Theo những thư tịch cổ, trên lãnh thổ Việt Nam vào những năm đầu Công nguyên xuất hiện ba nền văn mình và Nhà nước được xếp vào hạng sớm nhất Đông Nam Á, đó là văn hoá Đông Sơn ở nước Văn Lang - u Lạc; văn hoá Sa Huỳnh ở nước Chăm Pa; và văn hoá Óc Eo ở nước Chân Lạp. Óc Eo vào thời điểm hiện tại, vì là cầu nối giao thương của các nước ở lưu vực sông Mekong, Ấn Độ và phương Tây nên văn hoá trở nên hết sức đa dạng còn kinh tế thì thịnh vượng vô cùng. Hàng loạt đồ gốm, đá quý, đá bán quý, cổ vật và dụng cụ làm muối sau này được các nhà khảo cổ đào lên đã chứng minh cho điều đó. Thế nhưng, còn một loại văn minh, một đế chế với những điều luật bất thành văn cũng hình thành song song đó mà không phải ai cũng biết. Người biết được ít nhiều thì gọi họ là Lục Lâm.
Khi nhắc đến hai từ “lục lâm” thì nhiều người lầm tưởng đến một nhóm sơn đầu thảo khấu, chuyên đi cướp bóc, đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ; thật ra người ta đang nhầm lẫn với lũ lục lâm Trung Quốc. Lục lâm ở Óc Eo mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Thuở ban đầu, lúc tổ chức hành chính trên đất đai vùng Nam Bộ chỉ vừa mới được kiện toàn, làm gì có đường xá, giao thông kết nối giữa các tỉnh như bấy giờ, cả một vùng đất đai bạt ngàn chỉ toàn những rừng sậy cao hơn đầu người, “rừng thiêng nước độc” ông bà ta truyền miệng nhau quả thật không sai. Dẫn theo đó là những bảo vật của trời đất ẩn mình, chỉ chờ những người dũng cảm, đam mê khám phá, phiêu lưu đến tìm. Lại có thêm sự đốc thúc khai hoang của các đời chúa Nguyễn, những người trai tráng bắt đầu quẩy tay nải, lên đường đi tìm những bảo vật đó.
Bảo vật: tất nhiên là đắt tiền, hoặc nói là vô giá cũng không phải dốc láo gì ai. Cho nên quá trình đi tìm gian lao, khổ cực thì khỏi phải bàn tới. Giới lục lâm ban đầu chỉ có vài người, phần vì không phải ai cũng chịu được khó khăn hoặc nguy cơ bỏ mạng, phần vì một điều luật bất thành văn đã hình thành, khiến cho không phải ai muốn đi cũng đi được. Đó là căn nguyên hình thành của ngôn ngữ lục lâm. Con người vốn lòng dạ đa đoan, bề ngoài trông như vậy thôi nhưng bên trong lại giống như một tảng băng chìm, có trời mới biết họ đang giấu những gì. Chỉ một người thôi đã như vậy, thử tưởng tượng cả một xã hội thì như thế nào?! Một quán nước ven đường, một ông lão ngồi câu cá, một bà hàng thịt béo phị; chỉ cần nói được thứ ngôn ngữ không đầu không đuôi đó, thì cuộc sống giàu sang có khi đã nắm được trong tay một nửa.
Giới lục lâm lúc ban sơ chưa có cơ sở để xác định rõ rệt, nhưng càng về sau thì người ta chia làm ba đường để dễ phân biệt: Thông Hải, Xuyên Lâm và Tẩu Lộ. Giới Thông Hải, chỉ nghe đồn là đi tìm ngọc trai, tổ Yến Chúa chứ chưa nghe thông tin chính xác, nguyên nhân là nó đã thất truyền. Giới Xuyên Lâm gồm những người đi tìm trầm, đá phong thuỷ, kỳ nam gọi chung là đi Trồng Lan (nhánh của Hùng Bonsai), những người đi giết ma dạo, diệt yêu, trừ tà gọi chung là Đập Miễu (nhánh của Thạch Sinh) và những người đi tầm long, trấn yểm gọi chung là Đào Giếng. Giới Tẩu Lộ gồm những người đi hái thuốc, chữa bệnh gọi chung là Hàng Rong, những người cung cấp mặt hàng đặt biệt cho lục lâm gọi chung là Hàng Thịt và những người quản lý giao thương gọi chung là Thả Diều.
Biết được tên gọi chỉ là nhập môn, người muốn tinh thông loại ngôn ngữ này không còn cách nào khác, phải sống trong nó, tích góp kinh nghiệm từng ngày. Anh Hùng nói đến đây liền nhìn lên trần xe rồi thở dài, có lẻ những điều anh vừa kể đáng ra là dành cho anh Thông, vào một buổi nhậu ở góc quán nào đó mà hai người bọn họ đã hứa hẹn. Tôi thấy anh buồn nên cũng không dám bắt chuyện, cho anh tự chìm vào khúc mắc của mình. Cũng vì phần tôi có khá nhiều chuyện để suy tính.
