Trương Diệu Hưng nói với Tế Điên:
- Này Hòa thượng, ta kêu ông ba tiếng, ông có dám trả lời đủ ba tiếng không?
- Đừng nói là ba tiếng, mà sáu tiếng ta cũng trả lời tuốt. Ông cứ kêu thử!
Lão đạo kêu liên tiếp ba tiếng và trong niệm niệm lâm râm, rồi cầm chén rượu úp lên bàn một cái "bốp", hô: Sắc lịnh hích! Chỉ thấy Tế Điên đang ngồi uống rượu bỗng nhiên ngã ngang té dài trên mặt đất. Lương viên ngoại thấy vậy cả kinh, lập cập hỏi:
- Lão pháp sư ơi, làm sao bây giờ?
- Ông đừng có hỏi, ta thi chút thuật mọn để trị Hòa thượng láo khoét ấy mà. Chén rượu này úp một ngày thì Hòa thượng sẽ thẳng cẳng một ngày, chừng ta giở chén rượu lên hay cho uống thuốc, Hòa thượng mới sống lại được!
Vừa nói tới đó bỗng thấy Tế Điên lồm cồm đứng dậy. Lão đạo thấy vậy nói:
- Ta chưa giở chén mà ông đứng dậy được sao?
- Lại đây, ông chưa cho uống thuốc, ta phải ngồi dậy đòi chứ.
- Này Hòa thượng, ông dám đem ngày sanh tháng đẻ nói cho ta biết không?
- Ta đâu có ngán! Ngươi hãy nghe đây: Ta sanh ngày… tháng… năm, coi ngươi làm gì ta.
Lão đạo lập tức trong miệng niệm lâm râm thần chú rồi hô: Sắc lịnh hích, nhằn đầu Tế Điên đánh xuống một chưởng và đứng dậy nói:
- Này viên ngoại, sau khi bần đạo ra khỏi đây rồi, nên thả Hòa thượng đi đâu thì thả, kẻo khuya nay chừng gà cất tiếng gáy, ông ấy sẽ hết thở rồi viên ngoại sẽ mang vạ vào thân phải lên quan đấy.
Lương viên ngoại ngó lại thấy Tế Điên nằm dài hôn mê bất tỉnh mà lão đạo định bước ra về, bèn chạy theo khẩn khoản:
- Tiên trưởng đừng về, tôi xin thay mặt Hòa thượng tạ tội, tiên trưởng xá tội cho!
Diệu Hưng lẳng lặng đi một mạch về Tường Vân quán ở núi Ngũ Tiên. Về đến nơi, lão đạo kêu sư đệ là Lưu Diệu Thông bện gấp cho một hình nộm. Diệu Thông hỏi:
- Bộ anh tính hại ai nữa đấy hả?
- Không phải ta vô cớ hại người đâu, chỉ vì ta đến hóa duyên nơi Lương viên ngoại, bị Tế Điên Hòa thượng giỡn mặt khi dễ ta, ta phải ám hại ông ấy để báo thù rửa hận mới hả giận.
Lưu Diệu Thông cũng không trái ý, lập tức lấy cỏ khô bện thành một hình nộm và sắm đủ thứ cần thiết như lời Diệu Hưng dặn. Cơm chiều xong, một chiếc bàn bát tiên được đặt trước đại điện, trên có thắp sẵn hương hoa đèn nến với các vật dụng cần thiết và hai hình nộm được đặt ở hai bên. Đợi đến khi sao mọc đầy đủ. Diệu Hưng bèn ra trước điện, trước tiên lột mũ đạo sĩ xuống, cả dây cột tóc cũng bỏ ra nốt để cho tóc xõa ra, đoạn rút kiếm ra khỏi bao, đốt hương lầm rầm khấn vái: "Nguyện cầu các thần linh quá vãng, Tam Thanh giáo chủ bảo hộ cho đệ tử! Giúp đệ tử hại được Tế Điên, hóa duyên được với Lương viên ngoại, đệ tử sẽ thắp hương cúng dường, thiết lễ hoàn nguyện".
