“Cuối năm.” Hứa Song Uyển đọc xong thư bèn lắc đầu.
Bên phía am Từ Tâm, từ sau khi nàng gặp mặt với vị quý nữ Hoắc gia kia, có một, hai người nhà từng được nàng cứu giúp vẫn tìm đến Hầu phủ thì nàng không hỏi đến nữa.
Thăng mễ ân đấu mễ cừu*, nàng cũng chẳng phải thật sự là Bồ Tát sống, nếu nhấc tay chi lao thì tất nhiên là nàng đồng ý giúp, nhưng nàng cũng sẽ không mặc cho người ta đùa bỡn.
*升米恩斗米仇: Một thăng gạo dưỡng ân nhân, một đấu gạo dưỡng cừu nhân: Câu này có nghĩa là, nếu bạn ra tay giúp người, người đó sẽ xem bạn là ân nhân, nhưng nếu cứ giúp mãi thì họ sẽ xem chuyện bạn giúp họ là đương nhiên, không giúp nữa thì chính là kẻ thù của họ.
Hứa Song Uyển đưa thư giao cho mấy người Khương nương, để các nàng ấy cũng đọc qua.
Sau khi Khương nương và Phúc nương đọc xong, Phúc nương mở miệng trước: “Ngài định sao ạ?”
“Bọn họ không có mặt mũi ấy.” Hứa Song Uyển cười nói.
Phu nhân của quan viên trong triều đình cũng chưa chắc có bản lĩnh để nàng hoà giải, dân chúng bình thường được nàng cứu giúp ngày xưa thì có mặt mũi ấy ư? Bản thân các nàng ở trong nhà cũng chưa từng được người nhà xem trọng, không có tiếng nói, sao các nàng lại cho rằng bản thân có thể lên tiếng trước mặt nàng? Ngay cả số mệnh của bản thân mà các nàng còn không kiểm soát được mà lại còn muốn khống chế người khác?
Hay là cảm thấy nàng tốt tính, dễ nói chuyện?
Người ấy à, sống quá hồ đồ thì không phải là chuyện tốt.
“Thiếu phu nhân, nô tỳ thấy việc này, có phải có vị nhắm vào ngài?” Khương nương khẽ lên tiếng.
“Ừ.” Hứa Song Uyển gật đầu,không phủ nhận. Nếu như Hoắc quý nữ kia hận nàng thì không có gì bất ngờ, nàng cũng không cảm thấy kì lạ. Chẳng qua, chắc là bởi vì nàng hiểu rõ người này đôi chút nên nàng không tôn kính với vị phế Thái tử phi này như trước.
Không phải bây giờ nàng cảm thấy vị phế Thái tử phi này không có thủ đoạn, mà thủ đoạn kia là loại mà trước đây Hứa Song Uyển sợ hãi nhất. Nếu trong ngực vị phế Thái tử phi này có chí lớn chứ không chỉ có đồi núi như nữ tử khác thì Hứa Song Uyển vẫn sẽ kính nàng vài phần.
Có dã tâm là chuyện tốt, nhưng nếu như dã tâm của nàng ta là lấy để lừa bịp hay mê hoặc người khác tác thành ham muốn cá nhân; vậy thì loại dã tâm này sẽ rất đáng sợ.
“Vậy ngài định như nào ạ?”
“Hiện giờ nàng ta vẫn ở trong am không đi.” Hứa Song Uyển nhìn Khương nương, nhẹ giọng hỏi nàng ấy: “Ngươi biết vì sao không?”
Khương nương do dự, nói: “Có lẽ là đi sám hối?”
Hứa Song Uyển lắc đầu, bình tĩnh nói: “Đa số người trong am là ni tăng, làm sao nàng ta có thể vào trong am.”
Có lẽ nàng ta không sống nổi ở Hoắc gia nên mới vào am để tạm thời tránh mũi nhọn
Nếu không thì sao không yên lành ở nhà mà vào am ni cô nhàm chán làm gì? Nàng ta chưa chắc có thể ngủ trên chiếc giường đơn sơ và lạnh lẽo trong miếu, chịu được giá lạnh thâm nhập.
Nàng ta chính là trưởng tôn nữ của Hoắc gia, nhưng Hoắc gia không phải chỉ có một mình nàng ta. Hoắc gia không những có nhiều người mà còn có lòng người phức tạp. Trong mắt rất nhiều người, nàng ta chính là nữ nhi của Hoắc gia đã gả đi được Hoắc gia dùng binh quyền đổi lại, vẫn là một nữ nhi thất bại không mang vinh hoa về cho gia tộc. Có mấy người Hoắc gia có thể thoải mái không oán trách nàng ta?
Ngày tháng nàng ta về Hoắc gia nhất định sống không dễ chịu. Hứa Song Uyển cũng hiểu rõ, sự kiêu ngạo của vị phế Thái tử phi này ân sâu vào trong xương, để nàng ta ăn nói khép nép sống qua ngày ở Hoắc gia thì nàng ta thà rằng đến ở trong am ni cô tạm lánh sóng gió ở Hoắc gia.
Chuyện này chỉ có thể nói là tạm thời tránh đầu mũi nhọn ở Hoắc gia mà không phải ở ẩn. Vị nữ nhi của Hoắc gia này chọn sống tạm ở miếu trong khoảng thời gian này, Hứa Song Uyển biết ngay vị Hoắc quý nữ này sẽ không làm việc vô dụng.
Hứa Song Uyển nói nhưng Khương nương còn chưa nghe hiểu, còn Phúc nương hiểu rõ. Nàng ấy mở miệng, nhỏ giọng nói với Thiếu phu nhân: “Nàng ta không sống nổi ở Hoắc gia, có lẽ nào người trong Hoắc gia có thể trị nàng ta?”
Hứa Song Uyển lắc đầu với nàng ấy, tay nàng sao có thể vương tới Hoắc gia.
“Tuỳ cơ ứng biến thôi.” Cũng không cần lo lắng, binh đến tướng chặn, nước dâng xây bờ. Trước kia, Hầu phủ có xu hướng suy sụp nghiêng về một bên mà nhà bọn họ có thể vực lại được, không có lý do gì mà tính huống bây giờ khả quan, bọn họ còn không nghĩ ra cách: “Xem đã.”
Bên phía am Từ Tâm còn có Tĩnh Tâm sư thái, vị sư tỷ trên danh nghĩa sẽ thay nàng quan sát.
Hứa Song Uyển vẫn không dám khinh thường Hoắc Văn Khanh, nàng lập tức nói việc này cho trượng phu nghe.
Tuyên Trọng An nghe xong thì cảm thấy kì lạ, nói: “Nàng ta còn có nhiều tín đồ?”
“Ừ.” Hứa Song Uyển gật đầu, nói tiếp: “Thiếp cảm thấy về sau sẽ có càng nhiều.”
Tuyên Trọng An nhìn nàng.
“Vị phế Thái tử phi này rất biết cách nói chuyện, cũng rất biết nhìn lòng người.” Hứa Song Uyển sợ hắn không hiểu rõ ý trong lời mình, nói thẳng: “Khách hành hương đến dâng hương, đều là có việc cần cầu người. Nàng ta chỉ cần đáp lại người ta, đương nhiên có cách để các nàng tin tưởng nàng ta. Lâu dần, khách tin tưởng nàng ta sẽ càng ngày càng nhiều, thanh danh cũng sẽ truyền xa, đến lúc đó nàng ta muốn xoay người, cũng không phải chuyện khó.”
Nàng sợ trượng phu thấy phế Thái tử phi là nữ tử thì coi thường nàng ta.
Hứa Song Uyển tận mắt thấy bản lĩnh mê hoặc lòng người của vị phế Thái tử phi kia. Mặc dù nàng hiểu rõ vị phế Thái tử phi chỉ lừa gạt nàng thông qua lời nói nhưng nàng cũng xúc động.
Nếu nàng không có ý chí kiên định thì sẽ tin tưởng nàng ta.
“A.” Tuyên Trọng An cười thành tiếng: “Lại một Đào Tĩnh?”
Hứa Song Uyển không ngờ hắn nói như vậy, ngây người một lát rồi mới từ từ gật đầu.
Nàng không nghĩ rằng hắn so sánh nàng ta với Đào thủ lĩnh.
“Được, ta hiểu rồi.” Tuyên Trọng An nhìn về phía nàng, thấy nàng nhìn hắn mỉm cười; hắn im lặng một lát rồi hỏi nàng: “Gần đây có mệt không?”
