Cách Khương La sáu trăm dặm về hướng Bắc là lãnh thổ của Đại Thế hoàng triều. Nếu đem lên bàn cân đông đếm, Đại Thế và Khương La kẻ tám lạng người nửa cân, mỗi nước hùng cường chiếm đống một phương. Giống như câu nói: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?” Sự có mặt của hai cường quốc trên một đại lục là nguy cơ thường trực của mâu thuẫn và chiến tranh.
Đại Thế rất kiêu ngạo, vào thời trị vì của vua Mã Nặc IV, ông từng hạ lệnh chém hai phái đoàn sứ giả ngoại quốc vì dám cười cợt Đại Thế là “Thiên hạ đệ nhị”. Cái tích “Thiên hạ đệ nhị” đã kéo dài suốt dòng lịch sử. Trước kia, khi hai vương quốc chưa có nhiều đất đai và vàng bạc như bây giờ, các bộ lạc nguyên thủy có tục lệ tổ chức “Hội thu mã” năm năm một lần. Hội này chủ yếu là đi săn ngựa thảo nguyên, thi tài thuần ngựa. Không biết trùng hợp thế nào mà tất cả mùa thi bộ lạc Đại Thế luôn xếp nhì. Hai bên thuần được số ngựa như nhau nhưng các đời tộc trưởng Khương La ai cũng thu được Bạch Cự Long, thế là vượt lên một bậc chiếm hạng nhất. Nhắc tới giống ngựa huyền bí này lại có tới vài trăm mẫu chuyện khác nhau. Nhiều người tin rằng Bạch Cự Long vốn là Thái tử ở Long Cung, vì phạm tội trời mà bị đày xuống nhân gian làm ngựa. Bạch Cự Long có sừng vàng trên trán, màu lông trắng mút, đuôi như cầu vòng, dáng vẻ thần thánh. Số Bạch Cự Long ở thảo nguyên rất ít, không tới 100 con mà con nào cũng là đầu đàn. Tính khí của loài ngựa này rất khó chịu, nó dã man và quyết tuyệt, bướng bĩnh và lì lợm, không chịu cho con người cưỡi lên. Lúc này có một chàng thanh niên tên là Ngưu Chỉ Ôn, sống trong bộ lạc Khương La. Chẳng biết bằng cách nào, anh ta đã khiến một con Bạch Cự Long nhận mình làm chủ, cả vùng tôn anh làm tộc trưởng, thống nhất ba mươi bảy bộ lạc rời rạc lập quốc sơ khai, thế là Khương La triều đại đầu tiên ra đời.
Trải qua rất nhiều thăng trầm, khi mà loài ngựa thần thánh đã hoàn toàn tuyệt chủng, Khương La vẫn bền bỉ vững mạnh. Ra đời muộn hơn nó một chút là Đại Thế, vương quốc thứ hai. Từ cái tích cổ này mà về sau hễ nhắc tới thứ hạng là Đại Thế bị xếp sau một bậc. Điều đó càng được chứng thực trong suốt ba nghìn năm, Đại Thế vẫn không vượt lên được, cứ đánh là thua, mãi mãi “Thiên hạ đệ nhị”. Vết thương âm ĩ nhất cho đến bây giờ là năm Thiên Vĩnh đế tại vị, Đại Thế có sự ủng hộ của sáu nước lân bang, nguồn lực to lớn mà vẫn bị đánh tan tát chạy về. Qúa hoang đường!
-Vì sao lại thế? Lẽ nào Khương La còn tiềm ẩn huyền cơ?
Thiếu niên đặt quân cờ lên bàn, khó hiểu nhìn sư phụ. Lão già thâm sâu lắc đầu, đưa tay vuốt bộ râu bạc trắng.
-Làm gì có! Chẳng qua Khương La may mắn, vì sao Ngưu Chỉ Ôn không phải người Đại Thế? Vì sao bí quyết thuần ngựa nằm trong tay bộ lạc Khương La? Vì sao Đại Thế năm đó không có một người ngang tài ngang sức với Hạ Hầu Vĩnh Khang? Ta nói con nghe, là vì chúng ta đều sinh lầm thời!
-Haha, sư phụ chí phải!
Đây là đỉnh núi Côn Luân, không phải Côn Luân chúng ta thường nghe mà là một Côn Luân khác vô tình giống ở cái tên. Núi Côn Luân quanh năm phủ mây, cảnh sắc mờ ảo như tiên giới. Có một cái đình nhỏ dựng sơ sài bên vách núi, một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là tường đá thô ráp. Hai người một già một trẻ ngồi đánh cờ, thản nhiên luận bàn thế sự.
-Sư phụ, vậy theo ngài… hiện giờ Khương La cùng Đại Thế, thứ hạng có khác xưa?
-Haizzz… con làm khó sư phụ rồi. Muốn xếp hạng thì phải so, muốn so thì phải có thử thách. Theo ta thấy Thái Minh đế bây giờ có lẽ không bằng Thiên Vĩnh đế năm xưa, rất khó nói! Trận Bình Thành sáu năm trước là bệ hạ quá đường đột, cứ tưởng Phượng Triều thầm lặng giúp đỡ thì nắm chắc trong tay. Kết quả thế nào? Lão tướng Đô Dư Mân ngay cả ta cũng kính mấy phần, vậy mà bệ hạ khinh địch quá đáng. THUA! Đó là tất yếu!
