Mấy ngày nay tâm tình của Sở Hoan không tệ, tin tức tốt không ngừng truyền đến.
Tin tốt thứ nhất, là từ Hình Bộ truyền tới. Về vụ án của Công Tôn Sở, đã là che quan định luận, để loại trừ kẻ địch, Đông Phương Tín trăm phương ngàn kế vu hãm Công Tôn Sở và nhiều quan viên nữa. Án này chân tướng đã rõ ràng, đám người Công Tôn Sở bị khép tội phản quốc, cũng đã bị sửa lại án.
Đối với Sở Hoan, đương nhiên đây là một tin tức tốt.
Thật lòng mà nói, muốn trị tốt bốn châu Tây Quan cũng không phải chuyện dễ. Đương nhiên Sở Hoan có thể quyết định hướng đi chính, nhưng mà phương pháp áp dụng cụ thể vẫn còn cần mấy quan viên dày dạn kinh nghiệm.
Đám quan viên Công Tôn Sở đều là lão quan viên Tây Quan, hiểu rất rõ tình huống thực tế ở Tây Quan, chính sách áp dụng cũng là đơn giản quen tay, chỉ mượn người chịu tội thay. Sở Hoan cũng không tiện trực tiếp lôi người này ra, hôm nay Hình bộ đã phê xuống, đương nhiên hắn đã quyết định dứt khoát, lập tức ban cáo, sửa lại án sai giải tội cho đám Công Tôn Sở.
Công Tôn Sở chưa từng nghĩ có ngày mình có thể sống sót ra khỏi nhà tù. Sở Hoan đã cứu lại cái mạng của bọn họ từ trong nguy hiểm, lại còn trực tiếp thu xếp cho bọn họ ở quân doanh Cấm Vệ Quân, tránh việc có người âm thầm gia hại. Cho dù là sau này hai trăm Cấm Vệ Quân được điều động rời đi, Sở Hoan cũng vẫn cam đoan đem lại cho bọn họ đầy đủ an toàn.
Hình bộ đã gửi công văn đi. Sở Hoan bèn cho người đưa công văn đến tay Công Tôn Sở, kèm theo đó còn là một phê văn quan phục nguyên chức Tổng đốc.
Tri châu Việt Châu Đổng Thế Trân đã chết, ghế Tri châu vẫn còn trống. Trước đây Công Tôn Sở vốn là Tri châu Việt Châu, hôm nay quan phục nguyên chức, nhưng cảm giác khác nhau rất lớn.
Chẳng những là Công Tôn Sở, cả những quan viên khác trước đây đã bị liên lụy cũng được Tổng đốc vung bút phục hồi nguyên chức.
Việc này chẳng những khiến cho đám quan viên Công Tôn Sở cảm kích trong lòng, còn khiến cho dân chúng Sóc Tuyền vui mừng khôn xiết.
Trước đây, khi Công Tôn Sở nhậm chức, làm việc cẩn trọng, danh tiếng ở Việt Châu rất tốt, chỉ là gặp tai ương lao ngục, trong lòng dân chúng đều thầm nghĩ, lần này chân tướng đã rõ ràng, trong lòng mọi người đều cảm thấy Công Tôn Sở có thể tìm được đường sống trong chỗ chết, công của Sở Hoan là tốt nhất. Hơn nữa Sở Hoan có thể tiếp tục giao việc cho Công Tôn Sở, cũng cho thấy Sở Hoan là một vị quan tốt.
Trước mắt ở Tây Quan có hai việc quan trọng nhất. Một là thao binh luyện mã. Tuy hai châu Kim Hạ đã bị bình định chỉ trong khoảng thời gian ngắn, nhưng Sở Hoan cũng biết rõ Bình Tây Quân cũng thiếu sót nhiều.
Bình Tây Quân được xây nên hơi phức tạp, bình thường cũng không nhìn ra, nhưng khi tấn công Hạ Châu, Sở Hoan đã nhìn ra việc phối hợp của Bình Tây Quân rời rạc nghiêm trọng. Một khi gặp phải nghịch cảnh, các binh tướng sẽ rất khó giữ được sức chiến đấu thống nhất. Đối với một đội quân, điểm này là nhược điểm trí mạng.
