"Hỡi con cháu giòng họ oan gia! Đây là lời trối trăn thống thiết của Lê Hổ để lại cho con cháu lúc lâm chung:
Cha chú ta đều là võ tướng, gia sư cho Phụ Chính Đại Thần Tôn Thất Thuyết, còn ta cận tướng cho Hoàng Kế Viêm. Sau ngày Tôn Thất Thuyết đánh úp đồn Mang Cá (Huế) không thành. Đêm kia, ta đang nằm tại vùng Sơn Tây cùng với chủ tướng, bỗng từ ngoài nhảy vào hai bóng người, máu me đầm đìa. Nhìn lại thì ra cha ta, sau lưng còn cắm một ngọn kiếm dài xuyên tận ngực, chú ta tay run rẩy vừa buông đốc kiếm. Cả hai ngã gục xuống chân ta.
Trong cơn hấp hối, "người" moi ra cuốn sách trao cho ta, miệng phều phào trối lại vài lời, rồi cha chú ta ôm lấy nhau cùng chết. Cầm sách trên tay, ta còn tưởng mình mê ngủ, chừng dở xem mới hay đó là cuốn gia phả ngành họ nhà ta, kèm theo một tờ di chúc dặn điều bí mật. Xem xong, đó là bí mật kho vàng Tôn Thất Thuyết, tình cờ lọt vào tay cha ta và cha chú ta đã giết nhau tranh đoạt bí mật yểm tàng, như tổ phụ xưa cứ hai đời rơi vào vòng oan nghiệt, mưu đại sự rồi sinh ra cốt nhục tương tàn.
Oan oan tương báo? Lẽ trời huyền vi? Hay huyết thống tâm linh xui khiến?
Phải chăng "có con yêu tiềm thức" vẫn theo ám ngành chi thứ, gây nên cảnh oan nghiệt truyền kiếp? Tính ra, sẽ tới con cháu ta phải gánh... Hỡi ôi, oan nghiệt nối đời đời, đời ta đã vậy còn đời con cháu, đời chúng mi! Kiến thức hẹp hòi, là võ tướng ta chỉ quen cỡi ngựa đánh gươm, nhưng còn tim còn óc, ta còn lo cho cuộc đời con cháu mai sau. Kho vàng! Kho vàng lá của nước Nam, ta không chí lớn, tài cao, dám mong chỉ làm chủ kho vàng, mà... than ôi! Vận nước suy vong, anh hùng khuất bóng, tiểu nhân đầy rẫy, còn biết tính sao? Ta chỉ còn biết trông mong vận nước hoặc con cháu ta hoặc giòng họ khác lấy vàng hưng quốc, cứu dân, rửa nhục cho trăm họ, tích đức tu nhân may ra có giải được mối oan nghiệt thảm thê cho giòng họ Lê chi thứ Ngọa Triều tằng tổ Xạ." Đến đây hết chữ son, trang sau mở đầu phả hệ từ đời ông nội, có mấy hàng chữ Hán viết lối chân phương khá lớn, đã xỉn lại, toàn bằng máu: "Cái Văn: phụ tác tử thừa, thử chi vi kế, bất cải ư phụ chi đạo khả vị "hiếu hỉ"!"
"Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp huyết thư." Thích, đổi chữ Tố Như thành huyết thư, không biết ngoài ba trăm năm sau trong thiên hạ, có ai khóc lá thư máu này chăng?
Còn mấy hàng trên, nghĩa Nôm là: Thường nghe: Cha làm con theo, đó là nối, không đổi đạo cha ấy là Hiếu.
Chắc ý ông nội chẳng muốn con cháu về sau theo di ngôn dặn lại, nghĩ đến hiếu trung nhân nghĩa, đừng để lòng tham làm mờ lương tri, để lại rơi vào vòng oan nghiệt gớm ghê như tổ phụ.
Sau những dòng trên đến đoạn phả hệ ghi rõ chi phái từ đời ông nội về sau, già, trẻ, trai, gái, sống, chết, ngày, giờ, năm, tháng, nghề nghiệp, công danh, tính hạnh.
Lạ nhất là vừa đến đời của chú chàng, tờ gia phả bị xé đi mất mấy tờ, còn về sau chỉ là phụ khoản, ghi về mồ mả và các sự di chuyển dời cư, không có gì đặc biệt.
