Hết lương! Quân Minh lúc này đã cạn kiệt lương thảo, quân sỹ đã mệt mỏi lại đói bụng, sỹ khí hạ thấp thấy đáy. Chu Lệ nhiều lần sai người về thúc lương, nhưng đều bị quân Mông Cổ mai phục và giết hết. Cực chẳng đã, ngày 05-06, Chu Lệ hạ lệnh rút quân.
Quân Minh đang đêm nhổ trại rút lui. Đi được gần trăm dặm thì đột nhiên có tiếng tù và vang vọng, sau đó quân Mông Cổ ào ào xuất hiện, bao vây quân Minh. Chu Lệ lập tức hạ lệnh phòng thủ, quân Minh dàn ra, lấy lính trường thương làm tiên phong, đao thuẫn thủ và nỏ thủ cùng hỏa thương yểm trợ, lính vệ sở sẵn sàng lấp chỗ trống.
Dã Mộc Chân cưỡi ngựa đứng trên một cồn cát hô lớn
- Hoàng đế Đại Minh bệ hạ, sao chưa tham quan cảnh sắc đại mạc đã vội rút quân về sớm thế
Chu Lệ cũng đứng trong xe ngựa quát lớn
- Dã Mộc Chân, đừng vội mừng. Lần này tạm thua cho ngươi, nhưng ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây, phong thủy luân chuyển, ngươi đừng vội mừng.
- Hừ, - Dã Mộc Chân cười lạnh – nếu ta diệt sạch quân của ngươi ở đây, vậy ngươi lấy gì để quật khởi?
Nói rồi phất tay ra lệnh, các kỵ sỹ Mông Cổ ào ào tràn xuống, dùng cung bắn về phía quân Minh.
- Đội hỏa pháo. Khai hỏa!
Quân Minh lập tức dùng hỏa pháo nã vào đội hình của quân Mông cổ, nhưng hiệu quả không cao lắm vì quân Mông cổ quá tản mát. Các kỵ sỹ Mông Cổ lao xuống, trút tên lên đầu quân Minh. Chỉ trong loạt tên đầu, cả trăm lính Đại Minh đã bị bắn chết. Quân Minh cũng lập tức bắn trả, đem mấy chục kỵ bắn gục.
Quân Mông Cổ tách sang hai cánh, cố gắng kéo dài đội hình của quân Minh, nhưng đã quen với trận thế của quân Mông cổ, quân Minh cứ giữ vững đội hình, người trước ngã xuống, người sau tiến lên lấp chỗ trống.
- Thiêu Đãng kỵ binh, tấn công!
- Biên quân xạ kỵ! Tấn công!
Cờ lệnh được phất lên, hai cánh của quân Minh được mở ra, từ trong trận, 4 đội kỵ binh phóng ra. Cờ Bạch Hổ và cờ Hắc Hổ tung bay. Đi đầu là Biên quân Xạ kỵ, lưng khoác áo choàng đỏ, hông đeo chiến đao, trong tay cầm cung ghép tinh xảo, đó là biên quân xạ kỵ, là đội quân kỵ Hà Bắc năm xưa Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lập nên dùng để đối phó khinh kỵ Mông Cổ, đã theo Chu Nguyên Chương đánh đông dẹp bắc, xua đuổi Thát Lỗ lập nên nhà Minh. Mấy ngàn xạ kỵ tiến lên dưới lá cờ Hắc Hổ, thêu chỉ vàng, liên tục giương cung lắp tên, bắn trả quân Minh. Tuy không thể chính xác bằng kỵ binh Mông Cổ, nhưng lợi dụng ưu thế bắn tập trung mà bắn hạ không ít quân Mông Cổ.
Thiêu đãng kỵ binh mặc giáp da có đính đinh thép hoặc giáp vẩy cá, tay cầm trường thương có tua đỏ, dài khoảng 2m, đầu đội mũ giáp có gắn đuôi phượng, hông đeo chiến đao, khoác áo choàng đen, cưỡi ngựa chạy hai bên đám xạ kỵ, bảo vệ 2 cánh cho đám xạ kỵ.
