta”.
Chu Dương cùng Ninh Càn Quý đều lấy giấy bút ra ghi chép tại chỗ. Bên trong bình phong không biết là Cố Hoành Ba hay là Liễu Như Thị cũng đang ghi chép.
“Tính theo thời gian, rất có thể lúc này đại đội binh mã quân Thát đang tiến tới Duyện Châu. Binh mã của Đại soái vừa vặn có thể từ Nam Trực Lệ tiến về đó. Quân Duyện Châu của Trương Giang và quân phủ Quy Đức cũng từ vùng biên cảnh Dự. Lỗ chạy về. Trước mắt ở vùng trung tâm đó sẽ có hơn mười vạn đại quân quyết đấu. Hơn nữa phủ Duyện Châu lại là nơi tiếp giáp của bốn tỉnh. Bốn phía xung quanh đều bất ổn. Phủ Duyện Châu lại có Lỗ vương và Khổng phủ. Khi đại quân giao chiến với nhau, chỉ sợ binh mã Sơn Đông không chiếm được địa bàn giao chiến thuận lợi cho quân mình. Nếu làm không tốt, sẽ hoàn toàn bị động, khi đó thì không thể vãn hồi”.
Nghe Tôn Truyền Đình nói ra tình thế hung hiểm như vậy, Triệu Năng không thể ngồi yên được nữa, hắn đứng dậy nghiêm nghị hỏi: “Vậy theo ý tứ của Công Tôn tiên sinh, quân ta không nên cố thủ ở Tế Nam mà chủ động nghênh chiến sao?”
“Triệu tướng quân nói rất đúng. Không những quân ta không nên cố thủ ở Tế Nam và còn phải chủ động xuất kích. Đường thuỷ Vận Hà từ Thông Châu xuôi về nam, nhập vào Sơn Đông ở Đức Châu sau đó xuôi theo tuyến Diên Tây về nam, qua phủ Đông Xương tiến vào phủ Duyện Châu, Đức Châu chính là quan ải. Phủ Tế Nam phần lớn là đồi núi, sườn dốc, vùng đất phía bắc Đức Châu bằng phẳng tuy nói là phù hợp cho quân kỵ binh quân Thát tung hoành nhưng cũng phù hợp cho thế trận bộ binh của quân Giao Châu doanh chúng ta. Quân Thát tiến dọc theo sông, quân ta dựa vào bờ sông phòng thủ. Quân Thát muốn tiến dọc theo sông không thể không có lo lắng, nhất định chúng sẽ phải giao chiến với binh mã bản bộ của Triệu tướng quân. Khi đó quân của Đại soái cùng quân cứu viện sẽ tận dụng thời gian chạy về tới nơi. Mọi chuyện sẽ trở nên thuận lợi”.
Tôn Truyền Đình chậm rãi nói một hơi rất dài. Sau khi ông ta nói xong, cả căn phòng lạnh ngắt như tờ. Tất cả mọi người đều đang suy nghĩ điều Tôn truyền Đình nói. Đại quân tiến lên, mặc dù đại quân Mãn Thanh phần lớn là ngựa nhưng cũng phải dựa vào đường thuỷ. Dù là mùa đông đường thuỷ bị đóng băng, việc vận chuyển trên Vận Hà bị đình trệ nhưng mấy vạn người ngựa vẫn phải dựa vào nguồn nước nên nhất định phải đi theo đường thuỷ.
Theo lý lẽ đó, chỉ cần quân Giao Châu doanh có mặt cạnh đường thuỷ Vận Hà, đại quân Mãn Thanh nếu muốn tiếp tục xuôi nam thì nhất định phải quyết chiến một trận bởi vì Vận Hà không phải chỉ là đường tiến quân mà còn là đường lui. Nếu như không diệt trừ toàn bộ ngăn trở ở bên cạnh, cho dù có vượt qua hông giao chiến, tinh thần của binh lính cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
Cho dù quân Thát không tiến quân dọc theo Vận Hà mà tấn công phủ Tế Nam như trước thì con đường bộ tiến vào phủ Tế Nam cũng chỉ có một con đường qua Đức Châu. Đức Châu ở bên cạnh Vận Hà.
Điều này đã chứng tỏ sự lựa chọn sáng suốt của Tôn Truyền Đình. Chỉ cần phòng thủ vững Đức Châu thì cho dù quân Thanh có muốn tiếp tục xuôi nam hay tấn công Tế Nam thì nhất định đều phải đi qua quan ải Đức Châu này. Cho dù quân Thát phần đông là kỵ binh có tính cơ động hơn hẳn so với quân Giao Châu phần đông là bộ binh nhưng chỉ cần nắm được địa phương đó quân Thát không thể không giao chiến.
Trừ khi quân Thát muốn đi Hà Nam hay di chuyển quanh Bắc Trực Lệ. Hà Nam lúc này đã trở nên vô cùng hỗn loạn. Bắc Trực Lệ đã nhiều lần bị quân giặc tàn sát. Đại quân Thát này, với những người chỉ có trí lực cùng sự phán đoán bình thường cũng đoán chúng chỉ có thể tiến vào Sơn Đông. Hơn nữa phủ Tế Nam, Sơn Đông đã từng bị Đa Nhĩ Cổn huyết tẩy một lần tổn thương nguyên khí nghiêm trọng. Nhất định quân Thát sẽ tiếp tục xuôi nam. Sơn Đông chính là địa phương giá trị nhất, có phủ Duyện Châu giàu có sung túc. Sau lưng phủ Duyện Châu còn có Nam Trực Lệ.
Thiên hạ tuy lớn, nhìn như không chỗ nào không thể đi, có thể hành động tuỳ thích nhưng phán đoán chuẩn xác trên thực tế đều phải tuân theo vết tích. Cho dù là chim bay lượn tự do trong đất trời nhưng vẫn cần phải sống trên đất. Đại quân hành động càng phải như thế. Vận chuyển quân nhu, cung cấp lương thảo, mục đích hành động đều có thể suy đoán ra được.
Năm đó Tôn Truyền Đình chỉ huy biên binh Thiểm Tây đối phó với đại quân lưu dân của Lý Tự Thành và Cao Nghênh Tường. Chỉ huy quân tiến đánh, bố trí mai phục, tất cả bố trí đều rất tinh thông.
Có thể nói quân Giao Châu doanh tương đối yếu kém việc dự đoán xu thế quân địch, hành động của đại quân đối phương. Xung quanh Sơn Đông đều là chiến trường lớn nhỏ, gần như tất cả chỉ xác định chiến đấu sau khi gặp nhau. Mặc dù trước đó không có chuyện xác định chiến trường, cũng không sử dụng các loại phương pháp dự đoán, chiến giữ địa hình có lợi sau đó tận dụng binh lính được huấn luyện nghiêm chỉnh cùng ưu thế về vũ khí tiến hành nghênh đánh.
Thế nhưng Tôn Truyền Đình này hoàn toàn có tố chất của một tướng lãnh của thời đại. Đối với các tướng lãnh của quân Giao Châu doanh việc điều động quân đội trong những hoàn cảnh quan trọng, phán đoán tình hình địch ta trong hoàn cảnh này, cho dù là Lý Mạnh cũng có khiếm khuyết trong phương diện này, huống chi là Chu Dương. Ninh Càn Quý, mấy quan văn này.
