Hà Khôi hiểu rất rõ, vào lúc này, mặc kệ ngoài thành xảy ra chuyện gì, lựa chọn tốt nhất, chính là đóng chặt cửa thành.
Nhưng mà y cũng biết, đây dường như là chuyện không thể thực hiện được.
Nếu lúc này Hồ Tông Mậu ở trong thành, chắc chắn sẽ không cho mở cửa thành, nhưng mà lúc này đòi mở cửa thành, lại chính là Hồ Tông Mậu. Hồ Tông Mậu dẫn theo mấy chục binh mã chật vật mà về, kỵ binh phía sau lại còn liên tiếp ngoái nhìn khắp nơi, Hà Khôi biết, bọn họ nhất định đang lo lắng đằng sau có truy binh.
Nếu bản thân kiên quyết không mở cửa thành, vậy tất nhiên sẽ hại chết Hồ Tông Mậu.
Hồ Tông Mậu để cho Hà Khôi phụ trách thủ thành, chỉ vì y biết Hà Khôi lão luyện thành thục, làm việc cẩn thận, để Trần Thụ ở lại trợ giúp, bởi vì Trần Thụ là thân tín của Hồ Tông Mậu.
Hà Khôi cho dù muốn đóng chặt cửa thành, Trần Thụ cũng không thể nào đồng ý.
Tuấn mã chạy như bay, đã phóng qua ván gỗ bắc trên chiến hào, rất nhanh đã sắp tới cửa thành, thấy cửa thành còn chưa mở, Hồ Tông Mậu trong lúc hoảng loạn, lại càng tức giận không thôi, ngẩn đầu nhìn phía đầu tường, cao giọng thét:
- Trần Thụ, ngươi con mẹ nó còn không mở cửa thành ra?
Trần Thụ cũng mặc kệ Hà Khôi, chạy vội xuống phía trong tường thành, nhìn xuống dưới, cao giọng mệnh lệnh:
- Mở cửa thành, nghênh đón tướng quân vào thành!
Hà Khôi cũng chạy tới, lớn tiếng nói:
- Tướng quân vừa vào thành, lập tức đóng cửa lại.
Lại phân phó nói:
- Tướng sĩ dưới thành nghe lệnh, vào vị trí sẵn sàng đón quân địch, chuẩn bị chiến đấu.
Hồ Tông Mậu dẫn quân chủ lực ra khỏi thành, chừa mấy trăm binh sĩ ở lại trấn giữ cửa chính, tuy nói Hồ Tông Mậu dẫn binh truy kích quân Sở bỏ chạy, nhưng Hà Khôi vẫn luôn cảm thấy trong lòng không yên, cảm thấy lực lượng phòng thủ cửa thật quá bạc nhược yếu kém. Y thương nghị với Trần Thụ một phen, cuối cùng điều tất cả binh lính ở các cửa khác tới bổ sung số lượng, miễn cưỡng tụ tập ở cửa chính được gần một ngàn người.
Trên đầu thành bố trí cung tiễn thủ, ở cửa thành thì sắp xếp mấy trăm bộ binh.
Vó sắt phóng như bay, chỉ là trong chốc lát, Hồ Tông Mậu một ngựa dẫn đầu, phía sau là mấy chục tên bộ hạ, chạy đến bên cạnh cửa thành, cửa thành kêu cạch cạch, từ từ mở ra.
Hồ Tông Mậu chỉ cảm thấy trên trán đã đầy mồ hôi, hơn nữa, mồ hôi thậm chí đã chảy vào trong mắt y, cay nóng vô cùng, nhưng y lại không có thời gian lau đi. Ánh mắt y nhìn chằm chằm vào cánh cửa thành đang từ từ mở ra, trong lòng chỉ muốn nhanh chóng phóng vào bên trong, chỉ có xông vào trong thành, mới có thể có chút hi vọng sống. Y tin tưởng đại quân Sở Hoan chẳng mấy chốc sẽ đuổi theo đến đâ thề với lòng, chỉ cần mình vào thành, sau này trừ phi quân Sở phá thành đánh vào, nếu không, mình sẽ không bao giờ mở cửa thành nữa.