Khấn xong, lấy nước vô căn rưới lên kiếm và dúi mũi kiếm vào dĩa lương thực ngũ cốc, lấy chu sa nghiền nát, cầm bút mới vẽ ba đạo bùa trên ba tờ giấy vàng để sẵn. Vẽ xong đem bùa dán trên lưỡi kiếm và lấm râm niệm chú. Kiếm hươ lên một vòng, lửa cháy càng lúc càng sáng rực. Diệu Hưng hô:
- Đốt đạo bùa thứ nhất cuồng phong nổi dậy. Đạo bùa thứ hai bắt hồn phách Tế Điên trói lại. Đạo bùa thứ ba Tế Điên phải chết, hồn biến thành ma, ma biến thành tinh.
Đương lúc dương dương đắc ý, bỗng nghe luồng gió lạnh, Diệu Hưng vội vàng tràn mình né tránh, ngoái đầu lại xem: Trước mặt là một vị anh hùng lục lâm. Người ấy đầu đội mũ lông ngựa, bên mái tóc vắt cành hoa Thủ Chánh giới dâm, thân mặc áo đoạn mềm màu đen, quần màu xanh, đi giày gót dày lộ đôi vớ lam, mặc như ngọc trắng, mắt như sao, mày như nét vẽ, mũi thẳng như son, ngũ quan cân đối ưa nhìn. Người ấy tay cầm con dao bén nhắm ngay Diệu Hưng chém tới. Diệu Hưng lật đật tràn qua né tránh rồi lấy tay chỉ một cái, miệng niệm chơn ngôn. Người ấy tức thì ngã xuống, Diệu Hưng xốc tới định chém một nhát, bỗng nghe có tiếng la:
- Sư huynh ngừng tay! Bạn em đó.
Từ trong nhà Diệu Thông chạy ra nâng người ấy đứng dậy. Người ấy đến ở Trần Gia Bảo, thuộc trấn Đan Dương, phủ Trấn Giang, họ Trần tên Lượng, từ nhỏ cha mẹ mất sớm, Trần Lượng ở với chú là Trần Quảng Thái làm nghề buôn bán vải. Trần Lượng từ nhỏ đã luyện tập quyền cước côn bổng, theo học với vị bảo tiêu một môn công phu tên là "Tiến bộ liên hoàn thối". Sau đó kết giao với một người ở địa phương tên là Lôi Minh, trác hiệu là Phong lý vân yên, hai người tình như ruột thịt. Chính Lôi Minh dẫn Trần Lượng gia nhập vào nhóm lục lâm. Ở huyện Ngọc Sơn, Giang Tây, có một lão tiêu đầu họ Dương tên Minh, trác hiệu là Oai trấn bát phương Dạ du thần. Ông ta là người chuyên hành hiệp trượng nghĩa, giữa đường gặp việc bất bình không tha, giết tham quan, chém ác bá, bình sinh ưa kết giao với các anh hùng trong thiên hạ. Trần Lượng sau khi nhập vào nhóm lục lâm hay ở chung với mấy người này. Người ta gọi 36 võ hiệp huyện Ngọc Sơn, trong đó nhân vật nào cũng đều có đủ. Một ngày nọ nhằm lễ chúc thọ của mẹ Dương Minh, mọi người đến chúc mừng đều có mang lễ vật trọng hậu. Trần Lượng tới mà không mang theo gì cả. Lôi Minh mới nói:
- Này hiền đệ, đáng lẽ em phải kiếm một chút gì đó để tỏ lòng hiếu kính đối với bá mẫu chớ! Ngày sinh nhật của bá mẫu, đừng để không giống ai là được rồi.
- Lễ vật của tôi chút nữa sẽ có, mà không giống với người ta đâu.