Dù sao lão thái giám Lưu Phúc Lai đã từng làm thái giám trấn thủ Nam Kinh, kiến thức rộng rãi, ông nghe Tôn Truyền Đình nói mấy câu đó thì biết ngay tầm quan trọng của nó, ông gọi một nha hoàn dìu mình đi tới trước bình phong sau đó thì thào thương nghị mấy câu với người trong bình phong rồi ông quay người đi cao giọng nói: “Phân tích của Công Tôn tiên sinh rất chu đáo. Bây giờ Đại soái đang ở Nam Trực Lệ. Dựa theo sự căn dặn trước khi đi, xin mời Công Tôn tiên sinh hãy đứng ra chủ trì”.
Lão thái giám cũng tương tự như người nhà của Lý Mạnh. Nữ nhi trong nhà không tiện xuất đầu lộ diện. Bây giờ người đưa ra quyết định chính là ông, chính là những lời rất thành thật. Thế nhưng trước khi đưa ra quyết định, ông đã đi tới trước bình phong nói chuyện đương nhiên là muốn mấy nàng Nhan Nhược Nhiên cùng Mộc Vân Dao có quyết định vì dù sao quan hệ của Lý Mạnh với nữ quyến của mình cũng khác, mấy vị nữ chủ nhân này cũng cần có ý kiến.
“Cứ dựa theo ý kiến của bá phụ đại nhân, xin mời Công Tôn tiên sinh hãy đứng ra chủ trì”.
Giọng nói êm ái của Nhan Nhược Nhiên lại vang lên sau bình phong, coi như là lời ủng hộ đối với Lưu Phúc Lai khiến Triệu Năng nghe thấy vậy vội vàng đứng lên, ôm quyền, khom người thi lễ với Tôn Truyền Đình.
Tuy nghi lễ này rất đơn giản nhưng nó là một biểu hiện, biểu hiện là lúc này Tôn Truyền Đình đã có thể bắt đầu hạ lệnh. Lúc này Tôn Truyền Đình không có chút kích động nào nhưng trong lòng hắn thầm xúc động. Trước khi ra đi Lý Mạnh đã sắp đặt rất chu đáo. Không có cái gọi là nhân cơ hội soán quyền, cũng sẽ không có cái gì mất hiệu lực chỉ huy, trì hoãn tình hình.
Một khi đã xác định như vậy, Tôn Truyền Đình cũng không còn đùn đẩy, trì hoãn nữa. Cục diện hiện nay khiến ông ta không thể trì hoãn hay chần chừ. Lập tức Tôn Truyền Đình nhìn mọi người xung quanh nói: “Đã như vậy, lão phu xin quyền. Phu nhân, xin hỏi ở Tế Nam có thể điều động được bao nhiêu người của đội vũ trang diêm bang và đội hộ trang?”
Không bao lâu sau từ xong bình phong đã có người lên tiếng trả lời: “Phủ Tế Nam phần lớn là người nhà của quân Giao Châu doanh nhưng vũ trang diêm đinh cùng đội hộ trang ở bên ngoài thành Tế Nam, trong vòng hai ngày có thể tụ tập ở đây được khoảng chừng bảy nghìn người”.
Giọng nói vừa rồi là của Mộc Vân Dao. Tôn Truyền Đình gật đầu, ông ta trầm ngâm một lát rồi quay người nói với Triệu Năng: “Dù bảy nghìn người này hơi ít nhưng đủ để phòng ngự Tế Nam. Triệu tướng quân, thủ hạ của tướng quân có một vạn năm nghìn người, cộng thêm hai nghìn người của Thực Nghiệm doanh, binh lính lưu lại trấn thủ Tế Nam hai nghìn người, tổng cộng là một vạn chín nghìn quân. Một ngày sau xuất quân tiến về bắc Đức Châu, lập doanh trại trấn thủ ở Cảnh Châu Đông bên cạnh Vận Hà. Xin mời Triệu tướng quân hãy chuẩn bị. Lộ trình đi Cảnh Châu Đông là ba ngày. Đại quân Thát cần năm ngày để tiến tới đó. Tính từ ba ngày sau khi lên đường, chỉ cần phòng thủ được bảy ngày là lập đại công”.
Ngày mười bảy tháng mười một năm Sùng Trinh thứ mười lăm, một vạn chín nghìn quân Giao Châu doanh xuất phát từ Tế Nam gấp rút tiến lên phía bắc. Sứ giả từ đại doanh Tế Nam đi bốn xung quanh, triệu tập binh mã các nơi ở Sơn Đông tới trợ giúp.
Hơn nữa dựa vào hơn một vạn binh mã trong thành, mấy nghìn kỵ binh tiến đánh chỉ dễ dàng như đuổi vịt bắt gà mà thôi. Ngược lại điều làm A Ba Thái hao tổn công sức chính là thuyết phục được Đồ Lý Sâm bối lặc này, làm thế nào làm cho Đồ Lý Sâm bối lặc hiểu là đánh giặc không thể khinh địch, làm cho bối lặc hiểu thế nào là tác chiến, đánh trận thật sự.
Đồ Lý Sâm bối lạc này thứ nhất có tỷ tỷ là sủng phi của Hoàng Thái Cực, còn có một tỷ tỷ là phúc tấn của Duệ Thân Vương Đa Nhĩ Cổn.
Nhưng bây giờ ở trong quân doanh, tốt xấu gì cũng là địa bàn của mình, Xuất chinh bên ngoài, dù gì đi nữa cũng phải thuyết phục được vị Đồ Lý Sâm bối lặc này ủng hộ. Tới khi đó, vàng bạc, nữ tử cướp bóc được đều phải phân chia cho Bối lặc nhiều hơn một chút là được. Bối lặc Khoa Nhĩ Thâm dù cao quý nhưng chưa từng tới Đại Minh , cũng không được coi là đã từng hưởng thụ cái gì đó.
Chắc hẳn những nữ tử xinh đẹp, vàng bạc, châu báu, tơ lụa của Đại Minh đều biểu hiện cho giàu sang. Cướp bóc được nhiều, càng thoả mãn đương nhiên mọi người càng một lòng.
Lần hội đàm này trong quân trướng, xem như A Ba Thái đã bộc lộ phân nửa tâm tư của mình, ngược lại Đồ Lý Sâm bối lặc có thể phân rõ đúng sai, có thể hiểu rõ được mọi chuyện.
Sau khi hội đàm xong, hai người lại nói chuyện huyên thuyên một hồi, nói chuyện cũ về Thịnh kinh. Hai người vốn định dùng cơm trưa cùng nhau nhưng không ngờ ngay lúc đó Nhạc Nhạc đi vào trướng, hắn thấy Đồ Lý Sâm trong trướng thì ngẩn người ra nhưng ngay sau đó hắn khôi phục lại tinh thần nói:
- Đại tướng quân, Bối lạc gia, cách đây bốn, năm ngày quân chúng ta bắt được hơn một trăm thám tử và gian tế của nước Minh. Ngày mai chúng ta xuất quân tấn công Thiên Tân. Dựa theo quy củ hôm nay chúng ta phải chém đầu, tế cờ.
Dùng máu tế cờ, kích thích tinh thần tướng sĩ chính là truyền thống của Bát Kỳ. Dựa theo quy định, chủ tướng đại quân phải tới quan sát. A Ba Thái và Đồ Lý Sâm đều biết quy định này, cả hai liếc mắt nhìn nhau. Đồ Lý Sâm giơ tay ra làm tư thế mời, trong lòng A Ba Thái vô cùng vui mừng, hắn cười đứng dậy, cả hai cùng nhau đi ra ngoài.