-Nhưng sư phụ à, Đại Thế đã nhẫn nhịn lâu rồi. Hiếm khi nội bộ họ rối ren bất ổn. Ôn Chính vương muốn chiếm ngôi, các hoàng tử còn tranh đấu, cánh quân giữ thành mỏng như cánh ve… đó là thời cơ ngàn vàng! Nếu ta không đánh thì bây giờ đang ngồi đây hối hận đó!
-“Thời cơ ngàn vàng”? Biết lúc nào là thời cơ, lúc nào là nguy cơ, đó mới là tầm nhìn của thiên tử! Con ấy à, phải phấn đấu nhiều!
Lão già vuốt râu, đặt thêm một quân đen, thế cờ lập tức đảo thua thành thắng khiến thiếu niên kia trợn mắt kinh ngạc.
-Tháng tới ta có đại sự phải rời Côn Luân, con tạm thời trở về nhà đi, mẹ của con đã gửi thư nhắc không dưới hai mươi lần. Đừng để bà lo lắng nữa.
-Sư phụ! Ngài lại muốn đi đâu?
-Ta đi Khương La.
-Cái gì? Sư phụ qua đó làm gì?
-Hôm trước ta ngồi xem thiên cơ, phát hiện một chuyện nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ, liên quan tới vận mệnh chúng ta. Chuyến này ta dùng thân phận khác đến gặp Chu Lạc Ca Dương, nói không chừng sẽ có nhiều phát hiện lý thú!
-Sư… sư phụ… ngài cẩn thận đấy, cái tên đó thấy vậy mà rất hung ác. Con đã từng nghe kể, hắn chém đầu thúc thúc của mình, biến anh trai thành phế nhân… là một tên máu lạnh vô tình!
-Haha, “máu lạnh vô tình”, đây cũng là bản chất của thiên tử, con phải phấn đấu đó!
Ở Đế Đô, sau khi Minh Châu quận chúa rời đi không lâu, ám vệ đưa tin đã tìm thấy người bệ hạ cần. Khi U Trì bị nhiễm độc, Sở Phù Dung rời đi, Ca Dương đã bắt đầu có những hồi ức rời rạc về kiếp trước, về Hạ Hầu Vĩnh Khang… Hắn không có cách nào nhớ được toàn bộ câu chuyện, càng cố nghĩ thì đầu càng đau như búa bổ. Vì vậy Ca Dương đã phó thác Tiểu Ninh Tử trong suốt sáu năm không ngừng tìm kiếm một cao nhân am hiểu về kiếp số. Tận bây giờ mới tìm ra!
Ông ta gọi là Thủy Tức Chân Nhân, xuất thân từ một môn phái rất ít đệ tử ở Côn Luân. Người này tuổi cao nhưng rất khỏe mạnh, tóc bạc môi hồng, đôi mắt sáng, vóc người tầm thước… chỉ riêng bề ngoài đã làm người ta tin tưởng nửa phần. Ám vệ điều tra về ông rất vất vả, hầu như manh mối bị mất ở Côn Luân. Ngọn núi này thuộc lãnh địa Đại Thế, đạo phái của ông lại kín mật không giao thiệp bên ngoài, muốn biết tin tức còn khó hơn lên trời. Với tính cẩn trọng đa nghi của Ca Dương, hắn do dự rất lâu mới quyết định mời ông ta vào cung.
Chính Ca Dương cũng không biết mình vì sao phải làm như vậy. Cái chết của nàng là khối u vướng trong cổ họng, khiến hắn thở không thông, nuốt không được, nôn cũng không ra… Nếu Ca Dương là kiếp sau của Thiên Vĩnh đế vậy Sở Phù Dung hiện ở nơi nào? Nếu nàng vẫn chật vật dưới chốn âm ti, hắn phải tìm mọi cách đưa nàng trở về. Nếu nàng đã đầu thai và có cuộc sống mới, hắn phải đến quấy phá một phen. Không loại trừ khả năng nàng thành tiên thành Phật, thoát kiếp luân hồi, thanh tâm quả dục… vậy… Ca Dương đành phải tu luyện đuổi theo, kéo nàng cùng làm “đọa tiên”.
Hắn càng nghĩ càng xa… càng vô lý… càng hoang đường… càng ngông nghênh bất trị… Thôi được rồi, đánh chết cái nết không chừa, tính tình này chắc là nhờ Hạ Hầu Vĩnh Khang ban cho! Ca Dương xoa trán bật cười, vừa lúc Tiểu Ninh Tử bưng bát thuốc đi vào.
-Lại nữa à? Trẫm không uống, khó ngửi chết được, ngươi lập tức đem vứt đi!
-Ây da, hoàng thượng, hoàng thượng… đừng như vậy mà. Đây là thuốc bổ máu, phải bổ sung chỗ máu bị mất chứ!
Ninh công công chuyện nhỏ xé ra to, chẳng qua tháng trước Ca Dương dùng nửa chén máu lau chùi ngọc Tu Loan, khiến nó uống máu đến say, màu đỏ sáng rực. Nửa bát thôi mà, so với hồi nhỏ hắn luyện võ bị thương thì chẳng thấm vào đâu. Ca Dương cảm thấy không phí, ngọc Tu Loan là một thứ cổ độc lành tính, nó cực kì thích máu mà chắc là hàng trăm năm chưa lần nào được uống nhiều như vậy. Ca Dương càng lau cảm thấy càng đẹp, yêu thích không buông tay. Kết quả khi Tiểu Ninh Tử phát hiện đã phải hét lên inh ỏi, làm các ám vệ lập tức đến cứu giá. Lúc ấy Ca Dương bất cẩn không để ý mình mặc y phục trắng, vào nửa đêm cả người loang lổ máu ở trên giường thì đáng sợ thật! Thế là từ hôm đó Tiểu Ninh Tử đều đặn mỗi ngày sắc thuốc, hắn không tin Ca Dương chỉ mất nửa chén máu.