Sau khi quân nhân Bắc Sơn quay về Sóc Tuyền, trước tiên là theo biên cảnh bỏ chạy, mà sau khi bố trí binh mã Giáp Châu đâu vào đấy, Hiên Viên Thắng Tài cũng quay về Sóc Tuyền.
Hiên Viên Thắng Tài cũng biết rõ thiếu sót của Bình Tây Quân là gì.
Y biết rõ Bùi Tích rất có trình độ luyện binh, nên đặc biệt tới bái phỏng Bùi Tích, cũng nhanh chóng để cho Bình Tây Quân có thể hoàn toàn dung hợp thành một đội quân có sức chiến đấu mạnh mẽ.
Theo lệnh Tổng đốc, Bùi Tích ngày đêm thao luyện Cấm Vệ Quân, bốn doanh Phong Lâm Hỏa Sơn, chỉ trong khoảng thời gian ngắn đã thành hình. Bốn đại doanh thao luyện, phân thành hai phương thức, một là đơn doanh thao luyện, tất cả các doanh đều nghiêm khắc huấn luyện, thứ hai là vào một thời điểm cố định sẽ để cho bốn doanh hợp lại với nhau, huấn luyện bốn doanh phối hợp.
Huấn luyện quân đội, giao cho Bùi Tích và Hiên Viên Thắng Tài, thực ra cũng sẽ không phải hao tổn quá nhiều tâm tư của Sở Hoan.
Ngoài huấn luyện binh mã, lúc này, một việc lớn khác của Tây Quan đương nhiên là chính sách quân điền.
Khi chính sách quân điền được ban bố, ngay từ đầu đã khiến cho rất nhiều nông dân không có ruộng vui mừng khôn xiết, nhưng cũng rất nhiều người hoài nghi. Từ xưa tới nay chỉ nghe nói quan phủ thân sĩ nghĩ hết biện pháp bóc lột điền sản ruộng đất của dân chúng, chưa từng nghe nói quan phủ sẽ chia ruộng đất cho dân chúng. Cho nên rất nhiều người nói rằng, đây chỉ là mánh khóe của quan phủ mà thôi, mục đích là để cho người dân chạy nạn lưu lạc bên ngoài về cố hương, tiếp tục cho họ bóc lột.
Bởi vì vẫn còn nghi ngờ, nên ngay từ đầu, dân chúng bên ngoài về quê nhà thực ra cũng không nhiều. Mà tình cảnh trước mắt của Tây Quan là có quá nhiều nạn dân lưu lạc ở ngoài, để lại rất nhiều ruộng hoang không ai trồng trọt.
Khi Ngụy Vô Kỵ hiến sách quân điền với Sở Hoan đã nói rõ phải có hai điều kiện. Một là phải có nhiều ruộng hoang, hai là có thể có nhân khẩu tương ứng với ruộng. Hiện nay, người dân Tây Quan giảm sút nghiêm trọng, nếu nạn dân không thể quay về cố hương, diệu dụng lâu dài của quân điền cũng mất.
Sở Hoan cũng biết có rất nhiều nạn dân vẫn còn đang chờ đợi xem sao, mắt thấy đã sắp vào thu, ruộng nương đều cần phải cày bừa trước khi vào vụ xuân. Một khi tới thời điểm cày vụ xuân, quân điền chưa được áp dụng, dân chúng không có được ruộng của mình, coi như đã lãng phí một năm vô ích. Đối với tây bắc vốn đã thiếu lương thực, lãng phí một năm, sẽ có rất nhiều người chết vì thiếu ăn.