Trong khi Thiêu Đãng kỵ binh và Biên quân xạ kỵ xua đuổi khinh kỵ Mông Cổ, Chu Lệ cũng hạ lệnh
- Liễu Thăng, ngươi đem Phá Trận Trọng Bộ binh xông lên, trường thương binh bảo vệ hai cánh, bộ binh yểm trợ phía sau, đem bộ binh Thát Lỗ tiêu diệt cho trẫm
An thành hầu Liễu Thăng lập tức chắp quyền nhận lệnh, dẫn theo phó tướng xông lên, dẫn đầu quân Minh tràn tới.
Phải biết, để đối phó quân Mông Cổ, nhà Minh đã tốn hao vô số tiền của, chế tạo ra 2 đội quân bộ binh giáp nặng là Phá trận trọng bộ binh và Ngự trận trọng bộ binh. Phá trận dùng để xông vào chiến tuyến, làm vỡ trận hình quân địch, như thanh kiếm sắc bén không gì chặn nổi. Ngự trận thì lập thuẫn tường, cho dù kỵ binh cũng bị thuẫn tường được ghép từ vô số tấm thuẫn lại này đẩy ngã.
Dã Mộc Chân thấy quân Minh ào ào xông lên, miệng khẽ mỉm cười, tay vuốt ve một mũi tên thép, đuôi bằng đồng lấp lánh trong ánh nắng.
- Bắn!!!
Các Thiên Hộ, Bách Hộ, Vạn Hộ Mông Cổ ra lệnh, lập tức đám cung thủ Mông Cổ buông cung. Hàng vạn mũi tên che kín bầu trời, đen kịt trời đất.
Những mũi tên này rơi xuống, bắn chết mấy trăm quân Minh, còn lại thì kịp thời đưa khiên lên đỡ nên không sao, đám quân giáp nặng lại càng khủng bố, cứ mặc kệ tên đánh lên người kêu loong coong, ào ào xông tới.
Khi quân Minh chỉ còn cách quân Mông Cổ không đầy 70m, Dã Mộc Chân mới ngước lên, hạ lệnh.
- Thay phá giáp tiễn!
Lập tức xạ thủ Mông Cổ toàn bộ thay tên thép, mấy hàng đầu tiên nhắm thẳng vào đám Phá trận trọng bộ binh đang kêu gào mà bắn, những hàng sau thì lại bắn trên trời. Những mũi tên nặng nề, đâm xuyên qua lớp giáp cứng, đâm vào cơ thể của quân Minh. Giáp sắt còn không chặn được tên phá giáp, nữa là khiên gỗ và giáp da.
- Giết a, con cháu của Thành Cát Tư Hãn!
Dã Mộc Chân rút ra chiến đao, hô lớn, dẫn đầu trọng kỵ Mông Cổ ào ào tràn xuống. Đám bộ binh giáp nặng của nhà Minh lúc này bị vỡ trận do tên bắn, chưa kịp tập hợp lại đã bị cơn lốc sắt thép của Mông Cổ đánh bay. Các xạ thủ Mông Cổ cũng rút chiến đao, ào ào xông lên, nhảy vào trận hình của quân Minh, đem quân Minh chém chết như chém chuối.
Bị thiết kỵ Mông cổ xông vỡ trận, lại bị quân Mông Cổ chia nhỏ bao vây, tiêu diệt, quân Minh sỹ khí đã sớm thấy đáy, hô hào bỏ chạy. An thành hầu Liễu Thăng bị Dã Mộc Chân bắn trúng ngay cổ, chết không kịp ngáp.
- Bệ hạ, bệ hạ, mau rút lui, mau rút lui a – Thượng Thư bộ Binh là Sùng Hoán hô lớn
Minh Thành Tổ Chu Lệ gật đầu đồng ý, hạ lệnh
- Trương Phụ, ngươi đem Ngự trận trọng bộ binh đoạn hậu, toàn quân theo trẫm rút về đại đồng
- Tuân chỉ!!!
