"Tả chân nhân, ngài sao vậy?" Cổ Trân thấy Tả Đăng Phong luôn cau mày không nói, liền hỏi.
"Không có gì, đi tổ miếu xem đi." Tả Đăng Phong tăng tốc.
Người Trung quốc coi trọng tôn thất, có thói quen tế tổ, trong thành thời cổ đại đều có hai nơi tế tự, nơi này cũng không ngoại lệ, tổ miếu ở đông thành là nơi tế tự tổ tông, xã tắc đàn ở Tây Thành là nơi tế trời.
Tổ miếu là một kiến trúc độc lập, cửa đóng chặt, đẩy cửa mà vào, giữa sân là một con đường, đi chừng năm thước có hai cái lư hương bằng kim loại, chất liệu lư hương không phải đồng thau, mà là một loại kim loại có màu xám, lư hương bên trái có ba chân, lư hương bên phải có bốn chân, cổ đại số lẻ đại biểu cho nam giới, số chẵn đại biểu cho nữ giới, hai cái lư hương này phân biệt tế tự cho tổ tiên là nam và nữ.
Hai cái lư hương này không có những loại hoa văn long phượng như lư hương ở Trung, mà chỉ đúc có hai chữ, lư hương ba chân mặt trước đúc chữ "Cơ", mặt sau đúc chữ "Càn", lư hương bốn chân mặt trước cũng là một chữ"Cơ", mặt sau là một chữ "Khôn" .
Tuy còn chưa tiến vào chính điện, nhưng chỉ cần dựa vào hai cái lư hương Tả Đăng Phong đã xác định được toà thành này quả thực là Quản Thúc Tiên thành, vì họ Cơ là quốc họ của Chu triều, thiên tử là họ Cơ, Quản Thúc Tiên chuẩn xác là Cơ Tiên, Quản là đất phong của ông ta, Thúc là bối phận của ông ta, vì ông ta là con trai thứ ba của Văn Vương, nhỏ hơn Nhị ca Chu Vũ Vương Cơ Phát nên được gọi là thúc.
Vương thành tổ miếu có bảy phòng, nghiêm ngặt theo đúng lễ nghi thiên tử chín chư hầu bảy, đẩy cửa đi vào, bên trong tổ miếu cũng không có bài vị tổ tông, mà chỉ có bàn thờ lớn và dài, trên bàn thờ có lư hương, lư hương trong sân là cái để tộc nhân tế điện, còn lư hương trên bàn thờ là để chư hầu Vương và Thế tử tế tổ, theo lý thuyết cũng có thể là hai cái lư hương Càn Khôn, nhưng trên bàn thờ này lại đặt tới ba cái lư hương, hai cái đặt ở gần khu vực đã từng đặt linh vị, hai bên trái phải, cái thứ ba thì ở bên ngoài, nằm ở giữa, là một cái lư hương ba chân, không có tai.
Lư hương là dụng cụ để thực hiện lễ nghi, cũng là thánh vật để phàm nhân và Tiên Nhân hoặc là liệt tổ liệt tông giao lưu câu thông với nhau, thời cổ đại được sử dụng rất thận trọng mà nghiêm ngặt, trong tổ miếu nên có hai cái lư hương, vì không thể dùng chung một cái cho tất cả tổ tiên, mà phải phân chia tổ tiên là nam và tổ tiên là nữ, nên hai cái là đủ rồi, không cần phải dùng tới ba cái.
Cái lư hương thứ ba là một cái lư hương ba chân, cho thấy tế tự là một người đàn ông, lư hương chính thống đều có hai cái tai, nhưng cái lư hương này không có tai, nên lễ nghi tế tự này là để tế tự người sống, giống như bách tính lập bàn thờ một vị thanh quan nào đó, nhưng vì người này còn sống, nên lư hương sẽ không có tai, cái lư hương thứ ba xuất hiện bên trong tổ miếu cho thấy năm đó đã từng có một người đàn ông đối với nhánh tộc nhân này có ân đức ngang ngửa của cha mẹ, nếu không đã không được hưởng thụ đãi ngộ như vậy , nhưng đáng tiếc bài vị nơi này đã bị cư dân mang đi, không thể biết được người đó là ai.
