Type: Ha Trang Dang
1.
Đám tang Thượng Quan Giác Nhi được tổ chức ở nhà tang lễ Bảo Hưng, vì thân phận đặc biệt của nàng mà từ giám đốc công ty điện ảnh cho đến nhân viên khâm liệm không ai dám qua loa đại khái, đặc biệt việc chọn lựa người khiêng quan tài cũng cạnh tranh rất khốc liệt. Người được đôn lên thay Thượng Quan Giác Nhi đóng vai nữ chính trong bộ phim mới là Kỳ Vân sống chết đòi khiêng quan tài vì có thể xuất hiện trên trang đầu báo giấy không mất đồng nào, suốt mấy ngày nay hôm nào cũng xách túi to túi nhỏ chạy tới nhà mẹ Thượng Quan. Nào ngờ chủ trì tang lễ là Thi Phùng Đức kêu người chuyển lời, bảo cô ta không cần tham gia vào đội đưa tang, ông ta và mẹ Thượng Quan đã bàn bạc với nhau, chỉ chọn mấy người bạn tốt của nàng lúc sinh tiền khiêng quan tài. Ví dụ như chàng diễn viên trẻ khôi ngô Âu Sở Lương từng hai lần đóng cặp với nàng, và đạo diễn Phùng Cương mới đầu đã chọn mặt gửi vàng cất nhắc nàng lên làm nữ chính.
Còn về bản thân Thi Phùng Đức có nên khiêng quan tài không lại cần tranh cãi rất lâu. Mẹ Thượng Quan ôm con mèo cưng Bảo Bảo của con gái trong lòng, rầu rĩ nói với ông ta: “Tiểu Giác đáng thương, theo cái nghiệp diễn viên, hết giờ làm vẫn cứ diễn, chẳng bao giờ chịu nói thật với người mẹ này. Có thể thấy nó cũng chẳng ưa người khác đâu, nhất là ông chủ Thi đây, ông giúp nó, hay hại nó, bà già này rốt cuộc cũng không rõ nữa.”
Dứt lời, bà ta nhìn chằm chằm đống mảnh bát sứ vỡ khóc như mưa, nhất quyết không nhìn Thi Phùng Đức nữa. Ông ta đương nhiên biết niềm oán hận của người mẹ này với mình, đành ngượng ngùng tìm cớ rút lui. Bỗng dưng ông ta nhớ đến Chu Phương Hoa, cũng không biết cô ta ở trong nhà giam thế nào, chỉ biết bây giờ bảo ông ta quay về nhà chẳng khác nào đòi lấy cái mạng già của ông ta, khắp nơi đều có người của phòng cảnh sát túc trực, coi mọi người trong nhà như nghi phạm có thể làm loạn bất cứ lúc nào. Ông ta gác chuyện Thượng Quan Giác Nhi sang một bên, đầu tiên định tìm Chu Phương Hoa nghe ngóng tung tích con trai, nhưng nghĩ lại thì thấy hỏi vậy ngay giữa phòng cảnh sát chẳng khác nào để lộ hướng đi của Thi Thường Vân, chi bằng không biết gì hết, chuyên tâm lo liệu hậu sự cho Thượng Quan Giác Nhi trước đã. Đứng ở sân trước nhà Thượng Quan Giác Nhi, nhìn chằm chằm mấy bụi hoa trắng li ti dưới chân tường mọc đầy rêu đến hoa cả mắt, Thi Phùng Đức thấy lồng ngực nặng trĩu như đổ chì. Thiết nghĩ nếu từ đầu nàng chỉ sống như hoa rừng cỏ dại, có khi sẽ không đi tới bước đường này, đàn bà mang trên mình quá nhiều hào quang lộng lẫy vẫn luôn đoản mệnh.
“Ông chủ Thi, chớ nên đau lòng quá, em cũng không quấy rầy mọi người nữa mà về ngay đây. Hay anh cho xe tiễn em một đoạn được không?” Giọng nói ngọt như mía lùi của Kỳ Vân rót vào tai ông ta, tiếp đó đến lượt hương nước hoa thơm mát phả vào mũi. Ông ta nhớ lại năm năm trước mình vốn tới phim trường đón cô ta đi dùng cơm, nào ngờ vừa bước qua ngưỡng cửa đã va ngay phải Thượng Quan Giác Nhi đang khóc tức tưởi vì bị đạo diễn mắng, thế nên từ khi còn chưa nói chuyện với nàng, ông ta đã tiếp xúc với cơ thể nàng rồi, cảm giác đó là một người con gái mong manh yếu đuối, người mỏng, mệnh còn mỏng hơn.
“Để anh bảo lão Trương đưa em về, em cũng vất vả rồi, chạy đi chạy lại ở đây suốt mấy ngày.” Ông ta vẫn phải tỏ ra lịch thiệp, song lại thấy nụ cười mỉm trên mặt Kỳ Vân cực kỳ hời hợt. Rốt cuộc vẫn là diễn viên, biết trong trường hợp nào thì bày ra sắc mặt nào.
Cô ta vội hỏi: “Hai mắt ông chủ Thi đã thâm quầng lại rồi, hay là đi cùng em về nghỉ một lát?”
Ông ta gượng cười lắc đầu, cô ta có lẽ đã sớm lường tới câu trả lời này, quay lưng đi thẳng.
Ra tới cửa, Kỳ Vân lại bị một chàng trai trẻ thu hút. Anh chàng này cao to đẹp trai, giữa hai chân mày như tỏa hào quang lóa mắt, đúng là mỹ nam tiêu chuẩn, chỉ hiềm dưới cằm lại có vệt râu xanh chẳng ra hình thù gì, xem ra đã lâu rồi không tắm rửa cạo râu, tóc cũng bết dính lại. Điều khiến Kỳ Vân khổ tâm là, chàng mỹ nam ấy lại đang tiến về phía cô ta, cô ta vội bỏ kính râm xuống, tạo dáng tân thời nhất, chuẩn bị cho anh ta chữ ký. Không ngờ tới đối phương lại cười nói: “Chị Kỳ Vân, chị còn nhớ tôi chứ?”
Cô ta nghiêng nghiêng đầu, ngẫm nghĩ mất mấy giây mới sực nhớ ra, cười bảo: “Là phóng viên Đường của tờ Thân Báo đây mà! Ngưỡng mộ đã lâu!”
“Đâu có, tôi mới ngưỡng mộ danh tiếng chị từ lâu, còn muốn xin chị cho làm một bài phỏng vấn riêng nữa.”
“Ôi chao, tôi lấy đâu ra cái vinh hạnh ấy? Trước đây ở phim trường Hương tuyết hải anh chẳng cũng như bao người khác, đều chỉ vây quanh Thượng Quan Giác Nhi đấy sao, còn mắt đâu để ý đến diễn viên phụ hạng ba như tôi.” Lời lẽ của Kỳ Vân đầy sự đố kỵ, nhưng lại không hề bóp méo sự thật, trước đây danh tiếng của cô ta quả thật kém xa Thượng Quan Giác Nhi, gần như chìm nghỉm trong ghẻ lạnh.
Nhưng diễn viên nhỏ có sức nhẫn nại của diễn viên nhỏ, có những người mai danh ẩn tích, có những người lại vượt khó vụt sáng, dựa vào thực lực, dựa vào thủ đoạn, dựa vào khôn ngoan, dựa vào may mắn, hoặc dựa vào cái chết của một người khác. Con đường phấn đấu của Kỳ Vân trong giới điện ảnh, thực ra cũng không có gì khác với Thượng Quan Giác Nhi, vì vậy cô ta cắn răng chịu đực đến bây giờ, chính là đợi những phóng viên nổi tiếng như Đường Huy bước về phía mình đề nghị phỏng vấn riêng.
“Chị Kỳ Vân đang trách móc tôi sao, uổng cho tôi đã xem tất tật phim chị đóng không sót bộ nào, chị xem giờ có thời gian không, chúng ta nói chuyện được chăng?”
Hơi lạnh đầu đông thổi qua làm đỏ ửng chóp mũi người đi đường, Đường Huy chỉ mặc trên người một chiếc áo len cao cổ cùng áo vest dạ thô đã giặt tróc một lớp, trông chẳng hề chắn được gió. Ký Vân nghe anh ta nói chuyện thi thoảng lại khụt khịt mũi, không khỏi lấy làm thương cảm. Đường Huy vốn dĩ có sức hút vậy đấy, có thể khiến tất thảy phụ nữ phải nhượng bộ.
“Lên xe rồi nói.” Cô ta mở cửa xe, ghé mông ngồi vào trong, coi như đã là hành động xuống nước của minh tinh.
Trên đường, Đường Huy không tự chủ nổi cứ thấy ham muốn nổi lên, mùi hương nước hoa cùng loại với Thượng Quan Giác Nhi trên người Kỳ Vân khiến anh ta mê mẩn. Cũng may giữa chừng xe quành gấp một đoạn, anh ta nhờ thế sực tỉnh, vắt óc nghĩ ra vài câu hỏi, đại loại về quê nhà của Kỳ Vân, cha mẹ an cư ở đâu... Kỳ Vân mới đầu rất hào hứng trả lời, song dần dần cũng nhận ra người đặt câu hỏi đang nghĩ vơ vẩn tận đâu đâu, bèn làm mặt lạnh không trả lời nữa.
“Chị Kỳ Vân và cô Thượng Quan thông qua bộ phim Hương tuyết hải mà quen biết nhau phải không?” Đường Huy như thể phát giác mình có phần lạnh nhạt với Kỳ Vân, bèn để lộ hai lúm đồng tiền, nụ cười quánh đặc như sô cô la, nhưng lại rất ngọt.
Kỳ Vân tức thì làm ra vẻ thương tiếc, nói giọng rầu rầu: “Tôi quen cô ấy không phải từ bộ phim đó, mà là từ năm năm trước kia, chúng tôi tới trường quay Xuân giang hoa nguyệt dạ thử một vai phụ nhỏ, kết quả tôi được chọn đóng a hoàn còn cô ấy chỉ có thể rót trà nước cho mấy người ở tổ làm phim. Bấy giờ tôi vẫn chưa chú ý đến cô ấy, về sau mới nghe mọi người nhắc lại. Cũng không biết vì sao, lúc quay Hương tuyết hải, cô ấy và tôi đều còn trẻ, chưa hiểu chuyện, nhưng cứ trông thấy cô ấy là tôi lại căng thẳng, chắc vì cô ấy đẹp quá, con người lại không nham hiểm, thật hiếm có. Bởi vậy, về sau mỗi dịp đóng phim cùng cô ấy, tôi đều rất yên tâm, bởi không cần phải giành giật phân cảnh với cô ấy, cảnh nào là của tôi thì sẽ là của tôi, cô ấy thực sự sẽ giúp đỡ.”
“Nói vậy thì trong cuộc sống thường ngày chị hẳn là chị em thân thiết với cô ấy phải không? Chứ không phải đối thủ cạnh tranh đối đầu gay gắt như người ta đồn đại?”
“Ai bảo chúng tôi đối đầu nhau chứ?” Kỳ Vân nheo mắt, để lộ chút đáo để đáng yêu, “Chúng tôi tuy không phải chị em thân thiết, nhưng bình thường quan hệ cũng rất tốt, sống chứ có phải diễn kịch đâu, cứ phô ra cho người ta thấy mà làm gì, anh nói có phải không?”
Cô ta hiển nhiên đã nhập vai, tưởng tượng mình và người chết lúc sinh tiền là mối quan hệ “quân tử chi giao” nhạt nhẽo mà khăng khít, ánh mắt cũng theo đó trở nên mơ màng.
Đường Huy thừa cơ thăm dò: “Chẳng phải do mấy tờ báo lá cải bất lương bịa tạc đàm tiếu hay sao? Song có tờ báo từng đăng một bức ảnh của chị và Thượng Quan Giác Nhi, từ hồi hai người mới độ mười ba mười bốn, ngồi trên thuyền Nhật, mặc kimônô, chị còn ấn tượng gì không?”
Mẩu báo đen trắng chìa ra trước mặt Kỳ Vân. Đường Huy nhìn chòng chọc vào đôi mắt cô ta, bởi có đóng kịch giỏi thế nào, ánh mắt cũng không phải thứ biết lừa người.
Nào ngờ Kỳ Vân lại bật cười ha hả, rút trong túi ra một tẩu thuốc đẽo bằng ngọc phỉ thúy xanh biếc nguyên khối, rồi lại đủng đỉnh lôi hộp thuốc bằng bạc ra, mở nắp, rút một điếu thuốc gắn vào tẩu, sau đó cứ gác trên tay để nguyên vậy. Đường Huy sững sờ giây lát, cuống cuồng lục túi áo vest, định tìm bật lửa hoặc diêm nhưng nhớ ra mình không hút thuốc nên không có mấy món đồ tùy thân ấy, nên càng lúng túng hơn. Kỳ Vân lắc đầu, dửng dưng đưa bật lửa cho anh ta. Anh ta hoảng loạn nhận lấy, giúp cô ta châm thuốc.
“Cũng chẳng biết bọn họ lấy đâu ra ảnh hai cô gái người Nhật, kêu là tôi với cô ấy. Các anh tin cũng được, viết thêm mấy bài nữa đăng báo, coi như giúp tôi đánh bóng thêm tên tuổi. Nhưng nên nghĩ cho cô Thượng Quan đã ở nơi chín suối, chỉ viết về tôi thôi là được rồi, đừng nên liên lụy đến cô ấy, có được không?”
Những lời này quả khiến Đường Huy không biết xuống nước thế nào. Cũng may da mặt đã được nghề nghiệp tôi luyện cho dày cộp, nên anh ta vẫn tiếp tục truy hỏi: “Tôi cũng không tin, thế nên mới đem ra chọc cười chị Kỳ Vân đấy mà.” Anh ta vội vo tròn mẩu báo kia vứt ra ngoài cửa sổ xe, “Lại nói, chắc chị Kỳ Vân vẫn thường xuyên cùng cô Thượng Quan uống trà chuyện phiếm đánh mạt chược phải không?”