Tuấn mã vừa vào trong cửa thành, Hồ Tông Mậu thở một hơi dài nhẹ nhõm, lớn tiếng kêu lên:
- Mau đóng cửa thành, mau đóng cửa thành!
Những lời này vốn nên sớm nói ra, nhưng y tiếc sinh mệnh của mình, trong lòng y vẫn biết, giờ phút này, đóng cửa thành mới là an toàn nhất. Nhưng lúc nãy, nhìn thấy cửa thành đóng chặt, trong lòng lại nổi bão, chỉ muốn nhanh chóng mở cửa vào thành. Bây giờ, bản thân y sắp vào đến trong thành, liền nghĩ phải đóng chặt cửa lại. Ngựa của y là tuấn mã ngàn con chọn một, tốc độ cực nhanh, bộ hạ phía sau vẫn còn cách y một khoảng, lúc này mà gọi đóng cửa thành, chính là không thèm để ý đến những thuộc hạ đã sống chết theo mình, tính ích kỷ thể hiện rõ ràng.
Cửa thành đã hé ra một khe hở lớn, Hồ Tông Mậu mắt thấy sắp vào đến nơi, chợt nghe bên cạnh phất tới một luồng kình phong, trong lòng giật mình kinh hãi, khóe mắt đã thoáng thấy có mấy bóng người nhào qua phía mình, không khỏi lạnh lùng quát:
- Làm cái gì?
Rồi lập tức vung đao chém tới. Bỗng, y nghe một tiếng hí đau đớn vang lên, dưới người tự nhiên thụp xuống, Hồ Tông Mậu cũng không phải loại tầm thường, biết đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn, một tay nhấn lên lưng ngựa, gầm một tiếng, tung người nhảy ra.
Tuấn mã y cưỡi đã ngã trên mặt đất, thì ra chỉ trong chớp mắt, mấy bóng người bên cạnh đó đã ánh đao chớp động, nhanh chóng chém đứt chân ngựa.
Hồ Tông Mậu tâm trạng hoảng sợ, ngay lúc cả người thụp xuống, lúc tuấn mã còn chưa hoàn toàn ngã ra đất, chống lên lưng ngựa, mượn lực tung mình vào phía trong thành. Lúc thân người còn đang trên không, một ý nghĩ chợt lóe trong đầu, y chợt hiểu, vừa tức vừa sợ, mắng:
- Hoàng Ngọc Đàm, ta chửi tổ tiên mười tám đời nhà ngươi... !
Lúc nãy, mắt y chỉ lo nhìn cửa thành, nhưng y vẫn loáng thoáng thấy bên cạnh cửa thành có một nhóm người. Lúc đó không suy nghĩ cẩn thận, mười phần khẩn cấp, thêm tính y tự đại, cũng không thèm để ý tới nhóm người đó. Nhưng bây giờ nghĩ lại, ngay ngoài cửa thành, vẫn còn có Hoàng Ngọc Đàm với hơn trăm kỵ binh đứng đó, đám người này không được vào thành, nhưng vẫn đứng y nguyên ngoài cửa.
Tuy Hà Khôi biết rõ Hồ Tông Mậu xảy ra chuyện, cũng biết cái gọi là viện binh của Trương Thúc Nghiêm đều là giả dối, nhưng dưới tình huống cấp bách, Hồ Tông Mậu lại không nghĩ tới điều này. Chính một thoáng sơ sẩy đó đã khiến y phạm phải một sai lầm chí mạng. Lúc này ắt phải biết rằng, viện binh của Trương Thúc Nghiêm là giả, vậy Hoàng Ngọc Đàm đương nhiên không thể là người của Trương Thúc Nghiêm.
Hồ Tông Mậu mượn lực tung người vào trong thành, nhưng mấy chục bộ hạ theo sau y lại trông thấy đội kỵ binh đi cùng Hoàng Ngọc Đàm bỗng chốc giống như bầy sói phát điên, một nửa lao ra ngăn trở đám bộ hạ đang chạy theo Hồ Tông Mậu, nửa còn lại thét lớn xông vào bên trong muốn mở cửa thành. Binh sĩ trong thành thấy xảy ra chuyện, giật mình kinh hãi. Hồ Tông Mậu vừa rơi xuống sau cửa thành, đã cao giọng thét lên:
- Mau đóng cửa thành!