Thực ra thời gian cũng không quá dài, cho dù Ngụy Vô Kỵ ngày đêm dẫn người đi đo đạc ruộng đồng, thống kê nhân khẩu, nhưng tốc độ cũng không nhanh. Tới khi Công Tôn Sở ra tù, hiểu rõ tình hình quân điền, bèn gợi ý với Sở Hoan, không cần phải đợi đến lúc tất cả ruộng đồng đều đo hết mới đi phân chia, có thể cứ bắt đầu áp dụng với mấy thôn trấn phụ cận bên ngoài Sóc Tuyền đã. Mục đích là để cho dân chúng thấy rõ, quan phủ nói quân điền không phải chỉ là nói phét lừa người.
Vì thế, Công Tôn Sở tự mình chọn vài thôn trấn, tự mình thống kê nhân khẩu địa phương và ruộng đồng, sau đó, theo như nội dung quân điền mà Ngụy Vô Kỵ đã nói, trước tiên chia ruộng cho dân chúng ở đây. Khi lấy được ruộng, dân chúng cũng có được khế đất của Hộ bộ.
Khế đất nói hết sức rõ ràng. Ruộng chia cho dân chúng trong vòng mười năm, vẫn thuộc quyền sở hữu của quan phủ, nếu trong khoảng thời gian này không xảy ra tình huống gì đặc biệt, không vứt bỏ ruộng đồng bỏ mặc hoang vu, thì quan phủ có quyền thu hồi lại đất bất kỳ lúc nào. Nhưng chỉ cần chăm chỉ cày ruộng mười lăm năm liên tục, thì quyền sở hữu ruộng đất sẽ thuộc về dân chúng.
Trong đó cũng nói rõ, sau khi có được quyền sở hữu ruộng đất, dân chúng có thể truyền xuống đời đời, bất luận kẻ nào cũng không có quyền cướp. Có điều, trong đó cũng nói rõ, cấm trao đổi mua bán đất tư, chỉ cho phép trồng trọt, nếu phát hiện mua bán trao đổi ruộng đất, chẳng những quan phủ có thể thu lại, mà cả người mua lẫn người bán đều phải chịu tội.
Thực ra rất nhiều người cũng thấy rõ ý nghĩa của quân điền là đóng đinh dân chúng vào ruộng đất, để cho bọn họ đời đời cày cấy sinh hoạt, không thể mua bán ruộng đất thực ra cũng không thể gọi là hoàn toàn tư hữu hóa.
Có điều, đối với dân chúng mà nói, có thể có được mảnh ruộng của mình, mặt trời mọc thì ra đồng, mặt trời lặn về nhà, đã là một cuộc sống trong mơ rồi. Đây là cuộc sống mà dân chúng đều mong muốn. Đất đai chính là bảo bối, rất ít người sẽ bán đi mảnh ruộng mà mình phải dựa vào để mà sinh sống, nội dung quân điền quả thực đã khiến cho bọn họ hưng phấn không thôi.
Gần như cùng lúc, tại những thôn trấn được chia ruộng, mệnh lệnh thứ hai của quan phủ cũng được ban xuống. Đây là nội dung Ngụy Vô Kỵ mới bổ sung vào quân điền.
Trước đó, đúng như Ngụy Vô Kỵ đã từng nói, từ sau khi nước Tần lập quốc đã hạ một loạt chính sách, rất nhiều thân sĩ gia tộc đều có quyền miễn thuế. Những gia tộc này được hưởng tài nguyên lớn nhất, chẳng những miễn thu thuế, thậm chí ngay cả lao dịch cũng không cần phải chịu, ngược lại dân chúng lại phải chịu thuế má cực kỳ nặng, lại phải gánh vác cả việc lao dịch nặng nề.
Tây Quan trọng kiến, đương nhiên lao dịch mấy năm là không thể thiếu, đắp bờ sửa đường, mở kênh khai mương, dân chúng sẽ phải gánh rất nhiều lao dịch.
Vì thế, ngoài quân điền, Ngụy Vô Kỵ còn đưa ra sách lược nhập hộ phú, toàn bộ Tây Quan, bất luận là dân chúng bình thường hay thân sĩ hào phú đều phải chịu lao dịch như nhau, được đối xử như nhau.