- Ai xé những tờ kia? Có chi quan hệ trong những tờ bị mất mà sao tuyệt nhiên không nó chi về nơi yểm tàng? Cả thiên hạ lục lâm giang hồ, nhà nước Tây Tàu đều đi kiếm gia phả, lẽ đâu chỉ có thế này? Tất cả bí ẩn chỉ là mối oan nghiệt của dòng họ ta, không quan hệ chi đến người ngoài, kho tàng? Hay bí mật kho vàng nằm trong mấy tờ bị mất?
Thái Dũng đặt sách xuống bàn, uống một hơi cạn ly rượu đầy, đầu óc đầy thắc mắc đoán cuốn gia phả bị xé phần quan trọng trước khi vào tay Thần Quân.
Nhưng lại nhớ đến lời ghi trong tập giấy của ông thầy kỳ dị, đầu óc chàng trai càng nghi hoặc, rối loạn. Ngồi nghĩ vẩn vơ, giở từng tờ soi đi xét lại, không chi khác lạ, tần ngần mở rộng chỗ có di ngôn của Lê Hổ ông nội chàng trối lại cho con cháu, nhìn từng nét chữ người quá cố, chừng đã lâu năm, rải rác có mấy chữ bị mọt lỗ chỗ.
Gió rừng thu hắt hiu lùa vào quán, thỉnh thoảng chàng trai lại nhìn ra cảnh lâm tuyền ngoài cửa sổ, mơ màng tưởng về dĩ vãng xa xưa... trải bao đời oan nghiệt lạ kỳ, dòng tư tưởng chảy dần về đời ông nội chàng, thời quân Tây hạ thành Hà Nội, ông nội theo Hoàng Kế Viêm, cùng giặc Cờ Đen trấn mạn Sơn Tây, cùng những trận đánh du kích nửa cổ nửa kim với súng trường, mã tấu. Cờ Đen phục binh Cầu Giấy, bắt sống Tây Sông (Henri Rivière) bắn Ngạc Nhi (Francis Garnier) một thời nhiễu loạn, hào hùng, tủi nhục, súng thần công bắn vỡ thành trì, mở đời bút thép đè bẹp bút lông.
Liên miên hình dung đến ông nội võ tướng áo the, dây đạn, giáp đỉnh đồng, người đầy tâm huyết lại gặp thời vong quốc thình lình đang lúc binh say lại gặp cảnh cha chú tương tàn, tranh kho vàng, quên tình cốt nhục, quên ca mối oan gia...
Không tham vàng, chỉ nghĩ đến dân tộc con cháu dòng họ để di ngôn máu lại, còn buồn con cháu người ngoài biết có ai thông cảm lòng mình...
- Ông nội thề... con cháu lại ra làm quan...
Tự nhiên, Thái Dũng xúc động lạ thường, thương ông già võ tướng quá cố, tưởng luôn gia cảnh thân thế mình, cánh mũi cay cay, mắt nhẹ rưng rưng.
Và không ngờ sự lạ đã hiện lên như một phép màu. Chàng trai vừa toan đưa tay lên trán, sợ lệ ứa ra người chung quanh trông thấy, nhưng vừa giơ tay chớp mắt bỗng chàng giật thót mình, "à" lên một tiếng ngạc nhiên.
Thường khi mắt rưng rưng mờ đi vì lệ long lanh đọng rèm mi, mà cứ nhìn đăm đăm vào một khoảng chi, tất cả những vật nơi đó đều như phải mờ theo, chỉ còn thứ gì đặc biệt nhất nổi bật lên trước khóe mắt đăm mờ hoặc về hình thể hoặc về màu sắc, tĩnh vật hay động vật v.v... Thái Dũng nhìn mãi vào trang giấy trắng, chữ son, tất cả đều bằng phẳng giống nhau, mắt chợt rưng mờ chữ cũng nhòe mờ như chìm đi, chỉ còn những vết mọt gặm đập vào mắt, gần như linh tính, hay một thói quen thông thường, chàng để ý đến vết mọt, lập tức đế ý ngay đến chữ bị mọt đục, như một ánh chớp lóe, trang giấy chỉ còn chữ mọt nổi lên tuần tự từ trên xuống dưới.