Bấy giờ là những ngày đầu tháng tư, sau canh ba, Trần Lượng trộm về một trái đào chín đỏ, mọi người nhìn thấy đều ngạc nhiên. Lúc ấy đào mới có, chưa chín chẳng phải là chuyện dễ! Ai nấy đều tặng trác hiệu Thánh thủ bạch viên, và gọi Trần Lượng bằng trác hiệu này. Năm ấy Trần Lượng về thăm nhà, em gái là Trần Ngọc Mai cùng với chú tỏ bày ý kiến không bằng lòng việc Trần Lượng gia nhập vào nhóm lục lâm. Ông chú bảo rằng:
- Nhà họ Trần ta bao đời nay tuy không làm quan chức chi nhưng cũng thuộc dòng thi lễ, bây giờ cháu gia nhập vào nhóm lục lâm làm giặc, trên thì có lỗi cùng tổ tiên, dưới lại lỗi với xóm giềng làng nước. Một ngày trộm cắp suốt đời mang danh kẻ giặc, sự việc đến quan, tiếng xấu lan truyền khắp kẻ chợ, bản thân lại bị pháp hình. Trên hại đến cha mẹ, dưới hại đến con cháu. Cháu nên theo lời khuyên của chú và em mà sớm tỉnh ngộ quay về bỏ hết lỗi lầm cũ. Vả lại nhà ta buôn bán đang thiếu người trông coi, cháu về giúp chú!
Trần Lượng nghe nói, lặng thinh không buồn đáp lại. Thật là:
Rượu gặp tri kỷ ngàn chén ít
Lời chẳng lọt tai nửa câu thừa.
Hôm sau Trần Lượng lặng lẽ bỏ đi, không từ biệt một ai. Với chủ đích riêng, Trần Lượng nghĩ: "Chuyến này mình sẽ đi đến kinh sư, phỏng tìm cao tăng đạo đi tu quách cho xong một đời oan nghiệt cho rồi! Hiện nay mình trên không cha mẹ vấn vương, dưới không vợ con níu kéo". Bữa đó Trần Lượng đến trấn Vân Lan muốn kiếm chút ít tiền bạc để làm lộ phí, bèn đến đêm thay đồ dạ hành vào nhà phú hộ nâng đỡ một lạng bạc. Xong lại có ý đến Tường Vân quán thăm huynh trưởng Lưu Diệu Thông. Đến trước miếu không thêm kêu cửa, từ phía Đông nhảy tường mà vào, thấy trước chánh điện có một bàn bát tiên, đứng đằng sau là một lão đạo sĩ tóc xõa phất phơ theo gió, mặt đen hung dữ, tay cầm bảo kiếm đang niệm chú làm phép. Trần Lượng chưa gặp mặt người này bao giờ, trong lòng thầm nghĩ: "Tên này chắc là hãm hại Lưu đạo huynh rồi ở đây hưng yêu tác quái như vậy. Thật là đáng giận! Để ta giết quách hắn đi cho bõ ghét!". Nghĩ rồi bèn nhảy tới chém một đao, nhưng chưa trúng đích lại bị Diệu Hưng phất tay áo một cái lăn quay xuống đất. Trần Lượng chỉ còn nhắm mắt chờ chết, bỗng nghe Diệu Thông la:
- Sư huynh dừng tay lại! Bạn của em đó. Xin nể mặt em mà tha cho hắn!
Diệu Hưng nói:
- A, thì ra ngươi cấu kết với người ngoài ám hại ta để độc chiếm ngôi miếu đây mà!
Trần Lượng nói:
- Không phải vậy đâu! Tại tôi nhất thời thô lỗ, tưởng rằng ông đã hại đạo huynh Diệu Thông để độc chiếm miếu này, chứ không biết hai vị là anh em.
Lưu Diệu Thông giới thiệu cho hai bên biết nhau. Trần Lượng nhận lỗi về phần mình xong bèn vào nhà trong hỏi Diệu Thông:
- Hồi nãy Trương đạo gia đang thi triển pháp thuật gì vậy?
- Hiền đệ! Sao em không đến sớm một chút hay trễ một chút mà lại đến đúng ngay hôm naỵ Anh ấy đang làm phép ám hại Tế Công trưởng lão ở chùa Linh Ẩn bằng cách bắt ba hồn bảy vía của người đó.