Hứa Song Uyển lắc đầu, chỉ là ánh mắt của hắn quá dịu dàng, Hứa Song Uyển khẽ thở dài, siết chặt cái nắm tay: “Không mệt bằng chàng.”
Tuyên Trọng An ôm nàng vào lồng ngực: “Nếu như cứ sống như thế theo ta hết cuộc đời này, nàng có cảm thấy khổ không?”
Hứa Song Uyển tựa vào lồng ngực của hắn, có mỹ nhân đẹp như ngọc, trưởng công tử nhà nàng há không phải một khối ngọc đẹp ư. Lòng nàng có hắn, không phải chỉ bởi vì hắn đối xử tốt với nàng, mà là vì chí hướng của hắn không như nước chảy từ núi cao, mà ở trong triều đình dơ bẩn tạp nham, bị trói buộc trong sự nghèo túng của dân chúng.
Hắn là một nam nhân vĩ đại, thứ nàng yêu thích chính là con người và lòng dạ của hắn.
“Không khổ.” Sau khi nàng im lặng một lúc lâu, nói tiếp: “Như chàng từng nói, thiên hạ này phồn vinh hưng thịnh; mặc dù đời người như kiến hôi, cũng có thể để bọn họ dựa vào hai tay và hai chân sinh tồn, có thể ăn no mặc ấm, tìm đường sống trên thế gian này thì thiếp không cảm thấy khổ.”
Nàng không có bản lĩnh lớn như hắn, nhưng nàng bằng lòng vì hắn, ở bên hắn để hắn làm chuyện muốn làm, để có thể ngắm nhìn cảnh đẹp thịnh thế ở tương lai.
Dù là không nhìn thấy, nhưng chỉ cần có một ngày như vậy thì nàng cũng không oán không hối.
Nàng bằng lòng góp một phần sức lực mỏng manh.
Nàng vừa dứt lời, Tuyên Trọng An cũng im lặng rất lâu. Lúc này, trong mắt của hắn có nước mắt, sợ thê tử nhìn thấy nên hắn ôm chặt nàng, đặt cằm trên đầu nàng, không cho nàng ngẩng đầu nhìn hắn.
Hứa Song Uyển giãy dụa hai lần, thấy hắn giữ nàng không cho nhúc nhích thì nàng liền đứng im.
Nàng thầm nghĩ, hắn cũng sẽ đau lòng khổ sở, cũng sẽ có lúc yếu mềm. Nếu nàng không ở bên hắn, không ai hiểu hắn, không bảo vệ hắn lúc hắn khó chịu thì hắn sẽ đáng thương biết bao.
Nàng thương hắn, chỉ tưởng tượng thôi đã không chịu được, làm sao cam lòng.
**
Năm nay cực kì lạnh giá. Đêm ba mươi Tết, kinh thành có một trận tuyết lớn, cũng may không khí vui mừng của Tết đến hoà tan bớt cái lạnh…
Từ ngày mùng Một, phủ Quy Đức Hầu đã lục tục có người tới chúc tết, đa số đều là thanh niên tuấn kiệt vừa lên làm quan viên chưa lâu.
Năm ngoái, Tả tướng đại nhân ra tay, đa số vị trí trong nha môn của kinh thành đều bị bọn họ lấp kín. Đa phần mấy người bọn họ đều chỉ có một thân tài hoa, không có tiền bạc, là thư sinh hàn môn chuẩn bị ra đường; thậm chí, còn có thanh niên tuấn kiệt nhút nhát. Tả tướng không bám vào một khuôn mẫu để thu nhận nhân tài mà dựa vào sở trường của bọn họ, để bọn họ ngồi trước cần chuẩn bị bút và bạc mới ngồi vào được chức quan này.
Tả tướng không cần những người này báo đáp, bình thường cũng không thể gặp; nhưng Tết đến, biết phủ Quy Đức Hầu mở cửa đón khách, bọn họ liền tụm năm tụm ba đến Hầu phủ để chúc tết Tuyên tướng đại nhân.
Hiện giờ, trong kinh thực sự chẳng khá hơn là bao; thậm chí còn lộn xộn bởi vì phải giúp đỡ nhiều nơi. Có rất ít lái buôn đến phương bắc, trong kinh còn vắng vẻ hơn so với hai năm trước. Kỳ lạ, năm nay lòng dân còn yên ổn hơn trước, bọn họ không thuộc sự xa xỉ phô trương của quý tộc nhà giàu trong kinh như lòng bàn tay, mà nhắc đến chuyện thánh thượng động viên Chiêu Châu, bổ cứu Liễu Châu. Nói đến việc thánh thượng giảm miễn thu thuế, tiết kiệm tiền cai quản linh cữu và mai táng của tiên đế để cai quản thiên hạ. Một ngày, hắn chỉ ăn một bữa cơm có sáu món ăn, để tránh phí tiền dưỡng phi tử nên chỉ cưới một Hoàng Hậu để lo liệu việc nối dõi tông đường…
Biết thánh thượng cũng giống như bọn họ, cũng phải tiết chế tỉ mỉ tính toán sinh hoạt. Trước kia, các lão bách tính hâm mộ rất nhiều nhà giàu quyền quý ngất trời trong kinh, bây giờ trong lòng bọn họ yên tâm hơn nhiều.
Một thánh thượng đi lên không vơ vét mồ hôi nước mắt của nhân dân, mà là nên thả đều thả, nên giảm bớt gánh nặng cho dân chúng cũng đã giảm bớt. Những ngày tháng gần đây, dân chúng không sống dễ chịu như trước đây, nhưng lại ít oán thán. Có người oán trách được người khác nghe được, cũng sẽ bị người ta nói hai câu là trong mắt không có thiên hạ, không có quốc gia.
Bây giờ, Đại Vi đang gặp khó khăn, bọn họ là bách tính dưới chân thiên tử nên đã sống những ngày tháng tốt hơn dân chúng ở nơi khác. Nếu ngay cả chuyện nhỏ ấy cũng không thông cảm cho thánh thượng, không thông cảm cho Đại Vi thì cũng quá ích kỉ rồi.
Tốt nhất là nên động viên dân chúng. Bọn họ sẽ cảm thấy những ngày tháng này có thể sống qua được, có thể chịu đựng được thì sẽ nhẫn nhịn, không nên thông cảm thì bọn họ đều sẽ thông cảm.
Mà quan chức của Đại Vi, hiếm có một đợt quan viên mới nhậm chức nào mà đồng tâm đồng đạo. Tuyên Trọng An có một phong cách ghi chép nhân tài rất riêng, những người này cũng rất biết ơn sự trọng dụng và hậu đãi của Tả tướng đại nhân đối với bọn họ. Tay chân của bọn họ cực kì sạch sẽ, làm việc cũng rất kiên nhẫn, đối xử với dân chúng cũng hoà nhã hơn những quan viên trước kia. Có thể nói, dân chúng trong kinh tôn trọng và sùng bái thánh thượng, đã thông cảm cho sự hỗ trợ của triều đình thiên hạ, phần lớn đều đến từ thái độ và phong cách làm việc của nhóm quan lại.
Trước kia, phải tốn rất nhiều bạc và thời gian rất lâu mới có thể làm việc thoả đáng, đến nhóm quan viên tận trung tận chức, không cần hao tốn ngân lượng mà rất nhanh chóng hoàn thành công việc. Đây là chuyện chưa từng xảy ra, khiến lão bách tính tặc lưỡi ngạc nhiên, càng cảm thấy vui mừng và hưng phấn. Cả đời bọn họ chưa từng thấy dân chúng xem quan viên là người, nào có ai sợ mấy chức quan nhỏ như bọn họ; trong lòng dân chúng, quan lớn và quan nhỏ chẳng có gì khác biệt.
Trong tay bọn họ, tình hình trong kinh vô tri vô giác thay đổi rất nhiều. Đám đại thần ở trên cao không cảm nhận được, mặc dù cảm nhận được nhưng bọn hắn cũng khinh thường, xưa nay quốc gia này không phải của dân chúng mà là của bọn hắn. Nếu như dân chúng không phải dân chúng, không thuận theo lòng dân thì bọn hắn có thừa cách để giết sạch bọn họ. Trong mắt bọn hắn, dân chúng chẳng khác gì giun dế heo chó, chẳng đáng một xu.