Quân Minh ào ạt rút lui về phía Đại Đồng, Dã Mộc Chân cũng không ngăn cản mà cho quân bao vây lấy đám Ngự trận trọng bộ binh, nghĩ thầm “Chỉ cần đem đám trọng bộ binh này tiêu diệt, vậy thì quân Minh không còn là đối thủ của quân ta nữa rồi”
Lập tức, quân Mông Cổ dùng tên thép bắn vào trận, nhưng hiệu quả kém hơn khi đối phó với đám phá trận, bởi vì ngự trận ngoài áo giáp còn có khiên bằng sắt, hơn nữa lại ghép lại dùng nên đã chắc lại càng chắc, tên thép dù mạnh cũng khó có thể xuyên thủng mấy lớp sắt đó
Cực chẳng đã, Dã Mộc Chân đành hạ lệnh cho quân bộ ào lên, cùng quân Minh chém giết. Mấy vạn bộ binh Mông Cổ ào ào vung chiến đao, giáo dài xông lên
- Biên quân trịch đạn thủ, ném!!!
Trương Phụ quát lên. Từ trong trận, mấy trăm lính Đại Minh dùng gậy có gắn 1 miếng vải, đem hỏa hổ (Một loại lựu đạn được làm bằng cách đem thuốc nổ đen nhồi đầy vào trong bình gốm) châm ngòi rồi ném về phía quân Mông Cổ. Hỏa hổ nổ mạnh khiến quân Mông Cổ chết và tổn thương vô số. Lúc này quân Minh mới ào lên chém giết.
Quân hai bên giao chiến từ sáng đến chiều mới kết thúc, khi người lính biên quân trịch đạn cuối cùng châm lửa hỏa hổ rồi lao vào đám lính Mông Cổ nổ tung. Tổng cộng quân Mông Cổ trong toàn trận chiến chết trận 20000 người, bị thương khoảng 10000, quân Minh thiệt hại nặng hơn, chết trận 10 vạn người, bị thương không rõ. Hai đội quân bộ binh giáp nặng là Phá trận và Ngự trận đều bị tiêu diệt, quân Minh rút về Đại Đồng, thấy thành bị phá, lại đi vòng qua Úy Châu, đi đường Tử Kính Quan để rút về. Dọc đường bị quân Mông Cổ đuổi giết, bị chết đói, chết mệt... hơn vạn người. Hoàng đế Chu Lệ chán nản về nghỉ ở hành cung ở Bắc Kinh, trong nước dần xuất hiện những âm thanh phản đối, nói Chu Lệ bất tài, tàn ác, đánh trận toàn thua, hoài niệm Huệ Đế nhân từ, anh minh...
Nhắc đến Huệ đế là đụng đến nỗi đau cấm kỵ của Chu Lệ, Minh Thành Tổ lập tức hạ lệnh nghiêm tra, sai Cẩm Y Vệ đi lùng bắt người, kẻ nào bàn tán, giết không tha. Cả đại Minh chìm trong khói lửa.
----------
Tháng 6 năm 1406, Mạnh điều 5000 lính Nhật bản tăng viện cho Trương hà Minh. Hà Minh theo kế sách của Mạnh sai lính bí mật leo lên 2 ngọn đồi nhỏ, đào chiến hào và chăng dây thép gai. Quân Khmer đêm đêm cũng cẩn thận phòng bị doanh trại, lo sợ quân Việt đánh úp, nhưng đó là phạm vi doanh trại, còn bên ngoài thì không thuộc phạm vi lo lắng của chúng.
Sáng hôm sau, quân Liên Việt bố trí pháo cối trên đồi, nã vào doanh trại của quân Khmer, nhất là trại voi và trại ngựa. Quân Khmer nhiều lần tổ chức phản kích nhưng bị pháo kích và súng bắn khiến cho thiệt hại nặng nề nên phải rút lui.
Đối phó voi chiến cũng đơn giản hơn mọi người vẫn nghĩ, chỉ cần 1 loạt lựu đạn thì dù là siêu voi cũng tan xương nát thịt. Quân Liên Việt đánh bại quân Khmer ở sông Kiacak rồi thừa thắng ruổi dài, chiếm đóng một loạt các tỉnh Chân Lạp.