"Tả chân nhân, nơi này chẳng có đầu mối gì hết, chúng ta tới vương cung xem đi." Cổ Trân nhìn tổ miếu trống rỗng.
"Cái gì nên có đều đã có, cô còn muốn manh mối gì?" Tả Đăng Phong thuận miệng trả lời, mọi người cho rằng không có manh mối là vì họ không cẩn thận quan sát, mà cũng vì họ thiếu thốn về mặt tri thức.
"Đây là một cái lư hương tái sinh, là để tế tự người sống, đã từng có một người đàn ông có ơn giúp đỡ họ." Kim Quy Tử là người trong Đạo môn, đương nhiên biết nhiều nghi thức và lễ tiết truyền thống hơn những người khác.
"Mã chân nhân, cái gì gọi là lư hương tái sinh?" Vạn Tiểu Đường hỏi, Kim Quy Tử vẫn đang cõng cô, nên quan hệ giữa hai người đương nhiên thân thiết hơn.
"Trong tổ miếu không nên có cái lư hương không tai đó, trừ phi có người đã từng có ơn cứu mạng họ, giống như cha mẹ cho họ ơn tái sinh, họ mới thắp hương cho ân nhân, lư hương tái sinh là cách gọi của chúng tôi thôi, nghĩa là sinh lô, là lư hương để tế tự người sống." Kim Quy Tử trả lời.
"Nói tiếp đi." Tả Đăng Phong nhìn Kim Quy Tử, người này tuổi hơn 40, tuy tu vi không bằng Đại Đầu, nhưng kiến thức lại phong phú hơn Đại Đầu, coi như cũng không ăn cơm uổng phí.
"Tả chân nhân nhất định đã có kết luận, vậy tôi cũng xin đoán thử một lần, có đoán sai mọi người cũng đừng có cười tôi." Kim Quy Tử chặn trước chặn sau, để khỏi bị giống như Đại Đầu, bị Tả Đăng Phong hỏi ngược lại làm cho mất mặt.
"Tả chân nhân cũng nói rồi, toà thành này có thể là Vương thành của Cơ Tiên, tôi cảm thấy chủ nhân toà thành này có lẽ chính là bản thân Cơ Tiên, ông ta là Tam đệ của Chu Vũ Vương, Chu Vũ Vương khi còn tại thế phong ông ta làm bá chủ chư hầu, có địa bàn của mình nhưng vẫn nhậm chức trong triều đình, theo cách gọi của Thanh triều gọi là phụ chính đại thần, dùng cách nói hiện giờ gọi là thường ủy cục chính trị, nhân vật như vậy còn còn một người nữa, là tứ đệ Cơ Đán của Chu Vũ Vương, Chu Vũ Vương là lão nhị, lão nhị chết rồi thì lão tam và lão tứ đều là phụ chính đại thần, nhưng lão tam có đất phong Hà Nam, ông ta không thể ở lại trung ương, mà phải thường xuyên về đất phong để kiểm tra, còn đất phong của lão tứ lại ở ngay Thiểm Tây, có thể từ sáng tới tối bồi tiếp tiểu hoàng đế, Tả chân nhân, Chu Thành Vương lúc đóbao nhiêu tuổi?" Kim Quy Tử nói được nửa chừng quay sang hỏi Tả Đăng Phong.
"Lúc đăng cơ hình như được mười ba tuổi." Tả Đăng Phong nghĩ nghĩ, trả lời.