Và khoảng cách mất đi, Dũng vụt đọc thấy những chữ:
"ĐỂ SÁCH TRÊN TỔ KIẾN"
- Để sách trên tổ kiến? Chữ mọt tình cờ hay cố ý? Nghe đúng là một câu nói mạch lạc!
Vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, Dũng lật đật cầm cuốn sách lên coi lại, mới hay chỉ là những vết mọt nhân tạo. Thì ra bí mật ngầm trao cho kẻ nào khóc trước tờ huyết thư, khóc rưng mờ mắt vì cảm động mới chợt nhận ra một bí mật thật bất ngờ, chỉ dành cho người đa cảm. Đa cảm hướng có lòng, chỉ có gian tặc ác nhân lòng gỗ đá mới không có nước mắt. Chọn cách trao bí mật này, ông nội Dũng hẳn không chỉ là một kẻ chỉ biết đánh gươm bắn súng.
Thành kính, chàng tuổi trẻ họ Lê gấp luôn gia phả lại, chấp trước ngực nhìn ra xa như hướng về dĩ vãng người xưa.
- Đội ân Thượng Đế, tổ phụ! Lê này nguyện tuân theo di ngôn!
Thở phào một hơi như vừa giải xong một bài toán khó, Dũng đưa mắt trông quanh quẩn, tìm tổ kiến. Khách hàng thấy chàng dòm góc nhà, gầm bàn, thảy đều ngạc nhiên, lên tiếng hỏi:
- Ông tìm gì đó? Rơi tiền ư?
- Không! Mỗ tìm... kiến!
Ai nấy cùng cười ồ. Bỗng tít góc bên kia, một người lái buôn vùng kêu oai oái:
- Ôi chao! Đau chết mất thôi! Thấy ông bà ông vải... dưới gầm đây này! Tìm đâu cho mệt xác!
Dũng nhìn sang, thấy chú ta đang suýt xoa kêu khổ, dưới chân, xương xẩu vung vãi, kiến bu đầy.
Thái Dũng vừa định bước lại, bỗng nghe ngoài quán có tiếng nhạc đồng khua vang, rập vó câu phi nước đại, chợt dừng trước quán.
Tiếp liền có tiếng trong trẻo vọng vào:
- Chủ quán! Có thịt rừng, rượu ngon lấy cho ta mau! À! Làm ơn cho ngựa ăn cỏ ngay! Ta cần đi gấp!
- Dạ! Mời quý khách chiếu cố! Quán có đủ cả! Kìa, mà sao tay quý khách...
- Tốt lắm! À! Tay ta bị xây sát thường thôi! Vừa bị thổ phỉ đuổi đó!
Thái Dũng bỏ luôn cuốn gia phả vào trong ngực áo.
Từ ngoài, bước vào một chàng khách trẻ tay cầm chiếc roi ngựa ve vẩy, dáng rất hào hoa. Khách trẻ đưa mắt nhìn quanh, chợt thấy Dũng, chàng khách tươi cười nghiêng mình chào, đoạn nhanh nhẹn bước vào ngồi ngay chiếc ghế xế ngang Dũng, đặt roi ngựa và "sắc" hành lý lên bàn.
Vừa nhác dạng chàng khách, Thái Dũng có cảm tình ngay. Đó là chàng trai trạc hai mươi, hai mươi mốt, đẹp như Tống Ngọc thời xưa, mắt sáng, mày xanh, mặt tươi như hoa, mặc quần áo Chàm chít khăn chàm giống con cái các tiểu vương sơn cước, trên mình không có một tấc thép, thoạt trông đã đoán ngay là một chàng quý tộc thư sinh đi du sơn ngoạn thủy.
Thái Dũng, chàng khách, cả hai mỗi người một vẻ, Phan An, Tống Ngọc tái thế, ngồi một góc khiến bọn khách buôn cứ luôn tay chỉ trỏ trầm trồ. Chừng cũng lấy làm lạ giữa chốn rừng xanh lại gặp người mỹ mạo khác thường. Chàng khách trẻ vừa ngồi đã ngoảnh sang Dũng làm quen:
- Đại huynh tha lỗi, đại huynh lên Hoàng Su Phì?