Trải qua một phen cò kè mặc cả, cuối cùng Tiểu Ninh Tử thành công thuyết phục hoàng thượng uống “bát thuốc cuối cùng”, về chuyện ngày mai có “bát thuốc cuối cùng” nào nữa thì từ từ bàn tiếp. Hắn gọi cung nữ vào dọn dẹp sau đó đưa một mẫu giấy nhỏ trong ống tre cho Ca Dương:
-Bệ hạ, sáng nay Trì đã đưa tin tới. Vị Thủy Tức Chân Nhân nọ đã vượt qua cửa khẩu Tràng Lâm, bước vào địa phận Khương La, hiện đang được hộ tống gấp rút về kinh… theo tốc độ này thì ngày hai mươi bảy sẽ đến.
Ca Dương nhíu mày nhận mảnh giấy chi chít kí tự khó hiểu, hắn đọc sơ qua rồi trả cho Tiểu Ninh Tử thiêu hủy. Bức thư mô tả ngắn gọn những điều ám vệ quan sát được trong mấy ngày qua. Thủy Tức Chân Nhân này ăn nói sắc sảo, kín tiếng lựa lời, không thể từ miệng ông ta moi ra tin tức. Tư trang hành lý cũng không có điểm bất thường, đều là vật tự làm hoặc mua bừa ở chợ dưới chân núi, không nói lên điều gì. Ám vệ dịch dung giả làm nô tài đồng hành cùng lão cả ngày lẫn đêm, thăm dò đủ cách nhưng không tóm được tí nào sơ hở…
Ca Dương đọc xong mật tín thì cúi đầu cười nhạt. Người như vậy chỉ có hai khả năng. Một là ông ta quá đổi bình thường, sạch sẽ như một tờ giấy trắng. Hai là lão ta quá mức cao thâm, sâu hun hút như vực không thấy đáy… Thủy Tức Chân Nhân này… rốt cuộc là loại một, hay loại hai?
Ngày hai mươi bảy cùng tháng, cuối cùng người Ca Dương đợi cũng đã đến. Tiểu Ninh Tử được lệnh sắp xếp một chỗ ở khiêm tốn và an toàn trong thành. Sáu năm tìm kiếm, không biết bao nhiêu tốn kém và vất vả nhưng vào lúc này Ca Dương không thấy vội. Hắn để lão chờ thêm nhiều ngày, chờ tới mức Tiểu Ninh Tử cũng sốt ruột nhắc nhở, sợ bệ hạ bận bịu quên mất. Thủy Tức Chân Nhân bị vứt bỏ trong ngôi nhà gỗ đơn sơ, ngày ngày điềm nhiên ôm biển quảng cáo khi khắp thành bói toán, kiếm vừa đủ bạc mua gạo và rau xanh. Ông ung dung sống qua ngày, không có một chút biểu hiện nôn nóng lo âu…
Khi nghe mật thám báo cáo tình hình, hoàng đế lại bật cười thêm lần nữa
-Ha, lão già này thật thú vị! Nếu ông ta là thù mà không phải bạn thì thật đáng tiếc…
Rồi một ngày kia, Thủy Tức Chân Nhân đi xem bói trở về, phát hiện hai gã sai vặt đã trở lại cùng với cỗ xe ngựa sang trọng đỗ ở sân nhà. Ông cười chào một tiếng, vào trong cất dụng cụ hành nghề, sau đó không đợi ai mời đã leo lên xe. Hai tên ám vệ trao đổi một ánh mắt, cũng tự nhiên ngồi vào vị trí đánh ngựa rời đi. Cỗ xe một mạch chạy qua sáu tầng cẩn mật, tiến vào hoàng cung nội điện. Hoàng đế đợi sẵn trong thư phòng.
Khi Thủy Tức Chân Nhân bước qua cánh cửa sơn son, ông chỉ thấy mình bị choáng ngộp bởi những pho sách chất cao tận trần nhà và những món đồ chơi lạ lùng không phù hợp bối cảnh. Căn phòng rất rộng, không gian sáng sủa, chính giữa là cái bàn gỗ sồi nhìn qua rất nặng. Không khó để hình dung mỗi ngày trăm vạn chuyện lớn nhỏ của một đại vương quốc đều được xử lý trên chiếc bàn này. Thủy Tức Chân Nhân hơi híp mắt, quan sát từng luồng dương khí cường thịnh, một phần do phong thủy quá tốt, một phần xuất phát từ vị chủ nhân nơi đây. Sau khi đánh giá sơ lược, lão lại chuyển mắt nhìn thẳng lên bóng lưng ẩn hiện một con ngân long. Thuật bói tướng của lão đã đạt tới trình độ thượng thừa, trong tích tắc nắm bắt được những điều thấy rõ và chưa rõ…
Thì ra đây là Chu Lạc Ca Dương, là Thái Minh đế của Khương La hoàng triều. Thủy Tức Chân Nhân lẩm bẩm hai lần cái tên này. Đôi vai rộng để gánh giang sơn, vóc người cao lớn đủ nâng lên tất cả, bàn tay sạch sẽ với những gấp khúc vương giả, sau ót cất giấu sự thâm trầm, khôn khéo,… có lẫn tịch mịch và cô độc của một nhân cách lớn…
Thủy Tức Chân Nhân thu lại tầm mắt, tự đáy lòng buông tiếng thở dài… Một “thiên tử” như vậy chắc là con dòng chính thất của trời, thuở đời nay con trời cũng phân trưởng, thứ… luôn có sự bất bình như vậy…
Đứng quay lưng nhìn ngắm chậu hoa sen bên bệ cửa sổ, Ca Dương để mặc Thủy Tức Chân Nhân đánh giá mình. Hắn không còn quá bận tâm lai lịch của ông như thế nào nữa. Lão già này, nếu là bạn thì tốt, là kẻ thù cũng chẳng sao. Mục đích của lão là gì, Ca Dương không tin mình không thể nhìn ra. Lúc này hắn chỉ chú tâm ngắm hoa, tự hỏi lòng mình đúng hay sai, nên hay không nên… Bởi vì có đôi lúc, hồi ức là con dao hai lưỡi, chỉ cần xem nó như kỷ vật giấu dưới đáy rương, mặc cho bụi thời gian vùi lấp. Một khi quyết định lôi nó ra, hậu quá không phải ai cũng lường trước được…
Ca Dương vuốt ve búp sen hồng ửng, rất giống làn da của người thiếu nữ. Hắn chắp tay sau lưng, đủng đỉnh trở về chỗ ngồi, cất tiếng nói không hờn không vui:
-Lão đạo sĩ này, nhìn thấy trẫm mà không hành lễ?