Nhưng Tuyên Trọng An biết; rõ ràng nhất chính là, nếu cỗ kiệu của hắn đi ngang qua nơi ở của dân chúng thì sẽ có người chào hỏi thị vệ, ân cần thăm hỏi hắn ở trong kiệu. Hoá ra, nguyên nhân là đám quan viên mới kia tôn hắn là lão sư, quan viên mới coi hắn là ân sư thì cũng tuyên bố như thế ở bên ngoài. Dân chúng cũng xem là vậy, coi hắn là Thanh Thiên Đại lão gia.
Trước kia hắn có thanh danh là Ngọc Diện Diêm La, đến bây giờ cũng không ai bằng lòng nhắc đến; cho dù nhắc lên, cũng nói là hắn giết tham quan…
Loại thay đổi này, cho dù Tuyên Trọng An lên voi xuống chó từ nhỏ mấy lần, cũng cảm thấy vận mệnh thật sự là một chuyện rất huyền diệu. Lúc hắn làm Thượng Thư hai bộ, cho là từ đây mình sẽ bước vào địa ngục vô biên, chưa từng nghĩ rằng hắn không quay đầu lại thì có người đã để hắn lập địa thành Phật.
Nước có thể nâng thuyền, cũng có thể lật thuyền; ngược lại, nước có thể lật thuyền, cũng có thể chở thuyền.
Những quan viên mới nhậm chức đã gọi hắn là lão sư, bọn họ tới cửa đến chúc tết thì Tuyên Trọng An cũng gặp bọn họ một lát.
Tuyên Trọng An, coi như ở trên có phụ có mẫu, ở ngoài còn có ngoại tổ phụ Khương gia giúp đỡ; nhưng thời niên thiếu hắn đã từng lang bạt kỳ hồ, đã gian nan đi qua nhiều nơi, đã tiếp xúc với rất nhiều, không thể tránh khỏi đã nhìn thấy số phận của kha khá người. Trong lòng hắn nghĩ vận mệnh của mình không phải của cá nhân, bởi thế mà khi hắn nằm trong tay tiên đế, bản thân khó bảo toàn, cũng bởi vì bản thân đã trải qua nhiều việc nên hắn giả ngây giả dại, cũng muốn tranh một trận trong tay Hoàng Đế, tranh chấp nhất thời thì nhất thời thôi.
Sống đến một mức nào đó, đứng ở địa vị cao nhất định thì bản thân không còn là của chính mình, Tuyên Trọng An giống như vậy. Hắn không còn là trưởng công tử của Hầu phủ tham sống sợ chết, hắn có việc phải đảm đương và thừa nhận; thật ra cũng chẳng thoải mái hơn trước kia là bao, ngược lại bởi vì địa vị càng cao thì trách nhiệm càng lớn.
Trách nhiệm càng lớn thì cân bằng càng nhiều, không dám tuỳ tiện động đậy. Người từng bước một bị rằng buộc như nào, hiện tại Tuyên Trọng An đã hiểu rõ.
Sau khi gặp những đám quan viên mới nhậm chức, Tuyên Trọng An mới phát hiện, những thanh niên tuấn kiệt này càng muốn làm đến nơi đến chốn hơn hắn. Hắn chọn trúng bọn họ, một trong những nguyên nhân chính là bọn họ có xuất thân bần hàn, biết thế đạo gian nan nên khi bọn họ làm quan thì sẽ có lòng trắc ẩn với phụ mẫu và dân chúng; nhưng hắn không nghĩ tới, những người này cũng biết chỗ hổng của quốc gia này ở đâu. Bọn họ có rất nhiều ý nghĩ để thay đổi quốc gia, cũng biết hiện giờ thánh thượng và quan viên khó khăn; thậm chí, bọn họ còn đồng ý giảm bổng lộc, đồng cam cộng khổ cùng thánh thượng và thiên hạ…
Bổng lộc của chức quan nhỏ vốn dĩ cũng không cao, Tuyên Trọng An không cô phụ lòng chứa chan nhiệt tình của bọn họ. Những quan viên có xuất thân không tốt càng dễ thoả mãn hơn con cháu của quan lại. Bọn họ càng chân thành và trung thành với quốc gia hơn, nhưng nhiệt tình không qua được thời gian, bọn hắn tình nguyện nghèo khó vì nhiệt tình nhưng phụ mẫu thê nhi của bọn họ chưa chắc có thể chịu được.
Từ nhỏ Tuyên Trọng An đã trải qua nhiều chuyện, hắn biết một khi chuyện được bàn luận viển vông, vậy thì chẳng cách ngày sụp đổ bao xa. Xưa nay, việc không thể được giải quyết dựa vào nhiệt tình và suy nghĩ. Đám quan viên này đang sống, cũng không phải chỉ sống cho bản thân, phía sau bọn họ còn có người thân, nếu người thân sống không tốt thì đủ để ảnh hưởng con đường làm quan của bọn họ; đây không phải chuyện muốn thu xếp là có thể thu xếp.
Hắn bắt đầu đàm luận sâu với những người này, nói đến triển vọng của thánh thượng và bản thân hắn dành cho quốc gia này, nói đến hy vọng vào những quan viên mới nhậm chức.
“Quan phụ mẫu các ngươi không có cuộc sống ổn định thì làm sao có thể dẫn dắt dân chúng sống những tháng ngày giàu có? Nhà của chính mình mà còn không yên ổn thì ta cũng không tin tưởng các ngươi sẽ tận lực đối xử với bách tính.”
Không dọn dẹp được phòng thì lấy gì bình thiên hạ, Tuyên Trọng An nói như vậy với đám thanh niên tuấn kiệt sùng bái hắn: “Các ngươi nghĩ xa hơn cho thiên hạ này hơn ta tưởng. Việc ta muốn làm, chính là dẫn theo các ngươi – những đồng liệu tràn ngập nhiệt huyết đối với quốc gia này, góp sức vì thiên hạ. Chỉ cần cố gắng hết sức mình thì các ngươi sẽ là những quan viên tốt nhất triều đình, là nền tảng vững chắc của Đại Vi. Chúng ta tận lực là để bày sẵn đường cho hậu nhân, làm tấm gương sáng cho thế hệ sau là công đức lớn lao. Các ngươi nói xem có phải có lý không?”
Tuyên tướng lại nói: “Các ngươi tình nguyện không cần danh tiếng, lấy thiên hạ làm nhiệm vụ của mình đã là phúc cho Đại Vi ta, Tuyên mỗ ở đây cảm ơn chư vị. Triều đình sẽ không giảm bổng lộc của các ngươi, chờ triều đình và dân chúng vượt qua cửa ải khó khăn này, mùa màng tốt hơn thì sẽ tăng thêm bổng lộc cho các ngươi. Tuyên mỗ chỉ nguyện các vị có cuộc sống ổn định, cùng Tuyên mỗ cống hiến sức lực của bản thân này cho thiên hạ.”
Những lời Tuyên Trọng An nói với đám người này, rất nhanh đã truyền khắp trong một nhóm quan chức mới nhậm chức. Tháng giêng còn chưa đến, danh tiếng tốt đẹp của Tuyên tướng đã truyền khắp trên dưới kinh thành.
Ngọc diện Diêm La thành Ngọc diện Nhân tướng.
Trong cung, Bảo Lạc nghe được biệt danh này, hơi ghen ghét, bèn nói với Hoàng Hậu nương nương: “Sao ai cũng thích hắn?”
Hoàng Hậu nương nương nghiêng đầu sang chỗ khác, nín cười.
Bảo Lạc cũng chỉ là hơi ghen ghét mà thôi. Thật ra, thanh danh cũng của hắn trong dân gian cũng không kém, cũng không biết truyền đi thế nào mà hiện giờ dân gian gọi hắn là Bảo Lạc hoàng.
Bảo Lạc hoàng, hiện tại đã được ghi vào gia phả hoàng gia, Tần Bảo Lạc rất thích cái tên trong dân gian này của mình. Nếu như dân chúng trong thiên hạ đều gọi hắn là Bảo Lạc hoàng thì hắn quả thật đồng ý làm Bảo Lạc hoàng cả đời. Dù cho khó hơn nữa, hắn cũng đồng ý ngồi chắc ở vị trí này vì cái danh hiệu này, dẫu cho có người trong bóng tối nhìn chằm chằm hắn mỗi giờ mỗi khắc để đẩy hắn xuống, không chịu buông tha cho hắn.