- Ta nghe nói Tế Công là một vị chân tu đắc đạo, chưa chắc là bắt được hồn quách của người.
Trần Lượng nghe nói, nghĩ thầm: "Mình đang để tâm tìm một vị cao tăng hay cao đạo để xuất gia mà nay không dè gặp cả ở đây. Để xem hai vị ai cao, ai thấp cho biết".
Đang nghĩ như vậy thì nghe ở đại điện Diệu Hưng đang làm phép hô lớn:
- Hồn quách Tế Điên ở đâu? Sao không đến, còn đợi chừng nào?
Lại lấy hai đạo linh phù đốt tiếp, ánh lửa sáng rực, ném ra bên ngoài. Bỗng thấy từ phía Tây bắc nổi lên một trận cuồng phong. Thật là:
Nộ khí cuồng phong ào ạt
Cây rừng xơ xác ngả nghiêng
Dưới sông ồn ào nước réo
Cây khô răng rắc chuyển mình
Sóng biển cất cao như núi
Ao đầm muôn lượn dập dồn
Ngàn quỷ rú gào thê thảm
Cát bay đá chạy lung tung!
Trận cuồng phong đi qua, cảnh vật lạnh tanh, bỗng tiếng giầy cỏ lẹp xẹp vang lên theo bước chân nghe rõ mồn một từ từ hướng về đại điện. Chẳng bao lâu sau, một ông Hòa thượng kiếc khật khưỡng lù lù trước bàn hương án. Diệu Hưng quát:
- Hay cho đại yêu tăng! Ta đã bắt hồn vía của ngươi rồi, ngươi là ai mà còn dẫn xác tới đây?
Tế Điên cười ha hả, nói:
- Đồ nghiệt chướng! Ngươi to gan thật! Ngươi há không biết câu: "Thiệt ác vay rồi đều có trả. Thời gian ứng hiện chậm mau thôi" hay sao mà hưng yêu tác quái thế?
- Này Hòa thượng, ta kêu ông ba tiếng, ông có dám trả lời đủ ba tiếng không?
- Đừng nói là ba tiếng, mà sáu tiếng ta cũng trả lời tuốt. Ông cứ kêu thử!
Lão đạo kêu liên tiếp ba tiếng và trong niệm niệm lâm râm, rồi cầm chén rượu úp lên bàn một cái "bốp", hô: Sắc lịnh hích! Chỉ thấy Tế Điên đang ngồi uống rượu bỗng nhiên ngã ngang té dài trên mặt đất. Lương viên ngoại thấy vậy cả kinh, lập cập hỏi:
- Lão pháp sư ơi, làm sao bây giờ?
- Ông đừng có hỏi, ta thi chút thuật mọn để trị Hòa thượng láo khoét ấy mà. Chén rượu này úp một ngày thì Hòa thượng sẽ thẳng cẳng một ngày, chừng ta giở chén rượu lên hay cho uống thuốc, Hòa thượng mới sống lại được!
Vừa nói tới đó bỗng thấy Tế Điên lồm cồm đứng dậy. Lão đạo thấy vậy nói:
- Ta chưa giở chén mà ông đứng dậy được sao?
- Lại đây, ông chưa cho uống thuốc, ta phải ngồi dậy đòi chứ.
- Này Hòa thượng, ông dám đem ngày sanh tháng đẻ nói cho ta biết không?
- Ta đâu có ngán! Ngươi hãy nghe đây: Ta sanh ngày… tháng… năm, coi ngươi làm gì ta.
Lão đạo lập tức trong miệng niệm lâm râm thần chú rồi hô: Sắc lịnh hích, nhằn đầu Tế Điên đánh xuống một chưởng và đứng dậy nói:
- Này viên ngoại, sau khi bần đạo ra khỏi đây rồi, nên thả Hòa thượng đi đâu thì thả, kẻo khuya nay chừng gà cất tiếng gáy, ông ấy sẽ hết thở rồi viên ngoại sẽ mang vạ vào thân phải lên quan đấy.