-Thái Minh đế thứ tội cho kẻ bần tiện, ta là con dân Đại Thế, không phải người Khương La, xét về lý không cần quỳ trước chúa Khương La!
-Ồ, vậy sao? Chẳng lẽ ông chưa nghe câu “nhập gia tùy tục”?
-Haha, bệ hạ quá lời, kẻ bần tiện chưa “nhập gia”, chỉ mới làm khách đến chơi một chuyến!
Ca Dương nhếch mép, duỗi hai chân gác lên bàn, đế giày đung đưa chỉ thẳng mặt ông lão. Hắn lại quay về bộ dạng vô lại thường ngày.
-Gan ông cũng khá to đấy, không quỳ thì không quỳ, dẫu sao thứ trẫm muốn không chỉ một đôi chân biết quỳ. Nghe nói ông thông thiên đạt lý, nhìn thấu vận mệnh, đoán được kiếp số con người… Vậy bây giờ trẫm hỏi ông, vận mệnh của trẫm sẽ thế nào?
Thủy Tức Chân Nhân đưa tay vuốt râu, nói một cách hàm súc:
“Mệnh ở người, không ở trời. Gieo nhân nào sẽ gặt quả ấy. Kẻ bần tiện không dám soi mói vận cách của bệ hạ, nhưng nếu bệ hạ đã hỏi vậy ta đành phải trả lời: Mệnh ngài phúc thọ vô biên, trời sinh nắm giữ nghiệp lớn. Tuy nhiên về đường nhân duyên khá trắc trở, nếu không cố gắng cải biến thì tuổi già đơn độc, vô con vô tự!”
Lão nói xong, cả thư phòng im phăng phắc, một chiếc kim rơi cũng sẽ giật mình. Ca Dương nhìn chằm chằm dáng vẻ tự tin nhưng không đắc ý của ông, cười nhạt hỏi lại:
-Tuổi già đơn độc, vô con vô tự? Nói một hoàng đế không có con cháu, chẳng lẽ lão chán sống rồi?
-Hahaha… bệ hạ tức giận ta cũng không rút lại lời. Đây hoàn toàn là sự thật. Nhưng ngài cũng đừng lo lắng, chẳng phải đã nói “mệnh ở người” hay sao? Khó khăn nào cũng có cách hóa giải!
-Được rồi, cứ như ông nói, trẫm và ông sẽ bàn về “cách hóa giải” này sau. Hiện giờ điều trẫm muốn nhất là nhìn thấy toàn bộ cuộc đời kiếp trước. Một lời không quanh co, ông có làm được không?
Thủy Tức Chân Nhân hơi nhíu mày, hiển nhiên lão cũng không ngờ Ca Dương sẽ yêu cầu như vậy. Nhớ lại kiếp trước? Liệu có thể sao? Lão lại thâm trầm vuốt râu, trong đầu nảy sinh vô vàng suy tính…
-Bệ hạ, kẻ bần tiện cũng xin nói rõ. Muốn nhớ, ta hoàn toàn có cách. Tuy nhiên, người xưa vẫn nói “bánh ích ném đi bánh quy ném lại”, ngài muốn thấy tiền kiếp, vậy phải trả giá bằng dương thọ kiếp này. Bệ hạ, ta không thấy được dương thọ của ngài nên không thể nói nó bị mất bao nhiêu, còn lại bao nhiêu. Một việc nhiều rủi ro và phải đánh đổi như vậy… bệ hạ vẫn muốn làm sao?
Gian phòng lại lần nữa rơi vào im lặng. Thủy Tức Chân Nhân ung dung chờ đợi, dường như quyết định của Ca Dương ông chẳng quá bận tâm. Hoàng đế ngồi trên long ỷ, ánh mắt đã rơi vào hư không… Dương thọ, nghĩa là kiếp này hắn phải sống ngắn đi một chút. Đối với bất kì ai, nhất là một vị vua, thời gian trên cõi đời quý báu biết dường nào. Chỉ nghe nói hoàng đế muốn tìm thuốc trường sinh bất tử, chứ chưa nghe nói hắn ngại mình sống quá lâu bao giờ!