Đầu tháng 7 -1406, chiến trường phía Nam căn bản là yên ổn, quân Khmer mang theo hoàng gia Chân Lạp rút về lãnh thổ Khmer.
Ở phía Bắc, trung tuần tháng 6, Phong Linh đi nước cờ hiểm, dùng 10000 lính Liên Việt và 2 sư đoàn Lê Dương người Shan do Trần Nguyên Hãn chỉ huy đóng ở vùng biên giới Chang Mai và Hanthawaddy làm nghi binh, còn chính mình mang theo 19000 quân Liên Việt và 1 sư đoàn Lê Dương Ava đánh lên vùng Mong Mao, chỉ trong 5 ngày đã đánh tan quân Mong Mao, bắt vua Mong yang của Mong Mao phải ký hiệp ước bất bình đẳng.
Phải biết Phong Linh có được chiến thắng này, 1 mặt là do dám làm liều, đi nước cờ hiểm, một mặt khác, Phong Linh nắm trong tay sư đoàn Cận vệ là sư đoàn tinh nhuệ nhất, được trang bị tối tân nhất, súng tiểu liên có 500 khẩu, súng trường kiểu mới và súng ngắm 8000 khẩu, súng shotgun 1500 khẩu, pháo cối 40 khẩu. Bởi vậy quân Liên Việt tiến nhanh thắng nhanh là chuyện bình thường.
Sang đến đầu tháng 7, quân của Phong Linh tiến vào Hanthawaddy, vua Razadarit dẫn quần thần ra ngoài thành nghênh đón, xin hàng. Giữa tháng 7, Min Saw Mon cũng gửi sứ giả đến xin nghị hòa, chấp nhận ra nhập liên minh Mianma (tên mới của vương quốc Ava)
--------
Ở chiến trường Triều Tiên, Kiên được Bình mách nước, liền đem ấp chiến lược nói cho người Nhật. Quân Nhật lập tức tổ chức các đội quân càn quét, đánh phá, triệt hạ các làng mạc, thành trì, dồn dân Triều Tiên vào các khu vực chỉ định. Ban ngày, người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào được đóng kín lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải quyết.Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động. Chung quanh ấp là một diện tích đồng trống để lính canh dễ theo dõi việc di chuyển phía ngoài.
Bình tổ chức 5 tiểu đội “Tìm và diệt” mỗi đội gồm 200 lính Liên Việt cùng 60 lính Nhật, lính Liên Việt đều là lính tiểu đoàn đặc biệt của tiểu đoàn đặc biệt của Kiên, được huấn luyện đặc biệt về ngụy trang, ẩn nấp, trang bị tiểu liên hoặc súng trường 1406, lựu đạn, dao găm cận chiến. Quân Nhật đều là các võ sỹ được huấn luyện Ninjutsu, sử dụng phi tiêu và kiếm ninja-to, dao găm tanto, cũng như các loại vũ khí đặc biệt khác.
Nhờ vào việc tách rời dân quân, du kích khỏi dân, cùng các chiến dịch nhỏ hành quân tìm diệt, quân Triều Tiên dần dần bị đẩy lùi. Đến khi quân Nhật đem pháo gỗ đến Triều Tiên thì những chiếc hỏa xa của quân Triều Tiên không còn là nỗi lo của quân Nhật nữa.
Khi mà đội lính đánh thuê 3000 người của Nguyễn Đức Nhân đổ bộ xuống Busan, thì cọng cỏ cuối cùng này đã đè chết con lạc đà Triều Tiên. Vua Lý Thành Quế chạy sang đại Minh, và rất không may, đến Liêu Đông thì bị quân Ngõa Thích bắn chết vì tưởng gian tế của quân Minh. Cung Nhượng Vương Vương Dao được đưa lên ngôi, nhanh chóng xin cầu hòa với Nhật bản.
Mặt trận Đông Nam, dưới sự hỗ trợ của Hàn Thần, vua Malaka là Salamita đã đánh bại quân Ayutthaya của Xiêm, giành được các tỉnh Tây Bắc, và đang dần mở rộng xuống phía Nam.