Lương viên ngoại ngó lại thấy Tế Điên nằm dài hôn mê bất tỉnh mà lão đạo định bước ra về, bèn chạy theo khẩn khoản:
- Tiên trưởng đừng về, tôi xin thay mặt Hòa thượng tạ tội, tiên trưởng xá tội cho!
Diệu Hưng lẳng lặng đi một mạch về Tường Vân quán ở núi Ngũ Tiên. Về đến nơi, lão đạo kêu sư đệ là Lưu Diệu Thông bện gấp cho một hình nộm. Diệu Thông hỏi:
- Bộ anh tính hại ai nữa đấy hả?
- Không phải ta vô cớ hại người đâu, chỉ vì ta đến hóa duyên nơi Lương viên ngoại, bị Tế Điên Hòa thượng giỡn mặt khi dễ ta, ta phải ám hại ông ấy để báo thù rửa hận mới hả giận.
Lưu Diệu Thông cũng không trái ý, lập tức lấy cỏ khô bện thành một hình nộm và sắm đủ thứ cần thiết như lời Diệu Hưng dặn. Cơm chiều xong, một chiếc bàn bát tiên được đặt trước đại điện, trên có thắp sẵn hương hoa đèn nến với các vật dụng cần thiết và hai hình nộm được đặt ở hai bên. Đợi đến khi sao mọc đầy đủ. Diệu Hưng bèn ra trước điện, trước tiên lột mũ đạo sĩ xuống, cả dây cột tóc cũng bỏ ra nốt để cho tóc xõa ra, đoạn rút kiếm ra khỏi bao, đốt hương lầm rầm khấn vái: "Nguyện cầu các thần linh quá vãng, Tam Thanh giáo chủ bảo hộ cho đệ tử! Giúp đệ tử hại được Tế Điên, hóa duyên được với Lương viên ngoại, đệ tử sẽ thắp hương cúng dường, thiết lễ hoàn nguyện".
Khấn xong, lấy nước vô căn rưới lên kiếm và dúi mũi kiếm vào dĩa lương thực ngũ cốc, lấy chu sa nghiền nát, cầm bút mới vẽ ba đạo bùa trên ba tờ giấy vàng để sẵn. Vẽ xong đem bùa dán trên lưỡi kiếm và lấm râm niệm chú. Kiếm hươ lên một vòng, lửa cháy càng lúc càng sáng rực. Diệu Hưng hô:
- Đốt đạo bùa thứ nhất cuồng phong nổi dậy. Đạo bùa thứ hai bắt hồn phách Tế Điên trói lại. Đạo bùa thứ ba Tế Điên phải chết, hồn biến thành ma, ma biến thành tinh.
Đương lúc dương dương đắc ý, bỗng nghe luồng gió lạnh, Diệu Hưng vội vàng tràn mình né tránh, ngoái đầu lại xem: Trước mặt là một vị anh hùng lục lâm. Người ấy đầu đội mũ lông ngựa, bên mái tóc vắt cành hoa Thủ Chánh giới dâm, thân mặc áo đoạn mềm màu đen, quần màu xanh, đi giày gót dày lộ đôi vớ lam, mặc như ngọc trắng, mắt như sao, mày như nét vẽ, mũi thẳng như son, ngũ quan cân đối ưa nhìn. Người ấy tay cầm con dao bén nhắm ngay Diệu Hưng chém tới. Diệu Hưng lật đật tràn qua né tránh rồi lấy tay chỉ một cái, miệng niệm chơn ngôn. Người ấy tức thì ngã xuống, Diệu Hưng xốc tới định chém một nhát, bỗng nghe có tiếng la:
- Sư huynh ngừng tay! Bạn em đó.