Từ vụ tai nạn của anh Thông cho tới nay cũng ngót năm năm trời, trong khoảng thời gian đó, anh Hùng vẫn tiếp tục đi trồng lan, đi diệt ma dạo, sẵn tiện tu luyện cho nhuần nhuyễn cuốn Phục Ma Kinh, thêm vào đó anh đi bái sư, học nghề đủ cả. Nhìn thần thái trong ánh mắt anh có thể đoán biết được rằng anh là loại người như thế nào, cũng giống như cảm giác ấn tượng ban đầu anh đem lại cho tôi vào buổi cà phê hôm đó. Những chuyện xảy ra tiếp theo tôi nghĩ một phần cũng do số phận đã sắp đặt như vậy rồi. Nói thẳng ra tôi đã chán công việc, sổ sách; chán giao thông, tắc đường, ngập nước; chán luôn con người. Khi anh Hùng nói anh đang đợi tôi xuất hiện, rồi còn rủ tôi đi một chuyến với anh, tôi không giấu được sự hân hoan, tôi là người thích đi đây đi đó, thích tự do, nhưng muốn đi chơi thì phải kiếm tiền trước: đó là cuộc sống cũ, tôi xin gác nó lại phía sau. Tôi tưởng tượng chuyến xe tôi đang đi lúc này là chuyến xe mang trọng trách rẽ cuộc đời tôi sang một hướng đi mới, một cuộc đời đầy phiêu lưu như lời kể của Hùng bon-sai, nhưng không phải là đi chơi cho vui, mà là đi kiếm bảo vật bán lấy tiền, để có thể trang trải cho những cuộc phiêu lưu kiếm bảo vật bán lấy tiền khác. Cho dù có nguy hiểm đến tính mạng, có thể tôi sẽ chết, nhưng tôi chết làm một con người tự do, tự định đoạt.
Bác tài thả chúng tôi ở bến xe Miền Tây, bắt một chiếc Grab, chúng tôi lên đường đến chợ Bến Thành. Anh Hùng là người đã đi nhiều, nên đồ đạc anh chỉ gói gọn trong cái ba-lô bộ binh, còn tôi lỉnh kỉnh đủ thứ, lúc nhét cái vali vào thùng xe còn muốn không đủ chỗ. Anh Hùng cười nói: “Thôi, để mai mốt anh soạn lại đồ cho chú.”
Sẵn tiện tôi hỏi luôn: “Mình đi chợ Bến Thành chi vậy anh? Mua thêm đồ hả?”
“Đồ đạc gì nữa, đi tìm một người bạn cũ thôi.”
“Ai vậy anh?”
“Truyền nhân của Lục Tỷ, là đệ tử thứ sáu của Lý sư phụ, một Tẩu Lộ cứng khừ đó!”
Xe dừng trên đường __, một khu phố người Ấn hay người Hoa gì đó, những tiệm thời trang, ẩm thực mang phong cách huyền bí của phương Đông. Chúng tôi cuốc bộ vào con hẻm gần đó rồi dừng lại trước một tiệm thuốc Nam. Phía trong quầy thuốc có bà lão đang ngồi vừa nghe đài vừa nhai trầu, sau lưng bà là hàng trăm ngăn tủ đựng thuốc và những tờ giấy dán tên thuốc đã ố vàng gần hết. Hùng đi vào lối đi nhỏ bên trái căn nhà, anh bốc ra năm cây thuốc rồi đặt chúng lên bàn, anh lấy ấm nước gần đó, cho tay lên thấy nước vẫn còn dùng được liền rót chúng vào nồi sành rồi chăm lửa. Vẫn chưa thấy động tĩnh gì từ bà lão, tôi nhìn sang anh Hùng nhưng anh chỉ kiên nhẫn đứng chờ nước sôi rồi cho mấy cây thuốc vào (lúc này tôi không phân biệt chúng là những loại gì), khoảng năm phút sau, đến khi thuốc đã sắc lại, anh rót một ly đầy rồi đưa ly lên trước mặt, trông rất trang trọng, anh nói: “Con kính cụ!”, đoạn một hơi ực sạch ly thuốc. Thuốc có vẻ khó uống hay sao mà sau đó anh ho sặc sụa, như muốn phun luôn cả phổi ra ngoài. Bà lão thấy vậy liền lên tiếng: “Ba năm rồi không uống lại, mùi vị vẫn như ngày nào phổng?”
Hùng cười rồi đáp: “Dạ, ngoại khỏe không ngoại?”
Bà lão tắt đài radio, phun trầu vào thố rồi nhặt chiếc quạt lên phe phẩy: “Khỏe re bây ơi, dạo này toàn bốc thuốc, bán buôn cũng được mà không thấy thằng nào ghé, chán, chán!”
Chuyện này Hùng có nói với tôi, cơ bản là vì báu vật trên thế gian giờ không còn nhiều, những chỗ dễ đi, dễ tìm đã bị lấy hết. Còn lại những chỗ khó đi, khó tìm thì nhiều người e dè, số lượng lục lâm cũng từ đó mà giảm hẳn. Hùng nói tiếp: “Cô Sáu đâu rồi ngoại?”
“Chết rồi.”
Hình như anh không bất ngờ với thông tin đó. “Vậy còn Tú Linh…?”
“Con Linh lo tan cho sư phụ nó xong cũng bỏ nghề. Phần cũng vì… Mày hiểu rõ hơn ngoại mà đúng không. Dù gì thằng Thông cũng là bạn nối khố của nó, trong cùng một năm mà mất đi hai người như vậy… Mày tìm nó chi?”
“Dạ…”
“Lại đi rừng nữa chứ gì. Thôi bỏ đi con ơi!”
“Ngoại đừng hiểu lầm, con làm gì cũng có tính trước tính sau hết rồi. Đi chuyến này cũng vì lợi ích của cô ấy. Và thêm nữa là con sẽ không để chuyện gì xảy ra với những người đi cùng với mình nữa đâu, nên một phần con cũng cần cô ấy đi chung.”