Duy nhất không có tin tức gì là ở mặt trận Chính Đông của Gia Bảo, nhưng đến tháng 8 năm 1406 thì Nguyễn Cảnh Dị gửi về một lá thư khiến Mạnh suýt chết nghẹn (Cái tội vừa ăn ô mai vừa làm việc)
Quân Minh đang đêm nhổ trại rút lui. Đi được gần trăm dặm thì đột nhiên có tiếng tù và vang vọng, sau đó quân Mông Cổ ào ào xuất hiện, bao vây quân Minh. Chu Lệ lập tức hạ lệnh phòng thủ, quân Minh dàn ra, lấy lính trường thương làm tiên phong, đao thuẫn thủ và nỏ thủ cùng hỏa thương yểm trợ, lính vệ sở sẵn sàng lấp chỗ trống.
Dã Mộc Chân cưỡi ngựa đứng trên một cồn cát hô lớn
- Hoàng đế Đại Minh bệ hạ, sao chưa tham quan cảnh sắc đại mạc đã vội rút quân về sớm thế
Chu Lệ cũng đứng trong xe ngựa quát lớn
- Dã Mộc Chân, đừng vội mừng. Lần này tạm thua cho ngươi, nhưng ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây, phong thủy luân chuyển, ngươi đừng vội mừng.
- Hừ, - Dã Mộc Chân cười lạnh – nếu ta diệt sạch quân của ngươi ở đây, vậy ngươi lấy gì để quật khởi?
Nói rồi phất tay ra lệnh, các kỵ sỹ Mông Cổ ào ào tràn xuống, dùng cung bắn về phía quân Minh.
- Đội hỏa pháo. Khai hỏa!
Quân Minh lập tức dùng hỏa pháo nã vào đội hình của quân Mông cổ, nhưng hiệu quả không cao lắm vì quân Mông cổ quá tản mát. Các kỵ sỹ Mông Cổ lao xuống, trút tên lên đầu quân Minh. Chỉ trong loạt tên đầu, cả trăm lính Đại Minh đã bị bắn chết. Quân Minh cũng lập tức bắn trả, đem mấy chục kỵ bắn gục.
Quân Mông Cổ tách sang hai cánh, cố gắng kéo dài đội hình của quân Minh, nhưng đã quen với trận thế của quân Mông cổ, quân Minh cứ giữ vững đội hình, người trước ngã xuống, người sau tiến lên lấp chỗ trống.
- Thiêu Đãng kỵ binh, tấn công!
- Biên quân xạ kỵ! Tấn công!
Cờ lệnh được phất lên, hai cánh của quân Minh được mở ra, từ trong trận, 4 đội kỵ binh phóng ra. Cờ Bạch Hổ và cờ Hắc Hổ tung bay. Đi đầu là Biên quân Xạ kỵ, lưng khoác áo choàng đỏ, hông đeo chiến đao, trong tay cầm cung ghép tinh xảo, đó là biên quân xạ kỵ, là đội quân kỵ Hà Bắc năm xưa Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lập nên dùng để đối phó khinh kỵ Mông Cổ, đã theo Chu Nguyên Chương đánh đông dẹp bắc, xua đuổi Thát Lỗ lập nên nhà Minh. Mấy ngàn xạ kỵ tiến lên dưới lá cờ Hắc Hổ, thêu chỉ vàng, liên tục giương cung lắp tên, bắn trả quân Minh. Tuy không thể chính xác bằng kỵ binh Mông Cổ, nhưng lợi dụng ưu thế bắn tập trung mà bắn hạ không ít quân Mông Cổ.
Thiêu đãng kỵ binh mặc giáp da có đính đinh thép hoặc giáp vẩy cá, tay cầm trường thương có tua đỏ, dài khoảng 2m, đầu đội mũ giáp có gắn đuôi phượng, hông đeo chiến đao, khoác áo choàng đen, cưỡi ngựa chạy hai bên đám xạ kỵ, bảo vệ 2 cánh cho đám xạ kỵ.