"May mà có Tả chân nhân nhớ rõ, mọi người thử nghĩ, tiểu hoàng đế mới mười ba tuổi, nhất định là ai bên cạnh cậu ta thời gian dài thì cậu ta sẽ yêu thích người đó, nên sau một quãng thời gian, tiểu hoàng đế và lão tứ Cơ Đán trở nên cực kỳ thân thiết, cái Cơ Đán có lẽ mọi người không biết, nhưng ông ta còn có một cái nữa rất nổi danh là Chu Công Đán. Chu Công Đán nhân cơ hội nắm giữ triều chính, lão tam Cơ Tiên thấy không ổn, liền liên hợp với lão ngũ và Vũ Canh khởi binh thảo phạt Chu Công Đán, kết quả thất bại, cái loạn tam gia vô cùng nổi danh trong lịch sử. Khúc sau là tôi đoán thôi nhé, Cơ Tiên lúc đó quyền lực rất lớn, hơn nữa là phía bá chủ phương đông, luôn có cơ hội tiếp xúc với người tu đạo, được người tu đạo ra tay cứu giúp khi gặp nạn, đưa ông ta và tộc nhân tới nơi này tị nạn, nên tộc nhân Cơ Tiên mới để thêm sinh lô để thờ người tu hành đã giúp đỡ họ." Kim Quy Tử giảng giải.
Phân tích của Kim Quy Tử làm mọi người rất là kính nể, tuy năng lực phân tích của ông ta không giỏi, nhưng lại hiểu biết về lịch sử, nên làm những người trẻ tuổi chẳng rành về lịch sử rất là nể phục.
"Tả chân nhân, tôi cũng chỉ là suy đoán, có chỗ nào không đúng mong ngài chỉ giáo thêm." Kim Quy Tử thấy nét mặt Tả Đăng Phong không hề có cảm xúc, tưởng mình đã đoạt danh tiếng của Tả Đăng Phong, làm Tả Đăng Phong không thích.
"Anh phân tích rất có lý, nhưng anh quên mất một điều, người tu hành muốn cứu một người đương nhiên không có gì khó, nhưng cứu cả toàn tộc của Cơ Tiên thì không có khả năng cho lắm." Tả Đăng Phong nói.
"Ý của ngài là?" Kim Quy Tử không hiểu.
"Dựa theo quy mô của toà thành này, năm đó người ở đây ít nhất cũng phải hai, ba ngàn người, dù là sau này tới đây mới gây giống, thì số người đầu tiên tới cũng không phải số ít, nếu không được Chu triều cho phép, họ di chuyển đông như vậy không thể nào ra khỏi biên giới. Tôi đồng ý với nửa đoạn phân tích trước, nhưng anh nói là người tu đạo cứu Cơ Tiên tôi cho rằng không hoàn toàn đúng, người cứu họ có thể biết một chỗ như thế này, chắc chắn phải có tu vi nhất định, nhưng quan trọng nhất là người đó phải có quyền hành rất lớn trong Chu triều, mới có thể quang minh chính đại cứu những người này." Tả Đăng Phong bình tĩnh nói.
"Khương Tử Nha!" Kim Quy Tử bật ra ngay. Thật ra đáp án cũng không khó đoán, người có nhiều khả năng như vậy chỉ có Khương Tử Nha.
"Đúng vậy, theo tôi được biết Khương Tử Nha và Chu Công Đán quan hệ cũng không được tốt, sau khi chết rồi không hề làm theo yêu cầu của Chu thiên tử là trở về chu quốc mai táng, mà tự chọn nơi an táng cho mình, cho thấy hành vi của Chu Công Đán năm đó đã làm ông ta công phẫn. Cơ Tiên và Ngũ đệ Cơ Độ đều là người Cơ gia, nên họ lựa chọn phương thức cực đoan, Khương Tử Nha tuy cũng bất mãn cách làm của Chu Công Đán, nhưng ông ta lớn tuổi, lại cũng không mang họ Cơ, nên mới không thèm quan tâm, sau khi Cơ Tiên và Cơ Độ thất bại, Khương Tử Nha mới nghĩ cách bảo vệ họ, đưa họ tới nơi này." Tả Đăng Phong đáp.