“Nó bỏ đi lâu rồi, có trời mới biết giờ nó đang ở cái xó nào, làm cái nghề gì. Mày biết tính nó rồi đó.” Bà lão từ nãy đến giờ nói chuyện mà chỉ nhìn xa xăm, chợt bà ngước đầu lên nhìn Hùng, tôi có thể thấy rõ trong đó sự bất ngờ của một người đã lâu không gặp anh, giờ lại thấy được cặp mắt đó, bộ râu đó, thần thái đó sẽ bị choáng ngợp. Tôi chỉ đoán vậy thôi, có thể tôi đã đúng vì tiếp sau đó bà lão liền thở dài, như kiểu biết được không có gì ngăn cản được Hùng đi tìm cô gái tên Tú Linh kia. Bà nói: “Ít lâu trước tao có gặp thằng Nam, nó nói lúc đi thả diều ở biên giới Cam chỗ cửa khẩu Xà Xía có nghe người ta nhắc con Linh.”
Chúng tôi lên đường đi Hà Tiên một tuần sau đó, tôi cũng đã binh lại con 67, gắn thêm cái túi đôi, thay vỏ, thay sên cho nó, còn Hùng thì binh lại...mớ đồ tôi mang theo. Hùng cũng dân mê xe tay côn nên hai anh em thay phiên nhau chạy, trên đường trò chuyện cũng nhiều, có một điều khá thú vị. Lúc đó tôi hỏi: “Sao người ta gọi cô kia là Lục Tỷ vậy anh? Mấy đệ tử của Lý sư phụ theo lời anh kể thì có Bảy Săm với Chín Danh, đáng lẽ phải là Sáu Tỷ chứ?”
Hùng nói: “Chính xác là như vậy đó. Cô đó tên Tỷ, là đệ tử thứ sáu. Nhưng có một giai đoạn phim kiếm hiệp lên ngôi, mấy người thân tiết gọi cô là Lục Tỷ nghe cho nó ngầu. Chết danh từ đó luôn!”
Tôi cười, nghe cũng ngầu thiệt!
Xà Xía là tên cũ của cửa khẩu Hà Tiên ngày nay, nó là cửa khẩu quốc tế đường bộ thông thương với tỉnh Kampot của nước bạn Campuchia. Tại đây người ta có thể đi tới bãi biển Kep, núi Bokor hoặc suối Teuk Chhou, còn về phần chúng tôi, Hùng lái xe rẽ vào một lối mòn dọc triền núi, hai bên cây cối um tùm. Cuối lối mòn có một khu nhà, trong đó phát ra tiếng ồn của hàng trăm con người, anh cho xe dừng lại trước một bức tường đá, một ông chú mặc áo thun ba lỗ, vai u thịt bắp, đầy hình xăm bước ra đặt bàn tay hộ pháp lên cái đèn xe, ngăn chúng tôi lại. Gã nói: “Đường phía trước hai bên bị cây lấp, thú hoang thích ăn thịt người, lại có vực thẳm, quay về được rồi.”
Hùng chỉ cười nhẹ rồi lạnh lùng đáp: “Tiều phu, thợ săn và thợ mỏ.”
Vừa dứt lời thì gã to con đứng nép sang một bên, nhường đường cho chúng tôi qua, tôi còn nghe gã gọi với theo: “Chúc vui nhé người anh em!” Chạy xe được ít lâu thì tôi thấy một bức tường đá khác, nó đã tróc gần hết xi-măng, dài chừng năm mươi mét với xe máy đậu ngổn ngang giữa núi rừng bao la, trên bức tường có một cái lỗ bị đục ra thành cánh cửa, Hùng đá chân chống rồi khoác tay ra hiệu đi vào trong, tôi hỏi không sợ mất đồ mất xe sao thì anh chỉ nhìn tôi kiểu châm chọc. Tiếng ồn, tiếng la hét ngày càng khủng khiếp. Vừa bước qua cánh cửa, ấn tượng đầu tiên của tôi là mùi nồng của mồ hôi và con người; dưới chân tôi nào là tàn thuốc, vỏ bao ni-lông trộn lẫn với đất đá và không khí náo nhiệt chẳng khác gì lần tôi đi khánh thành cầu Mỹ Thuận. Có hàng chục người đứng quay quanh thành vòng tròn, họ đang hò reo, la hét dữ dội, ở giữa vòng tròn là trận chiến ác liệt của hai chú gà trống. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một ổ đá gà lớn như vậy. Hùng quay lại bảo tôi là nhớ bám sát, không thôi bị lạc là khỏi tìm. Chen chân giữa biển người hôi thối này được một lúc thì tôi nghe tiếng chửi bới, Hùng cũng quay sang phía đó, một đám bốn thanh niên cao to, da đen như da trâu đang vây quanh một người phụ nữ nhỏ người, cô ta ngồi bắt chéo chân sau một cái bàn chất đầy giấy.
Người thanh niên to con nhất lớn tiếng nói: “Tụi tao bắt con gà số 46, nó mới đá ăn xong, rõ ràng là mỗi thằng năm phiếu, tổng cộng là hai chục phiếu, sao mày chung cho tụi tao có mười sáu phiếu?”
Người phụ nữ vẫn bình thản đáp, giọng cô ta hết sức đanh đá và quyền lực: “Chế ghi sao thì chế chung vậy. Tụi bây biết chế bao lâu rồi giờ ra đây khiếu nại, khác nào nói chế lừa đảo?”
Một thằng khác hét: “Chế chế con mẹ mày. Chung tiền đi!”