Trong khi Thiêu Đãng kỵ binh và Biên quân xạ kỵ xua đuổi khinh kỵ Mông Cổ, Chu Lệ cũng hạ lệnh
- Liễu Thăng, ngươi đem Phá Trận Trọng Bộ binh xông lên, trường thương binh bảo vệ hai cánh, bộ binh yểm trợ phía sau, đem bộ binh Thát Lỗ tiêu diệt cho trẫm
An thành hầu Liễu Thăng lập tức chắp quyền nhận lệnh, dẫn theo phó tướng xông lên, dẫn đầu quân Minh tràn tới.
Phải biết, để đối phó quân Mông Cổ, nhà Minh đã tốn hao vô số tiền của, chế tạo ra 2 đội quân bộ binh giáp nặng là Phá trận trọng bộ binh và Ngự trận trọng bộ binh. Phá trận dùng để xông vào chiến tuyến, làm vỡ trận hình quân địch, như thanh kiếm sắc bén không gì chặn nổi. Ngự trận thì lập thuẫn tường, cho dù kỵ binh cũng bị thuẫn tường được ghép từ vô số tấm thuẫn lại này đẩy ngã.
Dã Mộc Chân thấy quân Minh ào ào xông lên, miệng khẽ mỉm cười, tay vuốt ve một mũi tên thép, đuôi bằng đồng lấp lánh trong ánh nắng.
- Bắn!!!
Các Thiên Hộ, Bách Hộ, Vạn Hộ Mông Cổ ra lệnh, lập tức đám cung thủ Mông Cổ buông cung. Hàng vạn mũi tên che kín bầu trời, đen kịt trời đất.
Những mũi tên này rơi xuống, bắn chết mấy trăm quân Minh, còn lại thì kịp thời đưa khiên lên đỡ nên không sao, đám quân giáp nặng lại càng khủng bố, cứ mặc kệ tên đánh lên người kêu loong coong, ào ào xông tới.
Khi quân Minh chỉ còn cách quân Mông Cổ không đầy 70m, Dã Mộc Chân mới ngước lên, hạ lệnh.
- Thay phá giáp tiễn!
Lập tức xạ thủ Mông Cổ toàn bộ thay tên thép, mấy hàng đầu tiên nhắm thẳng vào đám Phá trận trọng bộ binh đang kêu gào mà bắn, những hàng sau thì lại bắn trên trời. Những mũi tên nặng nề, đâm xuyên qua lớp giáp cứng, đâm vào cơ thể của quân Minh. Giáp sắt còn không chặn được tên phá giáp, nữa là khiên gỗ và giáp da.
- Giết a, con cháu của Thành Cát Tư Hãn!
Dã Mộc Chân rút ra chiến đao, hô lớn, dẫn đầu trọng kỵ Mông Cổ ào ào tràn xuống. Đám bộ binh giáp nặng của nhà Minh lúc này bị vỡ trận do tên bắn, chưa kịp tập hợp lại đã bị cơn lốc sắt thép của Mông Cổ đánh bay. Các xạ thủ Mông Cổ cũng rút chiến đao, ào ào xông lên, nhảy vào trận hình của quân Minh, đem quân Minh chém chết như chém chuối.
Bị thiết kỵ Mông cổ xông vỡ trận, lại bị quân Mông Cổ chia nhỏ bao vây, tiêu diệt, quân Minh sỹ khí đã sớm thấy đáy, hô hào bỏ chạy. An thành hầu Liễu Thăng bị Dã Mộc Chân bắn trúng ngay cổ, chết không kịp ngáp.
- Bệ hạ, bệ hạ, mau rút lui, mau rút lui a – Thượng Thư bộ Binh là Sùng Hoán hô lớn
Minh Thành Tổ Chu Lệ gật đầu đồng ý, hạ lệnh
- Trương Phụ, ngươi đem Ngự trận trọng bộ binh đoạn hậu, toàn quân theo trẫm rút về đại đồng
- Tuân chỉ!!!