Y lúc trước đã không để ý đến bộ hạ của mình, bây giờ lại càng mặc kệ.
Bên trong cửa thành có vài chục binh sĩ, còn có mấy trăm phản quân cách đó không xa, nghe mệnh lệnh của Hồ Tông Mậu, binh sĩ trong thành dốc hết sức lực muốn đóng cửa thành lại, nhưng kỵ binh thuộc hạ của Hoàng Ngọc Đàm đã kịp xông vào, như sói như hổ vung đao chém loạn xạ. Đám binh sĩ giữ thành đang như ong vỡ tổ muốn liều mạng chạy qua đóng cửa, liền bị kỵ binh đẩy ngược trở lại.
Nhóm kỵ binh này cũng không vào sâu trong thành, mà chỉ trấn ở cửa thành chém giết. Năm sáu kỵ binh hộ vệ bên người Hoàng Ngọc Đàm lúc này đã chạy ra ngoài thành một khoảng. Ngay khi một nửa kỵ binh xông vào cửa thành, Hoàng Ngọc Đàm nhìn đám hộ vệ gật đầu, những hộ vệ kia liền lấy ra cung tên, một người khác tay cầm đuốc lửa, mọi người châm đầu mũi tên vào ngọn lửa, đầu tên lập tức bùng cháy, giương cung lắp tên, nhắm lên không trung, cùng lúc bắn ra hỏa tiễn.
Hỏa tiễn bay lên không, nhìn thật rõ ràng, cũng ngay lúc đó, phía tây truyền đến tiếng hô như sấm:
- Các huynh đệ, tín hiệu phát ra rồi, thắng bại đều ở lúc này, cùng ta xông lên !
Chỉ thấy, trong màn đêm, khoảng sa mạc ngoài kia bụi cát bỗng nhiên bốc lên mù mịt, vô số người từ trên mặt đất nhổm dậy, bọn họ rõ ràng đã phủ phục ở chỗ này rất lâu, đợi đến lúc hỏa tiễn bay lên, liền lập tức đứng dậy.
Nhóm người này đều mặc trang phục cẩm y vệ tổng đốc, chính là lính mới Bùi Tích vừa huấn luyện không lâu, trong số đó còn xen lẫn gần trăm võ sĩ cận vệ của Đại Tần.
Huấn luyện đúng nghĩa là phải ở trên sa trường, máu và lửa càng có thể khiến người ta trưởng thành. Dù thời gian huấn luyện rất ngắn, nhưng những tân binh này đều là trai tráng trải qua nghiêm khắc chọn lựa ở Tây Bắc, cao lớn mạnh mẽ, lá gan cũng cũng không nhỏ, qua thời gian huấn luyện, cũng đã quen cách dùng vũ khí.
Điều đáng vui mừng là, Sở Hoan lấy được tất cả vật tư Đông Phương Tín mang đi lúc trước, trong đó có rất nhiều thuẫn bài, tất cả những đồ dùng quân sự hắn đều giao cho Bùi Tích, để trang bị cho cấm vệ quân.
Sở Hoan và Bùi Tích xây dựng lại cấm vệ quân, đã lập ra một chương trình huấn luyện hoàn chỉnh, đội cấm vệ quân mới này, dựa theo kiến nghị của Bùi Tích, thiết lập bốn đại doanh Phong, Lâm, Hỏa, Sơn, mà chức năng của bốn đại doanh đã được Bùi Tích sắp xếp ổn thỏa.
Dựa theo suy nghĩ của hắn, phát triển cấm vệ quân nhất định phải giữ được sự đa dạng nhiều loại binh chủng.