Chợt có hai người to con khác xuất hiện, trên cánh tay có đeo băng đỏ, chắc là bảo vệ của khu này. Vừa thấy hai người này đám thanh niên có chút dè chừng, chúng tiếp tục chửi bới nhưng không dám lại gần. Hai người bảo vệ mời chúng ra, tên to con nhất cũng không dám chống cự định quay đi nhưng dường như hắn nổi máu điên. Hắn hét lên trong cơn thịnh nộ: “Bọn lục lâm chúng mày đúng là đồ chó má!” Đúng lúc đó, hai người bảo vệ khựng người lại, như thể đang hoảng sợ. Tôi quay sang nhìn Hùng, nghe anh trút một tiếng thở dài. Còn cô gái kia thay đổi rõ rệt, không còn thái độ dửng dưng bất cần, thay vào đó ánh mắt cô đanh lại, miệng cô hơi xiết chứng tỏ hai hàm răng đang nghiến chặt. Cô đổi tư thế ngồi, hai tay cho vào túi quần, chợt gấu áo cô động đậy rồi phất lên như có vật gì đó bay ra ngoài. Bốn người thanh niên gục xuống, lăn qua lăn lại trên cái nền dơ bẩn, kêu lên như heo bị chọc tiết. Cô gái kia bước đến, nhìn xuống cảnh tượng thảm thương trước mặt mình rồi nói: “Tụi mày muốn làm gì làm, nhưng đéo bao giờ được xúc phạm lục lâm!” Nói rồi cô bước về ngồi xuống tư thế cũ, hai người bảo vệ lôi bọn thanh niên đi, chúng vẫn rên lên những tràng đau đớn.
Tôi thúc anh Hùng: “Đi tiếp đi anh. Người anh kiếm ở khúc nào anh biết không?”
Anh Hùng nhìn tôi rồi chỉ vào cô gái kia. Anh nở một nụ cười gượng gạo. Tôi bất ngờ, không phải, tôi đang hoảng sợ. Tôi chưa biết gì về dân lục lâm, lỡ có nói sai gì đó rồi có kết cục như mấy người thanh niên lúc nãy thì sao. Nghĩ vậy tôi hỏi liền, mắt vẫn nhìn theo hai người bảo vệ: “Mấy thằng đó bị gì vậy anh?”
Anh Hùng đáp: “Coi như suốt đời tụi nó sẽ không lấy vợ được đi.” Đoạn anh bước tới chiếc bàn đầy giấy của cô gái kia. Tôi phải công nhận, phong thái cô gái kia đã ngời ngời nhưng anh Hùng là một cái gì đó rất khác, tôi cảm thấy an tâm lạ thường, bước theo anh mà không còn lo sợ gì nữa.
Anh Hùng đứng trước bàn, đối diện với cô gái, cô ta vẫn không có phản ứng gì. Anh gục mặt, cười mỉm rồi nói: “Có cần phải làm quá vậy không em?”
Cô gái đáp: “Thứ như anh còn dám vác mặt vô đây đánh giá tôi? Nhờ vả gỉ, nói đi, tôi sẽ mạnh dạn giúp anh. Mục đích chủ yếu là để anh biến mẹ khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt!”
“Đi Kiên Lương với anh.”
Cô gái châm điếu thuốc, một điếu ba số, cô rít thật sâu rồi hỏi: “Chi?”
“Tìm ngọc rết…” Hùng dừng giữa câu, chờ xem phản ứng của cô ta, tôi thấy ánh mắt cô chỉ hơi sáng lên một chút rồi vụt tắt, Hùng nói tiếp: “Em biết công dụng của nó rồi. Chúng ta sẽ cứu thằng Thông!”
Gương mặt Tú Linh vẫn lạnh lùng, giờ để ý kỹ mới thấy, cô ấy đẹp tuyệt trần. Không. Từ đó không đúng, vẻ đẹp này không phải tuyệt trần, vẻ đẹp này thật...hoang dã. Chân mày rậm, mắt to và tròn, sống mũi dọc dừa cong lên đầy thách thức và đôi môi có vẻ hơi nhô nhưng điều đó lại mang lại sự hoàn hảo đến mê say. Tú Linh không biểu hiện gì ra ngoài cả, chỉ ngồi hút thuốc, đúng là một người phụ nữ bí ẩn, tôi tự hỏi ngày xưa giữa hai người đã xảy ra chuyện gì?! Hùng vẫn im lặng chờ đợi, cô ném tàn thuốc rồi nói: “Vậy anh đã tìm đủ người? Ai? Thằng nhóc này à?”
Thằng nhóc???! Tôi định gân cổ lên cải nhưng Hùng liền ngăn, anh gật đầu, Tú Linh bảo anh chứng minh đi. Anh nhìn sang tôi rồi từ tốn nói: “Cởi ra đi mày!” Tôi hơi bất ngờ và ngượng, chắc tại có người con gái đẹp ở đây nhưng tôi nhớ lại lúc trên đường đến đây, Hùng có nói là nếu anh bảo tôi như vậy thì cứ làm theo. Tôi là dân thể thao, bụng cũng có vài múi nên không ngại làm gì. Tôi cởi áo ra, chợt Tú Linh và hai gã bảo vệ trợn mắt đầy bất ngờ, sau đó cả trường đá gà nín bặt, tiếng động của mấy trăm con người nãy giờ cứ vo vo bên tai bỗng tắt ngắm, hàng ngàn con mắt đang đổ dồn về phía tôi.
Đang chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra, anh Hùng đã bước đến, anh khai một ấn chú gì đó bằng hai đầu ngón tay rồi ấn chúng vào trán tôi. Bỗng trên vai phải, tôi nghe một tiếng gầm chói tai. Một âm thanh dũng mãnh, uy nghiêm và đầy đe doạ. Chợt tầm nhìn của tôi bị nhoè đi, như thể có một bàn tay che mất mọi sự vật đang bày ra trước mắt. Tôi hốt hoảng hỏi anh Hùng: “Có gì trên vai em hả anh? Anh thấy gì trên vai em à?”