“Vì việc đóng phim nên bọn tôi cũng chỉ cùng ăn với nhau được đôi bữa cơm, thời gian còn lại đều thân ai nấy lo, không qua lại nhiều. Anh trông tôi thế này thôi, chứ bình thường tôi lười lắm, có thể ở nhà thì kiên quyết không ra đường đâu.”
“Vậy bình thường chị đến nhà cô Thượng Quan thì hai người làm gì?”
Kỳ Vân lập tức đanh mặt, nói: “Toàn mấy lời đồn đại vớ vẩn, tôi bình thường chẳng có chuyện gì mà phải đến chỗ Thượng Quan, bởi cô ấy tính tình lầm lì, cũng không thích bị người khác quấy rầy.”
“Thế thì lạ thật.” Đường Huy thấy đối phương đã vào tròng, bèn cười gian xảo, “Vậy chị Kỳ Vân mấy ngày nay sao lại biết nhà cô Thượng Quan mà tìm tới viếng vậy?”
“Hừ!” Cô ta cười gằn, “Còn không phải vì vụ án xác cháy giấu trong hòm mây kia bị khui ra, làm chuyện giữa cô ấy và Thi Phùng Đức lan truyền khắp nơi, lộ cả chỗ ở đấy sao? Tôi theo thông tin trên tạp chí tìm đến thôi.”
“Nhưng... hôm Thượng Quan Giác Nhi uống thuốc độc, nghe nói trên đường đưa đi cấp cứu, vì xe của Thi Phùng Đức bị nổ lốp nên đành phải đổi xe, chiếc xe được đổi sang hình như là xe chị...”
Kỳ Vân bật ra một tiếng cười giễu cợt, nói: “Anh lại nghe được ở đâu mấy lời ngớ ngẩn ấy, thế mà cũng tin?”
“Vốn tôi cũng không tin.” Đường Huy cười hì hì đáp, “Nhưng cô Thượng Quan lẽ ra phải đưa vào bệnh viện lớn cấp cứu, ông chủ Thi sợ sửa xe không kịp, lại gặp ngay chị đúng lúc đi ngang qua, bèn đổi sang dùng xe chị tạm thời chở cô ấy đến phòng khám cấp cứu do người Nhật mở. Khéo thay y tá trực hôm đó là một người bạn của tôi, cô ấy nói trông rõ rành rành, là chị và mẹ cô Thượng Quan đi sau Thi Phùng Đức, còn Thi Phùng Đức bế cô Thượng Quan đang hấp hối, bốn người cùng đến bệnh viện một lúc. Bấy giờ tuy chị dùng khăn trùm đầu, nhưng dù sao vẫn là đại minh tinh, khí chất ngời ngời, đương nhiên bị nhận ra. Người bạn của tôi rất mê điện ảnh, tan làm không có việc gì là lại chạy tới rạp chiếu phim, ảnh tạp chí chụp minh tinh treo đầy nhà, lẽ nào có thể nhìn nhầm?”
“Nhất định là nhìn nhầm rồi, hoặc anh vốn dĩ đang đặt điều bịa chuyện!” Kỳ Vân rít sâu một hơi thuốc, vết son đỏ in lên đầu tẩu bằng phỉ thúy một vệt hồng đào nhàn nhạt.
“Sao chị biết là tôi đặt điều bịa chuyện?”
“Nếu lời người bạn làm ở bệnh viện của anh nói là thật, vậy thì cô ta cũng chỉ có thể trông thấy tôi, chứ nhất định không biết xe Thi Phùng Đức nổ lốp giữa đường, phải không nào?”
“Chị Kỳ Vân quả nhiên là người thông minh!” Đường Huy vỗ tay tán thưởng từ tận đáy lòng, “Không giấu gì chị, cô y tá trực ban nói trông thấy chị quả không phải bạn bè gì với tôi, chỉ là để tìm hiểu viết bài về vụ án Thượng Quan Giác Nhi tự sát, tôi có bỏ ra chút tiền moi tin từ cô ấy. Còn chuyện xe ông chủ Thi nổ lốp thì là do tôi nghe mẹ cô Thượng Quan kể lại, bác gái cũng kể chị vừa hay lái xe qua con đường đó, bắt gặp bọn họ nên chủ động đề nghị giúp đỡ. Tiếc là mẹ cô Thượng Quan chưa từng xem phim, lúc ấy không nhận ra chị, tôi cũng phải bỏ nhiều công sức mới nghe ngóng được rõ thêm từ xung quanh.”
Kỳ Vân lắc đầu thở dài, nói: “Biết ngay mà... có thể thấy đàn bà con gái đều phải chịu thua trước anh.”
“Thế nên chị Kỳ Vân liệu có thời gian không, chúng ta cùng uống tách trà, từ từ nói về chuyện này? Một là câu chuyện đẹp chị thấy đồng nghiệp gặp nạn bèn ra tay giúp đỡ, nếu viết lên báo có thể tăng danh tiếng cho chị. Hai là một sự kiện trọng đại như cái chết của Thượng Quan Giác Nhi, nếu chúng tôi có thể sắp xếp tường thuật rõ ràng đầu đuôi quá trình cô ấy hấp hối, cũng coi như làm một chuyện tốt cho cô ấy. Chị thấy thế nào?”
Vừa dứt lời, xe đã dừng lại trước cửa nhà Kỳ Vân, một căn nhà hai tầng kiểu cổ, đơn sơ bất ngờ. Có thể là do vừa nổi tiếng chưa lâu, lại cũng chưa được đại gia nào để ý, nên tình hình tài chính của cô ta không hề dư dả như người ta tưởng tượng.
Kỳ Vân cùng Đường Huy xuống xe, song đến trước cửa thì chặn anh ta lại, cười nói: “Phóng viên Đường, chuyện này hôm nay nói đến đây thôi, người mất cũng đã mất rồi, có truy cứu thêm cũng có cứu được tính mạng cô ấy đâu, thế nên anh nên dừng lại đi. Còn không dừng lại, e là...”
Cô ta bỗng dưng ngắt ngang, vú nuôi lúc này đã ra mở cửa đứng sang một bên để cô ta vào nhà, không đợi Đường Huy kịp lên tiếng đã đóng rầm cửa lại, thái độ đầy đề phòng như thể coi anh ta là loại ong bướm thông thường.
Đường Huy đành quay người đi, nở nụ cười yếu ớt trước cảnh hoàng hôn, nụ cười ấy vừa mang vẻ chua xót, lại dường như có cả quyết tâm lao vào nước sôi lửa bỏng.
2.
“Rốt cuộc vết thương trên mặt trên người cậu từ đâu mà ra?”
“Thì đi ra chỗ miếu thành hoang đợi bánh bao gạch cua mới ra lò, kết quả chen lấn kinh quá, ngã lộn nhào, từ đầu đến chân đều bị người ta giẫm đạp nên mới thành ra thế này.”
“Thế sao còn bị đạp gãy cả răng nữa?”
“Tôi xông lên hàng đầu, lại không đề phòng, chẳng những không ăn được bánh bao mà đến ví tiền cũng bị móc mất. Đời nào có chuyện tôi chịu để yên, một mực đuổi theo tên trộm, ai dè tên khốn đó quay ngoắt lại giáng cho tôi một đòn, nên mới gãy cả răng.”
“Trước giờ cậu có dùng ví tiền đâu, toàn nhét linh tinh vào túi áo túi quần.”
“Tôi... tôi chính vì hứng lên mua lấy cái ví dùng chơi, nên mới bị kẻ trộm để ý, chịu đổ máu đây!”
“Nhưng rõ ràng là cậu bị trộm tiền, sao vẫn còn mang một trăm đồng Đại Dương về?”
“Mẹ kiếp, rốt cuộc cậu có định ăn bánh hạt sen tôi mang về không nào?”
Mấy ngày liên tiếp, hội thoại giữa Đỗ Xuân Hiểu và Hạ Băng thường xuyên xoay quanh nội dung này, một người ra sức tra hỏi, người còn lại sống chết không khai, suy đoán rồi đánh trống lảng, cứ thế không biết mệt, cho đến khi cô bừng bừng tức giận to tiếng chặn đứng nghi ngờ của anh.
Ngoài việc truy hỏi về vết thương trên người Đỗ Xuân Hiểu, Hạ Băng hiện giờ còn bận bù đầu cùng Tiểu Tứ điều tra tung tích của Hình Chí Cương. Hình Chí Cương gửi ngón tay của Tất Tiểu Thanh đến nhà họ Tần xong, ba ngày liền không có động tĩnh gì, đợi đến ngày thứ tư, mặt trong hòm thư nhà ông chủ Tần mới lại tự dưng xuất hiện một dòng địa chỉ viết bằng sơn trắng: Số 381 đường Vân Giang.
Hạ Băng và Đỗ Xuân Hiểu vì vậy vội chạy tới đường Vân Giang, chỗ đó ở gần bến cảng sông Tùng Thủy, là con đường người tỉnh ngoài sau khi ngồi thuyền đến Thượng Hải bắt buộc phải tới nếu muốn thông qua trung tâm môi giới tìm việc làm. Do đó nơi này vàng thau lẫn lộn, an ninh trật tự rất không ổn định, vừa đặt chân vào khu phố đã có thể cảm nhận được bầu không khí hạ lưu khác hẳn với thế giới phồn hoa dập dìu tửu sắc. Có điều hai người bọn họ dường như đã quen đánh bạn với tầng lớp dưới đáy xã hội, cách ăn mặc lẫn hành xử vẫn rành rành đặc trưng của dân ngoại tỉnh, nên không hề có vẻ lạc lõng nổi bật. Đỗ Xuân Hiểu thậm chí còn mua một túi hạt dưa, vừa đi vừa cắn, mặc Hạ Băng một mình để ý những số nhà hoặc bị biển hiệu cửa tiệm che kín, hoặc đã hoen gỉ loang lổ.
Đi đến ba vòng, vẫn không thấy số 381.
“Chắc không phải viết ra để xỏ chúng ta đấy chứ?” Gan bàn chân phải của Hạ Băng đã phồng rộp lên, tâm trạng cũng bắt đầu trở nên cáu kỉnh.
“Cậu bảo, chúng ta có nên tìm việc làm ăn khác không? Cái văn phòng thám tử của cậu, với hiệu sách của tôi đều vắng như chùa bà đanh, chẳng bao lâu nữa miệng ăn núi lở, lại phải quay về trấn Thanh Vân trồng dâu nuôi tằm thôi. Nếu không muốn bị mất mặt thì nhanh nhanh tìm kế sinh nhai khác, kiếm ít tiền về quê mua đất dựng nhà...” Đỗ Xuân Hiểu như đang tự nhủ, nói rất nghiêm túc, dọc đường không ngừng đọc các thông báo tuyển người dán trên tường.
Hạ Băng không hiểu nổi phản ứng của cô, bực bội nói: “Cậu khỏi cần khích tôi, có phải quay về thì thể nào chả là tôi, cậu giỏi giang như thế, làm gì có chuyện quay về?”
Cô biết anh đang nổi cáu, bèn đứng lại trước một tờ thông báo tuyển người đã quăn mép, cười nói: “Cậu bảo làm được việc này rồi, liệu chúng ta có thể đứng vững ở Thượng Hải không?”
Hạ Băng nhìn theo ánh mắt cô, bắt gặp một tờ thông báo tuyển nhân viên phục vụ nhà hàng thì vừa tức vừa buồn cười, nói: “Cậu bị Stephen bắt mất hồn rồi à? Lại còn muốn đi bưng bê ở nhà hàng!”
“Bưng bê đúng là tôi không muốn... nhưng kiếm tiền thì muốn.”
Đỗ Xuân Hiểu chỉ dòng chữ “Ba Tám Một” viết bằng bút lông đen chình ình trên tờ thông báo tuyển người, vẻ mặt cực kỳ tự đắc.
Tờ thông báo được xé xuống, mặt sau viết: Ba giờ sáng, bến cảng Ngô Tùng Khẩu, để vàng thỏi ở dưới đôn đá thứ ba. Chớ quên!
“Thấy chưa.” Đỗ Xuân Hiểu lật qua lật lại xem xét tờ thông báo trong tay, “Ý tôi là, cơ hội phát tài của chúng ta đến rồi.”
Đúng như Tiểu Tứ nói, người bình thường hễ đêm xuống đều không thể lại gần Ngô Tùng Khẩu, đó là địa bàn giao tranh giữa băng Tiểu Bát Cổ và băng Đại Bát Cổ. May là Tần Á Triết đã ngấm ngầm lo liệu thông suốt, đảm bảo đêm nay sẽ không có chuyện gì xảy ra, có điều tám mươi thỏi vàng đâu phải là thứ hai người trói gà không chặt này có thể dùng xe đẩy đẩy đi nổi? Hạ Băng đang rầu rĩ lo lắng, Đỗ Xuân Hiểu lại như đã tính toán đâu vào đấy, cười bảo: “Muốn vận chuyển số vàng thỏi này, nhất định phải đi đường thủy. Hình Chi Cương cũng sáng suốt đấy, biết các vụ làm ăn của ông chủ Tần đều giao dịch trên thuyền, hẳn là lần này muốn ông ta lật thuyền trong mương nên mới chọn cách này.”
Hạ Băng nghe vậy liền sực hiểu, bất giác nóng ruột nóng gan, trực giác mách bảo anh đêm hôm nay không thể nhanh chóng giải quyết ổn thỏa mọi chuyện như thế được. Muốn chuyển toàn bộ số vàng thỏi kia đi trong một lần, Hình Chí Cương cũng bắt buộc phải cử ra một con thuyền lớn. Thế nhưng, đêm đến gió lạnh thấu xương, thuyền nan đều đã cập bờ nghỉ, sà lan cỡ lớn cũng chẳng thấy mấy cái. Nếu có cũng đèn đóm tù mù, hết sức âm thầm, đến tiếng mô tơ cũng nhỏ như tiếng muỗi vo ve, cố ý đi thật chậm, thật kín đáo, giống như âm hồn trên sông.