"Tả chân nhân, làm sao ngài biết Khương Tử Nha không về Chu triều an táng?" Đại Đầu dù sao cũng là người trẻ tuổi , nên không kềm được tính hiếu kỳ.
"Vì phần mộ của Khương Tử Nha đã bị tôi đào lên." Tả Đăng Phong mỉm cười.
Mọi người cùng 'À' lên một tiếng.
"Tả chân nhân, tại sao Khương Tử Nha muốn bảo vệ họ?" Kim Quy Tử quan tâm đến căn cứ suy đoán của Tả Đăng Phong hơn.
"Hỏi rất hay, thế gian không có chuyện gì vô duyên vô cớ, tôi nghĩ Khương Tử Nha sở dĩ muốn bảo vệ họ có hai khả năng, một là nhớ tình cũ, Khương Tử Nha là lão thần thời Văn Vương, phụ tá Vũ Vương cũng là để báo đáp ơn tri ngộ của Văn Vương, nói cách khác Khương Tử Nha có cảm tình sâu nặng với Văn Vương, mà đám Cơ Phát, Cơ Tiên, Cơ Đán, Cơ Độ đều là con của Văn Vương, trong mắt Khương Tử Nha những người này đều là huyết mạch Văn Vương, ông ta không muốn những người này tự giết lẫn nhau, nên mới nghĩ cách bảo vệ lão tam và lão ngũ."
"Sĩ vi tri kỷ giả tử (*), Khương Tử Nha và Gia Cát Lượng đều là người kiệt xuất." Kim Quy Tử cảm thán.
"Còn có một khả năng khác, Khương Tử Nha được phong đất Tề quốc, Sơn Đông, lão tam và lão ngũ đất phong ở Hà Nam, Hà Nam và Sơn Đông liền nhau, Khương Tử Nha làm thế này không biết có phải bản ý muốn thu phục lòng người các nước chư hầu của hai người này hay không, nhưng sau này quả thực Tề quốc đã thay thế Quản quốc trở thành bá chủ phương đông, cũng là nước chư hầu lớn nhất của phương đông." Tả Đăng Phong nói tiếp.
Tả Đăng Phong nói xong, mọi người im bặt, khả năng tư duy và tốc độ phản ứng của mỗi người không giống nhau, mọi người đều không suy nghĩ kịp.
"Tả chân nhân, theo tôi được biết, Khương Tử Nha không hề lợi hại giống như trên Phong Thần bảng ghi chép, ông ta cũng chỉ là hơi biết pháp môn tu chân mà thôi, làm sao ông ta biết được Bắc cực có một nơi như thế này?" Kim Quy Tử hỏi, y cảm thấy Tả Đăng Phong suy đoán quá mức chủ quan.
"Khương Tử Nha có một con chim có thể ngày đi vạn dặm, nếu cậu được phong chư hầu, chắc chắn cậu cũng sẽ khắp nơi đi dạo." Tả Đăng Phong mỉm cười.
"Tả chân nhân thần cơ diệu toán, chúng tôi thực không thể theo kịp." Kim Quy Tử không cãi nữa.
"Miệng anh nói phục nhưng tâm không phục, chắc chắn anh còn muốn hỏi sao người nơi này lại biết tinh luyện kim loại đúng không?" Tả Đăng Phong cười.
"Không dám, Tả chân nhân nói đùa." Kim Quy Tử xua tay.
"Tại sao?" Đại Đầu hiếu kỳ hơn Kim Quy Tử nhiều.
"Khương Tử Nha có một quyển kỳ thư, là Thiên Thư, được chia làm bốn quyển, gồm binh pháp 13 chương, cô hư pháp 12 chương, kỳ môn độn giáp 1,080 cách và hai quyển sách luyện khí. Bên trong hai quyển sách luyện khí đều ghi chép về cách tinh luyện kim loại và chế tạo đồ vật, Khương Tử Nha rất có thể đã truyền nội dung hai quyển sách này cho tộc nhân Cơ Tiên, nếu không họ không thể nào tạo ra dây cung bằng dây kim loại, cũng như không thể tạo ra bộ giáp trụ kia. . ."