Đừng coi Đồ Lý Sâm này chỉ là công tử quyền quý, hắn khác với công tử con nhà thế gia Giang Nam, Giang Bắc của Đại Minh, Nói thẳng ra là hắn xuất thân từ Man nhân. Hàng ngày sống trong bộ lạc, ở Thịnh Kinh đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu lần cảnh giết người, máu chảy đầm đìa. Chuyện giết người tế cờ cũng không có gì lạ với hắn mà ngược lại còn khiến hắn có đôi chút hưng phấn.
- Nhạc Nhạc, ngày mai các đội tấn công theo thứ tự đã định. Đêm nay ngươi phải tới tất cả các doanh, các bộ xác nhận lại lần nữa, tránh xảy ra sai sót.
Nhạc Nhạc đi trước dẫn đường khom người trả lời, khi Nhạc Nhạc ngẩng đầu lên hắn liếc mắt nhìn Đồ Lý Sâm, lập tức Đồ Lý Sâm hiểu ý, hắn cười nói:
- Đại tướng quân, ta về doanh trướng của mình thu thập chút đồ đạc. Hẹn gặp nhau ở giáo trường.
Nói xong Đồ Lý Sâm dẫn thân binh của mình quay người bước đi. A Ba Thái cau mày, Nhạc Nhạc vội vàng bước tới, hắn ghé sát vào A Ba Thái nói nhỏ:
- A Mã, không phải người đã giao cho Lưỡng Bạch Kỳ nhiều chỗ tốt sao? Lần này Lưỡng Bạch Kỳ đánh tiên phong nhưng vừa rồi Hồ Lý Hải bối tử của tương Bạch Kỳ lén tìm hài nhi nói là tình nguyện không làm quân tiên phòng mà tình nguyện làm hậu đội.
A Ba Thái mở to mắt kinh ngạc nhìn khi nghe Nhạc Nhạc nói chuyện này, Việc phân phối nhiệm vụ cho các kỳ ai xông lên đầu tiên chính là điều đau đầu nhất trong xuất chinh. Chiến tranh tác chiến thật ra chỉ là chuyện thứ yếu dù sao việc đánh thắng quân Minh cũng nắm chắc mười phần nhưng bên cạnh đó còn có các kỳ như Mông Bát Kỳ, Hán Bát Kỳ, đó là quân đội của Tam Thuận Vương. Người nào cũng muốn xông lên phía trước, người nào cũng muốn chiếm được nhiều lợi ích. Mỗi một đội lại có một thế lực lớn đứng sau lưng, không thể đắc tội.
Trong những thế lực này ngoài Lưỡng Hoàng Kỳ ra thì Lưỡng Bạch Kỳ chính là người thứ hai không thể đắc tội, vì vậy tất cả binh mã của Lưỡng Bạch Kỳ đều bố trí ở phía trước nhưng không ai ngờ xảy ra tình trạng bối tử của tương Bạch Kỳ lại không muốn xông lên phía trước, nguyện ý ở lại phía sau. Điều này thực sự vô cùng kỳ quái.
- Tại sao lại không muốn đi?.
- Hài nhi cũng cười hỏi lại mấy câu nhưng coi bộ Hồ Lý Hải không có tinh thần, dáng vẻ của hắn rất rầu rĩ, nói không ăn nhập gì cả. A Mã còn nhớ lần trước Duệ Thân Vương đánh Sơn Đông chịu thiệt hại tổn thất mấy trăm người không?.
Nghe vậy, A Ba Thái thoáng rúng mình. Chuyện đó có lưu truyền trong đám bối lặc và hoàng thân quốc thích thế nhưng Lưỡng Bạch Kỳ giấu giếm sự thật rất tốt nên vẫn không ai tìm hiểu được tột cùng đã xảy ra chuyện gì, chỉ nghe tiếng đồn mơ hồ mà thôi.
Nhạc Nhạc lại nói tiếp: “Nhìn Hồ Lý Hải thì có cảm giác hắn chính là bại tướng của lần đó. Thuộc hạ dưới kỳ của hắn chính xác là có một nửa là người Hán, Nếu không bị thiệt hại nặng nề, có ai nguyện ý dùng nhiều người Hán như vậy không?”
- Đúng là đồ không có khí phách, Lần này đại quân hành động, làm gì có gì thiệt thòi, cho hắn phát tài hắn còn không muốn đi.
A Ba Thái mắng nhỏ một câu rồi nghiêm mặt nói với Nhạc Nhạc: “Chuyện này không cần nói nữa. Hắn không muốn đi cũng tốt. Ngày mai chúng ta phái quân Tương Lam Kỳ và Hộ quân kỳ tấn công. Chúng ta không thể khắt khe với binh lính của mình được”.
Nhạc Nhạc vô cùng vui mừng, hắn vội vàng khom người trả lời.
Không để chậm trễ thời gian, A Ba Thái và Nhạc Nhạc dẫn theo thân binh đi tới giáo trường. Lúc này các doanh quân đã lập trận theo thứ tự. Sau khi vệ binh lớn tiếng thông báo. A Ba Thái bước lên đài gỗ dựng tạm. Chúng tướng bên dưới nhất tề đứng dậy hành lễ.
A Ba Thái đứng trên đài gỗ, chỉ tay xuống phía dưới, chúng tướng ầm ầm ngồi xuống. Địa hình bắc Trực Lệ phần lớn là bình nguyên. Bên ngoài quân doanh có một đài đất bằng phẳng, phía trước các chư tướng có hơn một trăm người Hán bị trói. Phía sau mỗi người Hán bị trói đó lại có một binh sĩ quân Thanh cầm đao đứng chờ mệnh lệnh.
Đầu tiên là tát mãn giả thần giả quỷ một hồi ở giữa giáo trường. Mọi người ngồi chứng kiến các nghi thức. Đồ Lý Sâm bối lặc ngồi sau lưng A Ba Thái. Bọn họ không có biểu hiện kính sợ nào đối với nghi thức tát mãn này, vẫn xì xào bàn tán to nhỏ với nhau.
“Bối lặc gia, ngài xem gương mặt của những tên Hán cẩu dưới kia. Dáng vẻ của chúng không khác gì dê, lợn, không tên nào dám nhúc nhích. Nước Minh, coi là nước lớn thì đã sao nào. Bọn chúng chỉ là dê, lợn. Người Mãn chúng ta chính là dũng sĩ hổ lang, hổ lang ăn thịt dê, lợn, không cần phải lo lắng”.
Đồ Lý Sâm mất hứng khi nhìn dáng vẻ phờ phạc chờ đợi làm thịt của đám người Hán đó, trên gương mặt của chúng không có sự phẫn nộ, chỉ có dáng vẻ ngoan ngoãn phục tùng. Hắn còn tự giễu cợt sự lo lắng mấy ngày trước của mình. Người nước Minh như vậy, dù là nước lớn cũng chẳng đáng nhắc tới.
Bên dưới tát mãn đã làm xong các nghi thức, hắn đang đứng trước mặt những “gian tế”, “thám báo” người Hán kia. Tát mãn người Mãn châu trong con mắt người Hán thật sự giống như ma quỷ. Trên mặt bôi máu, trên người đeo đủ các loại xương cùng lông vũ, giương nanh múa vuốt, nhảy múa loạn xạ.
Những người Hán bị bắt tới đây biết là sắp tới lúc chết nhưng vẫn không dám ngẩng đầu lên nhìn. Đôi khi tát mãn nhảy gần tới một chút, đám người Hán bị trói lại sợ hãi lui lại sau nhưng điều đó lại khiến tát mãn càng có uy phong. Hắn còn cố ý nhảy tới chỗ đám tù binh đó mấy lần.