Vàng thỏi xếp trong rương gỗ, đặt trong khoang thuyền, thân thuyền rất nặng. Đỗ Xuân Hiểu ngồi chồm hỗm ở đầu thuyền, gió lạnh làm chóp mũi cô đỏ ửng, hai mắt cũng giàn giụa vì gió. Đèn dầu treo ở một góc cột buồm, ngọn lửa bên trong không ngừng liếm vào chụp đèn thủy tinh, bầu không khí đầy vẻ u ám ma mị.
“Vẫn chưa đến giờ đâu, vào trong ngồi một lát đi.” Hạ Băng quấn chặt chiếc áo bông ngắn trên người, lạnh đến nỗi răng va lập cập.
“Tôi thấy...” Đỗ Xuân Hiểu nhả ra một làn khói thuốc, làn khói nhanh chóng tan vào trong bóng đêm mịt mờ, không khí như bị đông cứng, hơi thở cũng rất nặng nề, hơi trắng phả ra từ hai lỗ mũi, “đêm nay e là chúng ta không gặp được bà năm rồi.”
“Sao cậu biết?” Hạ Băng biết cô không bao giờ nói những lời vô căn cứ, nhưng vẫn lấy làm hoài nghi, Tần Á Triết đã cho người mai phục trong vòng mười dặm quanh bến thuyền, chỉ cần đối phương xuất hiện, tay vừa chạm vào vàng lập tức sẽ có ba mươi người bao vây, muốn chém y thành bùn ngay tại chỗ cũng chẳng có gì khó.
“Vì thuyền chạy nhanh quá.”
Đỗ Xuân Hiểu đứng dậy, phủi tàn thuốc bị thổi ngược lại bám vào vạt áo, chỗ răng gãy vẫn chưa hoàn toàn hết sưng, vì vậy khoang miệng cứ có cảm giác kỳ kỳ kiểu chưa xỉa sạch thức ăn. Cô rụt cổ, thắt chặt khăn quàng, vẫn đứng ở mũi thuyền.
“Chạy nhanh? Tôi đang thấy chậm chết đây này! Chở nặng như vậy, không biết 3 giờ sáng có đến kịp bến cảng không nữa.” Hạ Băng tự dưng thấy nhớ Đường Huy, lúc này nếu có một anh chàng to khỏe như thế ở đây, chắc anh cũng không lo lắng thế này.
“E là không kịp đâu.” Đỗ Xuân Hiểu thong dong nhả khói, búng đầu mẩu thuốc còn lại xuống sông. “Chẳng phải cậu vừa chê thuyền chạy nhanh quá sao? Giờ lại bảo không kịp?”
Đỗ Xuân Hiểu vừa định trả lời thì nghe lái thuyền hét lên: “Tránh ra!”
“Tránh cái gì?” Hạ Băng lập tức hỏi lại bác ta.
Lái thuyền giơ tay chỉ, có một sà lan đang lao về phía bọn họ, tiếng động cơ rất khẽ, nghe giống tiếng nghẹn ngào trầm đục. Đỗ Xuân Hiểu lại rút lấy một điếu thuốc, châm lửa, chỉ vào sà lan đối diện cười nói: “Đây chính là nguyên nhân khiến chúng ta không đến kịp.”
Quả nhiên, con thuyền nan còn chưa kịp tránh đường đã phải đứng yên tại chỗ, vì sà lan lao đến quá nhanh, thoắt cái đã ở trước mặt họ, bọt nước bắn tóe lên cả người lái thuyền. Chưa kịp nhìn rõ là chuyện gì, mui thuyền đã bị bắc một tấm ván, từng tốp người rầm rầm chạy qua.
“Làm gì thế?” Lái thuyền ỷ có người chống lưng, hùng hổ gầm lên, nhưng lập tức ăn ngay cú đấm, mũi miệng phun máu tươi. Hạ Băng vừa định xông lên liền bị Đỗ Xuân Hiểu kéo lại, bấy giờ anh mới nhìn rõ đám người vừa lên thuyền ai nấy đều trùm vải đen kín đầu, chỉ khoét hai lỗ mắt.
Đỗ Xuân Hiểu nói với một người để phanh cổ áo, đeo dây chuyền vàng trong số họ: “Mấy vị đại ca, trên thuyền này không có thứ các anh muốn đâu.”
“Có hay không cô nói mà được à, bọn tôi phải tận mắt kiểm chứng. Biết chưa?” Gã đeo dây chuyền vàng thủng thẳng nói, không hề có vẻ hung hãn.
“Nói thật là”, cô cười nói, “có thì cũng có một ít, nhưng không nhiều, anh muốn thì cứ vào lấy. Có điều đây là đồ của nhị đương gia Hồng Bang, anh biết chứ?”
Gã đeo dây chuyền vàng thoáng sững người, rồi đột nhiên ngửa mặt cười lớn mấy tiếng, quay sang nói với mấy người còn lại: “Anh em nghe rõ cả chưa? Hôm nay chúng ta cướp hàng của nhị đương gia Hồng Bang cơ đấy, đúng là số đỏ!” Giọng gã nghe rất kỳ dị, giống như lưỡi ríu thành một đống, nhưng lại có vẻ rất quen, khiến Đỗ Xuân Hiểu bối rối.
Dứt lời, mấy kẻ kia càng phấn khích xông lên trói gô ba người Đỗ Xuân Hiểu, Hạ Băng với lái thuyền lại, mấy bảo tiêu trong khoang thuyền vừa chạy ra đã bị táng mấy gậy vào đầu, lần lượt gục xuống boong thuyền.
“Hôm nay chúng ta chết chắc rồi.” Đỗ Xuân Hiểu lăn tới bên cạnh Hạ Băng, thì thầm vào tai anh một câu khiến người ta hết hồn hết vía.
“Cậu không chết được đâu, tôi liều mạng cũng phải cứu được cậu!” Anh ngỡ là cô sợ, vội an ủi. Nhưng lời vừa thốt ra miệng, anh lại thấy nhụt chí, bởi từ nhỏ đến lớn, anh chưa từng cứu cô lần nào, còn cô dường như cũng không hề coi anh như chỗ dựa của mình. Vì vậy, lời cô vừa nói ra, e rằng chỉ là thông báo, chứ không hề có ý nhờ anh giải nguy.
“Cậu đã đọc truyện Thủy Hử chưa?” Cô tự dưng đổi chủ đề.
“Đọc rồi, làm sao?”
“Đám thủy tặc trong truyện toàn hỏi mấy kẻ xui xẻo là muốn ăn ‘mì sợi’ hay ‘vằn thắn’, ‘mì sợi’ là mỗi người một nhát đao ném xuống nước, ‘vằn thắn’ tức là tự mình nhảy xuống nước, kết quả ai cũng chọn ăn ‘vằn thắn’. Hôm nay chúng ta cũng thử xem sao?”
Hạ Băng bấy giờ mới hiểu ra dụng ý của cô, nhưng đồng thời cũng phủ quyết đề nghị ăn “vằn thắn”. Một là bọn họ đều đang bị trói, muốn lặn xuống nước căn bản là điều không thể, hai là hai người đều mặc áo bông, hễ gặp nước là chìm, nhảy xuống đồng nghĩa với tự tử, vì vậy anh trả lời như đinh đóng cột: “Không được! Có mà chết nhanh hơn thì có!”
“Nhưng đợi lát nữa bọn chúng cạy hòm lấy đồ đi rồi, cũng sẽ dùng gậy gỗ đập chết tươi chúng ta rồi vứt xuống nước thôi. Tôi không muốn chết trong tình trạng bầy nhầy máu me thế đâu, dù sao xác cũng phải dễ nhìn một tí mới được!”
Dứt lời, không đợi Hạ Băng phản ứng lại, cô đã lăn lông lốc đến mạn thuyền, hít sâu một hơi, nhảy “ùm” xuống nước. Anh cuống lên, chẳng kịp nghĩ nhiều nữa, nhắm tịt mắt lăn theo, lập tức thấy cơ thể nhẹ bẫng, rất nhanh sau đó da mặt liền co rúm lại, nước ồng ộc đổ vào mũi miệng. Anh vùng vẫy ngoi lên, thì nước đã vào tận phổi, vị chua xộc lên khoang miệng, nhưng anh vẫn tức tốc hít vào một hơi, rồi lại vội vàng lặn xuống.
Lần này, không hiểu sao đầu Hạ Băng lại đập phải một vật cứng như đá. Tuy nước lạnh làm cả người tê tái, mất đi cảm giác đau đớn nhưng Hạ Băng cũng vì thế lấy làm mừng rỡ, ngỡ rằng có thể đã chạm tới bờ. Nào ngờ vừa mở mắt liền nhận ra thứ cộc vào đầu mình chính là đầu Đỗ Xuân Hiểu, cô cũng nhìn lại anh vẻ khổ sở, như thể đang trao đi lời từ biệt sau cuối.
“Xuân Hiểu!” Anh thầm kêu lên thảm thiết, ao ước người phụ nữ của mình có sức mạnh xoay chuyển tình thế, đến thời khắc này, anh nhận ra bản thân vẫn chỉ biết dựa dẫm vào cô chứ không thể cứu cô.
Tiếp đó, Hạ Băng cảm thấy sau lưng có một sức mạnh ôm choàng lấy mình, anh đã sắp đến ngưỡng không nín thở nổi nữa, từng mảnh xương trong người đều như nát vụn thành tro, không sao chống đỡ nổi trọng lượng của cơ thể. Nhưng có điều thần kỳ nào đó đã nới lỏng hai cánh tay bị trói chặt của anh, nhờ thế anh nhìn thấy hy vọng, ra sức giằng khỏi sợi dây thừng, đến khi hai tay vừa tìm lại được tự do, không kịp cả lấy hơi, anh lập tức lặn xuống, ôm lấy Đỗ Xuân Hiểu đang chìm dần trong nước...
Lúc Hạ Băng tỉnh lại, tóc tai đã đóng băng thành dải li ti, hơi xoay cần cổ cũng thấy vô cùng khó khăn, chật vật mãi anh mới quay đầu nhìn được xung quanh, nhận ra không biết từ lúc nào mình đã được khiêng tới dưới gầm cầu. Bốn bề là những túp lều bẩn thỉu dựng bằng vải bạt, ở giữa còn đang đốt một đống lửa, hiềm nỗi ngọn lửa quá yếu, hoàn toàn không đủ để sưởi ấm. May là, anh đã trông thấy Đỗ Xuân Hiểu đang nằm bất động bên cạnh đống lửa, mặt mày tím ngắt, như chỉ còn nửa cái mạng. Anh ngồi dậy, lật tung tấm thảm rách đắp trên người, tấm thảm bốc mùi sắt gỉ rất khó chịu.
“Đây, uống chút đi.”
Có người đưa nửa bình rượu trắng mùi nồng sực tới trước mặt Hạ Băng, cơ thể người này có phần mất cân đối, anh nhìn kỹ lại mới nhận ra là Tiểu Tứ.
3.
Mặt trời đầu đông vẫn tỏa nắng ấm áp, khiến người ta mơ màng buồn ngủ. Chu Phương Hoa vì mất nước trầm trọng, môi nẻ toác bật cả máu, giọt nước đầu tiên lưỡi liếm được cũng có vị mằn mặn. Không biết đã có bao lượt người thay phiên đến thẩm vấn cô ra, chỉ biết người cuối cùng là một cảnh sát ngoại quốc mặt mũi hiền lành, ánh mắt sắc bén, thân hình béo tốt, tên Erie. Gặp cô ta, câu đầu tiên người này cất lên là với tay quản giáo đứng bên cạnh: “Mau cho cô đây cốc nước, các anh đối đãi với phụ nữ thế này đúng là quá vô nhân đạo!”
Chu Phương Hoa nghe ra sự phẫn nộ thực sự trong giọng điệu của ông ta.
“Mợ Thi, tôi không đến để hỏi cô về tung tích Thi Thường Vân.” Đợi cô ta uống cạn đến giọt nước cuối cùng trong cốc, Erie mới cười hì hì nói, “Tôi chỉ tới hỏi hai câu thôi, cô cũng chỉ cần nói thật, tôi sẽ thả cô về nhà.”
Cô ta ngơ ngác ngẩng đầu lên, khóe miệng hơi động đậy, giống như đồng ý với thỏa thuận này.
“Thi Thường Vân có từng giao cho cô chiếc hòm mây nào không? Cô chỉ cần trả lời có hay không.”
“Có.”
“Câu hỏi thứ hai, trong chiếc hòm mây đó có phải có...” Erie đột nhiên ghé sát lại, thì thầm vào tai cô ta mấy tiếng, cô ta lập tức tái mét mặt nhìn chằm chằm ông ta, người cứng đờ như cương thi.
“Như vậy tức là phán đoán của tôi không sai, phải không, mợ Thi?”
Cô ta ngậm chặt miệng, như thể cực kỳ hối hận vì vừa rồi đáp “có”.
Erie chừng như rất hả hê trước vẻ hối tiếc của Chu Phương Hoa, bèn dẫn cô ta đi làm xong mọi thủ tục, còn gọi xe đưa cô ta về nhà. Dọc đường, ông ta luôn tươi cười, lịch sự nhưng trong lời nói lại có đôi phần tàn nhẫn: “Phóng thích một kẻ ác, khó hơn phóng thích một người tốt rất nhiều, thế nên chúng ta mới thường xuyên khiến Thượng đế lắc đầu thở dài. Nhất là đối với chúng ta, cuộc đời chỉ xoay quanh hai chuyện, yêu đương và ăn uống. Mợ Thi, không biết Bồ Tát mà các cô thờ phụng xử lý chuyện này ra làm sao.”
Chu Phương Hoa không hé miệng nửa lời, mặt mày lạnh tanh, nốt ruồi nhỏ bên dưới khóe mắt trái cô màu nâu nhàn nhạt, đường nét đôi môi rõ ràng, giống như bẩm sinh đã được vẽ bằng bút kẻ môi. Nếu là ở châu Âu, khuôn mặt của cô ta sẽ rất được ưa chuộng.