"Không có gì, đi tổ miếu xem đi." Tả Đăng Phong tăng tốc.
Người Trung quốc coi trọng tôn thất, có thói quen tế tổ, trong thành thời cổ đại đều có hai nơi tế tự, nơi này cũng không ngoại lệ, tổ miếu ở đông thành là nơi tế tự tổ tông, xã tắc đàn ở Tây Thành là nơi tế trời.
Tổ miếu là một kiến trúc độc lập, cửa đóng chặt, đẩy cửa mà vào, giữa sân là một con đường, đi chừng năm thước có hai cái lư hương bằng kim loại, chất liệu lư hương không phải đồng thau, mà là một loại kim loại có màu xám, lư hương bên trái có ba chân, lư hương bên phải có bốn chân, cổ đại số lẻ đại biểu cho nam giới, số chẵn đại biểu cho nữ giới, hai cái lư hương này phân biệt tế tự cho tổ tiên là nam và nữ.
Hai cái lư hương này không có những loại hoa văn long phượng như lư hương ở Trung, mà chỉ đúc có hai chữ, lư hương ba chân mặt trước đúc chữ "Cơ", mặt sau đúc chữ "Càn", lư hương bốn chân mặt trước cũng là một chữ"Cơ", mặt sau là một chữ "Khôn" .
Tuy còn chưa tiến vào chính điện, nhưng chỉ cần dựa vào hai cái lư hương Tả Đăng Phong đã xác định được toà thành này quả thực là Quản Thúc Tiên thành, vì họ Cơ là quốc họ của Chu triều, thiên tử là họ Cơ, Quản Thúc Tiên chuẩn xác là Cơ Tiên, Quản là đất phong của ông ta, Thúc là bối phận của ông ta, vì ông ta là con trai thứ ba của Văn Vương, nhỏ hơn Nhị ca Chu Vũ Vương Cơ Phát nên được gọi là thúc.
Vương thành tổ miếu có bảy phòng, nghiêm ngặt theo đúng lễ nghi thiên tử chín chư hầu bảy, đẩy cửa đi vào, bên trong tổ miếu cũng không có bài vị tổ tông, mà chỉ có bàn thờ lớn và dài, trên bàn thờ có lư hương, lư hương trong sân là cái để tộc nhân tế điện, còn lư hương trên bàn thờ là để chư hầu Vương và Thế tử tế tổ, theo lý thuyết cũng có thể là hai cái lư hương Càn Khôn, nhưng trên bàn thờ này lại đặt tới ba cái lư hương, hai cái đặt ở gần khu vực đã từng đặt linh vị, hai bên trái phải, cái thứ ba thì ở bên ngoài, nằm ở giữa, là một cái lư hương ba chân, không có tai.
Lư hương là dụng cụ để thực hiện lễ nghi, cũng là thánh vật để phàm nhân và Tiên Nhân hoặc là liệt tổ liệt tông giao lưu câu thông với nhau, thời cổ đại được sử dụng rất thận trọng mà nghiêm ngặt, trong tổ miếu nên có hai cái lư hương, vì không thể dùng chung một cái cho tất cả tổ tiên, mà phải phân chia tổ tiên là nam và tổ tiên là nữ, nên hai cái là đủ rồi, không cần phải dùng tới ba cái.
Cái lư hương thứ ba là một cái lư hương ba chân, cho thấy tế tự là một người đàn ông, lư hương chính thống đều có hai cái tai, nhưng cái lư hương này không có tai, nên lễ nghi tế tự này là để tế tự người sống, giống như bách tính lập bàn thờ một vị thanh quan nào đó, nhưng vì người này còn sống, nên lư hương sẽ không có tai, cái lư hương thứ ba xuất hiện bên trong tổ miếu cho thấy năm đó đã từng có một người đàn ông đối với nhánh tộc nhân này có ân đức ngang ngửa của cha mẹ, nếu không đã không được hưởng thụ đãi ngộ như vậy , nhưng đáng tiếc bài vị nơi này đã bị cư dân mang đi, không thể biết được người đó là ai.