Từ trong nhà Diệu Thông chạy ra nâng người ấy đứng dậy. Người ấy đến ở Trần Gia Bảo, thuộc trấn Đan Dương, phủ Trấn Giang, họ Trần tên Lượng, từ nhỏ cha mẹ mất sớm, Trần Lượng ở với chú là Trần Quảng Thái làm nghề buôn bán vải. Trần Lượng từ nhỏ đã luyện tập quyền cước côn bổng, theo học với vị bảo tiêu một môn công phu tên là "Tiến bộ liên hoàn thối". Sau đó kết giao với một người ở địa phương tên là Lôi Minh, trác hiệu là Phong lý vân yên, hai người tình như ruột thịt. Chính Lôi Minh dẫn Trần Lượng gia nhập vào nhóm lục lâm. Ở huyện Ngọc Sơn, Giang Tây, có một lão tiêu đầu họ Dương tên Minh, trác hiệu là Oai trấn bát phương Dạ du thần. Ông ta là người chuyên hành hiệp trượng nghĩa, giữa đường gặp việc bất bình không tha, giết tham quan, chém ác bá, bình sinh ưa kết giao với các anh hùng trong thiên hạ. Trần Lượng sau khi nhập vào nhóm lục lâm hay ở chung với mấy người này. Người ta gọi 36 võ hiệp huyện Ngọc Sơn, trong đó nhân vật nào cũng đều có đủ. Một ngày nọ nhằm lễ chúc thọ của mẹ Dương Minh, mọi người đến chúc mừng đều có mang lễ vật trọng hậu. Trần Lượng tới mà không mang theo gì cả. Lôi Minh mới nói:
- Này hiền đệ, đáng lẽ em phải kiếm một chút gì đó để tỏ lòng hiếu kính đối với bá mẫu chớ! Ngày sinh nhật của bá mẫu, đừng để không giống ai là được rồi.
- Lễ vật của tôi chút nữa sẽ có, mà không giống với người ta đâu.
Bấy giờ là những ngày đầu tháng tư, sau canh ba, Trần Lượng trộm về một trái đào chín đỏ, mọi người nhìn thấy đều ngạc nhiên. Lúc ấy đào mới có, chưa chín chẳng phải là chuyện dễ! Ai nấy đều tặng trác hiệu Thánh thủ bạch viên, và gọi Trần Lượng bằng trác hiệu này. Năm ấy Trần Lượng về thăm nhà, em gái là Trần Ngọc Mai cùng với chú tỏ bày ý kiến không bằng lòng việc Trần Lượng gia nhập vào nhóm lục lâm. Ông chú bảo rằng:
- Nhà họ Trần ta bao đời nay tuy không làm quan chức chi nhưng cũng thuộc dòng thi lễ, bây giờ cháu gia nhập vào nhóm lục lâm làm giặc, trên thì có lỗi cùng tổ tiên, dưới lại lỗi với xóm giềng làng nước. Một ngày trộm cắp suốt đời mang danh kẻ giặc, sự việc đến quan, tiếng xấu lan truyền khắp kẻ chợ, bản thân lại bị pháp hình. Trên hại đến cha mẹ, dưới hại đến con cháu. Cháu nên theo lời khuyên của chú và em mà sớm tỉnh ngộ quay về bỏ hết lỗi lầm cũ. Vả lại nhà ta buôn bán đang thiếu người trông coi, cháu về giúp chú!
Trần Lượng nghe nói, lặng thinh không buồn đáp lại. Thật là:
Rượu gặp tri kỷ ngàn chén ít
Lời chẳng lọt tai nửa câu thừa.