Chỉ là, vào lúc này, đưa ra chính sách nhập hộ phú kia, các thân sĩ gia tộc quyền quý mất mặt, không muốn bị tham gia lao động cưỡng bức giống như dân chúng thấp cổ bé họng thì có thể dùng thuế để tránh lao dịch. Tương tự, dân chúng nghèo khổ nếu muốn cải thiện sinh hoạt trong nhà có thể tăng thêm lao dịch ngoài lao dịch nghĩa vụ của nhà mình.
Khi những pháp lệnh này được ban bố xuống, dân chúng hoan hô rầm rĩ, nạn dân lưu lạc bên ngoài biết rõ đã có người được chia ruộng, không còn do dự nữa, nhao nhao quay về cố thổ. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, từng nhóm lớn dân chúng Tây Quan chạy nạn quay về cố hương. Đây là một chuyến di chuyển khổng lồ, Hiên Viên Thắng Tài phải huy động binh mã, giữ vững cửa khẩu các nơi, kiểm tra nghiêm mật.
Đối với Sở Hoan, đương nhiên đây là một tin tốt. Thậm chí, hắn còn từng nhận được tin báo, một vài thôn dân phải trốn vào rừng làm thổ phỉ, biết được những pháp lệnh này, đều buông vũ khí đăng ký vào Hộ bộ ti. Đúng như những gì Ngụy Vô Kỵ đã sở liệu, rất nhiều giặc cướp thổ phỉ vốn là dân lành không sống nổi phải trốn vào rừng thấy hôm nay quan phủ áp dụng chính sách mới, có ruộng có đồng, sao còn nghĩ đến việc tiếp tục đổ máu kiếm ăn nữa.
Ban đầu khi thi hành chính sách quân điền, ý định của Sở Hoan là muốn khôi phục sinh cơ của Tây Quan, để cho dân chúng có thể an cư lạc nghiệp, những phỉ loạn kia có thể bỏ phỉ làm dân như vậy đương nhiên là điều hắn rất mong muốn.
Tây Quan cải cách quân điền, rất nhanh, dân chúng khắp nơi đều vui mừng hỉ hả. Có điều việc này cũng làm ảnh hưởng đến lợi ích của thân sĩ Tây Quan. Sở Hoan biết rõ thân sĩ Tây Quan là do bảy họ cầm đầu, không thể thiếu việc tiếp xúc với bảy họ Tây Quan. Ngược lại, Tô lão thái gia cũng nhìn ra được, nếu Tây Quan vẫn cứ chìm trong ao tù nước đọng như vậy, bảy họ Tây Quan cũng khó có thể khôi phục lại khoảng thời gian huy hoàng đó, chỉ khi cả Tây Quan hưng vượng phát triển, thân sĩ Tây Quan mới có thể khôi phục lại được huy hoàng xưa kia.
Đương nhiên, chúng thân sĩ bất mãn không biết bao nhiêu lần đối với chính sách quân điền của Sở Hoan, vì quân điền lần này hắn áp dụng chủ yếu là thu ruộng hoang vô chủ về sở hữu của quan phủ, cũng có gây ra tổn thất cho bảy họ Tây Quan, nhưng chúng thân sĩ đều hiểu rõ, mục đích hắn thực hiện tân chính thực ra cũng không phải để đối phó với thân sĩ địa phương, mà là để động viên dân chúng Tây Quan nhiệt tình cày ruộng mà thôi.
Tại Bắc Sơn, về canh cụ, Tiếu Hoán Chương hoàn toàn không nuốt lời. Khi nạn dân Tây Quan tấp nập về quê, canh cụ từ Bắc Sơn cũng liên tiếp được chở tới. Càng khiến cho Sở Hoan vui mừng hơn, là từ Tây Sơn đạo quan nội và An Ấp cũng có từng chuyến lớn canh cụ được đưa tới.
Tin Tây Quan áp dụng quân điền đồng đều đương nhiên cũng được truyền đến quan nội. Tổng đốc Tây Sơn Kiều Minh Đường, Tổng đốc An Ấp Viên Sùng Thượng cũng có chút quan hệ sâu xa với Sở Hoan. Đại ân không thể báo, nhưng điều một ít nông cụ đã chuẩn bị trước tới giúp cũng đã là tận tình.