Thế nhưng, đúng như những gì Đỗ Xuân Hiểu nói riêng với Erie, tuy chỉ gặp Chu Phương Hoa có một lần song vẫn có ấn tượng rất sâu đậm, bởi người phụ nữ này có tướng bạc mệnh. Vậy nên sau này nghe tin Thượng Quan Giác Nhi uống thuốc độc tự vẫn, Đỗ Xuân Hiểu từng buột miệng thốt lên: “Kỳ lạ thật, người chết sao lại không phải mợ cả nhà họ Thi chứ?”
Hiện giờ mỗi lần hẹn Hạ Băng ra ngoài thảo luận tình tiết vụ án, Erie đều tiện miệng hỏi thăm ý kiến của Đỗ Xuân Hiểu. Nhưng sau khi manh mối phía Ngải Mi được moi ra, ông ta lại bắt đầu sợ người phụ nữ này, bởi cô vừa động tay vào, không những không tìm ra chân tướng cái chết của Jenny mà còn làm tăng thêm một vụ án thối nữa, chính là Tất Tiểu Thanh mất tích. Chỉ riêng điều này thôi đã khiến Erie có ý muốn rụt tay, bởi điều tra Tất Tiểu Thanh, nhất định sẽ phải động đến ông chủ Tần, động vào giới xã hội đen ở bến Thượng Hải là chuyện cực kỳ rắc rối, nhưng bỏ dở ở đây thì lại tiếc, nhiệt huyết với nghề của một thanh tra từng giờ từng phút nhắc nhở ông ta phải truy đến tận cùng mọi chuyện. Vì vậy khi được biết Hạ Băng đang âm thầm làm việc cho ông chủ Tần, ông ta không nén nổi tò mò, muốn moi lấy ít nội tình.
Đổi lại, Đỗ Xuân Hiểu cũng đưa ra yêu cầu, muốn Erie dùng quan hệ tới gặp Chu Phương Hoa, hỏi cô ta hai câu hỏi, đem câu trả lời về cho cô. Do đó lần gặp mặt này giữa Erie và Hạ Băng, Đỗ Xuân Hiểu được bao trùm trong bầu không khí nghiêm túc lạ thường, đặc biệt sau khi Đỗ Xuân Hiểu nghe kể về phản ứng của Chu Phương Hoa, cô tức thì nghiêm sắc mặt, lẩm bẩm: “Tuy là nằm trong dự liệu, nhưng e mợ cả nhà họ Thi về sau cũng lành ít dữ nhiều rồi.”
“Vậy chi bằng để cô ta lại trong đó?” Erie lập tức đánh hơi thấy mùi lạ.
“Ừm.” Đỗ Xuân Hiểu gật đầu, “Sợ rằng kết cục cũng giống nhau cả thôi, mấy ngày nay cần hết sức để ý đến cô ta, có động thái gì cũng dễ bề khống chế.”
Các thanh tra dưới trướng Erie theo dõi Chu Phương Hoa có vẻ rất nhẹ nhàng, bởi người phụ nữ này từ khi trở về, hầu như không hề bước chân ra khỏi nhà họ Thi. Vú nuôi tuy thường xuyên ra ngoài, cũng chỉ quanh quẩn giữa chợ và đám ngồi lê đôi mách, không hề có gì bất thường. Duy nhất một lần, vì Thi Phùng Đức phải lo liệu tang lễ của Thượng Quan Giác Nhi, lúc ra khỏi nhà, có đứng lại khoảng đất trống trong vườn hoa dưới ban công nơi con trai cả bị hại, Chu Phương Hoa không hiểu sao cũng theo sau bố chồng, ra đứng đó, thân hình quắt queo khiến người khác trông mà kinh hãi. Hai người đứng đó một lúc lâu, có vẻ còn nói gì đó, mới đầu là bình tĩnh trao đổi, sau đó càng nói càng kích động, đầu run lên bần bật, mỗi người một kiểu. Chu Phương Hoa kỳ quặc hơn cả, thậm chí còn giơ tay tát thẳng vào mặt bố chồng. Thi Phùng Đức bấy giờ mới im lặng, nhìn cô ta hồi lâu rồi quay người chui vào xe hơi.
Chuyện này được báo cáo lại với Erie, khiến ông ta vô cùng hứng thú.
Đỗ Xuân Hiểu đã chửi bới một chập trước mặt Tần Á Triết, cô sở dĩ đánh liều đi tìm “Diêm vương” trút giận là vì hai nguyên nhân: một, lần đó vốn dĩ chuộc người, nào ngờ suýt chút nữa thì đem mạng mình ra tế, đương nhiên cần quy trách nhiệm cho tay chân của Tần Á Triết phản ứng lề mề; hai, từ tình hình đêm hôm đó có thể thấy, Tần Á Triết không hề đếm xỉa đến tính mạng bọn họ.
Vậy nên Đỗ Xuân Hiểu cho rằng không cần phải quanh co lòng vòng với kẻ vốn đã ôm lòng hiểm ác nữa, dù gì sớm muộn cũng khó tránh cái chết, không nhân cơ hội chửi bới vài câu chẳng phải thua thiệt quá sao? Vì thế cô oang oang chửi, ra sức chửi, câu nào câu nấy hùng hổ bặm trợn.
“Ông chủ Tần không đếm xỉa đến mạng sống của bọn tôi cũng được thôi, nhưng chẳng lẽ đến bà năm ông cũng không cần nữa? Trắng trợn lừa hai bọn tôi làm quân xung kích, đặt lên thớt gỗ để người ta băm thành nhân sủi cảo, ông cũng không thèm nhíu mày. Cái mạng cỏn con này của bọn tôi, bù cho một mình bà năm vẫn còn thiếu tám mươi thỏi vàng... à không, chắc trừ đi số gạch vụn dưới đáy hòm thì chỉ đến mười mấy thỏi thôi. Lần này thì lớn chuyện rồi đấy, ông chủ Tần chắc mất mặt lắm, nếu đồn ra ngoài...”
Đang nói thao thao, miệng Đỗ Xuân Hiểu đột nhiên vểnh lên như mỏ chim, nhọn đến tức cười. Thì ra Tần Á Triết phải thẳng tay bóp chặt hai má cô mới khiến cô im miệng triệt để.
“Cô Đỗ, đã biết mạng sống của các người nằm trong tay tôi thì đừng lắm lời nữa. Tôi vẫn chưa tính sổ với cô vì không cứu được bà năm về, cô còn bày đặt so đo với tôi?” Trong lúc Tần Á Triết nói, bàn tay cơ hồ cũng muốn bóp vụn cằm Đỗ Xuân Hiểu.
Cô đau đến nỗi giàn giụa nước mắt, lại không sao mở miệng được, đành trừng mắt nhìn đối phương, đến khi ông ta chịu buông tay mới thôi.
Lúc quay về, Hạ Băng vừa nhìn thấy dấu đỏ trên quai hàm cô, bèn nổi giận: “Sao lần nào cậu đi gặp cái lão họ Tần kia cũng mang thương tích về thế? Lão ta dựa vào cái gì mà ngược đãi cậu? Lần sau để tôi đi!”
“Không cần đâu, là tôi tự chuốc lấy thôi.” Cô bưng mặt, tay còn lại vô thức lần sờ điếu thuốc trong túi, móc mãi cũng chỉ thấy bao thuốc không, bèn vò lại, ném vào cái vại đặt ở trước sân.
“Cậu chuốc lấy cái này làm gì? Chẳng thà kiếm ít tiền cho thiết thực.”
“Vì nếu không đánh lạc hướng ông ta, tôi sợ ông ta sẽ truy hỏi vì sao chúng ta thoát được vụ đó, rồi...” Cô ngừng lại mấy giây, nói giọng rầu rầu, “e là ông ta sẽ mau chóng biết chuyện Tiểu Tứ.”
Dứt lời, cả hai đều nín lặng. Cô cầm bát đồ ăn thừa trên bàn, bốc luôn miếng thịt mặn ăn vã, còn anh đưa tay chống cằm, như muốn nhìn xuyên qua lớp không khí ngập mùi thức ăn nguội ngắt, trong đầu ra sức tìm kiếm một đáp án nào đó.
Từ sau lễ an táng Thượng Quan Giác Nhi, Thi Phùng Đức cũng giống Chu Phương Hoa, không bước chân ra khỏi nhà. Nghe vú nuôi trong nhà nói thì là bệnh liệt giường, không dậy nổi. Bác sĩ tới thăm khám hai lần, đều kết luận là vướng mắc tâm lý, cần từ từ tháo gỡ. Erie thấy chuyện này càng lúc càng kỳ quặc, bèn tới thăm hỏi một chuyến, người ra tiếp là Chu Phương Hoa, cô ta vẫn để mặt mộc, trong vẻ tiều tụy lại thấp thoáng nét kiên cường.
“Sức khỏe bố chồng cô thế nào rồi?”
“Đỡ chút rồi, vẫn đang uống thuốc.” Không hiểu vì cớ gì, chóp mũi cô ta cứ đỏ ửng, dù lửa trong lò sưởi vẫn đang cháy rực, cô ta vẫn quấn chặt tấm khăn choàng Hà Lan đan tay dày dặn trên vai, đốt ngón tay cũng trắng bệch.
“Tôi muốn nói chuyện với ông ấy, có được không?”
Cô ta cắn môi một lát, quay lại nói: “Tình trạng ông ấy hiện giờ cũng không đến nỗi không thể nói chuyện, có điều rất nhanh mệt, nói ngắn thôi thì được.”
Dứt lời, cô ta đứng dậy dẫn Erie lên căn phòng rộng nhất trên tầng hai. Erie trông thấy cầu thang được trải thảm lông cừu đắt tiền, mỗi bước chân đặt xuống, nửa chiếc giày của ông ta lại bị lún vào.
“Trải tấm thảm trái mùa kiểu này, là để che đi vết máu để lại sau vụ hung án ư?” Ông ta vê râu, quay sang hỏi Chu Phương Hoa.
“Phải.” Giọng đối đáp bình tĩnh của cô ta khiến Erie có phần bất ngờ, đành gượng gạo huýt sáo miệng.
Phòng Thi Phùng Đức hoàn toàn lệch tông với phong cách Âu hóa tổng thể của dinh thự nhà họ Thi, bên trong vẫn kê giường khung gỗ căng thừng cọ kiểu cũ, hễ động đậy liền kêu cót két. Kệ đầu giường và tủ quần áo tuy đóng từ gỗ tử đàn quý giá, nhưng vì phòng quá nhỏ, nên đồ đạc đều có vẻ to quá cỡ, chen chúc như thể sắp chật cứng tới nơi. Trên kệ đầu giường là một chiếc đèn bàn có chụp bằng pha lê nhân tạo bật sáng trưng nhưng vẫn thấy u ám, rèm cửa sổ bằng nhung dày, buông rủ xuống sàn. Ở góc đối diện bày một chiếc đồng hồ kiểu tủ đứng, kêu tích tắc muốn nhức óc. Erie vừa nhìn thấy chiếc đồng hồ bèn cười bảo: “Xem ra ngài Thi có thói quen giống tôi, thích bày đồng hồ lớn kiểu này, có kêu mấy cũng không thấy ồn.”
Thi Phùng Đức vén màn lên, quả nhiên gầy gò hốc hác, tia máu giăng đầy lòng trắng mắt, mái tóc muối tiêu do lâu ngày không cắt tỉa, rối bù rủ trước trán. Trông thấy Erie, vẻ mặt ông ta ngơ ngác, nụ cười cứng đờ, phản ứng chậm chạp như phần lớn mọi người khi trông thấy người lạ, nhưng lại có vẻ đang kháng cự ánh mắt quan sát của đối phương.
“Ngài Thi, có những chuyện không nên canh cánh quá.” Sau màn tự giới thiệu, Erie thực ra đã hơi có ý buông xuôi trước Thi Phùng Đức, trước mặt ông ta giờ không phải một kẻ nói dối ra sức giấu diếm bí mật khổng lồ, mà là một người đàn ông đã quá mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần do liên tiếp chịu đựng những đòn đả kích, ông ta quả thật không nỡ lòng nào hỏi han điều gì.
“Là Thường Vân, có tin tức rồi sao?” Thi Phùng Đức đột nhiên sáng bừng mắt, phải giao phó hy vọng vào người ngoài mới thương tâm làm sao? Nhất là ở cương vị một người cha, ông ta nhận được tin tức về cốt nhục của mình từ phía cảnh sát quả thực buồn vui lẫn lộn, một mặt sợ nghe tin con trai bị bắt, một mặt lại hy vọng được biết về tung tích con trai. Erie trước nay vẫn luôn độc thân, nhưng cũng thấu hiểu chân tình giữa người với người, vì vậy ông ta lắc đầu, nháy mắt với Thi Phùng Đức, cười đáp: “Không có tin gì chính là tin tốt nhất, ngài Thi chắc hiểu rõ điều này.”
Thi Phùng Đức quả nhiên nặn ra một nụ cười, dưới ánh đèn pha lê ngũ sắc, nụ cười ấy cũng hàm chứa đủ mọi biểu cảm, thậm chí còn có cả âm trầm cùng chua xót.
Lúc xuống tầng, Chu Phương Hoa đi sau Erie buồn rầu nói: “Ngài không định hỏi gì bố chồng tôi mà chỉ muốn thăm ông ấy thôi sao?”
Erie quay đầu lại, nở nụ cười xảo quyệt: “Phụ nữ Trung Quốc thông minh hơn phụ nữ Pháp ở điểm, khả năng nhìn nhận của các cô quá mức tỉ mỉ, đây là ưu điểm, và cũng là điều đáng thương của các cô.”
Dứt lời, Erie nhìn chằm chằm vào Chu Phương Hoa.
Sao cô ta bỗng dưng rạng ngời thế nhỉ? Mọi đường nét sắc sảo trước kia giờ đều mềm mại ôn hòa, toát lên một thần thái long lanh khác thường.
4.