Sau khi tiến hành xong nghi thức, tát mãn đang định nói mấy câu thần chú phù hộ cho đại quân xuất chinh chiến thắng ngay trận đầu thì bất chợt phía sau hắn vang lên tiếng động. Hắn quay đầu nhìn thì thấy một tên người Hán từ trong đám người bị trói nhảy ra hung tợn chạy lại phía tên Tát Mãn. Tát mãn giật mình hoảng hốt trước hành động bất ngờ này. Hắn không kịp phòng bị, lảo đảo lui lại sau nhưng không biết vấp phải cái gì, trượt chân ngã xuống đất. Tất cả hào khí giả thần giả quỷ vừa rồi đã bị cú ngã đó biến tan thành mây khói.
Tên người Hán chạy ra nhanh chóng bị đám binh sĩ phía sau kịp phản ứng bắt lại, ấn xuống đất. Đám tướng lĩnh quân Thát trên đài gỗ vốn đang buồn bực lập tức tập trung chú ý tới đó, nhìn chằm chằm xuống giữa sân. Cái nghi thức này tuy nhàm chán nhưng vẫn có ý nghĩa của nó.
Nhìn thấy dáng vẻ chật vật của tát mãn, một số quân tướng Bát Kỳ còn trẻ tuổi bật cười thành tiếng nhưng sắc mặt A Ba Thái đang ngồi trên đài gỗ thì lại trở nên vô cùng khó coi, vô cùng âm trầm, không nói câu nào.
Tên tù binh quân Hán đột nhiên nhảy ra làm loạn, có lẽ do mấy ngày nay bị đối xử không tốt, vừa rồi gom hết sức lực ra tay, bị binh sĩ ấn xuống đất, hắn chỉ giãy giụa mấy cái rồi không động đậy nữa. Hành động lần này của hắn đã mang tới hoạ sát thân cho mình trước tiên.
Tên tát mãn đứng dậy, nghe thấy tiếng cười trên đài khiến hắn thẹn quá hoá giận, nhảy tới chỉ vào tên người Hán đang bị đè xuống gào lên: “Trước tiên hãy làm thịt con lợn này. Trước tiên hãy làm thịt nó”.
Đám binh sĩ quân Thanh thấy lệnh kỳ trên đài đã vung lên. Người nào chết trước chết sau cũng không bằng để cho Tát Mãn có chút thể diện. Mấy tên lính vội vàng dựng tên người Hán dậy. Một tên lính cầm đại đao vung lên, chuẩn bị chặt đầu. Tên người Hán sắp bị giết trước tiên này không hiểu từ đâu hắn lại gom được sức lực, hắn ngẩng đầu gào lên:”
“Quân Thát, hãy chờ đó, sẽ có người báo thù cho ta..
Hắn vẫn còn chưa nói xong, đao đã chém xuống, máu tươi phun ra. Tiếng hô của hắn toàn bộ tướng sĩ quân Thanh đều nghe được, sắc mặt A Ba Thái càng thêm âm trầm, hắn cười nhạt, lên tiếng nói:
“Người nào báo thù cho ngươi. Đáng cười thật!”.
Sau khi người thứ nhất bị giết, những người Hán còn lại bị bắt tới đây đều kêu khóc nhưng không có ai giãy giụa, phản kháng, thậm chí là mắng chửi, Tất cả chỉ khóc lóc cầu xin tha thứ, trơ mắt nhìn đồng bạn của mình lần lượt bị chém rơi đầu, cuối cùng tới chính lượt mình.
Quân binh Đại Minh đều là binh lính từ kinh sư điều động tới vậy thì những thám báo này phải là những người có can đảm. Xem ra hơn một trăm người mang danh là “gian tế” và “thám báo” đơn giản chỉ là người Hán bình thường không kịp bỏ trốn hay nhìn không vừa mắt mà thôi.
Một tên thân binh chạy tới bên người A Ba Thái nói nhỏ: “Đại tướng quân người mới hô vừa rồi chính là người bị bắt trên đường, nhân sĩ Sơn Đông, tên là Thành Hải, khai là người bán hàng rong”.
A Ba Thái vẫn chưa nói câu nào. Đồ Lý Sâm đã lên tiếng nói: “Ta thấy hắn bị chém một đao vẫn là tốt quá rồi...
Người Hán phản kháng mới bị giết ban đầu đúng là đầu mục Thành Hải của diêm bang Sơn Đông đóng ở vùng Trực Lệ. Khi đại quân Mãn Thanh nhập quan chuyện tình vô cùng khẩn cấp, cả diêm bang Sơn Đông và thương hàng Linh Sơn trú ở bắc Trực Lệ đều bất ngờ không kịp phản ứng nhưng việc tiếp theo bọn họ muốn làm chính là bằng bất kỳ giá nào cũng phải thông báo tin tức về Sơn Đông.
Tất cả mọi người có thể cưỡi ngựa đều bị động viên. Hơn nữa để đảm bảo an toàn, rất nhiều được phái đi theo các con đường khác nhau. Con đường đi của Thành Hải lại vô cùng xui xẻo, hắn bị quân kỵ binh tuần tra Mãn Thanh bắt được, đưa thẳng về trong đại bản doanh.
Thành Hải hiểu bản thân mình không thể thoát khỏi cái chết thế nhưng hắn cũng biết rằng những người khác mang tin theo những hướng khác rất có thể mang được tin tới nơi. Lần này chỉ mang thông tin truyền miệng. Người của diêm bang Sơn Đông giúp xác nhận thân phận của người đưa tin nên quân Thát không thể phát hiện ra điều gì. Hắn chỉ cần đối phương không phát hiện ra bản thân mình là người của doanh Giao Châu là đủ rồi.
Điều khiến cho diêm bang Sơn Đông tự hào nhất chính là người trong thiên hạ không còn cách nào ngoài liên hệ với Sơn Đông, không có gì ngoài khiến Sơn Đông được nơi khác biết tới còn các tin tức tình báo được phong toả rất tốt.
Người nhà của Thành Hải đều có cuộc sống yên bình giàu có ở Sơn Đông. Hơn nữa Thành Hải còn hiểu rằng một khi hắn chết đi, cuộc sống của người nhà hắn càng thêm giàu có, trợ cấp của doanh Giao Châu đối với binh sĩ tử nạn luôn khiến người ta cực kỳ hài lòng. Trước khi chết Thành Hải chỉ có một điều tiếc nuối, dựa vào sự phát triển thế lực mấy năm nay của doanh Giao Châu, cả địa vị của chính hắn ở trong diêm bang Sơn Đông, kể cả không làm nên đại sự hắn cũng sẽ làm rạng rỡ tổ tông.
Những bản thân hắn lại không chờ được tới ngày đó khiến cho Thành Hải không sao nhẫn nhịn được.
Quá trình tấn công thành Thiên Tân hôm sau so với việc tế cờ trước khi lâm chiến còn có phần nhạt nhẽo hơn. Quân Minh không dám ra khỏi thành dã chiến cùng với quân Mãn Thanh, chúng chỉ dám trú đóng trong công sự. Khi pháo binh của Chân Siêu Cáp phát hoả, chỉ sau mấy tiếng pháo ầm ầm, công sự phòng ngự đã vỡ ra một mảng. Chuyện kế tiếp không còn gì để nói.