Tin tốt thứ nhất, là từ Hình Bộ truyền tới. Về vụ án của Công Tôn Sở, đã là che quan định luận, để loại trừ kẻ địch, Đông Phương Tín trăm phương ngàn kế vu hãm Công Tôn Sở và nhiều quan viên nữa. Án này chân tướng đã rõ ràng, đám người Công Tôn Sở bị khép tội phản quốc, cũng đã bị sửa lại án.
Đối với Sở Hoan, đương nhiên đây là một tin tức tốt.
Thật lòng mà nói, muốn trị tốt bốn châu Tây Quan cũng không phải chuyện dễ. Đương nhiên Sở Hoan có thể quyết định hướng đi chính, nhưng mà phương pháp áp dụng cụ thể vẫn còn cần mấy quan viên dày dạn kinh nghiệm.
Đám quan viên Công Tôn Sở đều là lão quan viên Tây Quan, hiểu rất rõ tình huống thực tế ở Tây Quan, chính sách áp dụng cũng là đơn giản quen tay, chỉ mượn người chịu tội thay. Sở Hoan cũng không tiện trực tiếp lôi người này ra, hôm nay Hình bộ đã phê xuống, đương nhiên hắn đã quyết định dứt khoát, lập tức ban cáo, sửa lại án sai giải tội cho đám Công Tôn Sở.
Công Tôn Sở chưa từng nghĩ có ngày mình có thể sống sót ra khỏi nhà tù. Sở Hoan đã cứu lại cái mạng của bọn họ từ trong nguy hiểm, lại còn trực tiếp thu xếp cho bọn họ ở quân doanh Cấm Vệ Quân, tránh việc có người âm thầm gia hại. Cho dù là sau này hai trăm Cấm Vệ Quân được điều động rời đi, Sở Hoan cũng vẫn cam đoan đem lại cho bọn họ đầy đủ an toàn.
Hình bộ đã gửi công văn đi. Sở Hoan bèn cho người đưa công văn đến tay Công Tôn Sở, kèm theo đó còn là một phê văn quan phục nguyên chức Tổng đốc.
Tri châu Việt Châu Đổng Thế Trân đã chết, ghế Tri châu vẫn còn trống. Trước đây Công Tôn Sở vốn là Tri châu Việt Châu, hôm nay quan phục nguyên chức, nhưng cảm giác khác nhau rất lớn.
Chẳng những là Công Tôn Sở, cả những quan viên khác trước đây đã bị liên lụy cũng được Tổng đốc vung bút phục hồi nguyên chức.
Việc này chẳng những khiến cho đám quan viên Công Tôn Sở cảm kích trong lòng, còn khiến cho dân chúng Sóc Tuyền vui mừng khôn xiết.
Trước đây, khi Công Tôn Sở nhậm chức, làm việc cẩn trọng, danh tiếng ở Việt Châu rất tốt, chỉ là gặp tai ương lao ngục, trong lòng dân chúng đều thầm nghĩ, lần này chân tướng đã rõ ràng, trong lòng mọi người đều cảm thấy Công Tôn Sở có thể tìm được đường sống trong chỗ chết, công của Sở Hoan là tốt nhất. Hơn nữa Sở Hoan có thể tiếp tục giao việc cho Công Tôn Sở, cũng cho thấy Sở Hoan là một vị quan tốt.
Trước mắt ở Tây Quan có hai việc quan trọng nhất. Một là thao binh luyện mã. Tuy hai châu Kim Hạ đã bị bình định chỉ trong khoảng thời gian ngắn, nhưng Sở Hoan cũng biết rõ Bình Tây Quân cũng thiếu sót nhiều.
Bình Tây Quân được xây nên hơi phức tạp, bình thường cũng không nhìn ra, nhưng khi tấn công Hạ Châu, Sở Hoan đã nhìn ra việc phối hợp của Bình Tây Quân rời rạc nghiêm trọng. Một khi gặp phải nghịch cảnh, các binh tướng sẽ rất khó giữ được sức chiến đấu thống nhất. Đối với một đội quân, điểm này là nhược điểm trí mạng.