Kỳ Vân ngâm mình trong nước, màng nhĩ lùng bùng mớ âm thanh chuyển động rất khẽ, cái gì đang chuyển động, đối với cô ta chẳng quan trọng, điều quan trọng là tư duy có thể tạm thời trôi nổi bồng bềnh. Sự “yên tĩnh” hiếm hoi này, khiến cô ta tự dưng nhớ đến tháng ngày ở Bách Lạc Môn trước đây, vì cô ta không làm sao học được điệu foxtrot, tiếng Thượng Hải cũng nói lắp ba lắp bắp, nên thường bị chị Yến phạt treo niêu, có lần còn kéo dài suốt nửa tháng. Vì thế, cô ta hiểu rõ cảm giác đói bụng hơn tất thảy các gái bao khác, nhưng dù vậy, cô ta vẫn ở đó tròn một năm.
Nguyên nhân ngọn nguồn, không phải Kỳ Vân không rõ, chỉ là không dám nghĩ đến tận cùng, nếu muốn đào sâu xuống cũng chỉ có thể đào ra ba chữ - Hình Chí Cương.
Không hiểu sao, cô ta lúc nào cũng canh cánh về người đàn ông này. Gã không phải kiểu đàn ông vạn người mê, quá lạnh lùng, quá ngạo mạn, cũng quá ngu ngốc. Có những người đàn ông, bề ngoài giống như lang sói, nhưng bản chất thực ra lại rất yếu đuối, thiếu chủ kiến, chỉ có thể ngấm ngầm tìm một chỗ dựa dẫm. Kỳ Vân trước kia luôn ảo tưởng mình có thể là chỗ dựa dẫm ấy, cho đến khi phát hiện Tần Á Triết hoàn toàn không hứng thú với cô ta mà lại nhắm trúng Bươm Bướm Nhỏ, lúc đấy cô ta mới triệt để tuyệt vọng. Thực tế, trước khi ra mắt Tần Á Triết, cô ta đã dày công chuẩn bị đằng đẵng hai tháng trời, ông ta thích phụ nữ mặc loại trang phục gì, trang điểm thế nào, sửa lông mày ra sao mới khiến ông ta vừa mắt, chuốc rượu gì thì ông ta say, ông ta rốt cuộc thích phụ nữ uống được rượu hay kiểu chỉ một chén là gục. Từng li từng tí đều tính toán đâu vào đấy, vốn ngỡ rằng có thể một đòn trúng đích, nào ngờ ông ta chẳng buồn đếm xỉa đến hình tượng hoàn hảo của cô ta, mà chỉ mải dõi mắt về phía Bươm Bướm Nhỏ bấy giờ đang đứng bên mép sàn nhảy lén lút cởi một bên giày cao gót cho đỡ đau chân. Về sau, cô ta cuối cùng đã hiểu ra một đạo lý, đó là đàn ông thích kiểu đàn bà nào, thực ra hoàn toàn không có quy luật cụ thể.
Khi rời khỏi Bách Lạc Môn, tình trạng Kỳ Vân khá thảm hại, đến một người chị em đưa tiễn cũng không có, trong phong thư Hình Chí Cương nhờ chị Yến đưa cho cô ta, chỉ có độc mấy tờ tiền giấy, biểu thị sức nặng của cô ta trong trái tim gã. Vì vậy về sau cô ta nghiến răng nghiến lợi, thề phải nổi trội hơn người, trèo được đến địa vị hiện nay trong giới điện ảnh cũng là vì uất ức, ảo tưởng Hình Chí Cương trông thấy cô ta xinh đẹp quyến rũ, rực rỡ chói lọi trên màn ảnh, sẽ nảy sinh thứ cảm xúc phức tạp nào đó.
Phụ nữ phần lớn đều phải dựa vào những điều này để tự an ủi bản thân, mới có thể sống thanh thản được.
Nước trong bồn tắm đã bắt đầu nguội, cô ta trồi lên mặt nước hít vào một hơi, rồi mở vòi xả thêm nước nóng vào, cơ thể tức thì ấm lại, các khớp xương dãn ra, mọi mệt mỏi tức thì tiêu tan. Nhưng sợi dây căng cứng từ trong sâu thẳm nọ thì vẫn đang rên xiết, nhắc nhở cô ta còn màn khói mù nào đó đang kè kè như hình với bóng, cần phải tìm một “mảnh khăn” lau sạch chúng đi, giống như Hình Chí Cương vì sinh cơ, có thể xóa sổ người tình khăng khít nhất khỏi cõi đời này.
Cô ta nhớ đến Thượng Quan Giác Nhi, một người đàn bà đáng thương, nhưng lúc sinh tiền cũng đầy thủ đoạn. Kỳ Vân mỗi lần nghĩ đến chuyện bọn họ từng trải qua, đều hận không thể cắt phăng những vết nhơ đó khỏi cơ thể mình.
Đường Huy...
Cô ta cảm thấy tay phóng viên này có đường nét khuôn mặt rất giống Hình Chí Cương, chỉ là cương nghị hơn, sáng sủa hơn một chút, giống như rắc bột vàng lên, nhưng cô ta vẫn mê mệt vẻ yếu ớt và ấu trĩ của Hình Chí Cương hơn. Có người từng nói với cô ta: “Đàn ông bề ngoài càng mạnh mẽ, khi làm việc lại thường phạm phải những sai lầm ngu ngốc, phải biết nâng niu, bởi bọn họ có tính dựa dẫm rất cao.”
Chỉ đáng tiếc, Hình Chí Cương chưa từng dựa dẫm vào cô ta. Cho đến cách đây một tuần, vú nuôi của cô ta nửa đêm ra vườn sau cắt lá anh túc nhai chữa đau dạ dày, bắt gặp gã co ro dưới chân tường, mặt mày hoảng hốt.
“Chỉ có em mới cứu được anh thôi.”
Cô ta có thể nhìn ra trong ánh mắt cầu khẩn của gã ẩn giấu vẻ hả hê chẳng lấy gì làm thông minh, lòng thầm thấy buồn bực: thì ra gã vẫn luôn biết tỏng tâm tư cô ta! Cũng bởi vậy, hành động cứu giúp của cô ta còn mang ít nhiều tâm lý báo thù.
Đứng dậy khỏi bồn tắm, cơ thể bỗng lạnh toát, cô ta vội vớ lấy tấm khăn bông mềm màu nâu che trước ngực. Chốt cửa dường như rung lên mấy cái, cô ta tức tốc kéo rèm tắm lại, một tay xọc xuống bên dưới chiếc áo choàng tắm, giữ nguyên tư thế đứng thả lỏng, tựa hồ không hề phòng bị, nhưng thực ra đã chuẩn bị đâu vào đấy cả rồi.
“Em sợ à?” Hình Chí Cương đóng cửa lại, nếp nhăn trên trán có vẻ rất ngây thơ.
Cô ta đành ôm lấy chiếc áo choàng tắm, cùng cả khẩu súng lục bọc trong đó, thản nhiên quay đi mặc áo vào, đồng thời thả khẩu súng vào túi áo, làm bên túi đó trĩu xuống hơi không cân xứng.
“Bao giờ thì có thể rời khỏi Thượng Hải?”
Gã hỏi rất không đúng lúc, khiến cô ta càng cho rằng những gì mình làm thật uổng công, nhưng vẫn cố kìm nén, cấm cảu đáp: “Có hai đường, một là đi đường thủy đến Phúc Kiến hoặc Quảng Châu, hai là ngồi tàu hỏa đi Bắc Kinh, anh tự chọn đi. Có điều người của Hồng Bang đang tìm anh ở khắp nơi, e rằng có muốn đi cũng phải đợi khi gió lặng cái đã.”
“Lão họ Tần kia còn chưa tìm được thứ lão muốn, thì gió vĩnh viễn chẳng bao giờ lặng nổi.” Giọng điệu gã có chút âu lo, nhưng trong tình cảnh tuyệt vọng này vẫn để lộ vẻ gợi cảm.
Cô ta đành cười khổ: “Vậy anh còn có thể thế nào? Bước ra khỏi cửa nhà này e là cũng gần cửa tử lắm đấy.”
Gã nhìn cô ta, im lặng hồi lâu rồi bỗng nhiên thốt ra những lời khiến cô ta sững sờ: “Nhưng không ra khỏi cửa nhà này, e là anh sớm muộn gì cũng chết.”
Câu nói ấy giống như điểm trúng yếu huyệt của Kỳ Vân, cô ta bất giác đút tay vào túi áo, nắm chặt khẩu súng trong đó.
Gã bước tới trước mặt cô ta. Ở khoảng cách gần gũi này, cô ta có thể nhìn rõ râu mọc tua tủa như cỏ dại trên cằm gã, hơi rượu cũng nhè nhẹ xộc vào khoang mũi, quyện cùng hương thơm nồng nàn của xà phòng đàn hương còn vương trên da thịt cô ta.
Cô ta bất ngờ hôn lên môi gã, giống như tìm kiếm, lại giống như kháng cự. Gã thuận tay lột phăng lớp áo choàng của cô ta, bóp một bên nụ hoa.
Cô ta nghe tiếng khẩu súng của mình rơi xuống nền nhà lát gạch men...
Ngải Mi giặt xong chiếc áo sơ mi cuối cùng trong tủ quần áo của Stephen đã mệt bở hơi tai, bụng cô ta ê ẩm, trong dạ dày giống như có con sâu róm đang ngọ nguậy. Khi Stephen xuất hiện trở lại trước mặt cô ta, bộ dạng có vẻ rất nhẹ nhõm, như thể chưa từng mắc lỗi. Cô ta ngỡ ngàng, nhưng vẫn phơi từng chiếc áo sơ mi ra nắng với vẻ mặt đờ đẫn.
“Nghe nói em đến chỗ khác tìm anh?” Khi tức giận Stephen vẫn giữ nguyên lối nói chuyện nhã nhặn, đây là điểm đáng sợ nhất ở ông ta.
Ngón tay cô ta phù lên như củ cà rốt, từ lâu mẹ đã bắt cô ta nghỉ làm, trên thực tế cô ta cũng đã nghỉ, nhưng vẫn ngày ngày vờ đi làm để đến chỗ ông ta làm mấy việc vặt không cần thiết.
“Em không biết anh đi đâu, nên mới tìm khắp nơi.”
“Sao em tìm được tới chỗ đó?” Giọng ông ta nghe dịu dàng tình cảm, song cô ta lại thấy rợn sống lưng, nên giả vờ không nghe thấy.
“Có phải nhìn thấy địa chỉ trên vỏ bao diêm kia không?”
Cô ta buộc phải gật đầu.
“Em gặp cô ấy rồi?” Giọng ông ta càng lúc càng mềm mỏng, hoàn toàn không giống đang chất vấn.
“Gặp rồi, nhưng... chắc là do em nghĩ nhiều quá thôi.” Cô ta miễn cưỡng nặn ra một nụ cười, bê chậu đồ giặt lên, vừa quay người lại đã cảm nhận được hơi ấm cơ thể ông ta, lồng ngực nóng hổi, mang theo mùi hương thoang thoảng của nước cạo râu.
Ông ta thơm nhẹ lên má cô ta, rồi mới buông tay ra. Cô ta không khỏi lấy làm ủ rũ, vì đây là hành động thân mật nhất của hai người dạo gần đây, từ sau khi cô ta bám theo Stephen tới câu lạc bộ nọ và bắt gặp Jenny, đã rất lâu rồi ông ta không hề vượt qua giới hạn với cô ta.
“Ồ?” Ông ta hơi nhướng một bên lông mày, cười bảo, “Sao đã nhận ra là mình đa nghi nhanh thế? Phụ nữ khi yêu đều rất mù quáng cơ mà.”
“Có mù quáng đến mấy thì có những chuyện cũng không thể không để ý đến.” Ngải Mi trả lời ông ta bằng tiếng Anh.
“Vậy thì...” Ông ta xoay vai cô ta lại, để vòng tay mình ôm lấy cô ta từ phía sau, thì thầm vào tai cô ta, “Em phải giúp anh để ý thêm vài chuyện.”
“Ví dụ như?”
“Ví dụ như lão người Pháp kia.”
Cô ta bỗng nhớ đến khuôn mặt béo núc ních khôi hài của Erie, cơ thể đang căng cứng tức thì thả lỏng đôi chút: “Lão già đó chẳng có gì khó đối phó, nếu lão ta có cách rờ tới em, vậy thì binh đến tướng ngăn, nước đến đất chặn thôi.”
Stephen bật cười, khiến người ta có cảm giác như được tắm trong gió xuân, ông ta có thể cười cợt sự ngây thơ của Ngải Mi, nhưng cũng lại thích chính sự ngây thơ ấy. Đàn bà ngây ngô vô tri, thường sẽ trở nên dũng cảm, thứ ông ta cần chính là một người đàn bà dũng cảm lại không quá thông minh, có thể hiến dâng cho ông ta tất cả.
Khi Erie tìm gặp Ngải Mi, cô ta đang ngồi thần người trong nhà hàng Lựu Đỏ, ông ra sức làm cho lần điều tra này giống như một cuộc gặp ngẫu nhiên. Thú vị ở chỗ, cô gái này dương như không hề phát giác ra việc mình đang bị nhìn chằm chằm, vẫn ngồi đó uống một tách trà đen, cô ta gọi một chiếc bánh tart việt quất và một cốc sữa, một đĩa khoai tây chiên thái mỏng, rõ ràng ăn rất ngon miệng, gọi một lượt không ít món. Dù được giấu dưới lớp quần yếm nhung tằm rộng rãi, nhưng cái bụng lùm lùm cùng bầu ngực căng tròn vẫn vô cùng hút mắt.
“Cô gái, có lẽ cô không biết tôi, nhưng...”
“Tôi biết ông.” Nụ cười của Ngải Mi ngọt lịm như ô mai, “Trước kia ông thường đến đây ăn trưa, thích dùng thịt lưng bò cùng rượu Geneva.”