Từ lúc bắt đầu công thành tới lúc chấm dứt chỉ mất có nửa ngày. Dưới sự tấn công của quân tiên phong, quân phòng thủ thành bỏ chạy toán loạn. Điều càng trở nên hỗn loạn nữa là chính những bại binh này quay lại cướp bóc, tàn hại dân chúng trong thành, điều vốn là chuyện của binh lính Mãn Thanh.
Cuộc chiến chỉ mất nửa ngày nhưng thời gian ổn định trật tự lại giằng co mất một ngày. Cuối cùng khi đã hoàn toàn chiếm được thành, binh lính được thưởng công lao băng cách tẩy thành một ngày, cái gì có thể vơ vét được thì cướp tất.
Tẩy thành chính là hình thức khích lệ tinh thần đối với binh lính Man tộc, khiến những người dân trong thành bị lạm sát. Binh lính hoàn toàn biến thành cầm thú, giết hại cướp bóc, bộc phát tất cả thú tính. Chuyện này đối với binh lính Mãn Thanh mà nói thì là cực kỳ vui mừng nhưng đối với dân chúng người Hán trong thành Thiên Tân mà nói thì lại là đại hoạ.
Đại quân Mãn Thanh sau khi nhập quan, các thành thị gặp tai nạn, đồ thành huyết tẩy, hành vi cầm thú đó cực kỳ đáng ghê tởm.
Ngày mười chín tháng mười một năm Sùng Trinh thứ mười lăm, sau khi công phá Thiên Tân tam vệ, đại quân Thát một lần nữa chỉnh đốn lại sau đó chúng bắt đầu xuôi theo đường thuỷ Vận Hà hướng tới phủ Hà Gian.
Ngày hai mươi mốt tháng mười một, đại quân Mãn Thanh dễ dàng công phá thành Tĩnh Hải. Huyện lệnh Tĩnh Hải tuẫn tiết vì nước.
Suốt dọc đường tiến quan, Đại tướng quân A Ba Thái phụng mệnh chỉ huy quân đội Mãn Thanh vốn có rất nhiều quân lính Mông Cổ bên Đoá Nhan tam vệ mới quy phục. A Ba Thái vốn lo sợ trong quân đội Mãn Thanh có nhiều tân binh, kinh nghiệm chiến đấu còn ít nhưng dọc đường tiến quân thẳng như chẻ tre, quân Minh bỏ chạy như cỏ lướt theo gió.
Nhưng điều này lại khiến đám mã phỉ Mông Cổ, tân binh Mãn Châu dần dần bồi dưỡng sự tự tin cho chính mình, rèn luyện được sức chiến đấu. Một đội quân vốn có gì đó không ổn nhưng sau khi tiến vào phủ Hà Gian đã chậm rãi kết hợp chặt chẽ, ngày càng mạnh mẽ.
Sau khi tiến vào phủ Hà Gian, việc hành quân, bày trận của A Ba Thái bắt đầu có sự thay đổi không còn tản mát không đầu, không cuối như trước mà là hành quân tác chiến có quy củ.
Cho dù A Ba Thái có bày ra thế trận phân tán, triều đình Đại Minh và quân đội đều không rảnh rang để ý tới, chỉ liều mạng thu nạp binh mã về kinh sư, căn bản coi như không có quân thù tiến vào trong biên giới đất nước, gây tai hoạ, tàn sát con dân Đại Minh . Quân đội Đại Minh đáng lẽ phải có suy nghĩ xuất chiến tới chết trên chiến trường.
Trở lại thời gian mấy ngày trước. Ngày mười lăm tháng mười một, thành Tế Nam, Sơn Đông.
Sau khi phái người đưa tin cho Lý Mạnh ở Nam Trực Lệ, đại quân Mãn Thanh đã ở bắc Trực Lệ. Bắc Trực Lệ tiếp giáp Sơn Đông, không cần phải nói cũng biết phủ Tế Nam gần phủ Hà Gian nhất sẽ là nơi đứng mũi chịu sào.
Phủ Tế Nam vốn là phủ thu thuế má, lương thực lớn thứ hai ở Sơn Đông. Hiện nay Tế Nam cũng là trung tâm hành chính, quân sự của Giao Châu doanh. Hơn nữa cục chế tạo binh khí cùng những nghành quan trọng cũng được lập ở Tế Nam, điều càng quan trọng hơn nữa những kho hàng lớn đã được thành lập trên quan đạo và kênh đào.
Không cần phải nói trong thành Tế Nam có kho ngân khố, quân giới của quân đội, là một nơi quan trọng bậc nhất. Hơn nữa Giao Châu doanh từ Lý Mạnh cho tới các binh lính, người nhà quân nhân đều tập trung ở tại Tế Nam. Nên nhớ khi Giao Châu doanh di chuyển, đại bộ phận người nhà của Linh Sơn vệ, Ngao Sơn vệ đều đã chuyển tới đây.
Cho dù là người, tiền tài hay vị trí địa lý. Xét trên tất cả các phương diện, phủ Tế Nam là nơi tuyệt đối không thể từ bỏ.
“Từ khi đại soái khởi binh bách chiến bách thắng, chưa một lần thất bại. Nếu rút khỏi phủ Tế Nam, đi tránh hoạ ở những châu phủ khác. Trước tiên không nói về chuyện rất nhiều người và tài sản không thể di chuyển, chỉ đơn thuần chuyển đi thôi e rằng cũng khiến dân chúng Sơn Đông và những người có quan hệ mật thiết với Giao Châu doanh náo loạn. Nhất định khi đó mọi người sẽ nghĩ Giao Châu doanh chỉ là miệng cọp gan thỏ mà thôi. Những binh mã khác của Đại Minh không dám đánh quân Mãn. Binh mã Sơn Đông chúng ta cũng không dám đánh quân Mãn Thanh vậy không phải chúng ta chỉ là đồ bị thịt thôi sao? Tình cảnh ngày nay không thể rút lui, chỉ có thể đánh mà thôi”.
Đại địch trước mắt, tất cả tướng lĩnh cai quản Giao Châu doanh ở phủ Tế Nam đều tập trung ở bên nha môn tổng binh, ngay cả mấy người ở trong nhà cũng xuất hiện. Quản gia La Tây chỉ huy gia đinh và người hầu của Lý Mạnh bố trí một chiếc bình phong sau vị trí ngồi của Lý Mạnh để mấy vị phu nhân ngồi trong đó nghe thảo luận.
Đây là phủ tướng quân, bàn luận của tổng binh nha môn, các quan văn khác của Sơn Đông không được phép tham dự, thế nhưng Tuần án Sơn Đông, Bố chánh sứ nha môn, Tri phủ Tế Nam cũng đang rất bối rối không biết nên làm thế nào cho phải.
Khi Chu Dương tới, Tri phủ Tế Nam uỷ thác cho hắn mang thông tin tới nói là hiện nay tất cả các nha môn ở phủ Tế Nam đều muốn tránh đi, muốn tới tam phủ Thanh Châu, Lai Châu, Đăng Châu. Nơi đó có địa hình cách trở, lại là địa bàn kinh doanh nhiều năm của Lý Mạnh nên an toàn hơn những nơi khác.
Chu Dương, Đồng tri phủ Tế Nam mang tin tức tới chính đường nha môn, người đầu tiên phản đối chính là Ninh Càn Quý. Chu Dương đưa ra ý kiến đó đương nhiên chính là trong lòng hắn cũng có suy nghĩ đó, hay có thể nói hiện nay trong hệ thống của Giao Châu doanh có một bộ phận cũng có suy nghĩ đó.