Sau khi quân nhân Bắc Sơn quay về Sóc Tuyền, trước tiên là theo biên cảnh bỏ chạy, mà sau khi bố trí binh mã Giáp Châu đâu vào đấy, Hiên Viên Thắng Tài cũng quay về Sóc Tuyền.
Hiên Viên Thắng Tài cũng biết rõ thiếu sót của Bình Tây Quân là gì.
Y biết rõ Bùi Tích rất có trình độ luyện binh, nên đặc biệt tới bái phỏng Bùi Tích, cũng nhanh chóng để cho Bình Tây Quân có thể hoàn toàn dung hợp thành một đội quân có sức chiến đấu mạnh mẽ.
Theo lệnh Tổng đốc, Bùi Tích ngày đêm thao luyện Cấm Vệ Quân, bốn doanh Phong Lâm Hỏa Sơn, chỉ trong khoảng thời gian ngắn đã thành hình. Bốn đại doanh thao luyện, phân thành hai phương thức, một là đơn doanh thao luyện, tất cả các doanh đều nghiêm khắc huấn luyện, thứ hai là vào một thời điểm cố định sẽ để cho bốn doanh hợp lại với nhau, huấn luyện bốn doanh phối hợp.
Huấn luyện quân đội, giao cho Bùi Tích và Hiên Viên Thắng Tài, thực ra cũng sẽ không phải hao tổn quá nhiều tâm tư của Sở Hoan.
Ngoài huấn luyện binh mã, lúc này, một việc lớn khác của Tây Quan đương nhiên là chính sách quân điền.
Khi chính sách quân điền được ban bố, ngay từ đầu đã khiến cho rất nhiều nông dân không có ruộng vui mừng khôn xiết, nhưng cũng rất nhiều người hoài nghi. Từ xưa tới nay chỉ nghe nói quan phủ thân sĩ nghĩ hết biện pháp bóc lột điền sản ruộng đất của dân chúng, chưa từng nghe nói quan phủ sẽ chia ruộng đất cho dân chúng. Cho nên rất nhiều người nói rằng, đây chỉ là mánh khóe của quan phủ mà thôi, mục đích là để cho người dân chạy nạn lưu lạc bên ngoài về cố hương, tiếp tục cho họ bóc lột.
Bởi vì vẫn còn nghi ngờ, nên ngay từ đầu, dân chúng bên ngoài về quê nhà thực ra cũng không nhiều. Mà tình cảnh trước mắt của Tây Quan là có quá nhiều nạn dân lưu lạc ở ngoài, để lại rất nhiều ruộng hoang không ai trồng trọt.
Khi Ngụy Vô Kỵ hiến sách quân điền với Sở Hoan đã nói rõ phải có hai điều kiện. Một là phải có nhiều ruộng hoang, hai là có thể có nhân khẩu tương ứng với ruộng. Hiện nay, người dân Tây Quan giảm sút nghiêm trọng, nếu nạn dân không thể quay về cố hương, diệu dụng lâu dài của quân điền cũng mất.
Sở Hoan cũng biết có rất nhiều nạn dân vẫn còn đang chờ đợi xem sao, mắt thấy đã sắp vào thu, ruộng nương đều cần phải cày bừa trước khi vào vụ xuân. Một khi tới thời điểm cày vụ xuân, quân điền chưa được áp dụng, dân chúng không có được ruộng của mình, coi như đã lãng phí một năm vô ích. Đối với tây bắc vốn đã thiếu lương thực, lãng phí một năm, sẽ có rất nhiều người chết vì thiếu ăn.
Thực ra thời gian cũng không quá dài, cho dù Ngụy Vô Kỵ ngày đêm dẫn người đi đo đạc ruộng đồng, thống kê nhân khẩu, nhưng tốc độ cũng không nhanh. Tới khi Công Tôn Sở ra tù, hiểu rõ tình hình quân điền, bèn gợi ý với Sở Hoan, không cần phải đợi đến lúc tất cả ruộng đồng đều đo hết mới đi phân chia, có thể cứ bắt đầu áp dụng với mấy thôn trấn phụ cận bên ngoài Sóc Tuyền đã. Mục đích là để cho dân chúng thấy rõ, quan phủ nói quân điền không phải chỉ là nói phét lừa người.