Doanh chữ Phong rèn luyện kỵ binh, doanh chữ Lâm rèn luyện dùng thương, doanh chữ Hỏa rèn luyện bắn cung, còn doanh chữ Sơn rèn luyện dùng đao. Bốn doanh luyện ra bốn binh chủng, hợp lại thành một đội cấm vệ quân hoàn chỉnh. Sau khi từng doanh luyện tốt binh sĩ xong, sẽ luyện tập phối hợp bốn loại binh chủng, nhưng Sở Hoan cũng hiểu, muốn cho bốn binh chủng phối hợp ăn ý chặt chẽ, là một việc vô cùng khó khăn, nhưng một khi Phong, Lâm, Hỏa, Sơn bốn đại doanh này có thể thật sự phối hợp với nhau, vậy uy lực khi xuất quân sẽ khiến cho người người kinh hãi.
Chỉ là, việc huấn luyện cấm vệ quân hiện vẫn ở giai đoạn sơ cấp, lần này Bùi Tích kéo đám tân binh theo, vốn là muốn cho họ trải qua máu lửa chiến trường, chưa từng trải qua sa trường chém giết, vĩnh viễn khó mà trở thành một quân nhân thiết huyết thật sự.
Cấm vệ quân sĩ khí vang dội. Trong thành, quân giữ thành thấy ở cửa chỉ có mấy chục kỵ binh, liền ào ào xông ra, vung đao múa thương, dù liều mạng cũng muốn giết sạch kỵ binh xông ra ngoài, nhưng nhóm kỵ binh này vô cùng kiên cường dẻo dai, tuy trong chốc lát có vài kỵ binh chiến tử, nhưng những người khác không hề sợ hãi, đối mặt với binh thủ thành xông ra như sóng vỗ, nhóm kỵ binh vẫn trấn giữ vững vàng.
Ngoài thành, một nửa kỵ binh còn lại đang chém giết với đám thủ hạ theo Hồ Tông Mậu trở về. Hồ Tông Mậu chạy về mang theo chỉ khoảng hai ba mươi người, mà thủ hạ của Hoàng Ngọc Đàm, chia đôi ra cũng có bốn năm mươi người phóng tới ngăn trở. So ra, kỵ binh dưới tay Hoàng Ngọc Đàm chẳng những chiếm ưu thế về số người, hơn nữa kỹ thuật chiến đấu cũng không thua gì đối phương. Chỉ trong chốc lát, liền có hơn mười tên phản quân ngã ngựa, ngược lại kỵ binh quân Sở tử thương không đến mười người.
Cấm vệ quân chạy như bay, reo hò xông tới cửa thành, cung tiễn thủ trên thành nhìn thấy đột nhiên xuất hiện cấm vệ quân, cũng không phân biệt được là quân Tây Lương hay là cấm vệ quân, chỉ biết rằng tất nhiên là quân Sở đánh tới, còn tưởng rằng chủ lực của quân Sở đã đuổi theo đến đây, cả đám đều hiện ra vẻ hoảng sợ, luống cuống tay chân bắn tên về phía bên kia. Tên bắn loạn xạ, căn bản chẳng trúng đâu vào đâu, thuẫn bài binh trong cấm vệ quân đi phía trước, giơ cao thuẫn bài chắn tên, dù thỉnh thoảng có người ngã xuống, nhưng lúc đến trước cửa thành, tổn thất cũng không bao nhiêu.
Hai bên cộng lại, ở cửa thành liền có hơn ngàn người, nhưng cửa thành căn bản không đủ rộng để cho bấy nhiêu người đánh chém, trong thành ngoài thành, dồn đến mức ở trong ba lớp, ở ngoài ba lớp. Binh thủ thành liều mạng đẩy quân Sở ra ngoài, mà quân Sở cũng liều mạng xông vào bên trong. Hai luồng nước lũ đập vào nhau, đao thương lóe sáng, tiếng kêu thảm không dứt, máu chảy thành sông.
Hồ Tông Mậu cao giọng thét binh thủ thành ép quân Sở ra ngoài, bản thân thì chạy vội lên đầu thành, sắc mặt tái nhợt, mồ hôi trên trán vẫn chảy ròng ròng. Hà Khôi và Trần Thụ chắp tay hành lễ, Hồ Tông Mậu không nhìn đến, lại gần chỗ nấp tên, lúc này trời sắc đã hơi sáng, bình minh sắp đến, y nhìn phương đông, rất nhanh, đồng tử co rút lại, thân mình lảo đảo, Hà Khôi và Trần Thụ đưa mắt nhìn qua, cũng đều biến sắc.