Có lẽ là nửa giờ, cũng có lẽ là một khắc, cuối cùng Thủy Tức Chân Nhân nghe được tiếng trả lời:
“Được, trẫm chấp nhận!”
Đại Thế rất kiêu ngạo, vào thời trị vì của vua Mã Nặc IV, ông từng hạ lệnh chém hai phái đoàn sứ giả ngoại quốc vì dám cười cợt Đại Thế là “Thiên hạ đệ nhị”. Cái tích “Thiên hạ đệ nhị” đã kéo dài suốt dòng lịch sử. Trước kia, khi hai vương quốc chưa có nhiều đất đai và vàng bạc như bây giờ, các bộ lạc nguyên thủy có tục lệ tổ chức “Hội thu mã” năm năm một lần. Hội này chủ yếu là đi săn ngựa thảo nguyên, thi tài thuần ngựa. Không biết trùng hợp thế nào mà tất cả mùa thi bộ lạc Đại Thế luôn xếp nhì. Hai bên thuần được số ngựa như nhau nhưng các đời tộc trưởng Khương La ai cũng thu được Bạch Cự Long, thế là vượt lên một bậc chiếm hạng nhất. Nhắc tới giống ngựa huyền bí này lại có tới vài trăm mẫu chuyện khác nhau. Nhiều người tin rằng Bạch Cự Long vốn là Thái tử ở Long Cung, vì phạm tội trời mà bị đày xuống nhân gian làm ngựa. Bạch Cự Long có sừng vàng trên trán, màu lông trắng mút, đuôi như cầu vòng, dáng vẻ thần thánh. Số Bạch Cự Long ở thảo nguyên rất ít, không tới 100 con mà con nào cũng là đầu đàn. Tính khí của loài ngựa này rất khó chịu, nó dã man và quyết tuyệt, bướng bĩnh và lì lợm, không chịu cho con người cưỡi lên. Lúc này có một chàng thanh niên tên là Ngưu Chỉ Ôn, sống trong bộ lạc Khương La. Chẳng biết bằng cách nào, anh ta đã khiến một con Bạch Cự Long nhận mình làm chủ, cả vùng tôn anh làm tộc trưởng, thống nhất ba mươi bảy bộ lạc rời rạc lập quốc sơ khai, thế là Khương La triều đại đầu tiên ra đời.
Trải qua rất nhiều thăng trầm, khi mà loài ngựa thần thánh đã hoàn toàn tuyệt chủng, Khương La vẫn bền bỉ vững mạnh. Ra đời muộn hơn nó một chút là Đại Thế, vương quốc thứ hai. Từ cái tích cổ này mà về sau hễ nhắc tới thứ hạng là Đại Thế bị xếp sau một bậc. Điều đó càng được chứng thực trong suốt ba nghìn năm, Đại Thế vẫn không vượt lên được, cứ đánh là thua, mãi mãi “Thiên hạ đệ nhị”. Vết thương âm ĩ nhất cho đến bây giờ là năm Thiên Vĩnh đế tại vị, Đại Thế có sự ủng hộ của sáu nước lân bang, nguồn lực to lớn mà vẫn bị đánh tan tát chạy về. Qúa hoang đường!
-Vì sao lại thế? Lẽ nào Khương La còn tiềm ẩn huyền cơ?
Thiếu niên đặt quân cờ lên bàn, khó hiểu nhìn sư phụ. Lão già thâm sâu lắc đầu, đưa tay vuốt bộ râu bạc trắng.
-Làm gì có! Chẳng qua Khương La may mắn, vì sao Ngưu Chỉ Ôn không phải người Đại Thế? Vì sao bí quyết thuần ngựa nằm trong tay bộ lạc Khương La? Vì sao Đại Thế năm đó không có một người ngang tài ngang sức với Hạ Hầu Vĩnh Khang? Ta nói con nghe, là vì chúng ta đều sinh lầm thời!
-Haha, sư phụ chí phải!
Đây là đỉnh núi Côn Luân, không phải Côn Luân chúng ta thường nghe mà là một Côn Luân khác vô tình giống ở cái tên. Núi Côn Luân quanh năm phủ mây, cảnh sắc mờ ảo như tiên giới. Có một cái đình nhỏ dựng sơ sài bên vách núi, một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là tường đá thô ráp. Hai người một già một trẻ ngồi đánh cờ, thản nhiên luận bàn thế sự.
-Sư phụ, vậy theo ngài… hiện giờ Khương La cùng Đại Thế, thứ hạng có khác xưa?
-Haizzz… con làm khó sư phụ rồi. Muốn xếp hạng thì phải so, muốn so thì phải có thử thách. Theo ta thấy Thái Minh đế bây giờ có lẽ không bằng Thiên Vĩnh đế năm xưa, rất khó nói! Trận Bình Thành sáu năm trước là bệ hạ quá đường đột, cứ tưởng Phượng Triều thầm lặng giúp đỡ thì nắm chắc trong tay. Kết quả thế nào? Lão tướng Đô Dư Mân ngay cả ta cũng kính mấy phần, vậy mà bệ hạ khinh địch quá đáng. THUA! Đó là tất yếu!
-Nhưng sư phụ à, Đại Thế đã nhẫn nhịn lâu rồi. Hiếm khi nội bộ họ rối ren bất ổn. Ôn Chính vương muốn chiếm ngôi, các hoàng tử còn tranh đấu, cánh quân giữ thành mỏng như cánh ve… đó là thời cơ ngàn vàng! Nếu ta không đánh thì bây giờ đang ngồi đây hối hận đó!