Lòng người là thứ khó dò. Trước đó, Trần Thái phi được Bảo Lạc đẩy ra để chủ trì hậu cung, hưởng qua mùi vị của quyền lực thì không muốn buông, ai có thể ngờ rằng bà từng dè dặt và thận trong chỉ để sống sót trong hậu cung vài chục năm. Như một thủ hạ của Trương Tài, một nữ quan từng bị tiên đế làm nhục, muốn làm hậu phi nên trêu chọc câu dẫn Bảo Lạc trong lúc thay quần áo, không cung kính khiêm tốn như trước. Bảo Lạc lạnh lùng nhìn những người này, trong lòng hắn hiểu rõ rằng hắn chỉ còn vẫn làm Hoàng Đế một ngày thì loại người như vậy sẽ liên tục xuất hiện vây quanh bên cạnh, sẽ có vô số chuyện xảy ra; vậy thì đời này hắn khó có thể trải quả những tháng ngày yên tĩnh không phiền muộn ý xấu.
Hắn biết rõ nên móc tim móc phổi đối xử với Hoàng Hậu, hắn nói với Hoàng Hậu nương nương: “Ta sẽ không phụ lòng nàng, cảm ơn nàng đồng ý tiến cung ở bên ta cả đời này.”
Bảo Lạc hoàng không có sở trường về ngôn từ, mà Hoàng Hậu nương nương đúng lúc là nữ tử chỉ cần đơn giản nói vài câu là có thể cảm động. Hoàng Đế chỉ nói hai câu mà Hoàng Hậu nương nương đã khóc đến thở không ra hơi, cuối cùng bởi vì khóc nhiều quá nên xấu hổ, tận mấy ngày cũng không dám nhìn thẳng vào mắt của Hoàng Đế.
Tháng giêng vừa qua, triều đình cũng có biến chuyển. Hứa Song Uyển được biết rằng vị huynh trưởng Hứa gia đã trở về kinh thành đại tang, lúc này nàng cũng mới biết là mẫu thân cũng quay về.
Chưa đến mấy ngày, tin tức mẫu thân ngã bệnh nặng truyền đến Hầu phủ. Tẩu tử nàng tự mình đến Hầu phủ, nói mẫu thân đổ bệnh nặng thật sự rất nhớ nàng, muốn gặp nàng.
Hầu phủ không cho phép nàng ta bước vào, thậm chí Hứa Tần thị còn quỳ trước cửa Hầu phủ, người của Hầu phủ lập tức nâng nàng ta dậy, khuyên bảo nàng ta trở về.
Hứa Tần thị lập tức quay về, nhưng ngày mai lại tới, lại đau khổ cầu xin, còn liên tục dập đầu.
Sau ngày thứ hai nàng ta lại tới, Hứa Song Uyển biết hiện giờ chỉ có một cách ổn thoả để tránh việc này chính là tạm thời rời Hầu phủ, hoặc là ra ngoài tránh một lúc; tuy nhiên, vẫn còn một cách như mong muốn của bọn họ chính là đi gặp mẫu thân không biết có phải mắc bệnh nặng hay không.
Hứa Song Uyển không mời người khác mà gọi Khương Đại cữu mẫu tới.
Khương Đại phu nhân đến Hầu phủ, không biết liệu có phải bên phía Hứa gia nghe được tin nên hôm ấy Hứa Tần thị không đến. Nàng ta không đến, Khương Đại phu nhân cũng không đi, ở lại Hứa gia.
Đại nương nhà mẹ đẻ lại tới, Tuyên Khương thị vừa lo lắng vừa vui mừng, lo lắng chính là liệu bản thân có làm ra việc gì để đại tẩu không thích hay không, còn vui mừng chính là có người có thể trò chuyện với mình.
Hiện tại, con dâu bận nhiều việc, hơn nữa còn phải chăm tôn nhi. Bây giờ, tôn nhi đã lớn nên ồn ào hơn; để tránh quấy nhiễu sự thanh tĩnh của bà nên con dâu không dẫn Vọng Khang đến chơi với bà như trước. Lúc Hầu gia không ở nhà thì không ai ở bên Tuyên Khương thị, bà cảm thấy hơi cô đơn; hiện giờ ngày nào cũng thấy đại tẩu, đương nhiên bà vui mừng không ngớt.
Hai nhà Tuyên Khương giúp đỡ lẫn nhau. Trước kia là Khương gia che chở Tuyên gia, hiện giờ Tuyên gia đi lên, Khương gia càng không chịu thua kém. Trong ba nhi tử của Khương Đại phu nhân, có người đã là hạ thần quan trọng; còn một người hết tháng hai sẽ rời kinh làm huyện lệnh của một châu; người còn lại chờ kỳ thi cao trung vào mùa xuân, lại được tuyển chọn vào triều. Hiện tại, con cháu trong tộc cũng có lối đi riêng, binh lính của Khương gia có tiền đồ rộng lớn; gia tộc Khương gia càng hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau hơn trước. Khương Đại phu nhân thân là con dâu trưởng của Khương lão thái gia, tức đương gia phu nhân của Khương gia, được tôn trọng trong tộc. Khương Đại phu nhân có đi có lại, bằng lòng giúp Hầu phủ giải quyết chuyện nhỏ này nên ở lại. Bà sợ cháu dâu khó xử, dù nhìn tiểu cô tử chướng mắt nhưng vẫn coi nàng là nữ chủ nhân, bình tĩnh ở chung với nàng, tạm thời cũng không có ý định trở về.
Hứa Song Uyển mời được một người có thể giúp nàng xử lý vấn đề của Hứa gia. Lúc này, nàng cũng nhận được tin tức Thanh Tâm sư thái muốn dẫn đệ tử đi vân du tứ hải.
Thanh Tâm sư thái nói là vân du tứ hải, thực ra là dẫn theo đệ tử trong am bằng lòng đi xa tha hương với nàng ấy, tìm một nơi an thân để các nàng thanh tu.
Bởi vậy, Hứa Song Uyển thành tâm đến chùa Bảo thỉnh một tượng Quan Âm, đặt trong hộp đàn hương. Ngoài ra, nàng còn chuẩn bị một trăm lượng bạc vụn cùng ngân phiếu năm trăm lượng.
Một trăm lượng là để sư thái dùng ít cơm canh đạm bạc trên đường, còn năm trăm lượng là để xây dựng lại chùa miếu, có lẽ lúc ấy sẽ cần.
Nàng cũng không thể cho nhiều, nhiều hơn thì sư thái sẽ không nhận.
Hứa Song Uyển tiễn các nàng ở ngoại ô. Thanh Tâm sư thái chỉ lấy một trăm lượng bạc vụn của nàng rồi chia cho người bên cạnh phòng thân, còn tiền bạc mà Hứa Song Uyển nói để xây dựng lại chùa miếu thì nàng ấy không nhận.
“Đã nhận được kha khá ngân lượng từ Hoắc thí chỉ. Am Từ Tâm sụp đổ vì nàng, có một ngày thì am Phổ Tâm cũng sẽ xây dựng vì ngân lượng của nàng. Vừa lên vừa sụp đổ, nhân duyên giữa chúng ta và nàng đã đứt.” Thanh Tâm sư thái niệm a di đà phật, rũ mắt nhìn chuỗi tràng hạt trong tay, nói: “Sau này am Từ Tâm đã không phải là am Từ Tâm, sư tổ và sư phụ đã được chúng ta thỉnh tượng mang theo bên người, Hứa sư muội không cần nhớ tình cũ.”
Tim của Hứa Song Uyển đập loạn.
Thanh Tâm ngước mắt, thấy hai hàng nước mắt của nàng chảy ra, nàng ấy niệm a di đà phật rồi mỉm cười nói với nữ tử xinh đẹp tuyệt trần khó nén bi thương đứng trước mặt: “Chúng sinh đều khổ, muội khó khăn bước tiếp, cũng không biết khi nào mới là ngày giải thoát. Chuyến này sư tỷ ra đi, có lẽ đời này tỷ và muội khó có thể gặp lại; nhưng xin sư muội biết, dẫu là am Từ Tâm hay am Phổ tâm; muội, sư phụ và đạo sẽ theo Thanh Tâm suốt cuộc đời này.”
Đến chết nàng vẫn sẽ nhớ mình từng có một sư muội.
“A di đà phật.” Thanh Tâm vừa dứt lời, lập tức chắp hai tay rồi khom lưng hành lễ.
Cứ như vậy đi.
“A di đà phật…” Phía sau nàng, đệ tử đi theo cũng cúi đầu, thì thầm.
Hai tay Hứa Song Uyển chắp lại, cúi người, nước mắt rơi đầy mặt.
“A di đà phật.” Nàng nói.
Đường lớn khó tìm, không biết dọc đường có bao nhiêu người phải thoả hiệp hy sinh.