Quân Minh ào ạt rút lui về phía Đại Đồng, Dã Mộc Chân cũng không ngăn cản mà cho quân bao vây lấy đám Ngự trận trọng bộ binh, nghĩ thầm “Chỉ cần đem đám trọng bộ binh này tiêu diệt, vậy thì quân Minh không còn là đối thủ của quân ta nữa rồi”
Lập tức, quân Mông Cổ dùng tên thép bắn vào trận, nhưng hiệu quả kém hơn khi đối phó với đám phá trận, bởi vì ngự trận ngoài áo giáp còn có khiên bằng sắt, hơn nữa lại ghép lại dùng nên đã chắc lại càng chắc, tên thép dù mạnh cũng khó có thể xuyên thủng mấy lớp sắt đó
Cực chẳng đã, Dã Mộc Chân đành hạ lệnh cho quân bộ ào lên, cùng quân Minh chém giết. Mấy vạn bộ binh Mông Cổ ào ào vung chiến đao, giáo dài xông lên
- Biên quân trịch đạn thủ, ném!!!
Trương Phụ quát lên. Từ trong trận, mấy trăm lính Đại Minh dùng gậy có gắn 1 miếng vải, đem hỏa hổ (Một loại lựu đạn được làm bằng cách đem thuốc nổ đen nhồi đầy vào trong bình gốm) châm ngòi rồi ném về phía quân Mông Cổ. Hỏa hổ nổ mạnh khiến quân Mông Cổ chết và tổn thương vô số. Lúc này quân Minh mới ào lên chém giết.
Quân hai bên giao chiến từ sáng đến chiều mới kết thúc, khi người lính biên quân trịch đạn cuối cùng châm lửa hỏa hổ rồi lao vào đám lính Mông Cổ nổ tung. Tổng cộng quân Mông Cổ trong toàn trận chiến chết trận 20000 người, bị thương khoảng 10000, quân Minh thiệt hại nặng hơn, chết trận 10 vạn người, bị thương không rõ. Hai đội quân bộ binh giáp nặng là Phá trận và Ngự trận đều bị tiêu diệt, quân Minh rút về Đại Đồng, thấy thành bị phá, lại đi vòng qua Úy Châu, đi đường Tử Kính Quan để rút về. Dọc đường bị quân Mông Cổ đuổi giết, bị chết đói, chết mệt... hơn vạn người. Hoàng đế Chu Lệ chán nản về nghỉ ở hành cung ở Bắc Kinh, trong nước dần xuất hiện những âm thanh phản đối, nói Chu Lệ bất tài, tàn ác, đánh trận toàn thua, hoài niệm Huệ Đế nhân từ, anh minh...
Nhắc đến Huệ đế là đụng đến nỗi đau cấm kỵ của Chu Lệ, Minh Thành Tổ lập tức hạ lệnh nghiêm tra, sai Cẩm Y Vệ đi lùng bắt người, kẻ nào bàn tán, giết không tha. Cả đại Minh chìm trong khói lửa.
----------
Tháng 6 năm 1406, Mạnh điều 5000 lính Nhật bản tăng viện cho Trương hà Minh. Hà Minh theo kế sách của Mạnh sai lính bí mật leo lên 2 ngọn đồi nhỏ, đào chiến hào và chăng dây thép gai. Quân Khmer đêm đêm cũng cẩn thận phòng bị doanh trại, lo sợ quân Việt đánh úp, nhưng đó là phạm vi doanh trại, còn bên ngoài thì không thuộc phạm vi lo lắng của chúng.
Sáng hôm sau, quân Liên Việt bố trí pháo cối trên đồi, nã vào doanh trại của quân Khmer, nhất là trại voi và trại ngựa. Quân Khmer nhiều lần tổ chức phản kích nhưng bị pháo kích và súng bắn khiến cho thiệt hại nặng nề nên phải rút lui.
Đối phó voi chiến cũng đơn giản hơn mọi người vẫn nghĩ, chỉ cần 1 loạt lựu đạn thì dù là siêu voi cũng tan xương nát thịt. Quân Liên Việt đánh bại quân Khmer ở sông Kiacak rồi thừa thắng ruổi dài, chiếm đóng một loạt các tỉnh Chân Lạp.
Đầu tháng 7 -1406, chiến trường phía Nam căn bản là yên ổn, quân Khmer mang theo hoàng gia Chân Lạp rút về lãnh thổ Khmer.