"Tả chân nhân, nơi này chẳng có đầu mối gì hết, chúng ta tới vương cung xem đi." Cổ Trân nhìn tổ miếu trống rỗng.
"Cái gì nên có đều đã có, cô còn muốn manh mối gì?" Tả Đăng Phong thuận miệng trả lời, mọi người cho rằng không có manh mối là vì họ không cẩn thận quan sát, mà cũng vì họ thiếu thốn về mặt tri thức.
"Đây là một cái lư hương tái sinh, là để tế tự người sống, đã từng có một người đàn ông có ơn giúp đỡ họ." Kim Quy Tử là người trong Đạo môn, đương nhiên biết nhiều nghi thức và lễ tiết truyền thống hơn những người khác.
"Mã chân nhân, cái gì gọi là lư hương tái sinh?" Vạn Tiểu Đường hỏi, Kim Quy Tử vẫn đang cõng cô, nên quan hệ giữa hai người đương nhiên thân thiết hơn.
"Trong tổ miếu không nên có cái lư hương không tai đó, trừ phi có người đã từng có ơn cứu mạng họ, giống như cha mẹ cho họ ơn tái sinh, họ mới thắp hương cho ân nhân, lư hương tái sinh là cách gọi của chúng tôi thôi, nghĩa là sinh lô, là lư hương để tế tự người sống." Kim Quy Tử trả lời.
"Nói tiếp đi." Tả Đăng Phong nhìn Kim Quy Tử, người này tuổi hơn 40, tuy tu vi không bằng Đại Đầu, nhưng kiến thức lại phong phú hơn Đại Đầu, coi như cũng không ăn cơm uổng phí.
"Tả chân nhân nhất định đã có kết luận, vậy tôi cũng xin đoán thử một lần, có đoán sai mọi người cũng đừng có cười tôi." Kim Quy Tử chặn trước chặn sau, để khỏi bị giống như Đại Đầu, bị Tả Đăng Phong hỏi ngược lại làm cho mất mặt.
"Tả chân nhân cũng nói rồi, toà thành này có thể là Vương thành của Cơ Tiên, tôi cảm thấy chủ nhân toà thành này có lẽ chính là bản thân Cơ Tiên, ông ta là Tam đệ của Chu Vũ Vương, Chu Vũ Vương khi còn tại thế phong ông ta làm bá chủ chư hầu, có địa bàn của mình nhưng vẫn nhậm chức trong triều đình, theo cách gọi của Thanh triều gọi là phụ chính đại thần, dùng cách nói hiện giờ gọi là thường ủy cục chính trị, nhân vật như vậy còn còn một người nữa, là tứ đệ Cơ Đán của Chu Vũ Vương, Chu Vũ Vương là lão nhị, lão nhị chết rồi thì lão tam và lão tứ đều là phụ chính đại thần, nhưng lão tam có đất phong Hà Nam, ông ta không thể ở lại trung ương, mà phải thường xuyên về đất phong để kiểm tra, còn đất phong của lão tứ lại ở ngay Thiểm Tây, có thể từ sáng tới tối bồi tiếp tiểu hoàng đế, Tả chân nhân, Chu Thành Vương lúc đóbao nhiêu tuổi?" Kim Quy Tử nói được nửa chừng quay sang hỏi Tả Đăng Phong.
"Lúc đăng cơ hình như được mười ba tuổi." Tả Đăng Phong nghĩ nghĩ, trả lời.