Bên phía am Từ Tâm, từ sau khi nàng gặp mặt với vị quý nữ Hoắc gia kia, có một, hai người nhà từng được nàng cứu giúp vẫn tìm đến Hầu phủ thì nàng không hỏi đến nữa.
Thăng mễ ân đấu mễ cừu*, nàng cũng chẳng phải thật sự là Bồ Tát sống, nếu nhấc tay chi lao thì tất nhiên là nàng đồng ý giúp, nhưng nàng cũng sẽ không mặc cho người ta đùa bỡn.
*升米恩斗米仇: Một thăng gạo dưỡng ân nhân, một đấu gạo dưỡng cừu nhân: Câu này có nghĩa là, nếu bạn ra tay giúp người, người đó sẽ xem bạn là ân nhân, nhưng nếu cứ giúp mãi thì họ sẽ xem chuyện bạn giúp họ là đương nhiên, không giúp nữa thì chính là kẻ thù của họ.
Hứa Song Uyển đưa thư giao cho mấy người Khương nương, để các nàng ấy cũng đọc qua.
Sau khi Khương nương và Phúc nương đọc xong, Phúc nương mở miệng trước: “Ngài định sao ạ?”
“Bọn họ không có mặt mũi ấy.” Hứa Song Uyển cười nói.
Phu nhân của quan viên trong triều đình cũng chưa chắc có bản lĩnh để nàng hoà giải, dân chúng bình thường được nàng cứu giúp ngày xưa thì có mặt mũi ấy ư? Bản thân các nàng ở trong nhà cũng chưa từng được người nhà xem trọng, không có tiếng nói, sao các nàng lại cho rằng bản thân có thể lên tiếng trước mặt nàng? Ngay cả số mệnh của bản thân mà các nàng còn không kiểm soát được mà lại còn muốn khống chế người khác?
Hay là cảm thấy nàng tốt tính, dễ nói chuyện?
Người ấy à, sống quá hồ đồ thì không phải là chuyện tốt.
“Thiếu phu nhân, nô tỳ thấy việc này, có phải có vị nhắm vào ngài?” Khương nương khẽ lên tiếng.
“Ừ.” Hứa Song Uyển gật đầu,không phủ nhận. Nếu như Hoắc quý nữ kia hận nàng thì không có gì bất ngờ, nàng cũng không cảm thấy kì lạ. Chẳng qua, chắc là bởi vì nàng hiểu rõ người này đôi chút nên nàng không tôn kính với vị phế Thái tử phi này như trước.
Không phải bây giờ nàng cảm thấy vị phế Thái tử phi này không có thủ đoạn, mà thủ đoạn kia là loại mà trước đây Hứa Song Uyển sợ hãi nhất. Nếu trong ngực vị phế Thái tử phi này có chí lớn chứ không chỉ có đồi núi như nữ tử khác thì Hứa Song Uyển vẫn sẽ kính nàng vài phần.
Có dã tâm là chuyện tốt, nhưng nếu như dã tâm của nàng ta là lấy để lừa bịp hay mê hoặc người khác tác thành ham muốn cá nhân; vậy thì loại dã tâm này sẽ rất đáng sợ.
“Vậy ngài định như nào ạ?”
“Hiện giờ nàng ta vẫn ở trong am không đi.” Hứa Song Uyển nhìn Khương nương, nhẹ giọng hỏi nàng ấy: “Ngươi biết vì sao không?”
Khương nương do dự, nói: “Có lẽ là đi sám hối?”
Hứa Song Uyển lắc đầu, bình tĩnh nói: “Đa số người trong am là ni tăng, làm sao nàng ta có thể vào trong am.”
Có lẽ nàng ta không sống nổi ở Hoắc gia nên mới vào am để tạm thời tránh mũi nhọn
Nếu không thì sao không yên lành ở nhà mà vào am ni cô nhàm chán làm gì? Nàng ta chưa chắc có thể ngủ trên chiếc giường đơn sơ và lạnh lẽo trong miếu, chịu được giá lạnh thâm nhập.
Nàng ta chính là trưởng tôn nữ của Hoắc gia, nhưng Hoắc gia không phải chỉ có một mình nàng ta. Hoắc gia không những có nhiều người mà còn có lòng người phức tạp. Trong mắt rất nhiều người, nàng ta chính là nữ nhi của Hoắc gia đã gả đi được Hoắc gia dùng binh quyền đổi lại, vẫn là một nữ nhi thất bại không mang vinh hoa về cho gia tộc. Có mấy người Hoắc gia có thể thoải mái không oán trách nàng ta?
Ngày tháng nàng ta về Hoắc gia nhất định sống không dễ chịu. Hứa Song Uyển cũng hiểu rõ, sự kiêu ngạo của vị phế Thái tử phi này ân sâu vào trong xương, để nàng ta ăn nói khép nép sống qua ngày ở Hoắc gia thì nàng ta thà rằng đến ở trong am ni cô tạm lánh sóng gió ở Hoắc gia.
Chuyện này chỉ có thể nói là tạm thời tránh đầu mũi nhọn ở Hoắc gia mà không phải ở ẩn. Vị nữ nhi của Hoắc gia này chọn sống tạm ở miếu trong khoảng thời gian này, Hứa Song Uyển biết ngay vị Hoắc quý nữ này sẽ không làm việc vô dụng.
Hứa Song Uyển nói nhưng Khương nương còn chưa nghe hiểu, còn Phúc nương hiểu rõ. Nàng ấy mở miệng, nhỏ giọng nói với Thiếu phu nhân: “Nàng ta không sống nổi ở Hoắc gia, có lẽ nào người trong Hoắc gia có thể trị nàng ta?”
Hứa Song Uyển lắc đầu với nàng ấy, tay nàng sao có thể vương tới Hoắc gia.
“Tuỳ cơ ứng biến thôi.” Cũng không cần lo lắng, binh đến tướng chặn, nước dâng xây bờ. Trước kia, Hầu phủ có xu hướng suy sụp nghiêng về một bên mà nhà bọn họ có thể vực lại được, không có lý do gì mà tính huống bây giờ khả quan, bọn họ còn không nghĩ ra cách: “Xem đã.”
Bên phía am Từ Tâm còn có Tĩnh Tâm sư thái, vị sư tỷ trên danh nghĩa sẽ thay nàng quan sát.
Hứa Song Uyển vẫn không dám khinh thường Hoắc Văn Khanh, nàng lập tức nói việc này cho trượng phu nghe.
Tuyên Trọng An nghe xong thì cảm thấy kì lạ, nói: “Nàng ta còn có nhiều tín đồ?”
“Ừ.” Hứa Song Uyển gật đầu, nói tiếp: “Thiếp cảm thấy về sau sẽ có càng nhiều.”
Tuyên Trọng An nhìn nàng.
“Vị phế Thái tử phi này rất biết cách nói chuyện, cũng rất biết nhìn lòng người.” Hứa Song Uyển sợ hắn không hiểu rõ ý trong lời mình, nói thẳng: “Khách hành hương đến dâng hương, đều là có việc cần cầu người. Nàng ta chỉ cần đáp lại người ta, đương nhiên có cách để các nàng tin tưởng nàng ta. Lâu dần, khách tin tưởng nàng ta sẽ càng ngày càng nhiều, thanh danh cũng sẽ truyền xa, đến lúc đó nàng ta muốn xoay người, cũng không phải chuyện khó.”
Nàng sợ trượng phu thấy phế Thái tử phi là nữ tử thì coi thường nàng ta.
Hứa Song Uyển tận mắt thấy bản lĩnh mê hoặc lòng người của vị phế Thái tử phi kia. Mặc dù nàng hiểu rõ vị phế Thái tử phi chỉ lừa gạt nàng thông qua lời nói nhưng nàng cũng xúc động.
Nếu nàng không có ý chí kiên định thì sẽ tin tưởng nàng ta.
“A.” Tuyên Trọng An cười thành tiếng: “Lại một Đào Tĩnh?”
Hứa Song Uyển không ngờ hắn nói như vậy, ngây người một lát rồi mới từ từ gật đầu.
Nàng không nghĩ rằng hắn so sánh nàng ta với Đào thủ lĩnh.
“Được, ta hiểu rồi.” Tuyên Trọng An nhìn về phía nàng, thấy nàng nhìn hắn mỉm cười; hắn im lặng một lát rồi hỏi nàng: “Gần đây có mệt không?”