Erie vân vê hàng ria với vẻ hơi bối rối: “Phải, tiếc là giờ nhà hàng đã đổi chủ, hương vị cũng thay đổi, nên tôi...” Ông trưng ra vẻ mặt đau khổ.
“Ông vẫn đang điều tra vụ án cô nàng ngoại quốc kia ư?”
“Phải, nghe cô Đỗ nói, trước kia cô từng gặp Jenny?” Erie lập tức đi thẳng vào vấn đề.
Cô ta cúi đầu im lặng, tỏ ý thừa nhận.
“Vậy cô đã từng gặp người này chưa?” Erie đưa một tấm ảnh tới trước mặt cô ra. Người phụ nữ trong ảnh mày ngài mắt phượng, nhìn từ nét mặt có vẻ chất phác, tuy xinh xắn, nhưng cũng chỉ dừng ở xinh, có điều chấm nốt ruồi giọt lệ dưới đuôi mắt kia khiến cô ta rúng động. Cô ta tất nhiên đã từng gặp người này, đêm khuya, tại một gian trong khu nhà trọ tập thể màu xám xanh, cô nàng hơi tựa vào đầu giường, cổ áo ngủ trắng thêu viền hoa nâng đỡ một khuôn mặt tĩnh lặng khoan thai, tươi tắn rạng rỡ hơn người trong ảnh nhiều.
“Gặp rồi.” Cô ta gật đầu thừa nhận, trực giác mách bảo nếu khăng khăng phủ nhận, nhất định sẽ bị đối phương nhìn thấy, chẳng thà biết điều một chút.
“Gặp ở đâu?” Erie quả nhiên mắc câu, để lộ ánh mắt hau háu.
“Gặp ở đây, cô ấy tới dùng bữa một lần, do tôi phục vụ.”
“Đến dùng bữa một lần mà cô cũng nhớ được rõ vậy?”
“Vì tôi còn từng trông thấy trên tạp chí nữa, á khôi một của cuộc thi Hoa khôi Thượng Hải còn gì. Gặp người thật ngoài đời thấy hơi giống, nhưng tôi lại không dám khẳng định, nên còn cá cược với mấy nhân viên phục vụ khác, từ trước kia tôi đã biết cô ấy rồi.” Giọng điệu cô ta trước sau vẫn rất ngây thơ.
“Cô ấy đến đây khi nào? Đến một mình sao?” Erie mừng húm như túm được một tia hy vọng.
Ngải Mi tiếp tục đóng kịch, ngoẹo đầu chu môi nghĩ ngợi hồi lâu mới lẩm bẩm: “Độ hai tháng trước, hình như tới cùng một người đàn ông, người đàn ông đó dáng vẻ thế nào tôi không nhìn kỹ, chỉ nhớ mặc vest màu xanh sẫm, đeo kính thì phải, trông rất oách, chắc cũng là người có tiền.”
Erie nhanh tay đặt tờ tiền lên mặt bàn, bật ngón tay ra hiệu cho phục vụ, rồi đứng dậy cười nói: “Cô Ngải, rất vui được nói chuyện với cô, tôi có việc đi trước.”
“Ông đã đi vội thế ư? Còn chưa nếm thử miếng bánh tart này nữa, đây là món duy nhất còn có thể ăn được ở đây hiện giờ đấy.”
“Tôi có nên tin tưởng vào lời giới thiệu của một cô gái xinh đẹp như cô không nhỉ?” Erie bĩu môi, cười nói, “Cô bịa chuyện giống thật quá, có điều vẫn cần luyện tập thêm. Nên biết rằng, một khi đã không nhớ ngoại hình của một người, thì cũng nhất định không thể nhớ ra quần áo người đó mặc có màu gì, hay người đó có đeo kính không, huống hồ còn là thứ trang phục hết sức phổ thông như thế.”
Dứt lời, Erie bèn di chuyển cặp mông núc ních rời khỏi nhà hàng, để lại Ngải Mi nghẹn họng nhìn theo trân trối.
5.
Đỗ Xuân Hiểu trải bộ ẩn chính lên bàn, sau đó ngồi thần người nhìn dán vào mấy lá bài, điếu thuốc sắp cháy đến đốt ngón tay vẫn không hay biết.
Lá kẻ địch: Hoàng hậu.
Lá quý nhân: Người treo.
Lá chướng ngại: Sức mạnh.
Đều là những gợi ý không đầu không cuối, huống hồ cô trước nay vốn không thực sự dựa vào bài để suy đoán tình thế, chỉ có bị ép đến đường cùng mới mang mấy lá bài ra trút giận. Lúc này, cô đang coi lá Hoàng hậu kia là Tần Á Triết, nghiêm túc mà nói, ông ta chính là tiền tài của cô, nhưng đồng thời cũng là kẻ địch lớn nhất. Không những ông ta xem thường mạng sống của cô và Hạ Băng, mà rất có khả năng sau khi tìm được Tất Tiểu Thanh rồi, ông ta sẽ tính đến chuyện xử lý một vài rắc rối không cần thiết, “rắc rối” này là gì, cô không biết, nhưng mơ hồ cảm thấy hẳn là có liên quan đến mình. Lá chướng ngại không ai khác chính là Hình Chí Cương, hiện vẫn chưa tìm ra chỗ gã đang ẩn náu, nhưng Tần Á Triết đã giăng thiên la địa võng, muốn thoát khỏi Thượng Hải gần như là điều không thể, nếu vẫn còn ở đây thì gã có thể đi đâu? Cô chợt nhớ tới gã người Quảng Đông hiện đang bị treo ngược trong kho chứa củi ở sân sau nhà Tần Á Triết, xương cốt cũng cứng ra trò, mười ngón tay đã bị cắt mất ba mà vẫn không ho he tiếng nào. Hạ Băng hôm đó sau khi tận mắt chứng kiến cảnh tượng kẻ này chịu cực hình, về nhà ba ngày liền không ăn nổi một miếng thịt.
Rốt cuộc là thế lực nào đang chống lưng cho Hình Chí Cương? Gã có thể chạy tới đâu?
Cô càng nghĩ càng thấy lòng nguội ngắt bởi đã hoàn toàn mất phương hướng. Gay go hơn nữa là, thời hạn Tần Á Triết cho cô để tìm ra Hình Chí Cương chỉ có ba ngày, sau ba ngày, hậu quả cô và Hạ Băng phải gánh chịu đã rõ như ban ngày. Phàm những nhân vật có quyền có thế, một khi bị chọc vào đều sẽ trút giận lên sinh linh vô tội, đây là quy luật thường thấy.
“Xuân Hiểu, chúng ta bỏ trốn đi? Đi Bắc Kinh, hoặc Nam Kinh, hoặc xa hơn nữa, tới Hồng Kông.” Hạ Băng tùy tiện nêu ý kiến, giống như chỉ đang chọn địa điểm đi dã ngoại.
Cô hiểu rõ nỗi lo lắng của anh, nên ngoài mặt vẫn dửng dưng, tỏ thái độ xem anh như trẻ con: “Cậu nói xem, Hình Chí Cương sẽ trốn ở đâu? Gã ta ngoài chị Yến ra, đâu còn tri kỷ nào khác. Húc Tử cũng bị nhốt lại rồi, một mình vừa muốn bắt cóc Tất Tiểu Thanh, vừa muốn đòi tiền chuộc, chẳng phải quá khó cho gã sao?”
“Chắc chắn còn có người bí mật phối hợp với gã, nhưng là ai được nhỉ? Cậu đã bao giờ nghĩ, thực ra Hình Chí Cương, Gavin, Stephen, Jenny, có thể còn cả Thượng Quan Giác Nhi và cha con họ Thi nữa, đều vì dính dáng đến cùng một chuyện nên mới rơi vào bước đường này không? Tôi chỉ không sao hiểu được, Hình Chí Cương rốt cuộc...” Cô cầm lá bài Người treo, gảy qua gảy lại dưới cằm, “Nếu đổi cậu là Hình Chí Cương, cậu sẽ trốn ở đâu?”
Hạ Băng cười ngây ngô, đáp: “E là tôi chẳng trốn nổi ở đâu cả, một là tôi không tiền không thế, không thể mua chuộc bất cứ ai; hai là cũng không phải mỹ nam, đi đâu cũng chẳng ma nào chịu chứa chấp...”
Hai từ “mỹ nam” vừa thốt ra miệng anh, Đỗ Xuân Hiểu đã nhảy dựng khỏi xô pha, hai mắt sáng trưng, reo lên lanh lảnh: “Đúng rồi! Với khuôn mặt như của Hình Chí Cương, tuy không trẻ trung bằng Đường Huy, nhưng cũng có thể làm cho đàn bà con gái chết mê chết mệt, hơn nữa trong hộp đêm của gã còn có bao nhiêu là đàn bà như thế!”
Kết quả, hai người lập tức tới Bách Lạc Môn, song chỉ thấy nơi đó đóng cửa im ỉm, Đường Huy đang đứng bên ngoài chụp lại quang cảnh này.
“Thế là đóng luôn hả?” Đỗ Xuân Hiểu bước tới hỏi Đường Huy.
“Làm gì có chuyện. Chẳng qua đang đợi người khác tới tiếp quản thôi.” Đường Huy không hiểu sao có vẻ xanh xao, nhưng ánh mắt lại rất sáng.
“Ai tiếp quản? Ông chủ Tần?”
“Có thể.” Anh ta không khẳng định, chỉ băn khoăn đứng nhìn ba chữ “Bách Lạc Môn” uốn bằng thanh sắt và dây điện giờ đã tối mù.
“Thế nên ông ta lại càng phải tìm cho ra Hình Chí Cương, nếu không làm sao giải quyết việc chuyển nhượng.” Đỗ Xuân Hiểu ngây thơ tiếp lời anh ta, đoạn cười hỏi, “Chắc anh biết mấy cô vũ nữ ở đây đã đi đâu rồi chứ?”
“Làm sao tôi biết được?” Đường Huy bất đắc dĩ nhún vai. So với một tháng trước, anh ta rõ ràng đã gày sọp, xương gò má ngày càng nhô lên, nhưng khuôn mặt cũng lại đẹp lên rõ rệt.
“Cá nhân thì chắc là biết chứ? Ví dụ như Mễ Lộ Lộ?”
Đường Huy lắc đầu ngay, không mảy may nghĩ ngợi.
“Chu Viên Viên thì sao?”
Đường Huy vẫn lắc đầu.
“Anh biết Chu Viên Viên là ai à?”
“Không biết.” Anh ta sốt ruột nhíu mày, “Tôi còn phải chạy đằng này lấy tin, đi trước đây.”
Đường Huy vừa rời đi, Đỗ Xuân Hiểu liền cười bảo Hạ Băng: “Anh ta hôm nay lạ nhỉ, chẳng thấy hỏi xem vì sao chúng ta lại muốn nghe ngóng tung tích mấy cô vũ nữ kia? Còn nữa... tôi nhớ chuyên môn của anh ta là săn tin giới diễn tiên, sao lại tới đây?”
Hạ Băng đẩy gọng kính, đáp: “Nhưng cũng chẳng sao, chúng ta còn có Tiểu Tứ.”
Đúng như dự đoán, chiều hôm sau, Tiểu Tứ xuất hiện, chỉ nói đúng một câu “Chu Viên Viên đang làm việc ở hộp đêm Kim Đế Hào Môn” rồi định đi luôn.
“Sao không ngồi xuống nói chuyện cái đã?” Đối diện với ân nhân cứu mạng, Đỗ Xuân Hiểu đặc biệt khách khí.
“Thôi khỏi.” Tiểu Tứ có vẻ nghiêm túc lạ thường, như thể đang phải gánh áp lực nặng nề, “Với cả cô Đỗ này, từ nay về sau, tôi cũng không thể làm việc cho các vị được nữa đâu.”
“Sao thế?”
“Tôi có việc quan trọng cần giải quyết.”
Cô muốn hỏi là chuyện gì nhưng cố nhịn, bởi biết gã chắc chắn sẽ không nói, đành bảo: “Vậy thời gian vừa rồi vất vả cho anh quá.” Nói đoạn định rút ra mấy tờ tiền trong ví thì bị gã chặn lại, kêu “Không cần đâu”, rồi quay người đi thẳng.
Không hiểu sao, Đỗ Xuân Hiểu chợt có cảm giác Tiểu Tứ đi lần này, nhất định sẽ không còn gặp lại họ nữa, lòng càng thêm phần ảo não. Người có cá tính quá trầm lắng, thường vì nỗi lòng quá đỗi thầm kín mà khiến bản thân rơi vào ngõ cụt của số mệnh.
Kim Đế Hào Môn thực chất quy mô còn nhỏ hơn Bách Lạc Môn, mở ở khu vực sầm uất thuộc tô giới Pháp, khách khứa đa phần là thương nhân buôn vũ khí đạn dược, hoặc những băng nhóm lừa đảo muốn thừa nước đục thả câu. Vì vậy khi Chu Viên Viên xoay sang bàn Hạ Băng, vừa trông thấy anh là một chàng trai trẻ nghèo kiết hủ lậu, bèn trọ trẹ xẵng giọng: “Anh giai ơi, anh... anh tới đây vui vẻ... ghẹo gái thì được, nhưng đừng có làm ba cái chuyện tầm bậy, biết chưa hả?”
“Viên Viên, lâu rồi không gặp, ăn nói cũng có gang có thép hơn nhiều đấy nhỉ.” Sớm đã nghe Đỗ Xuân Hiểu kể về bản tính khờ khạo thẳng ruột ngựa của cô ta, nên Hạ Băng cũng không buồn so đo, trái lại còn nảy sinh thiện cảm, “Đỗ Xuân Hiểu nói lâu rồi không gặp cô, rất nhớ cô, rủ cô hôm nào tới chỗ cô ấy chơi một chuyến?”
Chu Viên Viên nghe thấy cái tên “Đỗ Xuân Hiểu” lập tức mặt mày rạng rỡ hẳn, trở lại vẻ ngây thơ vốn có, cười nói: “Anh... anh là bạn... bạn của Xuân Hiểu hả? À, không phải, là... là chồng cô ấy, đúng không?”