Nhưng mà y cũng biết, đây dường như là chuyện không thể thực hiện được.
Nếu lúc này Hồ Tông Mậu ở trong thành, chắc chắn sẽ không cho mở cửa thành, nhưng mà lúc này đòi mở cửa thành, lại chính là Hồ Tông Mậu. Hồ Tông Mậu dẫn theo mấy chục binh mã chật vật mà về, kỵ binh phía sau lại còn liên tiếp ngoái nhìn khắp nơi, Hà Khôi biết, bọn họ nhất định đang lo lắng đằng sau có truy binh.
Nếu bản thân kiên quyết không mở cửa thành, vậy tất nhiên sẽ hại chết Hồ Tông Mậu.
Hồ Tông Mậu để cho Hà Khôi phụ trách thủ thành, chỉ vì y biết Hà Khôi lão luyện thành thục, làm việc cẩn thận, để Trần Thụ ở lại trợ giúp, bởi vì Trần Thụ là thân tín của Hồ Tông Mậu.
Hà Khôi cho dù muốn đóng chặt cửa thành, Trần Thụ cũng không thể nào đồng ý.
Tuấn mã chạy như bay, đã phóng qua ván gỗ bắc trên chiến hào, rất nhanh đã sắp tới cửa thành, thấy cửa thành còn chưa mở, Hồ Tông Mậu trong lúc hoảng loạn, lại càng tức giận không thôi, ngẩn đầu nhìn phía đầu tường, cao giọng thét:
- Trần Thụ, ngươi con mẹ nó còn không mở cửa thành ra?
Trần Thụ cũng mặc kệ Hà Khôi, chạy vội xuống phía trong tường thành, nhìn xuống dưới, cao giọng mệnh lệnh:
- Mở cửa thành, nghênh đón tướng quân vào thành!
Hà Khôi cũng chạy tới, lớn tiếng nói:
- Tướng quân vừa vào thành, lập tức đóng cửa lại.
Lại phân phó nói:
- Tướng sĩ dưới thành nghe lệnh, vào vị trí sẵn sàng đón quân địch, chuẩn bị chiến đấu.
Hồ Tông Mậu dẫn quân chủ lực ra khỏi thành, chừa mấy trăm binh sĩ ở lại trấn giữ cửa chính, tuy nói Hồ Tông Mậu dẫn binh truy kích quân Sở bỏ chạy, nhưng Hà Khôi vẫn luôn cảm thấy trong lòng không yên, cảm thấy lực lượng phòng thủ cửa thật quá bạc nhược yếu kém. Y thương nghị với Trần Thụ một phen, cuối cùng điều tất cả binh lính ở các cửa khác tới bổ sung số lượng, miễn cưỡng tụ tập ở cửa chính được gần một ngàn người.
Trên đầu thành bố trí cung tiễn thủ, ở cửa thành thì sắp xếp mấy trăm bộ binh.
Vó sắt phóng như bay, chỉ là trong chốc lát, Hồ Tông Mậu một ngựa dẫn đầu, phía sau là mấy chục tên bộ hạ, chạy đến bên cạnh cửa thành, cửa thành kêu cạch cạch, từ từ mở ra.
Hồ Tông Mậu chỉ cảm thấy trên trán đã đầy mồ hôi, hơn nữa, mồ hôi thậm chí đã chảy vào trong mắt y, cay nóng vô cùng, nhưng y lại không có thời gian lau đi. Ánh mắt y nhìn chằm chằm vào cánh cửa thành đang từ từ mở ra, trong lòng chỉ muốn nhanh chóng phóng vào bên trong, chỉ có xông vào trong thành, mới có thể có chút hi vọng sống. Y tin tưởng đại quân Sở Hoan chẳng mấy chốc sẽ đuổi theo đến đâ thề với lòng, chỉ cần mình vào thành, sau này trừ phi quân Sở phá thành đánh vào, nếu không, mình sẽ không bao giờ mở cửa thành nữa.