Tú Linh bật người dậy, tôi nghe tiếng chị ta chửi: “Mẹ nó, lâu lắm rồi mới thấy lại cái giống này!”
Hùng cũng thêm vào, giọng anh hơi xúc động: “Thiên Hổ Phù.”
Khi nhắc đến hai từ “lục lâm” thì nhiều người lầm tưởng đến một nhóm sơn đầu thảo khấu, chuyên đi cướp bóc, đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ; thật ra người ta đang nhầm lẫn với lũ lục lâm Trung Quốc. Lục lâm ở Óc Eo mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Thuở ban đầu, lúc tổ chức hành chính trên đất đai vùng Nam Bộ chỉ vừa mới được kiện toàn, làm gì có đường xá, giao thông kết nối giữa các tỉnh như bấy giờ, cả một vùng đất đai bạt ngàn chỉ toàn những rừng sậy cao hơn đầu người, “rừng thiêng nước độc” ông bà ta truyền miệng nhau quả thật không sai. Dẫn theo đó là những bảo vật của trời đất ẩn mình, chỉ chờ những người dũng cảm, đam mê khám phá, phiêu lưu đến tìm. Lại có thêm sự đốc thúc khai hoang của các đời chúa Nguyễn, những người trai tráng bắt đầu quẩy tay nải, lên đường đi tìm những bảo vật đó.
Bảo vật: tất nhiên là đắt tiền, hoặc nói là vô giá cũng không phải dốc láo gì ai. Cho nên quá trình đi tìm gian lao, khổ cực thì khỏi phải bàn tới. Giới lục lâm ban đầu chỉ có vài người, phần vì không phải ai cũng chịu được khó khăn hoặc nguy cơ bỏ mạng, phần vì một điều luật bất thành văn đã hình thành, khiến cho không phải ai muốn đi cũng đi được. Đó là căn nguyên hình thành của ngôn ngữ lục lâm. Con người vốn lòng dạ đa đoan, bề ngoài trông như vậy thôi nhưng bên trong lại giống như một tảng băng chìm, có trời mới biết họ đang giấu những gì. Chỉ một người thôi đã như vậy, thử tưởng tượng cả một xã hội thì như thế nào?! Một quán nước ven đường, một ông lão ngồi câu cá, một bà hàng thịt béo phị; chỉ cần nói được thứ ngôn ngữ không đầu không đuôi đó, thì cuộc sống giàu sang có khi đã nắm được trong tay một nửa.
Giới lục lâm lúc ban sơ chưa có cơ sở để xác định rõ rệt, nhưng càng về sau thì người ta chia làm ba đường để dễ phân biệt: Thông Hải, Xuyên Lâm và Tẩu Lộ. Giới Thông Hải, chỉ nghe đồn là đi tìm ngọc trai, tổ Yến Chúa chứ chưa nghe thông tin chính xác, nguyên nhân là nó đã thất truyền. Giới Xuyên Lâm gồm những người đi tìm trầm, đá phong thuỷ, kỳ nam gọi chung là đi Trồng Lan (nhánh của Hùng Bonsai), những người đi giết ma dạo, diệt yêu, trừ tà gọi chung là Đập Miễu (nhánh của Thạch Sinh) và những người đi tầm long, trấn yểm gọi chung là Đào Giếng. Giới Tẩu Lộ gồm những người đi hái thuốc, chữa bệnh gọi chung là Hàng Rong, những người cung cấp mặt hàng đặt biệt cho lục lâm gọi chung là Hàng Thịt và những người quản lý giao thương gọi chung là Thả Diều.
Biết được tên gọi chỉ là nhập môn, người muốn tinh thông loại ngôn ngữ này không còn cách nào khác, phải sống trong nó, tích góp kinh nghiệm từng ngày. Anh Hùng nói đến đây liền nhìn lên trần xe rồi thở dài, có lẻ những điều anh vừa kể đáng ra là dành cho anh Thông, vào một buổi nhậu ở góc quán nào đó mà hai người bọn họ đã hứa hẹn. Tôi thấy anh buồn nên cũng không dám bắt chuyện, cho anh tự chìm vào khúc mắc của mình. Cũng vì phần tôi có khá nhiều chuyện để suy tính.
Từ vụ tai nạn của anh Thông cho tới nay cũng ngót năm năm trời, trong khoảng thời gian đó, anh Hùng vẫn tiếp tục đi trồng lan, đi diệt ma dạo, sẵn tiện tu luyện cho nhuần nhuyễn cuốn Phục Ma Kinh, thêm vào đó anh đi bái sư, học nghề đủ cả. Nhìn thần thái trong ánh mắt anh có thể đoán biết được rằng anh là loại người như thế nào, cũng giống như cảm giác ấn tượng ban đầu anh đem lại cho tôi vào buổi cà phê hôm đó. Những chuyện xảy ra tiếp theo tôi nghĩ một phần cũng do số phận đã sắp đặt như vậy rồi. Nói thẳng ra tôi đã chán công việc, sổ sách; chán giao thông, tắc đường, ngập nước; chán luôn con người. Khi anh Hùng nói anh đang đợi tôi xuất hiện, rồi còn rủ tôi đi một chuyến với anh, tôi không giấu được sự hân hoan, tôi là người thích đi đây đi đó, thích tự do, nhưng muốn đi chơi thì phải kiếm tiền trước: đó là cuộc sống cũ, tôi xin gác nó lại phía sau. Tôi tưởng tượng chuyến xe tôi đang đi lúc này là chuyến xe mang trọng trách rẽ cuộc đời tôi sang một hướng đi mới, một cuộc đời đầy phiêu lưu như lời kể của Hùng bon-sai, nhưng không phải là đi chơi cho vui, mà là đi kiếm bảo vật bán lấy tiền, để có thể trang trải cho những cuộc phiêu lưu kiếm bảo vật bán lấy tiền khác. Cho dù có nguy hiểm đến tính mạng, có thể tôi sẽ chết, nhưng tôi chết làm một con người tự do, tự định đoạt.