Vì thế, Công Tôn Sở tự mình chọn vài thôn trấn, tự mình thống kê nhân khẩu địa phương và ruộng đồng, sau đó, theo như nội dung quân điền mà Ngụy Vô Kỵ đã nói, trước tiên chia ruộng cho dân chúng ở đây. Khi lấy được ruộng, dân chúng cũng có được khế đất của Hộ bộ.
Khế đất nói hết sức rõ ràng. Ruộng chia cho dân chúng trong vòng mười năm, vẫn thuộc quyền sở hữu của quan phủ, nếu trong khoảng thời gian này không xảy ra tình huống gì đặc biệt, không vứt bỏ ruộng đồng bỏ mặc hoang vu, thì quan phủ có quyền thu hồi lại đất bất kỳ lúc nào. Nhưng chỉ cần chăm chỉ cày ruộng mười lăm năm liên tục, thì quyền sở hữu ruộng đất sẽ thuộc về dân chúng.
Trong đó cũng nói rõ, sau khi có được quyền sở hữu ruộng đất, dân chúng có thể truyền xuống đời đời, bất luận kẻ nào cũng không có quyền cướp. Có điều, trong đó cũng nói rõ, cấm trao đổi mua bán đất tư, chỉ cho phép trồng trọt, nếu phát hiện mua bán trao đổi ruộng đất, chẳng những quan phủ có thể thu lại, mà cả người mua lẫn người bán đều phải chịu tội.
Thực ra rất nhiều người cũng thấy rõ ý nghĩa của quân điền là đóng đinh dân chúng vào ruộng đất, để cho bọn họ đời đời cày cấy sinh hoạt, không thể mua bán ruộng đất thực ra cũng không thể gọi là hoàn toàn tư hữu hóa.
Có điều, đối với dân chúng mà nói, có thể có được mảnh ruộng của mình, mặt trời mọc thì ra đồng, mặt trời lặn về nhà, đã là một cuộc sống trong mơ rồi. Đây là cuộc sống mà dân chúng đều mong muốn. Đất đai chính là bảo bối, rất ít người sẽ bán đi mảnh ruộng mà mình phải dựa vào để mà sinh sống, nội dung quân điền quả thực đã khiến cho bọn họ hưng phấn không thôi.
Gần như cùng lúc, tại những thôn trấn được chia ruộng, mệnh lệnh thứ hai của quan phủ cũng được ban xuống. Đây là nội dung Ngụy Vô Kỵ mới bổ sung vào quân điền.
Trước đó, đúng như Ngụy Vô Kỵ đã từng nói, từ sau khi nước Tần lập quốc đã hạ một loạt chính sách, rất nhiều thân sĩ gia tộc đều có quyền miễn thuế. Những gia tộc này được hưởng tài nguyên lớn nhất, chẳng những miễn thu thuế, thậm chí ngay cả lao dịch cũng không cần phải chịu, ngược lại dân chúng lại phải chịu thuế má cực kỳ nặng, lại phải gánh vác cả việc lao dịch nặng nề.
Tây Quan trọng kiến, đương nhiên lao dịch mấy năm là không thể thiếu, đắp bờ sửa đường, mở kênh khai mương, dân chúng sẽ phải gánh rất nhiều lao dịch.
Vì thế, ngoài quân điền, Ngụy Vô Kỵ còn đưa ra sách lược nhập hộ phú, toàn bộ Tây Quan, bất luận là dân chúng bình thường hay thân sĩ hào phú đều phải chịu lao dịch như nhau, được đối xử như nhau.