Tuấn mã vừa vào trong cửa thành, Hồ Tông Mậu thở một hơi dài nhẹ nhõm, lớn tiếng kêu lên:
- Mau đóng cửa thành, mau đóng cửa thành!
Những lời này vốn nên sớm nói ra, nhưng y tiếc sinh mệnh của mình, trong lòng y vẫn biết, giờ phút này, đóng cửa thành mới là an toàn nhất. Nhưng lúc nãy, nhìn thấy cửa thành đóng chặt, trong lòng lại nổi bão, chỉ muốn nhanh chóng mở cửa vào thành. Bây giờ, bản thân y sắp vào đến trong thành, liền nghĩ phải đóng chặt cửa lại. Ngựa của y là tuấn mã ngàn con chọn một, tốc độ cực nhanh, bộ hạ phía sau vẫn còn cách y một khoảng, lúc này mà gọi đóng cửa thành, chính là không thèm để ý đến những thuộc hạ đã sống chết theo mình, tính ích kỷ thể hiện rõ ràng.
Cửa thành đã hé ra một khe hở lớn, Hồ Tông Mậu mắt thấy sắp vào đến nơi, chợt nghe bên cạnh phất tới một luồng kình phong, trong lòng giật mình kinh hãi, khóe mắt đã thoáng thấy có mấy bóng người nhào qua phía mình, không khỏi lạnh lùng quát:
- Làm cái gì?
Rồi lập tức vung đao chém tới. Bỗng, y nghe một tiếng hí đau đớn vang lên, dưới người tự nhiên thụp xuống, Hồ Tông Mậu cũng không phải loại tầm thường, biết đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn, một tay nhấn lên lưng ngựa, gầm một tiếng, tung người nhảy ra.
Tuấn mã y cưỡi đã ngã trên mặt đất, thì ra chỉ trong chớp mắt, mấy bóng người bên cạnh đó đã ánh đao chớp động, nhanh chóng chém đứt chân ngựa.
Hồ Tông Mậu tâm trạng hoảng sợ, ngay lúc cả người thụp xuống, lúc tuấn mã còn chưa hoàn toàn ngã ra đất, chống lên lưng ngựa, mượn lực tung mình vào phía trong thành. Lúc thân người còn đang trên không, một ý nghĩ chợt lóe trong đầu, y chợt hiểu, vừa tức vừa sợ, mắng:
- Hoàng Ngọc Đàm, ta chửi tổ tiên mười tám đời nhà ngươi... !
Lúc nãy, mắt y chỉ lo nhìn cửa thành, nhưng y vẫn loáng thoáng thấy bên cạnh cửa thành có một nhóm người. Lúc đó không suy nghĩ cẩn thận, mười phần khẩn cấp, thêm tính y tự đại, cũng không thèm để ý tới nhóm người đó. Nhưng bây giờ nghĩ lại, ngay ngoài cửa thành, vẫn còn có Hoàng Ngọc Đàm với hơn trăm kỵ binh đứng đó, đám người này không được vào thành, nhưng vẫn đứng y nguyên ngoài cửa.
Tuy Hà Khôi biết rõ Hồ Tông Mậu xảy ra chuyện, cũng biết cái gọi là viện binh của Trương Thúc Nghiêm đều là giả dối, nhưng dưới tình huống cấp bách, Hồ Tông Mậu lại không nghĩ tới điều này. Chính một thoáng sơ sẩy đó đã khiến y phạm phải một sai lầm chí mạng. Lúc này ắt phải biết rằng, viện binh của Trương Thúc Nghiêm là giả, vậy Hoàng Ngọc Đàm đương nhiên không thể là người của Trương Thúc Nghiêm.
Hồ Tông Mậu mượn lực tung người vào trong thành, nhưng mấy chục bộ hạ theo sau y lại trông thấy đội kỵ binh đi cùng Hoàng Ngọc Đàm bỗng chốc giống như bầy sói phát điên, một nửa lao ra ngăn trở đám bộ hạ đang chạy theo Hồ Tông Mậu, nửa còn lại thét lớn xông vào bên trong muốn mở cửa thành. Binh sĩ trong thành thấy xảy ra chuyện, giật mình kinh hãi. Hồ Tông Mậu vừa rơi xuống sau cửa thành, đã cao giọng thét lên:
- Mau đóng cửa thành!