Bác tài thả chúng tôi ở bến xe Miền Tây, bắt một chiếc Grab, chúng tôi lên đường đến chợ Bến Thành. Anh Hùng là người đã đi nhiều, nên đồ đạc anh chỉ gói gọn trong cái ba-lô bộ binh, còn tôi lỉnh kỉnh đủ thứ, lúc nhét cái vali vào thùng xe còn muốn không đủ chỗ. Anh Hùng cười nói: “Thôi, để mai mốt anh soạn lại đồ cho chú.”
Sẵn tiện tôi hỏi luôn: “Mình đi chợ Bến Thành chi vậy anh? Mua thêm đồ hả?”
“Đồ đạc gì nữa, đi tìm một người bạn cũ thôi.”
“Ai vậy anh?”
“Truyền nhân của Lục Tỷ, là đệ tử thứ sáu của Lý sư phụ, một Tẩu Lộ cứng khừ đó!”
Xe dừng trên đường __, một khu phố người Ấn hay người Hoa gì đó, những tiệm thời trang, ẩm thực mang phong cách huyền bí của phương Đông. Chúng tôi cuốc bộ vào con hẻm gần đó rồi dừng lại trước một tiệm thuốc Nam. Phía trong quầy thuốc có bà lão đang ngồi vừa nghe đài vừa nhai trầu, sau lưng bà là hàng trăm ngăn tủ đựng thuốc và những tờ giấy dán tên thuốc đã ố vàng gần hết. Hùng đi vào lối đi nhỏ bên trái căn nhà, anh bốc ra năm cây thuốc rồi đặt chúng lên bàn, anh lấy ấm nước gần đó, cho tay lên thấy nước vẫn còn dùng được liền rót chúng vào nồi sành rồi chăm lửa. Vẫn chưa thấy động tĩnh gì từ bà lão, tôi nhìn sang anh Hùng nhưng anh chỉ kiên nhẫn đứng chờ nước sôi rồi cho mấy cây thuốc vào (lúc này tôi không phân biệt chúng là những loại gì), khoảng năm phút sau, đến khi thuốc đã sắc lại, anh rót một ly đầy rồi đưa ly lên trước mặt, trông rất trang trọng, anh nói: “Con kính cụ!”, đoạn một hơi ực sạch ly thuốc. Thuốc có vẻ khó uống hay sao mà sau đó anh ho sặc sụa, như muốn phun luôn cả phổi ra ngoài. Bà lão thấy vậy liền lên tiếng: “Ba năm rồi không uống lại, mùi vị vẫn như ngày nào phổng?”
Hùng cười rồi đáp: “Dạ, ngoại khỏe không ngoại?”
Bà lão tắt đài radio, phun trầu vào thố rồi nhặt chiếc quạt lên phe phẩy: “Khỏe re bây ơi, dạo này toàn bốc thuốc, bán buôn cũng được mà không thấy thằng nào ghé, chán, chán!”
Chuyện này Hùng có nói với tôi, cơ bản là vì báu vật trên thế gian giờ không còn nhiều, những chỗ dễ đi, dễ tìm đã bị lấy hết. Còn lại những chỗ khó đi, khó tìm thì nhiều người e dè, số lượng lục lâm cũng từ đó mà giảm hẳn. Hùng nói tiếp: “Cô Sáu đâu rồi ngoại?”
“Chết rồi.”
Hình như anh không bất ngờ với thông tin đó. “Vậy còn Tú Linh…?”
“Con Linh lo tan cho sư phụ nó xong cũng bỏ nghề. Phần cũng vì… Mày hiểu rõ hơn ngoại mà đúng không. Dù gì thằng Thông cũng là bạn nối khố của nó, trong cùng một năm mà mất đi hai người như vậy… Mày tìm nó chi?”
“Dạ…”
“Lại đi rừng nữa chứ gì. Thôi bỏ đi con ơi!”
“Ngoại đừng hiểu lầm, con làm gì cũng có tính trước tính sau hết rồi. Đi chuyến này cũng vì lợi ích của cô ấy. Và thêm nữa là con sẽ không để chuyện gì xảy ra với những người đi cùng với mình nữa đâu, nên một phần con cũng cần cô ấy đi chung.”
“Nó bỏ đi lâu rồi, có trời mới biết giờ nó đang ở cái xó nào, làm cái nghề gì. Mày biết tính nó rồi đó.” Bà lão từ nãy đến giờ nói chuyện mà chỉ nhìn xa xăm, chợt bà ngước đầu lên nhìn Hùng, tôi có thể thấy rõ trong đó sự bất ngờ của một người đã lâu không gặp anh, giờ lại thấy được cặp mắt đó, bộ râu đó, thần thái đó sẽ bị choáng ngợp. Tôi chỉ đoán vậy thôi, có thể tôi đã đúng vì tiếp sau đó bà lão liền thở dài, như kiểu biết được không có gì ngăn cản được Hùng đi tìm cô gái tên Tú Linh kia. Bà nói: “Ít lâu trước tao có gặp thằng Nam, nó nói lúc đi thả diều ở biên giới Cam chỗ cửa khẩu Xà Xía có nghe người ta nhắc con Linh.”