Chỉ là, vào lúc này, đưa ra chính sách nhập hộ phú kia, các thân sĩ gia tộc quyền quý mất mặt, không muốn bị tham gia lao động cưỡng bức giống như dân chúng thấp cổ bé họng thì có thể dùng thuế để tránh lao dịch. Tương tự, dân chúng nghèo khổ nếu muốn cải thiện sinh hoạt trong nhà có thể tăng thêm lao dịch ngoài lao dịch nghĩa vụ của nhà mình.
Khi những pháp lệnh này được ban bố xuống, dân chúng hoan hô rầm rĩ, nạn dân lưu lạc bên ngoài biết rõ đã có người được chia ruộng, không còn do dự nữa, nhao nhao quay về cố thổ. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, từng nhóm lớn dân chúng Tây Quan chạy nạn quay về cố hương. Đây là một chuyến di chuyển khổng lồ, Hiên Viên Thắng Tài phải huy động binh mã, giữ vững cửa khẩu các nơi, kiểm tra nghiêm mật.
Đối với Sở Hoan, đương nhiên đây là một tin tốt. Thậm chí, hắn còn từng nhận được tin báo, một vài thôn dân phải trốn vào rừng làm thổ phỉ, biết được những pháp lệnh này, đều buông vũ khí đăng ký vào Hộ bộ ti. Đúng như những gì Ngụy Vô Kỵ đã sở liệu, rất nhiều giặc cướp thổ phỉ vốn là dân lành không sống nổi phải trốn vào rừng thấy hôm nay quan phủ áp dụng chính sách mới, có ruộng có đồng, sao còn nghĩ đến việc tiếp tục đổ máu kiếm ăn nữa.
Ban đầu khi thi hành chính sách quân điền, ý định của Sở Hoan là muốn khôi phục sinh cơ của Tây Quan, để cho dân chúng có thể an cư lạc nghiệp, những phỉ loạn kia có thể bỏ phỉ làm dân như vậy đương nhiên là điều hắn rất mong muốn.
Tây Quan cải cách quân điền, rất nhanh, dân chúng khắp nơi đều vui mừng hỉ hả. Có điều việc này cũng làm ảnh hưởng đến lợi ích của thân sĩ Tây Quan. Sở Hoan biết rõ thân sĩ Tây Quan là do bảy họ cầm đầu, không thể thiếu việc tiếp xúc với bảy họ Tây Quan. Ngược lại, Tô lão thái gia cũng nhìn ra được, nếu Tây Quan vẫn cứ chìm trong ao tù nước đọng như vậy, bảy họ Tây Quan cũng khó có thể khôi phục lại khoảng thời gian huy hoàng đó, chỉ khi cả Tây Quan hưng vượng phát triển, thân sĩ Tây Quan mới có thể khôi phục lại được huy hoàng xưa kia.
Đương nhiên, chúng thân sĩ bất mãn không biết bao nhiêu lần đối với chính sách quân điền của Sở Hoan, vì quân điền lần này hắn áp dụng chủ yếu là thu ruộng hoang vô chủ về sở hữu của quan phủ, cũng có gây ra tổn thất cho bảy họ Tây Quan, nhưng chúng thân sĩ đều hiểu rõ, mục đích hắn thực hiện tân chính thực ra cũng không phải để đối phó với thân sĩ địa phương, mà là để động viên dân chúng Tây Quan nhiệt tình cày ruộng mà thôi.
Tại Bắc Sơn, về canh cụ, Tiếu Hoán Chương hoàn toàn không nuốt lời. Khi nạn dân Tây Quan tấp nập về quê, canh cụ từ Bắc Sơn cũng liên tiếp được chở tới. Càng khiến cho Sở Hoan vui mừng hơn, là từ Tây Sơn đạo quan nội và An Ấp cũng có từng chuyến lớn canh cụ được đưa tới.
Tin Tây Quan áp dụng quân điền đồng đều đương nhiên cũng được truyền đến quan nội. Tổng đốc Tây Sơn Kiều Minh Đường, Tổng đốc An Ấp Viên Sùng Thượng cũng có chút quan hệ sâu xa với Sở Hoan. Đại ân không thể báo, nhưng điều một ít nông cụ đã chuẩn bị trước tới giúp cũng đã là tận tình.
/1596
|