Y lúc trước đã không để ý đến bộ hạ của mình, bây giờ lại càng mặc kệ.
Bên trong cửa thành có vài chục binh sĩ, còn có mấy trăm phản quân cách đó không xa, nghe mệnh lệnh của Hồ Tông Mậu, binh sĩ trong thành dốc hết sức lực muốn đóng cửa thành lại, nhưng kỵ binh thuộc hạ của Hoàng Ngọc Đàm đã kịp xông vào, như sói như hổ vung đao chém loạn xạ. Đám binh sĩ giữ thành đang như ong vỡ tổ muốn liều mạng chạy qua đóng cửa, liền bị kỵ binh đẩy ngược trở lại.
Nhóm kỵ binh này cũng không vào sâu trong thành, mà chỉ trấn ở cửa thành chém giết. Năm sáu kỵ binh hộ vệ bên người Hoàng Ngọc Đàm lúc này đã chạy ra ngoài thành một khoảng. Ngay khi một nửa kỵ binh xông vào cửa thành, Hoàng Ngọc Đàm nhìn đám hộ vệ gật đầu, những hộ vệ kia liền lấy ra cung tên, một người khác tay cầm đuốc lửa, mọi người châm đầu mũi tên vào ngọn lửa, đầu tên lập tức bùng cháy, giương cung lắp tên, nhắm lên không trung, cùng lúc bắn ra hỏa tiễn.
Hỏa tiễn bay lên không, nhìn thật rõ ràng, cũng ngay lúc đó, phía tây truyền đến tiếng hô như sấm:
- Các huynh đệ, tín hiệu phát ra rồi, thắng bại đều ở lúc này, cùng ta xông lên !
Chỉ thấy, trong màn đêm, khoảng sa mạc ngoài kia bụi cát bỗng nhiên bốc lên mù mịt, vô số người từ trên mặt đất nhổm dậy, bọn họ rõ ràng đã phủ phục ở chỗ này rất lâu, đợi đến lúc hỏa tiễn bay lên, liền lập tức đứng dậy.
Nhóm người này đều mặc trang phục cẩm y vệ tổng đốc, chính là lính mới Bùi Tích vừa huấn luyện không lâu, trong số đó còn xen lẫn gần trăm võ sĩ cận vệ của Đại Tần.
Huấn luyện đúng nghĩa là phải ở trên sa trường, máu và lửa càng có thể khiến người ta trưởng thành. Dù thời gian huấn luyện rất ngắn, nhưng những tân binh này đều là trai tráng trải qua nghiêm khắc chọn lựa ở Tây Bắc, cao lớn mạnh mẽ, lá gan cũng cũng không nhỏ, qua thời gian huấn luyện, cũng đã quen cách dùng vũ khí.
Điều đáng vui mừng là, Sở Hoan lấy được tất cả vật tư Đông Phương Tín mang đi lúc trước, trong đó có rất nhiều thuẫn bài, tất cả những đồ dùng quân sự hắn đều giao cho Bùi Tích, để trang bị cho cấm vệ quân.
Sở Hoan và Bùi Tích xây dựng lại cấm vệ quân, đã lập ra một chương trình huấn luyện hoàn chỉnh, đội cấm vệ quân mới này, dựa theo kiến nghị của Bùi Tích, thiết lập bốn đại doanh Phong, Lâm, Hỏa, Sơn, mà chức năng của bốn đại doanh đã được Bùi Tích sắp xếp ổn thỏa.
Dựa theo suy nghĩ của hắn, phát triển cấm vệ quân nhất định phải giữ được sự đa dạng nhiều loại binh chủng.
Doanh chữ Phong rèn luyện kỵ binh, doanh chữ Lâm rèn luyện dùng thương, doanh chữ Hỏa rèn luyện bắn cung, còn doanh chữ Sơn rèn luyện dùng đao. Bốn doanh luyện ra bốn binh chủng, hợp lại thành một đội cấm vệ quân hoàn chỉnh. Sau khi từng doanh luyện tốt binh sĩ xong, sẽ luyện tập phối hợp bốn loại binh chủng, nhưng Sở Hoan cũng hiểu, muốn cho bốn binh chủng phối hợp ăn ý chặt chẽ, là một việc vô cùng khó khăn, nhưng một khi Phong, Lâm, Hỏa, Sơn bốn đại doanh này có thể thật sự phối hợp với nhau, vậy uy lực khi xuất quân sẽ khiến cho người người kinh hãi.