Tính cách của quan văn khi gặp chuyện đại sự có liên quan tới sinh tử thì luôn mềm yếu, có xu hướng né tránh. Điều này cũng bình thường mà thôi. Điều mấu chốt là lúc này Lý Mạnh không có mặt ở đây, hắn đang ở Nam Trực Lệ. Lúc này không có người chủ sự, cho dù sứ giả có đưa tin tới nơi, đại quân gấp rút quay về chỉ e cũng không kịp.
Cho dù là thế nào đi nữa, thành Tế Nam này là một nơi vô cùng nguy hiểm. Chu Dương cùng thủ hạ của hắn có chủ trương né tránh cuộc chiến cũng là điều bình thường.
Và lại Giao Châu doanh hoành hành thiên hạ, quan binh Đại Minh và đại quân lưu dân cũng không phải là đối thủ của quân Giao Châu nhưng trừ mấy trận giao chiến nhỏ mấy năm trước ra còn không có bất kỳ trận chiến nào khác.
Việc đối nội, đối ngoại của Giao Châu doanh hơi thấp kém nhưng binh lính Mãn Thanh này thì rõ ràng là uy danh hiển hách. Rất nhiều danh tướng, trọng thần Đại Minh chết trận trong chiến tranh với quân Mãn Thanh. Gần đây nhất mười mấy vạn quân Minh đã bị đại quân Mãn đánh bại tan tác. So sánh với nhau thì có cảm giác là quân Mãn rõ ràng mạnh hơn rất nhiều.
So với một kẻ là văn sĩ thuần tuý như Chu Dương. Ninh Càn Quý lại là người thức thời hơn nhiều. Hắn chỉ là tú tài là thành viên ban quan văn Giao Châu doanh nhưng cuối cùng trong hắn vẫn có tính cách giang hồ mạnh mẽ của một người làm ăn. Ninh Càn Quý vẫn giữ một thái độ rất tỉnh táo để phán đoán lợi hại, hơn nữa cố gắng đấu lý.Hai thủ lĩnh quan văn của Giao Châu doanh. Một người là Chu Dương, một người là Ninh Càn Quý, hai người tranh luận gay gắt với nhau khiến cục diện lập tức trở nên yên ắng. Những người khác trong lúc này không biết cần phải nói thế nào cho phải.
Bầu không khí có vẻ yên tĩnh. Lúc này ánh mắt mọi người đều tập trung vào Triệu Năng ngồi bên tay trái. Bây giờ Lý Mạnh không có mặt ở đây, theo phân công. Tham tướng Đăng Châu, Triệu Năng chính là chỉ huy quân sự cao cấp nhất, trong tay hắn có một vạn năm nghìn quân Đăng Châu, trước mắt là lực lượng vũ trang mạnh nhất Sơn Đông. Ý kiến của hắn đương nhiên là quan trọng nhất.
Lúc này trên gương mặt Triệu Năng lại không có bất kỳ biểu hiện nào, tương đối bình tĩnh. Từ đầu tới giờ hắn vẫn giữ dáng vẻ đó. Cho dù các ánh mắt tập trung vào hắn nhưng Triệu Năng lại không đưa ra ý kiến gì. Mọi người ở đây cho dù là chủ mẫu hay lão thái gia, thậm chí là vị Công Tôn tiên sinh kia cũng có quyền lên tiếng hơn so với cả hắn.
Triệu Năng luôn là người cẩn thận. Bây giờ ở cục diện này nếu tuỳ tiện nói mấy câu, sau này đưa tới tay Lý Mạnh, nhất định chẳng phải là chuyện tốt đẹp gì cho dù tình cảm của hai người như thủ túc.
Đây cũng chính là sự bất đồng giữa văn và võ. Chu Dương và rất nhiều quan văn ở bên ngoài đều cảm thấy tai hoạ ngập đầu nhưng đối với Triệu Năng mà nói đây chỉ là trận chiến phiền phức hơn mà thôi. Địch nhân có thực lực mạnh hơn thì cần phải thận trọng trong hành động. Đó cũng chính là suy nghĩ của tướng sĩ Giao Châu doanh. Có thể nói bọn họ tự tin hơn so với đám quan văn.
“Tình hình lúc này còn chưa tới mức độ xấu như vậy. Điều binh lính trú tại tam phủ Thanh Châu. Lai Châu, Đăng Châu tới Tế Nam thì phủ Tế Nam có thêm hai vạn ba nghìn binh mã, cộng với binh lính trú tại Tế Nam cũng được tới hai vạn bảy nghìn binh mã, chúng ta có thể ngăn cản quân Mãn một thời gian ngắn. Khi binh mã phủ Duyện Châu, binh mã phủ Quy Đức, binh mã của Đại soái kịp thời quay về chi viện, chúng ta sẽ hoàn toàn chiếm ưu thế. Bây giờ chúng ta không thể hoảng sợ”.
Giọng nói có phần the thé nhưng tất cả mọi người đều yên lặng lắng nghe bởi vì người nói chính là bá phụ của Đại soái lão thái giám Lưu Phúc Lai. Hơn nữa năm đó lão thái giám là thái giám chấp chưởng Nam Kinh nên đương nhiên con mắt nhìn đại cục đương nhiên khác với người thường.
“Đại quân Mãn xuôi nam, việc chúng ta làm không chỉ là để tự bảo vệ mình mà còn phải để người trong thiên hạ thấy sự hùng mạnh của binh mã Sơn Đông. Đại soái xuất quân nam chinh, quân Mãn thừa dịp đánh tới. Nay bản thân đang trong tình trạng nguy hiểm. Nếu như chỉ vì chuyện này mà bất hoà với nhau vậy kế hoạch bao năm nay đều là số không, các vị sao có thể cư xử như vậy?”
Đã rất lâu rồi lão thái giám Lưu Phúc Lai không xuất hiện ở bên ngoài. Sức khoẻ của ông càng ngày càng suy giảm. Thế nhưng trong thời điểm khẩn cấp này, ông vẫn xuất hiện trước mắt mọi người, hơn nữa không có gì thể hiện dáng vẻ hồ đồ, tinh thần ông vẫn quắc thước, giọng nói vô cùng kiên định.
Lão thái giám vừa nói xong, Chu Dương vốn đang đỏ mặt tía tai muốn tranh cãi mấy câu cũng bình tĩnh trở lại. Lúc này bầu không khí lại vô cùng yên tĩnh. Nhan Nhược Nhiên ở sau bình phòng hờ hững nói: “Cơ nghiệp của phu quân nhà ta đều ở đây, không thể coi nhẹ được. Các vị đại nhân đừng lo cho mấy thiếp thân tỷ muội chúng ta, Hãy vì đại nghĩa trước, Cái gì nặng, cái gì nhẹ, mấy người chúng ta vẫn hiểu được”.
Một khi Nhan Nhược Nhiên đã nói như vậy, coi như là cơ sở để quyết định, một người có dáng vẻ lúng túng như Chu Dương cũng đã nghiêm nghị trở lại. Triệu Năng từ đầu tới cuối vẫn yên lặng lúc này mới đứng dậy, bực tức nói: “Trên đất phủ Tế Nam này chỉ trong vòng hai ngày có thể tụ tập được khoảng năm nghìn binh mã. Hơn nữa quân bản bộ Đăng Châu đủ sức có thể bảo vệ được phủ Tế Nam”.
Rốt cuộc có thể coi đây là lời hứa của Triệu Năng đối với mọi người. Mặc dù biết đây chỉ là hình thức bề ngoài nhưng rất nhiều người vẫn không nhịn được buông tiếng thở dài. Tôn Truyền Đình vẫn im lặng từ đầu bây giờ mới lên tiếng.