Thái Dũng lắc đầu:
- Đệ đi Hà Giang! Còn huynh chắc từ xa tới... Huynh lên Su Phì?
- Dạ. Xong, đệ đi Cao Bằng. À, Cao Bằng dạo này chẳng hiểu có yên không?
- Biên giới hồi này loạn dữ! Thổ phỉ như rươi, chỗ nào cũng có cường sơn.
Huynh đi một mình... không ngại?
- Dạ, cũng có người nhà nhưng có chút việc, đến Cao Bằng mới gặp lại.
Không ngờ dạo này lắm thổ phỉ quá, đệ vừa qua, chúng bắn nhau với quân Mèo, không nhờ ngựa hay khéo nguy rồi!
Vừa nói, chàng khách vừa giơ tay cho Dũng coi, tay bị đạn sướt buộc băng.
Một khách thương bàn góp:
- Mới có bọn thổ phỉ Tàu ghê lắm! Tuần trước kéo sang ăn cướp đánh cả đồn Tây! Nghe đồn thằng đầu đảng chỉ thích cắt tai người ngâm rượu chơi!
Chủ quán dọn rượu thịt ra. Khách trẻ mời Dũng, Dũng mỉm cười cám ơn, chàng ta ngồi ăn uống ngon lành, vừa ăn vừa nói chuyện với Dũng. Đường xa cô đơn gặp người đồng điệu, Dũng cũng nguôi lòng, nhân thấy chàng ta vui tính, tự nhiên có duyên, Dũng cùng cởi mở đối đáp, hai người có chiều tương đắc lắm. Hỏi chàng cho biết mới từ Vân Nam sang kiếm bà con, nhân thể về xem mặt hôn thê tại Cao Bằng. Ăn uống xong, Thái Dũng nhớ đến việc riêng, vội đứng lên từ giã, gọi chủ quán tính tiền.
Ngờ đâu, tiền bạc đã nhẵn, chàng trai sững sờ đứng ngẩn ra. Rõ ràng còn còn một mớ bạc xòe chưa tiêu đến, bỗng không cánh bay mất! Sực nghĩ có lẽ đã rơi dọc đường từ núi Quạ hoặc khi lũ vượn cướp "sắc" chạy, Thái Dũng lúng túng không biết tính sao, đành nói nhỏ với chủ quán xin tạm khất và tạm gửi lại... cây súng làm tin!
Chủ quán giãy nảy:
- Úi chao! Làm nghề làm ăn lương thiện, giữ của nợ này để mang họa, vào tù ăn cơm vôi ư?
Nhăn nhó điều đình mãi chưa xong, chủ quán có ý muốn giữ tạm con ngựa, đang giằng dai, bỗng thấy chàng khách trẻ đứng lên mắng chủ quán:
- Bữa ăn đáng bao nhiêu, chú đòi lấy ngựa? Chú mày thật không biết người biết của! Điệu bán quán của nhà chú chỉ bán cho thổ phỉ là hay! Bao nhiêu?
Huynh tha lỗi!
Chủ quán nhăn nhở cười ruồi:
- Dạ, không mấy, chỉ vài "xòe" thôi!
Khách trẻ moi túi lấy ra mấy đồng xòe, cười rất tươi đưa Dũng. Dũng tần ngần muốn trả, lại phiền với chủ quán, đành cám ơn khách trẻ vừa đưa cho chủ quán. Thình lình nghe rầm rập tiếng chân ngựa, ngoài cửa ồn ào, rồi có tiếng Tây, ra quát tháo, giật giọng:
- Đây rồi! Bẩm quan đồn, ngựa "nó" đây rồi!
- Attention! Alora! Chassez moi ce type la!
Súng lên "quy lát", ngựa hý, chân chạy rầm rập, khách ăn kinh hoảng, đứng xồ cả lên, sợ sệt thất thần.
- Tây đồn! Tây đồn!
Từ ngoài, một viên quan hai khố xanh, xách súng lúc ập vào, lố nhố theo sau hai, ba chú lính chĩa súng trường lên đạn, rê chỏ vào mọi người.
- Tất cả ngồi im! Giơ tay lên!