Chỉ là, việc huấn luyện cấm vệ quân hiện vẫn ở giai đoạn sơ cấp, lần này Bùi Tích kéo đám tân binh theo, vốn là muốn cho họ trải qua máu lửa chiến trường, chưa từng trải qua sa trường chém giết, vĩnh viễn khó mà trở thành một quân nhân thiết huyết thật sự.
Cấm vệ quân sĩ khí vang dội. Trong thành, quân giữ thành thấy ở cửa chỉ có mấy chục kỵ binh, liền ào ào xông ra, vung đao múa thương, dù liều mạng cũng muốn giết sạch kỵ binh xông ra ngoài, nhưng nhóm kỵ binh này vô cùng kiên cường dẻo dai, tuy trong chốc lát có vài kỵ binh chiến tử, nhưng những người khác không hề sợ hãi, đối mặt với binh thủ thành xông ra như sóng vỗ, nhóm kỵ binh vẫn trấn giữ vững vàng.
Ngoài thành, một nửa kỵ binh còn lại đang chém giết với đám thủ hạ theo Hồ Tông Mậu trở về. Hồ Tông Mậu chạy về mang theo chỉ khoảng hai ba mươi người, mà thủ hạ của Hoàng Ngọc Đàm, chia đôi ra cũng có bốn năm mươi người phóng tới ngăn trở. So ra, kỵ binh dưới tay Hoàng Ngọc Đàm chẳng những chiếm ưu thế về số người, hơn nữa kỹ thuật chiến đấu cũng không thua gì đối phương. Chỉ trong chốc lát, liền có hơn mười tên phản quân ngã ngựa, ngược lại kỵ binh quân Sở tử thương không đến mười người.
Cấm vệ quân chạy như bay, reo hò xông tới cửa thành, cung tiễn thủ trên thành nhìn thấy đột nhiên xuất hiện cấm vệ quân, cũng không phân biệt được là quân Tây Lương hay là cấm vệ quân, chỉ biết rằng tất nhiên là quân Sở đánh tới, còn tưởng rằng chủ lực của quân Sở đã đuổi theo đến đây, cả đám đều hiện ra vẻ hoảng sợ, luống cuống tay chân bắn tên về phía bên kia. Tên bắn loạn xạ, căn bản chẳng trúng đâu vào đâu, thuẫn bài binh trong cấm vệ quân đi phía trước, giơ cao thuẫn bài chắn tên, dù thỉnh thoảng có người ngã xuống, nhưng lúc đến trước cửa thành, tổn thất cũng không bao nhiêu.
Hai bên cộng lại, ở cửa thành liền có hơn ngàn người, nhưng cửa thành căn bản không đủ rộng để cho bấy nhiêu người đánh chém, trong thành ngoài thành, dồn đến mức ở trong ba lớp, ở ngoài ba lớp. Binh thủ thành liều mạng đẩy quân Sở ra ngoài, mà quân Sở cũng liều mạng xông vào bên trong. Hai luồng nước lũ đập vào nhau, đao thương lóe sáng, tiếng kêu thảm không dứt, máu chảy thành sông.
Hồ Tông Mậu cao giọng thét binh thủ thành ép quân Sở ra ngoài, bản thân thì chạy vội lên đầu thành, sắc mặt tái nhợt, mồ hôi trên trán vẫn chảy ròng ròng. Hà Khôi và Trần Thụ chắp tay hành lễ, Hồ Tông Mậu không nhìn đến, lại gần chỗ nấp tên, lúc này trời sắc đã hơi sáng, bình minh sắp đến, y nhìn phương đông, rất nhanh, đồng tử co rút lại, thân mình lảo đảo, Hà Khôi và Trần Thụ đưa mắt nhìn qua, cũng đều biến sắc.
/1596
|