Ở phía Bắc, trung tuần tháng 6, Phong Linh đi nước cờ hiểm, dùng 10000 lính Liên Việt và 2 sư đoàn Lê Dương người Shan do Trần Nguyên Hãn chỉ huy đóng ở vùng biên giới Chang Mai và Hanthawaddy làm nghi binh, còn chính mình mang theo 19000 quân Liên Việt và 1 sư đoàn Lê Dương Ava đánh lên vùng Mong Mao, chỉ trong 5 ngày đã đánh tan quân Mong Mao, bắt vua Mong yang của Mong Mao phải ký hiệp ước bất bình đẳng.
Phải biết Phong Linh có được chiến thắng này, 1 mặt là do dám làm liều, đi nước cờ hiểm, một mặt khác, Phong Linh nắm trong tay sư đoàn Cận vệ là sư đoàn tinh nhuệ nhất, được trang bị tối tân nhất, súng tiểu liên có 500 khẩu, súng trường kiểu mới và súng ngắm 8000 khẩu, súng shotgun 1500 khẩu, pháo cối 40 khẩu. Bởi vậy quân Liên Việt tiến nhanh thắng nhanh là chuyện bình thường.
Sang đến đầu tháng 7, quân của Phong Linh tiến vào Hanthawaddy, vua Razadarit dẫn quần thần ra ngoài thành nghênh đón, xin hàng. Giữa tháng 7, Min Saw Mon cũng gửi sứ giả đến xin nghị hòa, chấp nhận ra nhập liên minh Mianma (tên mới của vương quốc Ava)
--------
Ở chiến trường Triều Tiên, Kiên được Bình mách nước, liền đem ấp chiến lược nói cho người Nhật. Quân Nhật lập tức tổ chức các đội quân càn quét, đánh phá, triệt hạ các làng mạc, thành trì, dồn dân Triều Tiên vào các khu vực chỉ định. Ban ngày, người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào được đóng kín lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải quyết.Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động. Chung quanh ấp là một diện tích đồng trống để lính canh dễ theo dõi việc di chuyển phía ngoài.
Bình tổ chức 5 tiểu đội “Tìm và diệt” mỗi đội gồm 200 lính Liên Việt cùng 60 lính Nhật, lính Liên Việt đều là lính tiểu đoàn đặc biệt của tiểu đoàn đặc biệt của Kiên, được huấn luyện đặc biệt về ngụy trang, ẩn nấp, trang bị tiểu liên hoặc súng trường 1406, lựu đạn, dao găm cận chiến. Quân Nhật đều là các võ sỹ được huấn luyện Ninjutsu, sử dụng phi tiêu và kiếm ninja-to, dao găm tanto, cũng như các loại vũ khí đặc biệt khác.
Nhờ vào việc tách rời dân quân, du kích khỏi dân, cùng các chiến dịch nhỏ hành quân tìm diệt, quân Triều Tiên dần dần bị đẩy lùi. Đến khi quân Nhật đem pháo gỗ đến Triều Tiên thì những chiếc hỏa xa của quân Triều Tiên không còn là nỗi lo của quân Nhật nữa.
Khi mà đội lính đánh thuê 3000 người của Nguyễn Đức Nhân đổ bộ xuống Busan, thì cọng cỏ cuối cùng này đã đè chết con lạc đà Triều Tiên. Vua Lý Thành Quế chạy sang đại Minh, và rất không may, đến Liêu Đông thì bị quân Ngõa Thích bắn chết vì tưởng gian tế của quân Minh. Cung Nhượng Vương Vương Dao được đưa lên ngôi, nhanh chóng xin cầu hòa với Nhật bản.
Mặt trận Đông Nam, dưới sự hỗ trợ của Hàn Thần, vua Malaka là Salamita đã đánh bại quân Ayutthaya của Xiêm, giành được các tỉnh Tây Bắc, và đang dần mở rộng xuống phía Nam.
Duy nhất không có tin tức gì là ở mặt trận Chính Đông của Gia Bảo, nhưng đến tháng 8 năm 1406 thì Nguyễn Cảnh Dị gửi về một lá thư khiến Mạnh suýt chết nghẹn (Cái tội vừa ăn ô mai vừa làm việc)
/55
|