-“Thời cơ ngàn vàng”? Biết lúc nào là thời cơ, lúc nào là nguy cơ, đó mới là tầm nhìn của thiên tử! Con ấy à, phải phấn đấu nhiều!
Lão già vuốt râu, đặt thêm một quân đen, thế cờ lập tức đảo thua thành thắng khiến thiếu niên kia trợn mắt kinh ngạc.
-Tháng tới ta có đại sự phải rời Côn Luân, con tạm thời trở về nhà đi, mẹ của con đã gửi thư nhắc không dưới hai mươi lần. Đừng để bà lo lắng nữa.
-Sư phụ! Ngài lại muốn đi đâu?
-Ta đi Khương La.
-Cái gì? Sư phụ qua đó làm gì?
-Hôm trước ta ngồi xem thiên cơ, phát hiện một chuyện nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ, liên quan tới vận mệnh chúng ta. Chuyến này ta dùng thân phận khác đến gặp Chu Lạc Ca Dương, nói không chừng sẽ có nhiều phát hiện lý thú!
-Sư… sư phụ… ngài cẩn thận đấy, cái tên đó thấy vậy mà rất hung ác. Con đã từng nghe kể, hắn chém đầu thúc thúc của mình, biến anh trai thành phế nhân… là một tên máu lạnh vô tình!
-Haha, “máu lạnh vô tình”, đây cũng là bản chất của thiên tử, con phải phấn đấu đó!
Ở Đế Đô, sau khi Minh Châu quận chúa rời đi không lâu, ám vệ đưa tin đã tìm thấy người bệ hạ cần. Khi U Trì bị nhiễm độc, Sở Phù Dung rời đi, Ca Dương đã bắt đầu có những hồi ức rời rạc về kiếp trước, về Hạ Hầu Vĩnh Khang… Hắn không có cách nào nhớ được toàn bộ câu chuyện, càng cố nghĩ thì đầu càng đau như búa bổ. Vì vậy Ca Dương đã phó thác Tiểu Ninh Tử trong suốt sáu năm không ngừng tìm kiếm một cao nhân am hiểu về kiếp số. Tận bây giờ mới tìm ra!
Ông ta gọi là Thủy Tức Chân Nhân, xuất thân từ một môn phái rất ít đệ tử ở Côn Luân. Người này tuổi cao nhưng rất khỏe mạnh, tóc bạc môi hồng, đôi mắt sáng, vóc người tầm thước… chỉ riêng bề ngoài đã làm người ta tin tưởng nửa phần. Ám vệ điều tra về ông rất vất vả, hầu như manh mối bị mất ở Côn Luân. Ngọn núi này thuộc lãnh địa Đại Thế, đạo phái của ông lại kín mật không giao thiệp bên ngoài, muốn biết tin tức còn khó hơn lên trời. Với tính cẩn trọng đa nghi của Ca Dương, hắn do dự rất lâu mới quyết định mời ông ta vào cung.
Chính Ca Dương cũng không biết mình vì sao phải làm như vậy. Cái chết của nàng là khối u vướng trong cổ họng, khiến hắn thở không thông, nuốt không được, nôn cũng không ra… Nếu Ca Dương là kiếp sau của Thiên Vĩnh đế vậy Sở Phù Dung hiện ở nơi nào? Nếu nàng vẫn chật vật dưới chốn âm ti, hắn phải tìm mọi cách đưa nàng trở về. Nếu nàng đã đầu thai và có cuộc sống mới, hắn phải đến quấy phá một phen. Không loại trừ khả năng nàng thành tiên thành Phật, thoát kiếp luân hồi, thanh tâm quả dục… vậy… Ca Dương đành phải tu luyện đuổi theo, kéo nàng cùng làm “đọa tiên”.
Hắn càng nghĩ càng xa… càng vô lý… càng hoang đường… càng ngông nghênh bất trị… Thôi được rồi, đánh chết cái nết không chừa, tính tình này chắc là nhờ Hạ Hầu Vĩnh Khang ban cho! Ca Dương xoa trán bật cười, vừa lúc Tiểu Ninh Tử bưng bát thuốc đi vào.
-Lại nữa à? Trẫm không uống, khó ngửi chết được, ngươi lập tức đem vứt đi!
-Ây da, hoàng thượng, hoàng thượng… đừng như vậy mà. Đây là thuốc bổ máu, phải bổ sung chỗ máu bị mất chứ!
Ninh công công chuyện nhỏ xé ra to, chẳng qua tháng trước Ca Dương dùng nửa chén máu lau chùi ngọc Tu Loan, khiến nó uống máu đến say, màu đỏ sáng rực. Nửa bát thôi mà, so với hồi nhỏ hắn luyện võ bị thương thì chẳng thấm vào đâu. Ca Dương cảm thấy không phí, ngọc Tu Loan là một thứ cổ độc lành tính, nó cực kì thích máu mà chắc là hàng trăm năm chưa lần nào được uống nhiều như vậy. Ca Dương càng lau cảm thấy càng đẹp, yêu thích không buông tay. Kết quả khi Tiểu Ninh Tử phát hiện đã phải hét lên inh ỏi, làm các ám vệ lập tức đến cứu giá. Lúc ấy Ca Dương bất cẩn không để ý mình mặc y phục trắng, vào nửa đêm cả người loang lổ máu ở trên giường thì đáng sợ thật! Thế là từ hôm đó Tiểu Ninh Tử đều đặn mỗi ngày sắc thuốc, hắn không tin Ca Dương chỉ mất nửa chén máu.