Hạ Băng thấy ở cô ta thấp thoáng ít nhiều vẻ ngây thơ của Đỗ Xuân Hiểu thuở còn thiếu nữ, nên không khỏi có chút mê mẩn, đáp: “Phải, hôm nào cô tới chơi nhé.”
“Được thôi!” Cô ta vui vẻ đồng ý.
“Cô chắc biết ông chủ cũ của các cô hiện đi đằng nào chứ?”
“Không... không biết.” Chu Viên Viên tức thì lắc đầu quầy quậy, “Lần trước... có... có mấy người ăn mặc cứ như dân lưu manh cũng tới hỏi tôi, tôi không biết... không biết... thì vẫn không biết thôi.”
“Vậy cô có nghe các chị em từng ở Bách Lạc Môn nhắc nhỏm gì đến ông chủ Hình không?”
Chu Viên Viên nghiêng đầu, ngẫm nghĩ rồi nói: “Quả thật là tôi không... không biết đâu, anh... anh ấy cứ vậy biến mất thôi, về sau có toán người... người lật tung cả Bách Lạc Môn lên, nghe nói Húc Tử cũng bị bắt đi rồi. Với cả tôi... tôi ở bên đó, thực ra không chơi với ai cả.”
Nói xong, bờ mi dài chớp lên chớp xuống như cánh bướm của cô ta cơ hồ muốn phủ rợp mi mắt dưới, dung mạo xinh đẹp quả nhiên có lợi, ngay cả khi cô đơn đến thảm hại trông vẫn xinh đẹp.
“Vậy trong mấy... mấy đồng nghiệp của cô trước đây, nhất định là có ai đó được ông chủ Hình đặc biệt yêu thích chứ?”
“Chắc không... không có ai được anh ấy thích đâu, trong mắt anh ấy chỉ có chị... chị Yến, chúng tôi đều biết vậy. Người thích anh ấy thì... thì đầy, nhưng chỉ là đơn phương vậy thôi, anh ấy cũng tiếp nhận cả, đàn ông bình thường có ai mà từ chối mỡ dâng miệng mèo.” Không thể ngờ một Chu Viên Viên đầu óc đơn giản lại có thể thốt ra những lời lõi đời như vậy.
“Vậy có những ai thích ông chủ Hình, chắc cô nhớ chứ?”
Sau vài vòng đảo mắt, cô ta bắt đầu gập ngón tay đếm: “Có Tiết Tố Phương, nhưng về sau chị ta cưới được một lái buôn gạo, bỏ nghề lâu rồi; với Hồng Nguyệt năm kia nhảy sông tự vẫn, do nghiện ma túy nặng quá, không xoay nổi tiền, bị đám đòi nợ bức chết; với cả một người nữa... à, người này không nói được...”
“Sao mà không nói được? Cô nói đi mà.” Hạ Băng túm ngay lấy điểm mấu chốt trong lời nói của cô ta.
“Thực... thực ra là không tiện nói, nhưng mà có... có nói ra cũng không ai tin.”
“Vậy thì nói đi, dù gì cũng không sợ có người tin.”
“Tôi cũng chỉ nghe nói thôi, vì lúc tôi vào làm thì chị ta đã đi rồi. Về sau nghe bọn Lộ Lộ tán chuyện với nhau lúc uống rượu, người này chẳng tài cán gì, nhưng tâm cơ thì lớn lắm, định tranh giành ông chủ Tần với Bươm Bướm Nhỏ, đương nhiên là không lại. Nhưng Lộ Lộ cũng nói, thực ra chị ta thua là bởi trong lòng chỉ có ông chủ Hình, nên diễn không đạt. Có điều cũng hay lắm, về sau chị ta không làm nữa, mà bỏ đi đóng phim, anh nói có buồn cười không?”
“Ồ? Người này là ai thế?”
“Minh tinh nổi tiếng hiện giờ, Kỳ... Kỳ Vân.”
6.
Húc Tử đã suýt chết hai lần, vì vậy gã chẳng còn xa lạ gì với cái chết, cũng như thấm thía đạo lý chết còn dễ chịu hơn là đau đớn, thế nên hiện giờ điều gã sợ hãi nhất không phải mất mạng, mà là thể xác bị giày vò gấp bội. Các ngón tay đã bị chặt như vẫn còn nguyên đó, gã thường xuyên ngỡ rằng chúng vẫn có thể cử động theo ý mình, chỉ là có chút chậm chạp. Chỉ khi xác nhận bằng mắt, nhìn rõ vết thương được băng bó qua quýt trên bàn tay, gã mới thấy bất lực tột độ.
Gốc ngón tay bị chặt vẫn đang chảy máu, gã có thể cảm nhận được từng giọt sinh mệnh tí tách chảy đi, điều này khiến gã ít nhiều thấy mừng, bởi cuối cùng gã cũng được giải thoát, vĩnh biệt tình cảnh đói rách lang bạt. Trước vô vàn cửa ải nghìn cân treo sợi tóc, ngoài khao khát cầu sống, sâu trong đáy lòng gã lúc nào cũng xuất hiện ý nghĩ “hay là buông xuôi ở đây”, tiếp đó gã bắt đầu nghi ngờ về ý nghĩa sinh tồn của bản thân, rốt cuộc cuộc đời nát vụn này có còn đáng để sống qua ngày không? Bàn tay lạnh ngắt của ông giáo tựa hồ vẫn luôn áp lên vầng trán ướt đẫm của gã, giúp cơ thể nóng hầm hập vì sốt cao của gã tạm thời bình lặng lại.
Nhưng quyết tâm cầu chết của Húc Tử dường như chẳng hề dao động chút nào. Gã không hồi tưởng lại nửa quãng đời trước, bởi đó đều là những chuyện dĩ vãng chẳng đáng nhớ lại, dù cho có chút gì đó gọi là “tốt đẹp” thì ngoài quãng dịu dàng ngắn ngủi của ông giáo ra, e chỉ còn lòng trung thành đối với Hình Chí Cương. Trong lòng “trung thành” này chứa đựng quá nhiều thứ tình cảm tế nhị, vì vậy gã có phần e sợ Hình Chí Cương, đôi lúc châm lửa cho nhau, kề sát lại gần, gã có thể nhìn rõ vệt râu lún phún trên môi, cùng cái xoáy trắng nhợt trên đỉnh đầu anh ta. Nghĩ đến đây, gã thấy tim mình thắt lại, thở không ra hơi. Vốn dĩ định ung dung chịu chết, nhưng gương mặt Hình Chí Cương vừa hiện lên, bao dũng khí bèn tan thành tro bụi.
Gã muốn biết Hình Chí Cương đang ở đâu, nhưng cũng dự đoán được tình trạng an toàn của ông chủ mình, nếu Tần Á Triết đã tìm ra Hình Chí Cương thì đâu cần tốn thời gian tra khảo gã thế này. Lão đã chặt mất của gã ba ngón tay, tiếp theo, e sẽ đến “ba nhát xiên đùi”, thế nên bắt đầu từ tối qua, gã đã nhẩm tính chờ thời khắc đó.
Kết quả lại là đợi được Tần Á Triết.
Húc Tử tuy bị Tần Á Triết hành hạ đến độ một mực mong được chết, nhưng thực chất gã không hề căm ghét con người này, trái lại còn có phần ngưỡng mộ lão. Cùng đi lên từ đám lưu manh đường phố, có những người sớm chết sớm siêu sinh, có những người giống như gã đến nay vẫn làm chân lon ton chạy việc, lại có những người chính là chỗ bám víu duy nhất để bọn gã kiên cường sống đến giờ này. Nếu như không có sự tồn tại của “bọn Tần Á Triết”, Húc Tử thật sự không biết những tháng ngày nơi đầu sóng ngọn gió còn ngọt bùi gì mà nếm trải, Tần Á Triết chính là cảnh giới bọn gã mong đạt tới, là ước mơ của bọn gã.
Song ước mơ, thực ra là một “vết thương chí mạng”.
Người chăm sóc vết thương cho Húc Tử là một lão già xương xẩu, lưng rất còng, mặt chi chít vệt đồi mồi, nhưng đôi mắt sau cặp kính lại sáng lấp lánh, cử chỉ động tác cũng vô cùng linh hoạt, mang một thứ động lực đi ngược với tuổi tác. Nhờ vậy Húc Tử chỉ cảm giác vết thương hơi nhói đau, hoàn toàn nằm trong giới hạn chịu đựng. Đến khi các ngón tay cụt được xử lý xong xuôi, bản thân bị đẩy tới trước bàn ăn, cơ thể gã đã hết sức nhẹ nhõm.
Trên bàn bày một âu lớn cháo kê, một lồng bánh bao hấp, một đĩa dưa muối, cùng món đậu phụ hầm thịt băm. Gã không hề thấy đói, nhưng vẫn máy móc ngồi xuống. Hai tay trái phải đều đã mất đi ngón trỏ, đành dùng ngón cái và ngón giữa kẹp lấy một cái thìa bạc. Múc một thìa cháo, ngậm trong miệng thấy ấm nóng, còn chưa nuốt xuống nước mắt đã trào ra. Gã không biết vì sao mình lại khóc, chỉ là mắt mũi cay sè, không sao kiểu soát nổi.
“Sao lại tha cho tôi?”
“Cậu biết Hoa Lộng Ảnh không?” Tần Á Triết đặt một chiếc nhẫn khảm sứ lên bàn, trên lớp sứ ố vàng là một khuôn mặt tuấn tú của ông giáo, “Nghe nói, cha cô ấy từng có lần cứu mạng cậu?”
Hoa Lộng Ảnh? Cái tên sớm phủ bụi trong lòng gã, chẳng khác nào một món quần áo cũ không biết đã nhét xó nào, từ lâu đã không còn nhớ để mà mặc, lại càng chẳng nhớ đem vứt đi.
Thế nên gã ngơ ngác lắc đầu, rồi lại đổi sang gật đầu. Bởi lờ mờ nhớ ra cô ta là một gái điếm tiếng tăm lẫy lừng, gã từng mấy lần vì cái nhẫn mặt sứ này mà thu tiền giúp cô ta, về sau có một ngày, cô gái điếm đưa ra đề nghị rủ gã cùng cao chạy xa bay. Gã biết ngày hôm sau cô ta sẽ được chuộc thân, gả cho một ông chủ lớn ở đất Thượng Hải, nên chỉ coi đây như chuyện đùa, đáp lại một câu: “Được, sáu giờ sáng mai, tôi đợi cô ở bến cảng.” Ngày hôm sau gã quả có tới bến cảng, nhưng không phải sáu giờ, mà là ba giờ sáng, thương tích đầy mình, lên được trên tàu đã mất toi nửa cái mạng.
“Đó là bà tư nhà ta, giờ đang ở Hàng Châu an dưỡng.” Tần Á Triết nhẹ nhàng nhấp một ngụm trà.
Húc Tử cố hết sức nén nỗi kinh ngạc trong lòng: Sao lão biết được chuyện cũ ấy?
“Cậu vừa mở miệng, liền khiến ta nhớ tới cô ấy, khẩu âm rất giống nhau, có điều giọng Thượng Hải của cậu dễ nghe hơn một chút.” Cách lão mỉm cười cũng làm người ta rùng mình, “Bởi vậy ta có ấn tượng không đến nỗi nào về người Quảng Đông các cậu, huống hồ...”
Mỗi lần lão cố ý ngừng lời đều khiến gã căng thẳng.
“Huống hồ, cậu quả thực không biết gì về tung tích Hình Chí Cương.”
“Đây là điều ba ngón tay của tôi cho ông biết ư?” Húc Tử cười não nề, lại húp một ngụm cháo, động tác đã thuần thục hơn trước nhiều, vết sẹo trên mặt cũng nhạt bớt.
“Không, từ lúc bắt cậu ta đã biết rồi.”
Gã rất muốn hỏi vì sao, nhưng lại kiềm chế không mở miệng.
“Sau khi Hình Chí Cương giết chị Yến, hẳn đã tính toán chu đáo đường tháo thân, cậu cũng không thể bất cẩn đến độ còn ở lại vũ trường khoanh tay chờ chết. Chỉ có hai khả năng khiến cậu bị ta tóm được dễ dàng như vậy, một là cậu vốn không hề biết nội tình, nên Hình Chí Cương đã hoàn toàn bỏ rơi cậu; hai là cậu và Hình Chí Cương thông đồng với nhau, cậu đứng ra chịu khổ, sau đó tiết lộ cái gọi là chân tướng hòng đánh lạc hướng ta, để gã thừa cơ trốn khỏi Thượng Hải. Nhưng, tra tấn cậu lâu như vậy rồi vẫn không móc được từ miệng cậu nửa chữ, nếu là đóng kịch, thì cậu đóng có phần thật quá, nên ta vẫn quyết định chọn tin vào khả năng thứ nhất.”
“Vì vậy, ông chủ Tần sẽ tha cho tôi?”
“Đúng.” Tần Á Triết gật đầu, xoay lỗ tai lông lá về phía Húc Tử, “Nhưng có một điều kiện.”
“Điều kiện gì?”
“Có người muốn gặp cậu, hỏi cậu một câu hỏi, không liên quan đến Hình Chí Cương, nên mong cậu nhất thiết phải trả lời cậu ta.”
“Nếu không thì sao?”
“Thì chỉ còn cách chết ở đây.”
Húc Tử gục đầu, ngầm tỏ ý chấp thuận, nhưng quan trọng hơn cả là, gã vẫn giữ nguyên tính hiếu kỳ vô tận, muốn thử gặp người đó.
Khi Hạ Băng cười hì hì bước vào, Húc Tử nhận ngay ra anh. Tuy hôm đó trong nhà ánh sáng tù mù, nhưng đây chắc chắn là tên lập dị gã từng đụng độ trong nhà Jenny, và có lẽ cũng chính là kẻ đã đẩy gã xuống căn hầm dưới lòng đất.
“Sao hôm đó lại đẩy tôi xuống hầm?”