Hứa Song Uyển lắc đầu, chỉ là ánh mắt của hắn quá dịu dàng, Hứa Song Uyển khẽ thở dài, siết chặt cái nắm tay: “Không mệt bằng chàng.”
Tuyên Trọng An ôm nàng vào lồng ngực: “Nếu như cứ sống như thế theo ta hết cuộc đời này, nàng có cảm thấy khổ không?”
Hứa Song Uyển tựa vào lồng ngực của hắn, có mỹ nhân đẹp như ngọc, trưởng công tử nhà nàng há không phải một khối ngọc đẹp ư. Lòng nàng có hắn, không phải chỉ bởi vì hắn đối xử tốt với nàng, mà là vì chí hướng của hắn không như nước chảy từ núi cao, mà ở trong triều đình dơ bẩn tạp nham, bị trói buộc trong sự nghèo túng của dân chúng.
Hắn là một nam nhân vĩ đại, thứ nàng yêu thích chính là con người và lòng dạ của hắn.
“Không khổ.” Sau khi nàng im lặng một lúc lâu, nói tiếp: “Như chàng từng nói, thiên hạ này phồn vinh hưng thịnh; mặc dù đời người như kiến hôi, cũng có thể để bọn họ dựa vào hai tay và hai chân sinh tồn, có thể ăn no mặc ấm, tìm đường sống trên thế gian này thì thiếp không cảm thấy khổ.”
Nàng không có bản lĩnh lớn như hắn, nhưng nàng bằng lòng vì hắn, ở bên hắn để hắn làm chuyện muốn làm, để có thể ngắm nhìn cảnh đẹp thịnh thế ở tương lai.
Dù là không nhìn thấy, nhưng chỉ cần có một ngày như vậy thì nàng cũng không oán không hối.
Nàng bằng lòng góp một phần sức lực mỏng manh.
Nàng vừa dứt lời, Tuyên Trọng An cũng im lặng rất lâu. Lúc này, trong mắt của hắn có nước mắt, sợ thê tử nhìn thấy nên hắn ôm chặt nàng, đặt cằm trên đầu nàng, không cho nàng ngẩng đầu nhìn hắn.
Hứa Song Uyển giãy dụa hai lần, thấy hắn giữ nàng không cho nhúc nhích thì nàng liền đứng im.
Nàng thầm nghĩ, hắn cũng sẽ đau lòng khổ sở, cũng sẽ có lúc yếu mềm. Nếu nàng không ở bên hắn, không ai hiểu hắn, không bảo vệ hắn lúc hắn khó chịu thì hắn sẽ đáng thương biết bao.
Nàng thương hắn, chỉ tưởng tượng thôi đã không chịu được, làm sao cam lòng.
**
Năm nay cực kì lạnh giá. Đêm ba mươi Tết, kinh thành có một trận tuyết lớn, cũng may không khí vui mừng của Tết đến hoà tan bớt cái lạnh…
Từ ngày mùng Một, phủ Quy Đức Hầu đã lục tục có người tới chúc tết, đa số đều là thanh niên tuấn kiệt vừa lên làm quan viên chưa lâu.
Năm ngoái, Tả tướng đại nhân ra tay, đa số vị trí trong nha môn của kinh thành đều bị bọn họ lấp kín. Đa phần mấy người bọn họ đều chỉ có một thân tài hoa, không có tiền bạc, là thư sinh hàn môn chuẩn bị ra đường; thậm chí, còn có thanh niên tuấn kiệt nhút nhát. Tả tướng không bám vào một khuôn mẫu để thu nhận nhân tài mà dựa vào sở trường của bọn họ, để bọn họ ngồi trước cần chuẩn bị bút và bạc mới ngồi vào được chức quan này.
Tả tướng không cần những người này báo đáp, bình thường cũng không thể gặp; nhưng Tết đến, biết phủ Quy Đức Hầu mở cửa đón khách, bọn họ liền tụm năm tụm ba đến Hầu phủ để chúc tết Tuyên tướng đại nhân.
Hiện giờ, trong kinh thực sự chẳng khá hơn là bao; thậm chí còn lộn xộn bởi vì phải giúp đỡ nhiều nơi. Có rất ít lái buôn đến phương bắc, trong kinh còn vắng vẻ hơn so với hai năm trước. Kỳ lạ, năm nay lòng dân còn yên ổn hơn trước, bọn họ không thuộc sự xa xỉ phô trương của quý tộc nhà giàu trong kinh như lòng bàn tay, mà nhắc đến chuyện thánh thượng động viên Chiêu Châu, bổ cứu Liễu Châu. Nói đến việc thánh thượng giảm miễn thu thuế, tiết kiệm tiền cai quản linh cữu và mai táng của tiên đế để cai quản thiên hạ. Một ngày, hắn chỉ ăn một bữa cơm có sáu món ăn, để tránh phí tiền dưỡng phi tử nên chỉ cưới một Hoàng Hậu để lo liệu việc nối dõi tông đường…
Biết thánh thượng cũng giống như bọn họ, cũng phải tiết chế tỉ mỉ tính toán sinh hoạt. Trước kia, các lão bách tính hâm mộ rất nhiều nhà giàu quyền quý ngất trời trong kinh, bây giờ trong lòng bọn họ yên tâm hơn nhiều.
Một thánh thượng đi lên không vơ vét mồ hôi nước mắt của nhân dân, mà là nên thả đều thả, nên giảm bớt gánh nặng cho dân chúng cũng đã giảm bớt. Những ngày tháng gần đây, dân chúng không sống dễ chịu như trước đây, nhưng lại ít oán thán. Có người oán trách được người khác nghe được, cũng sẽ bị người ta nói hai câu là trong mắt không có thiên hạ, không có quốc gia.
Bây giờ, Đại Vi đang gặp khó khăn, bọn họ là bách tính dưới chân thiên tử nên đã sống những ngày tháng tốt hơn dân chúng ở nơi khác. Nếu ngay cả chuyện nhỏ ấy cũng không thông cảm cho thánh thượng, không thông cảm cho Đại Vi thì cũng quá ích kỉ rồi.
Tốt nhất là nên động viên dân chúng. Bọn họ sẽ cảm thấy những ngày tháng này có thể sống qua được, có thể chịu đựng được thì sẽ nhẫn nhịn, không nên thông cảm thì bọn họ đều sẽ thông cảm.
Mà quan chức của Đại Vi, hiếm có một đợt quan viên mới nhậm chức nào mà đồng tâm đồng đạo. Tuyên Trọng An có một phong cách ghi chép nhân tài rất riêng, những người này cũng rất biết ơn sự trọng dụng và hậu đãi của Tả tướng đại nhân đối với bọn họ. Tay chân của bọn họ cực kì sạch sẽ, làm việc cũng rất kiên nhẫn, đối xử với dân chúng cũng hoà nhã hơn những quan viên trước kia. Có thể nói, dân chúng trong kinh tôn trọng và sùng bái thánh thượng, đã thông cảm cho sự hỗ trợ của triều đình thiên hạ, phần lớn đều đến từ thái độ và phong cách làm việc của nhóm quan lại.
Trước kia, phải tốn rất nhiều bạc và thời gian rất lâu mới có thể làm việc thoả đáng, đến nhóm quan viên tận trung tận chức, không cần hao tốn ngân lượng mà rất nhanh chóng hoàn thành công việc. Đây là chuyện chưa từng xảy ra, khiến lão bách tính tặc lưỡi ngạc nhiên, càng cảm thấy vui mừng và hưng phấn. Cả đời bọn họ chưa từng thấy dân chúng xem quan viên là người, nào có ai sợ mấy chức quan nhỏ như bọn họ; trong lòng dân chúng, quan lớn và quan nhỏ chẳng có gì khác biệt.
Trong tay bọn họ, tình hình trong kinh vô tri vô giác thay đổi rất nhiều. Đám đại thần ở trên cao không cảm nhận được, mặc dù cảm nhận được nhưng bọn hắn cũng khinh thường, xưa nay quốc gia này không phải của dân chúng mà là của bọn hắn. Nếu như dân chúng không phải dân chúng, không thuận theo lòng dân thì bọn hắn có thừa cách để giết sạch bọn họ. Trong mắt bọn hắn, dân chúng chẳng khác gì giun dế heo chó, chẳng đáng một xu.