"May mà có Tả chân nhân nhớ rõ, mọi người thử nghĩ, tiểu hoàng đế mới mười ba tuổi, nhất định là ai bên cạnh cậu ta thời gian dài thì cậu ta sẽ yêu thích người đó, nên sau một quãng thời gian, tiểu hoàng đế và lão tứ Cơ Đán trở nên cực kỳ thân thiết, cái Cơ Đán có lẽ mọi người không biết, nhưng ông ta còn có một cái nữa rất nổi danh là Chu Công Đán. Chu Công Đán nhân cơ hội nắm giữ triều chính, lão tam Cơ Tiên thấy không ổn, liền liên hợp với lão ngũ và Vũ Canh khởi binh thảo phạt Chu Công Đán, kết quả thất bại, cái loạn tam gia vô cùng nổi danh trong lịch sử. Khúc sau là tôi đoán thôi nhé, Cơ Tiên lúc đó quyền lực rất lớn, hơn nữa là phía bá chủ phương đông, luôn có cơ hội tiếp xúc với người tu đạo, được người tu đạo ra tay cứu giúp khi gặp nạn, đưa ông ta và tộc nhân tới nơi này tị nạn, nên tộc nhân Cơ Tiên mới để thêm sinh lô để thờ người tu hành đã giúp đỡ họ." Kim Quy Tử giảng giải.
Phân tích của Kim Quy Tử làm mọi người rất là kính nể, tuy năng lực phân tích của ông ta không giỏi, nhưng lại hiểu biết về lịch sử, nên làm những người trẻ tuổi chẳng rành về lịch sử rất là nể phục.
"Tả chân nhân, tôi cũng chỉ là suy đoán, có chỗ nào không đúng mong ngài chỉ giáo thêm." Kim Quy Tử thấy nét mặt Tả Đăng Phong không hề có cảm xúc, tưởng mình đã đoạt danh tiếng của Tả Đăng Phong, làm Tả Đăng Phong không thích.
"Anh phân tích rất có lý, nhưng anh quên mất một điều, người tu hành muốn cứu một người đương nhiên không có gì khó, nhưng cứu cả toàn tộc của Cơ Tiên thì không có khả năng cho lắm." Tả Đăng Phong nói.
"Ý của ngài là?" Kim Quy Tử không hiểu.
"Dựa theo quy mô của toà thành này, năm đó người ở đây ít nhất cũng phải hai, ba ngàn người, dù là sau này tới đây mới gây giống, thì số người đầu tiên tới cũng không phải số ít, nếu không được Chu triều cho phép, họ di chuyển đông như vậy không thể nào ra khỏi biên giới. Tôi đồng ý với nửa đoạn phân tích trước, nhưng anh nói là người tu đạo cứu Cơ Tiên tôi cho rằng không hoàn toàn đúng, người cứu họ có thể biết một chỗ như thế này, chắc chắn phải có tu vi nhất định, nhưng quan trọng nhất là người đó phải có quyền hành rất lớn trong Chu triều, mới có thể quang minh chính đại cứu những người này." Tả Đăng Phong bình tĩnh nói.
"Khương Tử Nha!" Kim Quy Tử bật ra ngay. Thật ra đáp án cũng không khó đoán, người có nhiều khả năng như vậy chỉ có Khương Tử Nha.
"Đúng vậy, theo tôi được biết Khương Tử Nha và Chu Công Đán quan hệ cũng không được tốt, sau khi chết rồi không hề làm theo yêu cầu của Chu thiên tử là trở về chu quốc mai táng, mà tự chọn nơi an táng cho mình, cho thấy hành vi của Chu Công Đán năm đó đã làm ông ta công phẫn. Cơ Tiên và Ngũ đệ Cơ Độ đều là người Cơ gia, nên họ lựa chọn phương thức cực đoan, Khương Tử Nha tuy cũng bất mãn cách làm của Chu Công Đán, nhưng ông ta lớn tuổi, lại cũng không mang họ Cơ, nên mới không thèm quan tâm, sau khi Cơ Tiên và Cơ Độ thất bại, Khương Tử Nha mới nghĩ cách bảo vệ họ, đưa họ tới nơi này." Tả Đăng Phong đáp.
"Tả chân nhân, làm sao ngài biết Khương Tử Nha không về Chu triều an táng?" Đại Đầu dù sao cũng là người trẻ tuổi , nên không kềm được tính hiếu kỳ.