“Gì cơ?” Hạ Băng lộ vẻ hoang mang, Húc Tử nhìn ra anh không hề đóng kịch.
“Thôi rồi, cậu muốn biết điều gì?”
“Tôi chỉ muốn biết, hôm đó hình như anh đã tìm được một món đồ trong đống sách của Jenny, đó là thứ gì?”
Húc Tử rốt cuộc đã xác nhận được, người mưu hại gã đêm hôm đó không phải Hạ Băng, không hiểu sao bỗng thấy nhẹ nhõm hẳn, tức thì cười đáp: “Là một tờ giấy kiểu biên lai vay nợ.”
Hạ Băng nhướng lông mày, cười nói: “Để tôi đưa anh ra ngoài, gọi giúp anh chiếc xe kéo.”
Trong lòng hai người đồng thời dâng lên một niềm khoan khoái hiếm có.
Ra khỏi dinh thự nhà họ Tần, việc đầu tiên Húc Tử làm là vỗ khắp túi trên túi dưới. Đỗ Xuân Hiểu cuống quýt vẫy tay với họ, trong tay còn đang nắm chặt bao thuốc lá hiệu Hoàng Tuệ Như.
“Chắc anh hiểu ý tứ của Tần Á Triết khi thả anh đi chứ?” Đỗ Xuân Hiểu gặp được “bạn thuốc”, giọng điệu thân thiết hết sức.
“Ừm.” Húc Tử gãi mũi bằng lớp gạc băng trên bàn tay tàn tật, nhả ra một làn khói thuốc, “Lão muốn Hình Chí Cương cho rằng tôi đã là người của lão, diễn biến về sau sẽ rất thú vị.”
“Không thú vị đâu, anh rất có thể sẽ bị Hình Chí Cương khử luôn đấy.”
“Giờ ông chủ đến an nguy chính mình còn khó đảm bảo, làm sao khử được tôi?”
“Một người có thể bắt cóc Tất Tiểu Thanh, có khử anh bằng cách nào cũng chẳng đáng lấy làm lạ.” Đỗ Xuân Hiểu vứt đầu mẩu thuốc xuống đất rồi di chân lên, không khí lạnh lập tức thay thế làn khói ấm xộc vào khoang mũi.
“Tôi vẫn cho rằng ông chủ chẳng có lý do gì gây khó dễ cho tôi.”
Gã khăng khăng cố chấp, đồng thời cũng cố quanh co bào chữa cho Hình Chí Cương. Đỗ Xuân Hiểu thoắt cái đã nhìn thấu nội tình, lòng còn dâng lên đôi chút xót xa. Bởi đàn ông có khuynh hướng giới tính đặc biệt kiểu này, ở thời đại hiện nay đa phần đều không có kết cục tốt đẹp, cô nghĩ vậy rồi nói: “Chắc anh biết minh tinh mới nổi Kỳ Vân có chút dính líu tới ông chủ Hình chứ?”
Húc Tử tựa hồ không nghe thấy gì, đã đi thẳng tới một chiếc xe kéo, bóng lưng mảnh dẻ hệt như con gái.
Hình Chí Cương trước nay không hề bận tâm đến sự sống chết của người khác, ví dụ như chị Yến, ví dụ như Húc Tử, đây là bản tính được nuôi dưỡng từ nhỏ của một tay công tử ăn chơi trác táng, chẳng buồn giấu diếm thói ích kỷ. Vì vậy Kỳ Vân nhận được tập kịch bản Hoa lục bình này, giống như một sự an bài. Kịch bản này hay ở chỗ, vì tình tiết đa phần đều diễn ra trên biển, nên phải lên thuyền đi chọn cảnh khắp một dải Tùng Giang, Tân Hải. Vốn dĩ mấy cảnh này kiếm một hồ nước quay cũng được, nhưng Kỳ Vân kiên quyết đòi ra biển, nói quay ngoài biển sẽ càng chân thực hơn. Huống hồ bộ phim này nếu đem so với Hương tuyết hải, nhất quyết không thể thua kém. Về quyết định này, đạo diễn Phùng Cương vốn là người hợp tác lâu năm với Kỳ Vân đương nhiên nhiệt liệt tán thành, chỉ có những người còn lại trong đoàn làm phim là oán thán, trời đã đầu đông, thò một ngón tay ra ngoài cũng đủ lạnh cóng rồi, còn đi biển đón sóng hóng gió, chẳng khác nào bị điên. Có điều mọi người cũng muốn xem bản lĩnh của Kỳ Vân đến đâu, bình thường cô ta ỏn ẻn õng ẹo là thế, thật khó mà tin nổi lại có thể chịu được nỗi khổ quay phim trên biển, vì vậy ai nấy nghe xong quyết định này đều không phản đối gì, chỉ lẳng lặng làm theo.
Theo như kế hoạch của Kỳ Vân và Hình Chí Cương, thuyền quay phim chỉ cần tới Tùng Giang, tại khu vực gần vùng biển quốc tế sẽ có thuyền vượt biên do Kỳ Vân liên hệ từ trước tiếp ứng, đưa gã sang Nhật Bản. Kế hoạch đơn giản, nhưng rất thực tế. Hơn nữa sẽ chẳng có ai nghi ngờ Kỳ Vân, cô ta đương nhiên an toàn, cũng có nghĩa Hình Chí Cương an toàn.
“Nhưng, lỡ lúc thuyền tới, em lại đang đóng phim, không đưa được anh sang đó thì làm thế nào?” Bệnh đa nghi của gã trước giờ vẫn rất nặng, nặng đến mức khiến người ta vừa yêu vừa hận.
“Thế nên tốt nhất vẫn cần một người hỗ trợ, có điều em cũng không nghĩ ra là phải nhờ ai, có vẻ chẳng ai đáng tin cả.”
“Vậy thì làm thế nào?” Gã đẩy hết mọi chuyện cho cô ta, như thể không phải đang lên kế hoạch giữ tính mạng cho mình vậy.
“Làm thế nào thì phải hỏi ông chủ Hình nhà anh chứ, bên cạnh anh chẳng có ai đáng tin cả.” Cô ta nói lẫy một câu, thấy gã không phản bác, lại mủi lòng an ủi, “Thực ra cách thì có, tay Húc Tử chỗ anh được thả rồi đấy.”
“Sao em biết?”
“Anh ta tới tìm em, hỏi thăm về anh.”
“Vậy thì không tin được đâu, chưa biết chừng hắn ta bị mua chuộc rồi cũng nên.” Gã đằng đằng sát khí, nghiến răng nói, “Bao giờ thì bọn em bắt đầu quay cảnh trên biển? Phải nhanh lên!”
“Ngay ngày kia thôi.” Cô ta nhìn gã, thấy căm ghét bản thân vì yêu nhầm người. Nhưng tình cảm vỗn dĩ không do lý trí dẫn lỗi, nên đành thuận theo vậy. Lý trí chỉ có thể đem đến cuộc đời buồn tẻ vô vị, tình cảm mới là cội nguồn hạnh phúc của con người, “Nếu anh ta thực sự bán đứng anh cho Tần Á Triết, thì e rằng người bị chặt mất mấy ngón tay lúc này phải là em mới đúng, người ta đâu thể ung dung ở đây nói chuyện với anh như hiện giờ được?”
Gã cúi đầu, lùa hai tay vào tóc, như thể đang đấu tranh với bản thân, hồi lâu sau mới ngước mắt lên nói: “Nhỡ hắn không đáng tin thì sao?”
“Nếu không đáng tin, thì ông chủ có thể giết tôi ngay bây giờ.”
Húc Tử chậm rãi bước ra khỏi nhà tắm, mặc tấm áo choàng tắm màu trắng sữa, lồng ngực đỏ ửng, ánh mắt sáng long lanh.
“Húc Tử, cậu không sao là tốt rồi!” Hình Chí Cương đứng bật dậy, vẻ mặt kích động ôm chầm lấy Húc Tử. Húc Tử ngửi thấy mùi giả tạo toát ra từ người gã, thậm chí còn nhìn thấy vành mắt gã đỏ ửng.
“Ông chủ Hình không sao mới là tốt nhất.”
“Húc Tử, trước khi hành động, tốt nhất cậu giúp tôi khử đi hai người.” Vẻ thâm tình Hình Chí Cương bày ra giống như một kịch bản giới hạn thời gian, diễn xong là xong, nhanh chóng chuyển sang màn khác.
“Ai?”
“Giúp tôi khử Chu Viên Viên và Mễ Lộ Lộ.”
“Vì sao?”
“Vì ngoài chị Yến ra, chỉ có hai bọn họ biết Kỳ Vân từng làm gái ở Bách Lạc Môn.” Hình Chí Cương túm lấy vai Húc Tử, tựa hồ nắm chặt một ám khí nguy hiểm.
Ba ngày sau, Mễ Lộ Lộ và Chu Viên Viên biến mất khỏi vũ trường nơi mỗi người đang làm việc, không còn thấy xuất hiện nữa.
7.
Hôm quần áo của Kỳ Vân nồng nặc mùi son phấn, Hình Chí Cương rất muốn nín thở, cự tuyệt thứ không khí ngào ngạt ô nhiễm này, nhưng không được, gã bắt buộc phải duy trì nhịp thở đều đặn, mới tránh đột ngột gây ra tiếng động lớn. Khoang mũi và thói quen tư duy của gã như đã bắt tay với nhau, đều tự động coi mấy thứ phấn son hay nước hoa là ô uế bẩn thỉu, đàn bà dùng những thứ ấy để quyến rũ đàn ông, đồng thời cũng làm bẩn chính mình. Gã chứng kiến quá nhiều ả gái bao khóe mắt nhem nhuốc màu kẻ mắt đen, son môi dính cả lên răng, hễ cười là như khát máu, hương nước hoa và mùi men rượu trộn lẫn vào nhau, càng khiến người ta buồn nôn.
Gã cho rằng mình ở trong khoang thuyền hẳn là rất an toàn, phòng của Kỳ Vân nằm sát trong cùng, ngoài nhân viên trang điểm và vú nuôi đi cùng, bình thường đều không ai lui tới. Hơn nữa cô ta vốn nổi tiếng vì tính khí khác người, đồ đạc nếu chưa qua cho phép thì cấm có ai được động đến, bằng không cô ta sẽ chửi bới làm loạn lên, cáo bệnh không diễn nữa. Đương nhiên, Kỳ Vân tự hủy hoại thanh danh như vậy là có cái lý của cô ta, cũng bởi đang có một kẻ tên Hình Chí Cương xuất hiện khuấy đảo từ cuộc sống cho đến tính nết của cô ta, thật đúng là số mệnh trêu ngươi.
“Lát nữa sẽ có cảnh quay, quay xong thuyền sẽ về ngay nên em sẽ cố tình đóng hỏng mấy lần, để bọn họ quây cả lại quanh em, lúc đó Húc Tử sẽ dẫn anh ra đuôi thuyền, xuống con thuyền nhỏ hẹn đến đón anh. Rõ cả chưa?”
Chỉ riêng câu này, Kỳ Vân đã lải nhải với gã không dưới mười lần, giống như sợ gã quên mất, lại càng giống như từ biệt sớm, có rất nhiều điều muốn nói song đều không sao thốt nổi ra miệng, đành đánh trống lảng sang chuyện khác.
Húc Tử theo đoàn làm phim lên thuyền với danh nghĩa trợ lý dựng cảnh, đương nhiên cũng là nhờ Kỳ Vân lo lót quan hệ, nói gã là người em họ xa cô ta phải chăm sóc, người khác cũng không tiện nói gì. Lòng tin của Kỳ Vân đối với Húc Tử bắt nguồn từ mối giao thiệp ngắn ngủi ở Bách Lạc Môn trước đây. Trong ấn tượng của cô thì tay người Quảng Đông thấp bé nhanh nhẹn này rất kiệm lời, nhưng khi mấy vũ nữ ngồi buôn chuyện cười ngặt nghẽo với nhau, gã cũng ngồi bên cạnh tủm tỉm, không oang oang mà hết sức lặng lẽ, khiến cô ta vừa nhìn đã nhận ra sự cực đoan và cứng cỏi trong bản tính của gã.
Con người này, một khi đã hạ quyết tâm làm chuyện gì thì nhất định sẽ làm được.
Hoa lục bình kể về một cô thiên kim tiểu thư do Kỳ Vân thủ vai, vì muốn chạy trốn khỏi cuộc hôn nhân ép buộc mà đứng trên thuyền lời qua tiếng lại với người cha, cuối cùng uất ức đến nỗi cắn răng liều mình nhảy xuống biển để thể hiện quyết tâm. Diễn viên đóng thế cảnh nhảy xuống biển vốn cũng đi theo, nhưng vì say sóng nên nằm liệt không dậy nổi. Đạo diễn Phùng Cương tức tối giậm chân bình bịch, đúng lúc bắt gặp Húc Tử đang ngồi tít trong góc sắp xếp hòm đạo cụ, bèn vẫy tay gọi gã lại.
“Cậu tên gì?”
“Điền Húc Tử.”
“Có biết bơi không?”
“Tôi biết bơi từ nhỏ.”
Phùng Cương mừng thầm, vội chỉ lan can bảo vệ trên boong thuyền, nói: “Cậu ra đứng chỗ kia rồi nhảy xuống biển được không, có sợ không? Ở dưới có ca nô trực sẵn, sẽ kéo cậu lên ngay.”
Húc Tử sững ra giây lát, vô thức gật đầu, nhưng đã bị Kỳ Vân lôi lại phía sau, đoạn cô ta trừng mắt hùng hổ mắng Phùng Cương: “Làm gì thế? Anh nghĩ lạ thật đấy nhỉ, lại gọi em họ tôi đi đóng thế, đến lúc xảy ra chuyện thì lấy ai chịu trách nhiệm hả? Không được!”
“Không được thì cảnh này không quay nổi đâu, chúng ta cũng không thể xong việc mà về.” Phùng Cương ỷ mình là đạo diễn nổi tiếng, cũng chẳng buồn nể nang Kỳ Vân, mặt mày tức thì sa sầm.
/29
|