Trong tình huống này, Tôn Truyền Đình tự biết mình như là người ngoài. Khi nãy thể hiện lập trường tranh cãi với nhau không phải là lúc thích hợp cho ông ta lên tiếng nhưng bây giờ chính là phạm vi của ông ta. Giọng nói của ông ta có vẻ rất bực tức nhưng mọi người trong đại đường đều chăm chú lắng nghe. Tất cả đều biết sự nể trọng của Đại soái đối với vị Công Tôn tiên sinh này.
“Vùng tiếp giáp của phủ Tế Nam với Bắc Trực Lệ đều là vùng đồi núi thấp, ruộng đồng bằng phẳng, rất phù hợp cho quân kỵ binh Thát hành động nhưng ngược lại lại là trở ngại đối với bộ binh của quân ta. Đối phương chỉ cần một đội quân nhỏ cũng có thể tung hoành ngang dọc, dựa vào cướp bóc để tiếp viện, trong khi đó việc bố trí chiến trường của binh mã Giao Châu doanh lại cực kỳ khó khăn”.
Bên trong phòng vô cùng yên tĩnh, ai nấy cũng đều chăm chú lắng nghe.
“Lão phu đã nói chuyện với chuyện với Dương Nhân Âu Mạn, đại bộ phận địa hình phủ Tế Nam không có cách nào cho bộ binh của Giao Châu doanh lập thế trận. Không có thế trận, không thể giao chiến. Chiến trận xảy ra ở vùng Tế Nam, quân Giao Châu doanh sẽ rơi vào thế hạ phong. Hơn nữa hành động của thế trận hình vuông của bộ binh chúng ta đương nhiên chậm hơn so với kỵ binh của quân Thát. Quân Thát có thể không cần để ý tới binh mã Sơn Đông chúng ta, chúng có thể di chuyển tới chỗ không binh, trống không mới là điều rất phiền toái”.
Triệu Năng ngồi bên cạnh liên tục gật đầu. Thủ hạ trong tay hắn chỉ có chưa tới hai nghìn kỵ mã, tính cơ động kém hơn rất nhiều so với quân Thát. Nếu quân Thát thật sự không để ý tới mà đi đường vòng, hắn thật sự không có cách nào có thể đuổi kịp.
“Hơn nữa căn cứ theo tin tức từ Bắc Trực Lệ báo về, lần này quân Thát xuôi nam dọc theo Vận Hà, vậy chúng nhất định đi theo Đức Châu tới Lâm Thanh, ngược lại chúng tránh thành Tế Nam. Một khi đại quân Thát đi dọc theo Vận Hà đánh chiếm Lâm Thanh, vào Duyện Châu, mấy nghìn binh lính ở phủ Duyện Châu chỉ sợ là không chống nổi. Hai phủ Đông Xương. Duyện Châu chính là vùng đất màu mỡ, trái tim của Sơn Đông. Nếu để cho quân Thát tuỳ ý cướp bóc, phá huỷ, chỉ e là sẽ tổn thương tới nguyên khí của Sơn Đông chúng ta”.
Chu Dương cùng Ninh Càn Quý đều lấy giấy bút ra ghi chép tại chỗ. Bên trong bình phong không biết là Cố Hoành Ba hay là Liễu Như Thị cũng đang ghi chép.
“Tính theo thời gian, rất có thể lúc này đại đội binh mã quân Thát đang tiến tới Duyện Châu. Binh mã của Đại soái vừa vặn có thể từ Nam Trực Lệ tiến về đó. Quân Duyện Châu của Trương Giang và quân phủ Quy Đức cũng từ vùng biên cảnh Dự. Lỗ chạy về. Trước mắt ở vùng trung tâm đó sẽ có hơn mười vạn đại quân quyết đấu. Hơn nữa phủ Duyện Châu lại là nơi tiếp giáp của bốn tỉnh. Bốn phía xung quanh đều bất ổn. Phủ Duyện Châu lại có Lỗ vương và Khổng phủ. Khi đại quân giao chiến với nhau, chỉ sợ binh mã Sơn Đông không chiếm được địa bàn giao chiến thuận lợi cho quân mình. Nếu làm không tốt, sẽ hoàn toàn bị động, khi đó thì không thể vãn hồi”.
Nghe Tôn Truyền Đình nói ra tình thế hung hiểm như vậy, Triệu Năng không thể ngồi yên được nữa, hắn đứng dậy nghiêm nghị hỏi: “Vậy theo ý tứ của Công Tôn tiên sinh, quân ta không nên cố thủ ở Tế Nam mà chủ động nghênh chiến sao?”
“Triệu tướng quân nói rất đúng. Không những quân ta không nên cố thủ ở Tế Nam và còn phải chủ động xuất kích. Đường thuỷ Vận Hà từ Thông Châu xuôi về nam, nhập vào Sơn Đông ở Đức Châu sau đó xuôi theo tuyến Diên Tây về nam, qua phủ Đông Xương tiến vào phủ Duyện Châu, Đức Châu chính là quan ải. Phủ Tế Nam phần lớn là đồi núi, sườn dốc, vùng đất phía bắc Đức Châu bằng phẳng tuy nói là phù hợp cho quân kỵ binh quân Thát tung hoành nhưng cũng phù hợp cho thế trận bộ binh của quân Giao Châu doanh chúng ta. Quân Thát tiến dọc theo sông, quân ta dựa vào bờ sông phòng thủ. Quân Thát muốn tiến dọc theo sông không thể không có lo lắng, nhất định chúng sẽ phải giao chiến với binh mã bản bộ của Triệu tướng quân. Khi đó quân của Đại soái cùng quân cứu viện sẽ tận dụng thời gian chạy về tới nơi. Mọi chuyện sẽ trở nên thuận lợi”.
Tôn Truyền Đình chậm rãi nói một hơi rất dài. Sau khi ông ta nói xong, cả căn phòng lạnh ngắt như tờ. Tất cả mọi người đều đang suy nghĩ điều Tôn truyền Đình nói. Đại quân tiến lên, mặc dù đại quân Mãn Thanh phần lớn là ngựa nhưng cũng phải dựa vào đường thuỷ. Dù là mùa đông đường thuỷ bị đóng băng, việc vận chuyển trên Vận Hà bị đình trệ nhưng mấy vạn người ngựa vẫn phải dựa vào nguồn nước nên nhất định phải đi theo đường thuỷ.
Theo lý lẽ đó, chỉ cần quân Giao Châu doanh có mặt cạnh đường thuỷ Vận Hà, đại quân Mãn Thanh nếu muốn tiếp tục xuôi nam thì nhất định phải quyết chiến một trận bởi vì Vận Hà không phải chỉ là đường tiến quân mà còn là đường lui. Nếu như không diệt trừ toàn bộ ngăn trở ở bên cạnh, cho dù có vượt qua hông giao chiến, tinh thần của binh lính cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
Cho dù quân Thát không tiến quân dọc theo Vận Hà mà tấn công phủ Tế Nam như trước thì con đường bộ tiến vào phủ Tế Nam cũng chỉ có một con đường qua Đức Châu. Đức Châu ở bên cạnh Vận Hà.