Hôm sau Trần Lượng lặng lẽ bỏ đi, không từ biệt một ai. Với chủ đích riêng, Trần Lượng nghĩ: "Chuyến này mình sẽ đi đến kinh sư, phỏng tìm cao tăng đạo đi tu quách cho xong một đời oan nghiệt cho rồi! Hiện nay mình trên không cha mẹ vấn vương, dưới không vợ con níu kéo". Bữa đó Trần Lượng đến trấn Vân Lan muốn kiếm chút ít tiền bạc để làm lộ phí, bèn đến đêm thay đồ dạ hành vào nhà phú hộ nâng đỡ một lạng bạc. Xong lại có ý đến Tường Vân quán thăm huynh trưởng Lưu Diệu Thông. Đến trước miếu không thêm kêu cửa, từ phía Đông nhảy tường mà vào, thấy trước chánh điện có một bàn bát tiên, đứng đằng sau là một lão đạo sĩ tóc xõa phất phơ theo gió, mặt đen hung dữ, tay cầm bảo kiếm đang niệm chú làm phép. Trần Lượng chưa gặp mặt người này bao giờ, trong lòng thầm nghĩ: "Tên này chắc là hãm hại Lưu đạo huynh rồi ở đây hưng yêu tác quái như vậy. Thật là đáng giận! Để ta giết quách hắn đi cho bõ ghét!". Nghĩ rồi bèn nhảy tới chém một đao, nhưng chưa trúng đích lại bị Diệu Hưng phất tay áo một cái lăn quay xuống đất. Trần Lượng chỉ còn nhắm mắt chờ chết, bỗng nghe Diệu Thông la:
- Sư huynh dừng tay lại! Bạn của em đó. Xin nể mặt em mà tha cho hắn!
Diệu Hưng nói:
- A, thì ra ngươi cấu kết với người ngoài ám hại ta để độc chiếm ngôi miếu đây mà!
Trần Lượng nói:
- Không phải vậy đâu! Tại tôi nhất thời thô lỗ, tưởng rằng ông đã hại đạo huynh Diệu Thông để độc chiếm miếu này, chứ không biết hai vị là anh em.
Lưu Diệu Thông giới thiệu cho hai bên biết nhau. Trần Lượng nhận lỗi về phần mình xong bèn vào nhà trong hỏi Diệu Thông:
- Hồi nãy Trương đạo gia đang thi triển pháp thuật gì vậy?
- Hiền đệ! Sao em không đến sớm một chút hay trễ một chút mà lại đến đúng ngay hôm naỵ Anh ấy đang làm phép ám hại Tế Công trưởng lão ở chùa Linh Ẩn bằng cách bắt ba hồn bảy vía của người đó.
- Ta nghe nói Tế Công là một vị chân tu đắc đạo, chưa chắc là bắt được hồn quách của người.
Trần Lượng nghe nói, nghĩ thầm: "Mình đang để tâm tìm một vị cao tăng hay cao đạo để xuất gia mà nay không dè gặp cả ở đây. Để xem hai vị ai cao, ai thấp cho biết".
Đang nghĩ như vậy thì nghe ở đại điện Diệu Hưng đang làm phép hô lớn:
- Hồn quách Tế Điên ở đâu? Sao không đến, còn đợi chừng nào?
Lại lấy hai đạo linh phù đốt tiếp, ánh lửa sáng rực, ném ra bên ngoài. Bỗng thấy từ phía Tây bắc nổi lên một trận cuồng phong. Thật là:
Nộ khí cuồng phong ào ạt
Cây rừng xơ xác ngả nghiêng
Dưới sông ồn ào nước réo
Cây khô răng rắc chuyển mình
Sóng biển cất cao như núi
Ao đầm muôn lượn dập dồn
Ngàn quỷ rú gào thê thảm
Cát bay đá chạy lung tung!
Trận cuồng phong đi qua, cảnh vật lạnh tanh, bỗng tiếng giầy cỏ lẹp xẹp vang lên theo bước chân nghe rõ mồn một từ từ hướng về đại điện. Chẳng bao lâu sau, một ông Hòa thượng kiếc khật khưỡng lù lù trước bàn hương án. Diệu Hưng quát:
- Hay cho đại yêu tăng! Ta đã bắt hồn vía của ngươi rồi, ngươi là ai mà còn dẫn xác tới đây?
Tế Điên cười ha hả, nói:
- Đồ nghiệt chướng! Ngươi to gan thật! Ngươi há không biết câu: "Thiệt ác vay rồi đều có trả. Thời gian ứng hiện chậm mau thôi" hay sao mà hưng yêu tác quái thế?
/240
|