Trải qua một phen cò kè mặc cả, cuối cùng Tiểu Ninh Tử thành công thuyết phục hoàng thượng uống “bát thuốc cuối cùng”, về chuyện ngày mai có “bát thuốc cuối cùng” nào nữa thì từ từ bàn tiếp. Hắn gọi cung nữ vào dọn dẹp sau đó đưa một mẫu giấy nhỏ trong ống tre cho Ca Dương:
-Bệ hạ, sáng nay Trì đã đưa tin tới. Vị Thủy Tức Chân Nhân nọ đã vượt qua cửa khẩu Tràng Lâm, bước vào địa phận Khương La, hiện đang được hộ tống gấp rút về kinh… theo tốc độ này thì ngày hai mươi bảy sẽ đến.
Ca Dương nhíu mày nhận mảnh giấy chi chít kí tự khó hiểu, hắn đọc sơ qua rồi trả cho Tiểu Ninh Tử thiêu hủy. Bức thư mô tả ngắn gọn những điều ám vệ quan sát được trong mấy ngày qua. Thủy Tức Chân Nhân này ăn nói sắc sảo, kín tiếng lựa lời, không thể từ miệng ông ta moi ra tin tức. Tư trang hành lý cũng không có điểm bất thường, đều là vật tự làm hoặc mua bừa ở chợ dưới chân núi, không nói lên điều gì. Ám vệ dịch dung giả làm nô tài đồng hành cùng lão cả ngày lẫn đêm, thăm dò đủ cách nhưng không tóm được tí nào sơ hở…
Ca Dương đọc xong mật tín thì cúi đầu cười nhạt. Người như vậy chỉ có hai khả năng. Một là ông ta quá đổi bình thường, sạch sẽ như một tờ giấy trắng. Hai là lão ta quá mức cao thâm, sâu hun hút như vực không thấy đáy… Thủy Tức Chân Nhân này… rốt cuộc là loại một, hay loại hai?
Ngày hai mươi bảy cùng tháng, cuối cùng người Ca Dương đợi cũng đã đến. Tiểu Ninh Tử được lệnh sắp xếp một chỗ ở khiêm tốn và an toàn trong thành. Sáu năm tìm kiếm, không biết bao nhiêu tốn kém và vất vả nhưng vào lúc này Ca Dương không thấy vội. Hắn để lão chờ thêm nhiều ngày, chờ tới mức Tiểu Ninh Tử cũng sốt ruột nhắc nhở, sợ bệ hạ bận bịu quên mất. Thủy Tức Chân Nhân bị vứt bỏ trong ngôi nhà gỗ đơn sơ, ngày ngày điềm nhiên ôm biển quảng cáo khi khắp thành bói toán, kiếm vừa đủ bạc mua gạo và rau xanh. Ông ung dung sống qua ngày, không có một chút biểu hiện nôn nóng lo âu…
Khi nghe mật thám báo cáo tình hình, hoàng đế lại bật cười thêm lần nữa
-Ha, lão già này thật thú vị! Nếu ông ta là thù mà không phải bạn thì thật đáng tiếc…
Rồi một ngày kia, Thủy Tức Chân Nhân đi xem bói trở về, phát hiện hai gã sai vặt đã trở lại cùng với cỗ xe ngựa sang trọng đỗ ở sân nhà. Ông cười chào một tiếng, vào trong cất dụng cụ hành nghề, sau đó không đợi ai mời đã leo lên xe. Hai tên ám vệ trao đổi một ánh mắt, cũng tự nhiên ngồi vào vị trí đánh ngựa rời đi. Cỗ xe một mạch chạy qua sáu tầng cẩn mật, tiến vào hoàng cung nội điện. Hoàng đế đợi sẵn trong thư phòng.
Khi Thủy Tức Chân Nhân bước qua cánh cửa sơn son, ông chỉ thấy mình bị choáng ngộp bởi những pho sách chất cao tận trần nhà và những món đồ chơi lạ lùng không phù hợp bối cảnh. Căn phòng rất rộng, không gian sáng sủa, chính giữa là cái bàn gỗ sồi nhìn qua rất nặng. Không khó để hình dung mỗi ngày trăm vạn chuyện lớn nhỏ của một đại vương quốc đều được xử lý trên chiếc bàn này. Thủy Tức Chân Nhân hơi híp mắt, quan sát từng luồng dương khí cường thịnh, một phần do phong thủy quá tốt, một phần xuất phát từ vị chủ nhân nơi đây. Sau khi đánh giá sơ lược, lão lại chuyển mắt nhìn thẳng lên bóng lưng ẩn hiện một con ngân long. Thuật bói tướng của lão đã đạt tới trình độ thượng thừa, trong tích tắc nắm bắt được những điều thấy rõ và chưa rõ…
Thì ra đây là Chu Lạc Ca Dương, là Thái Minh đế của Khương La hoàng triều. Thủy Tức Chân Nhân lẩm bẩm hai lần cái tên này. Đôi vai rộng để gánh giang sơn, vóc người cao lớn đủ nâng lên tất cả, bàn tay sạch sẽ với những gấp khúc vương giả, sau ót cất giấu sự thâm trầm, khôn khéo,… có lẫn tịch mịch và cô độc của một nhân cách lớn…
Thủy Tức Chân Nhân thu lại tầm mắt, tự đáy lòng buông tiếng thở dài… Một “thiên tử” như vậy chắc là con dòng chính thất của trời, thuở đời nay con trời cũng phân trưởng, thứ… luôn có sự bất bình như vậy…
Đứng quay lưng nhìn ngắm chậu hoa sen bên bệ cửa sổ, Ca Dương để mặc Thủy Tức Chân Nhân đánh giá mình. Hắn không còn quá bận tâm lai lịch của ông như thế nào nữa. Lão già này, nếu là bạn thì tốt, là kẻ thù cũng chẳng sao. Mục đích của lão là gì, Ca Dương không tin mình không thể nhìn ra. Lúc này hắn chỉ chú tâm ngắm hoa, tự hỏi lòng mình đúng hay sai, nên hay không nên… Bởi vì có đôi lúc, hồi ức là con dao hai lưỡi, chỉ cần xem nó như kỷ vật giấu dưới đáy rương, mặc cho bụi thời gian vùi lấp. Một khi quyết định lôi nó ra, hậu quá không phải ai cũng lường trước được…
Ca Dương vuốt ve búp sen hồng ửng, rất giống làn da của người thiếu nữ. Hắn chắp tay sau lưng, đủng đỉnh trở về chỗ ngồi, cất tiếng nói không hờn không vui:
-Lão đạo sĩ này, nhìn thấy trẫm mà không hành lễ?