Điều này đã chứng tỏ sự lựa chọn sáng suốt của Tôn Truyền Đình. Chỉ cần phòng thủ vững Đức Châu thì cho dù quân Thanh có muốn tiếp tục xuôi nam hay tấn công Tế Nam thì nhất định đều phải đi qua quan ải Đức Châu này. Cho dù quân Thát phần đông là kỵ binh có tính cơ động hơn hẳn so với quân Giao Châu phần đông là bộ binh nhưng chỉ cần nắm được địa phương đó quân Thát không thể không giao chiến.
Trừ khi quân Thát muốn đi Hà Nam hay di chuyển quanh Bắc Trực Lệ. Hà Nam lúc này đã trở nên vô cùng hỗn loạn. Bắc Trực Lệ đã nhiều lần bị quân giặc tàn sát. Đại quân Thát này, với những người chỉ có trí lực cùng sự phán đoán bình thường cũng đoán chúng chỉ có thể tiến vào Sơn Đông. Hơn nữa phủ Tế Nam, Sơn Đông đã từng bị Đa Nhĩ Cổn huyết tẩy một lần tổn thương nguyên khí nghiêm trọng. Nhất định quân Thát sẽ tiếp tục xuôi nam. Sơn Đông chính là địa phương giá trị nhất, có phủ Duyện Châu giàu có sung túc. Sau lưng phủ Duyện Châu còn có Nam Trực Lệ.
Thiên hạ tuy lớn, nhìn như không chỗ nào không thể đi, có thể hành động tuỳ thích nhưng phán đoán chuẩn xác trên thực tế đều phải tuân theo vết tích. Cho dù là chim bay lượn tự do trong đất trời nhưng vẫn cần phải sống trên đất. Đại quân hành động càng phải như thế. Vận chuyển quân nhu, cung cấp lương thảo, mục đích hành động đều có thể suy đoán ra được.
Năm đó Tôn Truyền Đình chỉ huy biên binh Thiểm Tây đối phó với đại quân lưu dân của Lý Tự Thành và Cao Nghênh Tường. Chỉ huy quân tiến đánh, bố trí mai phục, tất cả bố trí đều rất tinh thông.
Có thể nói quân Giao Châu doanh tương đối yếu kém việc dự đoán xu thế quân địch, hành động của đại quân đối phương. Xung quanh Sơn Đông đều là chiến trường lớn nhỏ, gần như tất cả chỉ xác định chiến đấu sau khi gặp nhau. Mặc dù trước đó không có chuyện xác định chiến trường, cũng không sử dụng các loại phương pháp dự đoán, chiến giữ địa hình có lợi sau đó tận dụng binh lính được huấn luyện nghiêm chỉnh cùng ưu thế về vũ khí tiến hành nghênh đánh.
Thế nhưng Tôn Truyền Đình này hoàn toàn có tố chất của một tướng lãnh của thời đại. Đối với các tướng lãnh của quân Giao Châu doanh việc điều động quân đội trong những hoàn cảnh quan trọng, phán đoán tình hình địch ta trong hoàn cảnh này, cho dù là Lý Mạnh cũng có khiếm khuyết trong phương diện này, huống chi là Chu Dương. Ninh Càn Quý, mấy quan văn này.
Dù sao lão thái giám Lưu Phúc Lai đã từng làm thái giám trấn thủ Nam Kinh, kiến thức rộng rãi, ông nghe Tôn Truyền Đình nói mấy câu đó thì biết ngay tầm quan trọng của nó, ông gọi một nha hoàn dìu mình đi tới trước bình phong sau đó thì thào thương nghị mấy câu với người trong bình phong rồi ông quay người đi cao giọng nói: “Phân tích của Công Tôn tiên sinh rất chu đáo. Bây giờ Đại soái đang ở Nam Trực Lệ. Dựa theo sự căn dặn trước khi đi, xin mời Công Tôn tiên sinh hãy đứng ra chủ trì”.
Lão thái giám cũng tương tự như người nhà của Lý Mạnh. Nữ nhi trong nhà không tiện xuất đầu lộ diện. Bây giờ người đưa ra quyết định chính là ông, chính là những lời rất thành thật. Thế nhưng trước khi đưa ra quyết định, ông đã đi tới trước bình phong nói chuyện đương nhiên là muốn mấy nàng Nhan Nhược Nhiên cùng Mộc Vân Dao có quyết định vì dù sao quan hệ của Lý Mạnh với nữ quyến của mình cũng khác, mấy vị nữ chủ nhân này cũng cần có ý kiến.
“Cứ dựa theo ý kiến của bá phụ đại nhân, xin mời Công Tôn tiên sinh hãy đứng ra chủ trì”.
Giọng nói êm ái của Nhan Nhược Nhiên lại vang lên sau bình phong, coi như là lời ủng hộ đối với Lưu Phúc Lai khiến Triệu Năng nghe thấy vậy vội vàng đứng lên, ôm quyền, khom người thi lễ với Tôn Truyền Đình.
Tuy nghi lễ này rất đơn giản nhưng nó là một biểu hiện, biểu hiện là lúc này Tôn Truyền Đình đã có thể bắt đầu hạ lệnh. Lúc này Tôn Truyền Đình không có chút kích động nào nhưng trong lòng hắn thầm xúc động. Trước khi ra đi Lý Mạnh đã sắp đặt rất chu đáo. Không có cái gọi là nhân cơ hội soán quyền, cũng sẽ không có cái gì mất hiệu lực chỉ huy, trì hoãn tình hình.
Một khi đã xác định như vậy, Tôn Truyền Đình cũng không còn đùn đẩy, trì hoãn nữa. Cục diện hiện nay khiến ông ta không thể trì hoãn hay chần chừ. Lập tức Tôn Truyền Đình nhìn mọi người xung quanh nói: “Đã như vậy, lão phu xin quyền. Phu nhân, xin hỏi ở Tế Nam có thể điều động được bao nhiêu người của đội vũ trang diêm bang và đội hộ trang?”
Không bao lâu sau từ xong bình phong đã có người lên tiếng trả lời: “Phủ Tế Nam phần lớn là người nhà của quân Giao Châu doanh nhưng vũ trang diêm đinh cùng đội hộ trang ở bên ngoài thành Tế Nam, trong vòng hai ngày có thể tụ tập ở đây được khoảng chừng bảy nghìn người”.
Giọng nói vừa rồi là của Mộc Vân Dao. Tôn Truyền Đình gật đầu, ông ta trầm ngâm một lát rồi quay người nói với Triệu Năng: “Dù bảy nghìn người này hơi ít nhưng đủ để phòng ngự Tế Nam. Triệu tướng quân, thủ hạ của tướng quân có một vạn năm nghìn người, cộng thêm hai nghìn người của Thực Nghiệm doanh, binh lính lưu lại trấn thủ Tế Nam hai nghìn người, tổng cộng là một vạn chín nghìn quân. Một ngày sau xuất quân tiến về bắc Đức Châu, lập doanh trại trấn thủ ở Cảnh Châu Đông bên cạnh Vận Hà. Xin mời Triệu tướng quân hãy chuẩn bị. Lộ trình đi Cảnh Châu Đông là ba ngày. Đại quân Thát cần năm ngày để tiến tới đó. Tính từ ba ngày sau khi lên đường, chỉ cần phòng thủ được bảy ngày là lập đại công”.
Ngày mười bảy tháng mười một năm Sùng Trinh thứ mười lăm, một vạn chín nghìn quân Giao Châu doanh xuất phát từ Tế Nam gấp rút tiến lên phía bắc. Sứ giả từ đại doanh Tế Nam đi bốn xung quanh, triệu tập binh mã các nơi ở Sơn Đông tới trợ giúp.
/539
|