Nhưng Tuyên Trọng An biết; rõ ràng nhất chính là, nếu cỗ kiệu của hắn đi ngang qua nơi ở của dân chúng thì sẽ có người chào hỏi thị vệ, ân cần thăm hỏi hắn ở trong kiệu. Hoá ra, nguyên nhân là đám quan viên mới kia tôn hắn là lão sư, quan viên mới coi hắn là ân sư thì cũng tuyên bố như thế ở bên ngoài. Dân chúng cũng xem là vậy, coi hắn là Thanh Thiên Đại lão gia.
Trước kia hắn có thanh danh là Ngọc Diện Diêm La, đến bây giờ cũng không ai bằng lòng nhắc đến; cho dù nhắc lên, cũng nói là hắn giết tham quan…
Loại thay đổi này, cho dù Tuyên Trọng An lên voi xuống chó từ nhỏ mấy lần, cũng cảm thấy vận mệnh thật sự là một chuyện rất huyền diệu. Lúc hắn làm Thượng Thư hai bộ, cho là từ đây mình sẽ bước vào địa ngục vô biên, chưa từng nghĩ rằng hắn không quay đầu lại thì có người đã để hắn lập địa thành Phật.
Nước có thể nâng thuyền, cũng có thể lật thuyền; ngược lại, nước có thể lật thuyền, cũng có thể chở thuyền.
Những quan viên mới nhậm chức đã gọi hắn là lão sư, bọn họ tới cửa đến chúc tết thì Tuyên Trọng An cũng gặp bọn họ một lát.
Tuyên Trọng An, coi như ở trên có phụ có mẫu, ở ngoài còn có ngoại tổ phụ Khương gia giúp đỡ; nhưng thời niên thiếu hắn đã từng lang bạt kỳ hồ, đã gian nan đi qua nhiều nơi, đã tiếp xúc với rất nhiều, không thể tránh khỏi đã nhìn thấy số phận của kha khá người. Trong lòng hắn nghĩ vận mệnh của mình không phải của cá nhân, bởi thế mà khi hắn nằm trong tay tiên đế, bản thân khó bảo toàn, cũng bởi vì bản thân đã trải qua nhiều việc nên hắn giả ngây giả dại, cũng muốn tranh một trận trong tay Hoàng Đế, tranh chấp nhất thời thì nhất thời thôi.
Sống đến một mức nào đó, đứng ở địa vị cao nhất định thì bản thân không còn là của chính mình, Tuyên Trọng An giống như vậy. Hắn không còn là trưởng công tử của Hầu phủ tham sống sợ chết, hắn có việc phải đảm đương và thừa nhận; thật ra cũng chẳng thoải mái hơn trước kia là bao, ngược lại bởi vì địa vị càng cao thì trách nhiệm càng lớn.
Trách nhiệm càng lớn thì cân bằng càng nhiều, không dám tuỳ tiện động đậy. Người từng bước một bị rằng buộc như nào, hiện tại Tuyên Trọng An đã hiểu rõ.
Sau khi gặp những đám quan viên mới nhậm chức, Tuyên Trọng An mới phát hiện, những thanh niên tuấn kiệt này càng muốn làm đến nơi đến chốn hơn hắn. Hắn chọn trúng bọn họ, một trong những nguyên nhân chính là bọn họ có xuất thân bần hàn, biết thế đạo gian nan nên khi bọn họ làm quan thì sẽ có lòng trắc ẩn với phụ mẫu và dân chúng; nhưng hắn không nghĩ tới, những người này cũng biết chỗ hổng của quốc gia này ở đâu. Bọn họ có rất nhiều ý nghĩ để thay đổi quốc gia, cũng biết hiện giờ thánh thượng và quan viên khó khăn; thậm chí, bọn họ còn đồng ý giảm bổng lộc, đồng cam cộng khổ cùng thánh thượng và thiên hạ…
Bổng lộc của chức quan nhỏ vốn dĩ cũng không cao, Tuyên Trọng An không cô phụ lòng chứa chan nhiệt tình của bọn họ. Những quan viên có xuất thân không tốt càng dễ thoả mãn hơn con cháu của quan lại. Bọn họ càng chân thành và trung thành với quốc gia hơn, nhưng nhiệt tình không qua được thời gian, bọn hắn tình nguyện nghèo khó vì nhiệt tình nhưng phụ mẫu thê nhi của bọn họ chưa chắc có thể chịu được.
Từ nhỏ Tuyên Trọng An đã trải qua nhiều chuyện, hắn biết một khi chuyện được bàn luận viển vông, vậy thì chẳng cách ngày sụp đổ bao xa. Xưa nay, việc không thể được giải quyết dựa vào nhiệt tình và suy nghĩ. Đám quan viên này đang sống, cũng không phải chỉ sống cho bản thân, phía sau bọn họ còn có người thân, nếu người thân sống không tốt thì đủ để ảnh hưởng con đường làm quan của bọn họ; đây không phải chuyện muốn thu xếp là có thể thu xếp.
Hắn bắt đầu đàm luận sâu với những người này, nói đến triển vọng của thánh thượng và bản thân hắn dành cho quốc gia này, nói đến hy vọng vào những quan viên mới nhậm chức.
“Quan phụ mẫu các ngươi không có cuộc sống ổn định thì làm sao có thể dẫn dắt dân chúng sống những tháng ngày giàu có? Nhà của chính mình mà còn không yên ổn thì ta cũng không tin tưởng các ngươi sẽ tận lực đối xử với bách tính.”
Không dọn dẹp được phòng thì lấy gì bình thiên hạ, Tuyên Trọng An nói như vậy với đám thanh niên tuấn kiệt sùng bái hắn: “Các ngươi nghĩ xa hơn cho thiên hạ này hơn ta tưởng. Việc ta muốn làm, chính là dẫn theo các ngươi – những đồng liệu tràn ngập nhiệt huyết đối với quốc gia này, góp sức vì thiên hạ. Chỉ cần cố gắng hết sức mình thì các ngươi sẽ là những quan viên tốt nhất triều đình, là nền tảng vững chắc của Đại Vi. Chúng ta tận lực là để bày sẵn đường cho hậu nhân, làm tấm gương sáng cho thế hệ sau là công đức lớn lao. Các ngươi nói xem có phải có lý không?”
Tuyên tướng lại nói: “Các ngươi tình nguyện không cần danh tiếng, lấy thiên hạ làm nhiệm vụ của mình đã là phúc cho Đại Vi ta, Tuyên mỗ ở đây cảm ơn chư vị. Triều đình sẽ không giảm bổng lộc của các ngươi, chờ triều đình và dân chúng vượt qua cửa ải khó khăn này, mùa màng tốt hơn thì sẽ tăng thêm bổng lộc cho các ngươi. Tuyên mỗ chỉ nguyện các vị có cuộc sống ổn định, cùng Tuyên mỗ cống hiến sức lực của bản thân này cho thiên hạ.”
Những lời Tuyên Trọng An nói với đám người này, rất nhanh đã truyền khắp trong một nhóm quan chức mới nhậm chức. Tháng giêng còn chưa đến, danh tiếng tốt đẹp của Tuyên tướng đã truyền khắp trên dưới kinh thành.
Ngọc diện Diêm La thành Ngọc diện Nhân tướng.
Trong cung, Bảo Lạc nghe được biệt danh này, hơi ghen ghét, bèn nói với Hoàng Hậu nương nương: “Sao ai cũng thích hắn?”
Hoàng Hậu nương nương nghiêng đầu sang chỗ khác, nín cười.
Bảo Lạc cũng chỉ là hơi ghen ghét mà thôi. Thật ra, thanh danh cũng của hắn trong dân gian cũng không kém, cũng không biết truyền đi thế nào mà hiện giờ dân gian gọi hắn là Bảo Lạc hoàng.
Bảo Lạc hoàng, hiện tại đã được ghi vào gia phả hoàng gia, Tần Bảo Lạc rất thích cái tên trong dân gian này của mình. Nếu như dân chúng trong thiên hạ đều gọi hắn là Bảo Lạc hoàng thì hắn quả thật đồng ý làm Bảo Lạc hoàng cả đời. Dù cho khó hơn nữa, hắn cũng đồng ý ngồi chắc ở vị trí này vì cái danh hiệu này, dẫu cho có người trong bóng tối nhìn chằm chằm hắn mỗi giờ mỗi khắc để đẩy hắn xuống, không chịu buông tha cho hắn.