-Thái Minh đế thứ tội cho kẻ bần tiện, ta là con dân Đại Thế, không phải người Khương La, xét về lý không cần quỳ trước chúa Khương La!
-Ồ, vậy sao? Chẳng lẽ ông chưa nghe câu “nhập gia tùy tục”?
-Haha, bệ hạ quá lời, kẻ bần tiện chưa “nhập gia”, chỉ mới làm khách đến chơi một chuyến!
Ca Dương nhếch mép, duỗi hai chân gác lên bàn, đế giày đung đưa chỉ thẳng mặt ông lão. Hắn lại quay về bộ dạng vô lại thường ngày.
-Gan ông cũng khá to đấy, không quỳ thì không quỳ, dẫu sao thứ trẫm muốn không chỉ một đôi chân biết quỳ. Nghe nói ông thông thiên đạt lý, nhìn thấu vận mệnh, đoán được kiếp số con người… Vậy bây giờ trẫm hỏi ông, vận mệnh của trẫm sẽ thế nào?
Thủy Tức Chân Nhân đưa tay vuốt râu, nói một cách hàm súc:
“Mệnh ở người, không ở trời. Gieo nhân nào sẽ gặt quả ấy. Kẻ bần tiện không dám soi mói vận cách của bệ hạ, nhưng nếu bệ hạ đã hỏi vậy ta đành phải trả lời: Mệnh ngài phúc thọ vô biên, trời sinh nắm giữ nghiệp lớn. Tuy nhiên về đường nhân duyên khá trắc trở, nếu không cố gắng cải biến thì tuổi già đơn độc, vô con vô tự!”
Lão nói xong, cả thư phòng im phăng phắc, một chiếc kim rơi cũng sẽ giật mình. Ca Dương nhìn chằm chằm dáng vẻ tự tin nhưng không đắc ý của ông, cười nhạt hỏi lại:
-Tuổi già đơn độc, vô con vô tự? Nói một hoàng đế không có con cháu, chẳng lẽ lão chán sống rồi?
-Hahaha… bệ hạ tức giận ta cũng không rút lại lời. Đây hoàn toàn là sự thật. Nhưng ngài cũng đừng lo lắng, chẳng phải đã nói “mệnh ở người” hay sao? Khó khăn nào cũng có cách hóa giải!
-Được rồi, cứ như ông nói, trẫm và ông sẽ bàn về “cách hóa giải” này sau. Hiện giờ điều trẫm muốn nhất là nhìn thấy toàn bộ cuộc đời kiếp trước. Một lời không quanh co, ông có làm được không?
Thủy Tức Chân Nhân hơi nhíu mày, hiển nhiên lão cũng không ngờ Ca Dương sẽ yêu cầu như vậy. Nhớ lại kiếp trước? Liệu có thể sao? Lão lại thâm trầm vuốt râu, trong đầu nảy sinh vô vàng suy tính…
-Bệ hạ, kẻ bần tiện cũng xin nói rõ. Muốn nhớ, ta hoàn toàn có cách. Tuy nhiên, người xưa vẫn nói “bánh ích ném đi bánh quy ném lại”, ngài muốn thấy tiền kiếp, vậy phải trả giá bằng dương thọ kiếp này. Bệ hạ, ta không thấy được dương thọ của ngài nên không thể nói nó bị mất bao nhiêu, còn lại bao nhiêu. Một việc nhiều rủi ro và phải đánh đổi như vậy… bệ hạ vẫn muốn làm sao?
Gian phòng lại lần nữa rơi vào im lặng. Thủy Tức Chân Nhân ung dung chờ đợi, dường như quyết định của Ca Dương ông chẳng quá bận tâm. Hoàng đế ngồi trên long ỷ, ánh mắt đã rơi vào hư không… Dương thọ, nghĩa là kiếp này hắn phải sống ngắn đi một chút. Đối với bất kì ai, nhất là một vị vua, thời gian trên cõi đời quý báu biết dường nào. Chỉ nghe nói hoàng đế muốn tìm thuốc trường sinh bất tử, chứ chưa nghe nói hắn ngại mình sống quá lâu bao giờ!
Có lẽ là nửa giờ, cũng có lẽ là một khắc, cuối cùng Thủy Tức Chân Nhân nghe được tiếng trả lời:
“Được, trẫm chấp nhận!”
/101
|