Chúng tôi lên đường đi Hà Tiên một tuần sau đó, tôi cũng đã binh lại con 67, gắn thêm cái túi đôi, thay vỏ, thay sên cho nó, còn Hùng thì binh lại...mớ đồ tôi mang theo. Hùng cũng dân mê xe tay côn nên hai anh em thay phiên nhau chạy, trên đường trò chuyện cũng nhiều, có một điều khá thú vị. Lúc đó tôi hỏi: “Sao người ta gọi cô kia là Lục Tỷ vậy anh? Mấy đệ tử của Lý sư phụ theo lời anh kể thì có Bảy Săm với Chín Danh, đáng lẽ phải là Sáu Tỷ chứ?”
Hùng nói: “Chính xác là như vậy đó. Cô đó tên Tỷ, là đệ tử thứ sáu. Nhưng có một giai đoạn phim kiếm hiệp lên ngôi, mấy người thân tiết gọi cô là Lục Tỷ nghe cho nó ngầu. Chết danh từ đó luôn!”
Tôi cười, nghe cũng ngầu thiệt!
Xà Xía là tên cũ của cửa khẩu Hà Tiên ngày nay, nó là cửa khẩu quốc tế đường bộ thông thương với tỉnh Kampot của nước bạn Campuchia. Tại đây người ta có thể đi tới bãi biển Kep, núi Bokor hoặc suối Teuk Chhou, còn về phần chúng tôi, Hùng lái xe rẽ vào một lối mòn dọc triền núi, hai bên cây cối um tùm. Cuối lối mòn có một khu nhà, trong đó phát ra tiếng ồn của hàng trăm con người, anh cho xe dừng lại trước một bức tường đá, một ông chú mặc áo thun ba lỗ, vai u thịt bắp, đầy hình xăm bước ra đặt bàn tay hộ pháp lên cái đèn xe, ngăn chúng tôi lại. Gã nói: “Đường phía trước hai bên bị cây lấp, thú hoang thích ăn thịt người, lại có vực thẳm, quay về được rồi.”
Hùng chỉ cười nhẹ rồi lạnh lùng đáp: “Tiều phu, thợ săn và thợ mỏ.”
Vừa dứt lời thì gã to con đứng nép sang một bên, nhường đường cho chúng tôi qua, tôi còn nghe gã gọi với theo: “Chúc vui nhé người anh em!” Chạy xe được ít lâu thì tôi thấy một bức tường đá khác, nó đã tróc gần hết xi-măng, dài chừng năm mươi mét với xe máy đậu ngổn ngang giữa núi rừng bao la, trên bức tường có một cái lỗ bị đục ra thành cánh cửa, Hùng đá chân chống rồi khoác tay ra hiệu đi vào trong, tôi hỏi không sợ mất đồ mất xe sao thì anh chỉ nhìn tôi kiểu châm chọc. Tiếng ồn, tiếng la hét ngày càng khủng khiếp. Vừa bước qua cánh cửa, ấn tượng đầu tiên của tôi là mùi nồng của mồ hôi và con người; dưới chân tôi nào là tàn thuốc, vỏ bao ni-lông trộn lẫn với đất đá và không khí náo nhiệt chẳng khác gì lần tôi đi khánh thành cầu Mỹ Thuận. Có hàng chục người đứng quay quanh thành vòng tròn, họ đang hò reo, la hét dữ dội, ở giữa vòng tròn là trận chiến ác liệt của hai chú gà trống. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một ổ đá gà lớn như vậy. Hùng quay lại bảo tôi là nhớ bám sát, không thôi bị lạc là khỏi tìm. Chen chân giữa biển người hôi thối này được một lúc thì tôi nghe tiếng chửi bới, Hùng cũng quay sang phía đó, một đám bốn thanh niên cao to, da đen như da trâu đang vây quanh một người phụ nữ nhỏ người, cô ta ngồi bắt chéo chân sau một cái bàn chất đầy giấy.
Người thanh niên to con nhất lớn tiếng nói: “Tụi tao bắt con gà số 46, nó mới đá ăn xong, rõ ràng là mỗi thằng năm phiếu, tổng cộng là hai chục phiếu, sao mày chung cho tụi tao có mười sáu phiếu?”
Người phụ nữ vẫn bình thản đáp, giọng cô ta hết sức đanh đá và quyền lực: “Chế ghi sao thì chế chung vậy. Tụi bây biết chế bao lâu rồi giờ ra đây khiếu nại, khác nào nói chế lừa đảo?”
Một thằng khác hét: “Chế chế con mẹ mày. Chung tiền đi!”