Lòng người là thứ khó dò. Trước đó, Trần Thái phi được Bảo Lạc đẩy ra để chủ trì hậu cung, hưởng qua mùi vị của quyền lực thì không muốn buông, ai có thể ngờ rằng bà từng dè dặt và thận trong chỉ để sống sót trong hậu cung vài chục năm. Như một thủ hạ của Trương Tài, một nữ quan từng bị tiên đế làm nhục, muốn làm hậu phi nên trêu chọc câu dẫn Bảo Lạc trong lúc thay quần áo, không cung kính khiêm tốn như trước. Bảo Lạc lạnh lùng nhìn những người này, trong lòng hắn hiểu rõ rằng hắn chỉ còn vẫn làm Hoàng Đế một ngày thì loại người như vậy sẽ liên tục xuất hiện vây quanh bên cạnh, sẽ có vô số chuyện xảy ra; vậy thì đời này hắn khó có thể trải quả những tháng ngày yên tĩnh không phiền muộn ý xấu.
Hắn biết rõ nên móc tim móc phổi đối xử với Hoàng Hậu, hắn nói với Hoàng Hậu nương nương: “Ta sẽ không phụ lòng nàng, cảm ơn nàng đồng ý tiến cung ở bên ta cả đời này.”
Bảo Lạc hoàng không có sở trường về ngôn từ, mà Hoàng Hậu nương nương đúng lúc là nữ tử chỉ cần đơn giản nói vài câu là có thể cảm động. Hoàng Đế chỉ nói hai câu mà Hoàng Hậu nương nương đã khóc đến thở không ra hơi, cuối cùng bởi vì khóc nhiều quá nên xấu hổ, tận mấy ngày cũng không dám nhìn thẳng vào mắt của Hoàng Đế.
Tháng giêng vừa qua, triều đình cũng có biến chuyển. Hứa Song Uyển được biết rằng vị huynh trưởng Hứa gia đã trở về kinh thành đại tang, lúc này nàng cũng mới biết là mẫu thân cũng quay về.
Chưa đến mấy ngày, tin tức mẫu thân ngã bệnh nặng truyền đến Hầu phủ. Tẩu tử nàng tự mình đến Hầu phủ, nói mẫu thân đổ bệnh nặng thật sự rất nhớ nàng, muốn gặp nàng.
Hầu phủ không cho phép nàng ta bước vào, thậm chí Hứa Tần thị còn quỳ trước cửa Hầu phủ, người của Hầu phủ lập tức nâng nàng ta dậy, khuyên bảo nàng ta trở về.
Hứa Tần thị lập tức quay về, nhưng ngày mai lại tới, lại đau khổ cầu xin, còn liên tục dập đầu.
Sau ngày thứ hai nàng ta lại tới, Hứa Song Uyển biết hiện giờ chỉ có một cách ổn thoả để tránh việc này chính là tạm thời rời Hầu phủ, hoặc là ra ngoài tránh một lúc; tuy nhiên, vẫn còn một cách như mong muốn của bọn họ chính là đi gặp mẫu thân không biết có phải mắc bệnh nặng hay không.
Hứa Song Uyển không mời người khác mà gọi Khương Đại cữu mẫu tới.
Khương Đại phu nhân đến Hầu phủ, không biết liệu có phải bên phía Hứa gia nghe được tin nên hôm ấy Hứa Tần thị không đến. Nàng ta không đến, Khương Đại phu nhân cũng không đi, ở lại Hứa gia.
Đại nương nhà mẹ đẻ lại tới, Tuyên Khương thị vừa lo lắng vừa vui mừng, lo lắng chính là liệu bản thân có làm ra việc gì để đại tẩu không thích hay không, còn vui mừng chính là có người có thể trò chuyện với mình.
Hiện tại, con dâu bận nhiều việc, hơn nữa còn phải chăm tôn nhi. Bây giờ, tôn nhi đã lớn nên ồn ào hơn; để tránh quấy nhiễu sự thanh tĩnh của bà nên con dâu không dẫn Vọng Khang đến chơi với bà như trước. Lúc Hầu gia không ở nhà thì không ai ở bên Tuyên Khương thị, bà cảm thấy hơi cô đơn; hiện giờ ngày nào cũng thấy đại tẩu, đương nhiên bà vui mừng không ngớt.
Hai nhà Tuyên Khương giúp đỡ lẫn nhau. Trước kia là Khương gia che chở Tuyên gia, hiện giờ Tuyên gia đi lên, Khương gia càng không chịu thua kém. Trong ba nhi tử của Khương Đại phu nhân, có người đã là hạ thần quan trọng; còn một người hết tháng hai sẽ rời kinh làm huyện lệnh của một châu; người còn lại chờ kỳ thi cao trung vào mùa xuân, lại được tuyển chọn vào triều. Hiện tại, con cháu trong tộc cũng có lối đi riêng, binh lính của Khương gia có tiền đồ rộng lớn; gia tộc Khương gia càng hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau hơn trước. Khương Đại phu nhân thân là con dâu trưởng của Khương lão thái gia, tức đương gia phu nhân của Khương gia, được tôn trọng trong tộc. Khương Đại phu nhân có đi có lại, bằng lòng giúp Hầu phủ giải quyết chuyện nhỏ này nên ở lại. Bà sợ cháu dâu khó xử, dù nhìn tiểu cô tử chướng mắt nhưng vẫn coi nàng là nữ chủ nhân, bình tĩnh ở chung với nàng, tạm thời cũng không có ý định trở về.
Hứa Song Uyển mời được một người có thể giúp nàng xử lý vấn đề của Hứa gia. Lúc này, nàng cũng nhận được tin tức Thanh Tâm sư thái muốn dẫn đệ tử đi vân du tứ hải.
Thanh Tâm sư thái nói là vân du tứ hải, thực ra là dẫn theo đệ tử trong am bằng lòng đi xa tha hương với nàng ấy, tìm một nơi an thân để các nàng thanh tu.
Bởi vậy, Hứa Song Uyển thành tâm đến chùa Bảo thỉnh một tượng Quan Âm, đặt trong hộp đàn hương. Ngoài ra, nàng còn chuẩn bị một trăm lượng bạc vụn cùng ngân phiếu năm trăm lượng.
Một trăm lượng là để sư thái dùng ít cơm canh đạm bạc trên đường, còn năm trăm lượng là để xây dựng lại chùa miếu, có lẽ lúc ấy sẽ cần.
Nàng cũng không thể cho nhiều, nhiều hơn thì sư thái sẽ không nhận.
Hứa Song Uyển tiễn các nàng ở ngoại ô. Thanh Tâm sư thái chỉ lấy một trăm lượng bạc vụn của nàng rồi chia cho người bên cạnh phòng thân, còn tiền bạc mà Hứa Song Uyển nói để xây dựng lại chùa miếu thì nàng ấy không nhận.
“Đã nhận được kha khá ngân lượng từ Hoắc thí chỉ. Am Từ Tâm sụp đổ vì nàng, có một ngày thì am Phổ Tâm cũng sẽ xây dựng vì ngân lượng của nàng. Vừa lên vừa sụp đổ, nhân duyên giữa chúng ta và nàng đã đứt.” Thanh Tâm sư thái niệm a di đà phật, rũ mắt nhìn chuỗi tràng hạt trong tay, nói: “Sau này am Từ Tâm đã không phải là am Từ Tâm, sư tổ và sư phụ đã được chúng ta thỉnh tượng mang theo bên người, Hứa sư muội không cần nhớ tình cũ.”
Tim của Hứa Song Uyển đập loạn.
Thanh Tâm ngước mắt, thấy hai hàng nước mắt của nàng chảy ra, nàng ấy niệm a di đà phật rồi mỉm cười nói với nữ tử xinh đẹp tuyệt trần khó nén bi thương đứng trước mặt: “Chúng sinh đều khổ, muội khó khăn bước tiếp, cũng không biết khi nào mới là ngày giải thoát. Chuyến này sư tỷ ra đi, có lẽ đời này tỷ và muội khó có thể gặp lại; nhưng xin sư muội biết, dẫu là am Từ Tâm hay am Phổ tâm; muội, sư phụ và đạo sẽ theo Thanh Tâm suốt cuộc đời này.”
Đến chết nàng vẫn sẽ nhớ mình từng có một sư muội.
“A di đà phật.” Thanh Tâm vừa dứt lời, lập tức chắp hai tay rồi khom lưng hành lễ.
Cứ như vậy đi.
“A di đà phật…” Phía sau nàng, đệ tử đi theo cũng cúi đầu, thì thầm.
Hai tay Hứa Song Uyển chắp lại, cúi người, nước mắt rơi đầy mặt.
“A di đà phật.” Nàng nói.
Đường lớn khó tìm, không biết dọc đường có bao nhiêu người phải thoả hiệp hy sinh.
/185
|