"Vì phần mộ của Khương Tử Nha đã bị tôi đào lên." Tả Đăng Phong mỉm cười.
Mọi người cùng 'À' lên một tiếng.
"Tả chân nhân, tại sao Khương Tử Nha muốn bảo vệ họ?" Kim Quy Tử quan tâm đến căn cứ suy đoán của Tả Đăng Phong hơn.
"Hỏi rất hay, thế gian không có chuyện gì vô duyên vô cớ, tôi nghĩ Khương Tử Nha sở dĩ muốn bảo vệ họ có hai khả năng, một là nhớ tình cũ, Khương Tử Nha là lão thần thời Văn Vương, phụ tá Vũ Vương cũng là để báo đáp ơn tri ngộ của Văn Vương, nói cách khác Khương Tử Nha có cảm tình sâu nặng với Văn Vương, mà đám Cơ Phát, Cơ Tiên, Cơ Đán, Cơ Độ đều là con của Văn Vương, trong mắt Khương Tử Nha những người này đều là huyết mạch Văn Vương, ông ta không muốn những người này tự giết lẫn nhau, nên mới nghĩ cách bảo vệ lão tam và lão ngũ."
"Sĩ vi tri kỷ giả tử (*), Khương Tử Nha và Gia Cát Lượng đều là người kiệt xuất." Kim Quy Tử cảm thán.
"Còn có một khả năng khác, Khương Tử Nha được phong đất Tề quốc, Sơn Đông, lão tam và lão ngũ đất phong ở Hà Nam, Hà Nam và Sơn Đông liền nhau, Khương Tử Nha làm thế này không biết có phải bản ý muốn thu phục lòng người các nước chư hầu của hai người này hay không, nhưng sau này quả thực Tề quốc đã thay thế Quản quốc trở thành bá chủ phương đông, cũng là nước chư hầu lớn nhất của phương đông." Tả Đăng Phong nói tiếp.
Tả Đăng Phong nói xong, mọi người im bặt, khả năng tư duy và tốc độ phản ứng của mỗi người không giống nhau, mọi người đều không suy nghĩ kịp.
"Tả chân nhân, theo tôi được biết, Khương Tử Nha không hề lợi hại giống như trên Phong Thần bảng ghi chép, ông ta cũng chỉ là hơi biết pháp môn tu chân mà thôi, làm sao ông ta biết được Bắc cực có một nơi như thế này?" Kim Quy Tử hỏi, y cảm thấy Tả Đăng Phong suy đoán quá mức chủ quan.
"Khương Tử Nha có một con chim có thể ngày đi vạn dặm, nếu cậu được phong chư hầu, chắc chắn cậu cũng sẽ khắp nơi đi dạo." Tả Đăng Phong mỉm cười.
"Tả chân nhân thần cơ diệu toán, chúng tôi thực không thể theo kịp." Kim Quy Tử không cãi nữa.
"Miệng anh nói phục nhưng tâm không phục, chắc chắn anh còn muốn hỏi sao người nơi này lại biết tinh luyện kim loại đúng không?" Tả Đăng Phong cười.
"Không dám, Tả chân nhân nói đùa." Kim Quy Tử xua tay.
"Tại sao?" Đại Đầu hiếu kỳ hơn Kim Quy Tử nhiều.
"Khương Tử Nha có một quyển kỳ thư, là Thiên Thư, được chia làm bốn quyển, gồm binh pháp 13 chương, cô hư pháp 12 chương, kỳ môn độn giáp 1,080 cách và hai quyển sách luyện khí. Bên trong hai quyển sách luyện khí đều ghi chép về cách tinh luyện kim loại và chế tạo đồ vật, Khương Tử Nha rất có thể đã truyền nội dung hai quyển sách này cho tộc nhân Cơ Tiên, nếu không họ không thể nào tạo ra dây cung bằng dây kim loại, cũng như không thể tạo ra bộ giáp trụ kia. . ."
/457
|