Chợt có hai người to con khác xuất hiện, trên cánh tay có đeo băng đỏ, chắc là bảo vệ của khu này. Vừa thấy hai người này đám thanh niên có chút dè chừng, chúng tiếp tục chửi bới nhưng không dám lại gần. Hai người bảo vệ mời chúng ra, tên to con nhất cũng không dám chống cự định quay đi nhưng dường như hắn nổi máu điên. Hắn hét lên trong cơn thịnh nộ: “Bọn lục lâm chúng mày đúng là đồ chó má!” Đúng lúc đó, hai người bảo vệ khựng người lại, như thể đang hoảng sợ. Tôi quay sang nhìn Hùng, nghe anh trút một tiếng thở dài. Còn cô gái kia thay đổi rõ rệt, không còn thái độ dửng dưng bất cần, thay vào đó ánh mắt cô đanh lại, miệng cô hơi xiết chứng tỏ hai hàm răng đang nghiến chặt. Cô đổi tư thế ngồi, hai tay cho vào túi quần, chợt gấu áo cô động đậy rồi phất lên như có vật gì đó bay ra ngoài. Bốn người thanh niên gục xuống, lăn qua lăn lại trên cái nền dơ bẩn, kêu lên như heo bị chọc tiết. Cô gái kia bước đến, nhìn xuống cảnh tượng thảm thương trước mặt mình rồi nói: “Tụi mày muốn làm gì làm, nhưng đéo bao giờ được xúc phạm lục lâm!” Nói rồi cô bước về ngồi xuống tư thế cũ, hai người bảo vệ lôi bọn thanh niên đi, chúng vẫn rên lên những tràng đau đớn.
Tôi thúc anh Hùng: “Đi tiếp đi anh. Người anh kiếm ở khúc nào anh biết không?”
Anh Hùng nhìn tôi rồi chỉ vào cô gái kia. Anh nở một nụ cười gượng gạo. Tôi bất ngờ, không phải, tôi đang hoảng sợ. Tôi chưa biết gì về dân lục lâm, lỡ có nói sai gì đó rồi có kết cục như mấy người thanh niên lúc nãy thì sao. Nghĩ vậy tôi hỏi liền, mắt vẫn nhìn theo hai người bảo vệ: “Mấy thằng đó bị gì vậy anh?”
Anh Hùng đáp: “Coi như suốt đời tụi nó sẽ không lấy vợ được đi.” Đoạn anh bước tới chiếc bàn đầy giấy của cô gái kia. Tôi phải công nhận, phong thái cô gái kia đã ngời ngời nhưng anh Hùng là một cái gì đó rất khác, tôi cảm thấy an tâm lạ thường, bước theo anh mà không còn lo sợ gì nữa.
Anh Hùng đứng trước bàn, đối diện với cô gái, cô ta vẫn không có phản ứng gì. Anh gục mặt, cười mỉm rồi nói: “Có cần phải làm quá vậy không em?”
Cô gái đáp: “Thứ như anh còn dám vác mặt vô đây đánh giá tôi? Nhờ vả gỉ, nói đi, tôi sẽ mạnh dạn giúp anh. Mục đích chủ yếu là để anh biến mẹ khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt!”
“Đi Kiên Lương với anh.”
Cô gái châm điếu thuốc, một điếu ba số, cô rít thật sâu rồi hỏi: “Chi?”
“Tìm ngọc rết…” Hùng dừng giữa câu, chờ xem phản ứng của cô ta, tôi thấy ánh mắt cô chỉ hơi sáng lên một chút rồi vụt tắt, Hùng nói tiếp: “Em biết công dụng của nó rồi. Chúng ta sẽ cứu thằng Thông!”
Gương mặt Tú Linh vẫn lạnh lùng, giờ để ý kỹ mới thấy, cô ấy đẹp tuyệt trần. Không. Từ đó không đúng, vẻ đẹp này không phải tuyệt trần, vẻ đẹp này thật...hoang dã. Chân mày rậm, mắt to và tròn, sống mũi dọc dừa cong lên đầy thách thức và đôi môi có vẻ hơi nhô nhưng điều đó lại mang lại sự hoàn hảo đến mê say. Tú Linh không biểu hiện gì ra ngoài cả, chỉ ngồi hút thuốc, đúng là một người phụ nữ bí ẩn, tôi tự hỏi ngày xưa giữa hai người đã xảy ra chuyện gì?! Hùng vẫn im lặng chờ đợi, cô ném tàn thuốc rồi nói: “Vậy anh đã tìm đủ người? Ai? Thằng nhóc này à?”
Thằng nhóc???! Tôi định gân cổ lên cải nhưng Hùng liền ngăn, anh gật đầu, Tú Linh bảo anh chứng minh đi. Anh nhìn sang tôi rồi từ tốn nói: “Cởi ra đi mày!” Tôi hơi bất ngờ và ngượng, chắc tại có người con gái đẹp ở đây nhưng tôi nhớ lại lúc trên đường đến đây, Hùng có nói là nếu anh bảo tôi như vậy thì cứ làm theo. Tôi là dân thể thao, bụng cũng có vài múi nên không ngại làm gì. Tôi cởi áo ra, chợt Tú Linh và hai gã bảo vệ trợn mắt đầy bất ngờ, sau đó cả trường đá gà nín bặt, tiếng động của mấy trăm con người nãy giờ cứ vo vo bên tai bỗng tắt ngắm, hàng ngàn con mắt đang đổ dồn về phía tôi.
Đang chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra, anh Hùng đã bước đến, anh khai một ấn chú gì đó bằng hai đầu ngón tay rồi ấn chúng vào trán tôi. Bỗng trên vai phải, tôi nghe một tiếng gầm chói tai. Một âm thanh dũng mãnh, uy nghiêm và đầy đe doạ. Chợt tầm nhìn của tôi bị nhoè đi, như thể có một bàn tay che mất mọi sự vật đang bày ra trước mắt. Tôi hốt hoảng hỏi anh Hùng: “Có gì trên vai em hả anh? Anh thấy gì trên vai em à?”
Tú Linh bật người dậy, tôi nghe tiếng chị ta chửi: “Mẹ nó, lâu lắm rồi mới thấy lại cái giống này!”
Hùng cũng thêm vào, giọng anh hơi xúc động: “Thiên Hổ Phù.”
/50
|