- Kìa! Bẩm quan đồn, nó kia kìa! Một người đứng gần Tây đồn, trỏ phăng về phía hai chàng trai, Tây đồn gạt mũi súng lục quát:
- Còng hắn lại! Tước súng!
Hai chú lính sấn tới, chàng khách trẻ vẫn tươi tỉnh nhìn Dũng, Dũng vẫn đứng yên khó xử. Đoán bọn này lầm mình, chàng đành hướng vào Tây đồn, nói tràng tiếng Pháp.
- Chắc ông lầm rồi! Tôi vừa từ Cao Bằng tới...
Vẫn chĩa súng lăm lăm, viên Tây đồn hất hàm truyền lịnh:
- Đem về đồn!
Bọn lính xông lại, kẻ với tay định tước súng, người chìa còng ra, Dũng bí quá, đành lùi phắt lại, nghiêm mặt:
- Đứng đó! Bắt người vô cớ, đừng buộc mỗ phải ra tay!
Viên Tây đồn trợn mắt vừa lên tiếng hô lính cứ sấn tới. Thình lình nghe liền mấy tràng pạc-hoọc nổ rất gần, ngoài cửa quán nhốn nháo, khách buôn chạy loạn, ngựa hý giật. Một chú lính khố xanh đâm bổ vào, mặt cắt không còn hột máu:
- Thổ phỉ! Thổ phỉ!
Pạc-hoọc nổ dòn, lẫn vài tiếng súng "mút". Đạn vãi cả vào quán, ai nấy thất kinh, bở vía. Viên Tây đồn cùng bọn lính xách súng nhảy túa ra, khách trong quán chạy cuống, chui cả xuống gầm bàn. Vài tiếng súng "mút" đì đẹt, rồi tắt họng, rầm rập có tiếng ngựa phi lẫn tiếng xạ phang quát lớ. Viên Tây đồn vai bị một vết thương, một bọn bốn, năm người vừa lính vừa dân chạy bổ vào quán, mắt xanh lè:
- Thổ phỉ! Đóng cửa mau! Đông lắm! Giết hết lính rồi!
Cánh cửa vừa ập đóng đã bật tung, rập lố nhố bên ngoài đã đầy bóng xạ phang mặc quần áo đen. Một cái thủ cấp bay vụt vào quay long lóc như bình vôi.
Viên Tây đồn vừa thò tay bắn đã bị một phát tung cả súng, rồi có tiếng cười hô hố ngoài quán:
- Hầy a! Mấy con ngựa đẹp dữ! Còn đứa nào ra cửa ngoài này! Xích tất cả lại đem về Tàu! Lũ dân nội địa béo tốt "có giá", hầy à.
Bọn thổ phỉ ào đến nhanh như cơn lốc. Lúc đó đã vây gọn cả khu quán. Thái Dũng trông ra thấy quân xạ phang cỡi ngựa lố nhố đầy đường, trước cửa sau nhà, mấy tên đang sấn lại bắt ngựa, dồn người về một góc. Thấp thoáng bóng một tên cao lớn vạm vỡ đội mũ rộng vành, hai tay hai pạc-hoọc, vừa chồm tới, ngổn ngang đến năm, sáu xác lính nằm chết gục cạnh súng trường.
- Hầy à! Trong nhà còn thằng Tây đồn! Vào chỉ làm con tin đi lấy đồn! Lùa chúng ra mau!
Ai nấy hết vía, run lẩy bẩy. Viên Tây đồn ôm vai, tuyệt vọng. Chàng khách điển trai vẫn ngồi bên bàn uống. Thái Dũng thấy tình thế hiểm nghèo vội bảo viên Tây đồn:
- Nó định bắt sống ông, xuống cướp phố đồn. Lục tìm chỗ nấp tránh đạn, để mỗ liệu giúp!
Lời vừa dứt, từ ngoài hai, ba bóng thổ phỉ xông vào. Dũng phất tay một cái đánh bắn cả bọn ra như mấy trái cầu, vùng quát lớn:
- Thổ phỉ! Các chú mày tới số rồi! Biết điều cút ngay! Sao không kiếm ăn ngoài biên lại vào tận nội địa? Mỗ sắp nổi giận rồi đó!
Bên ngoài đang ồn, chợt im bặt. Tiếp theo liền mấy tiếng chửi tục. Tên chủ tướng gầm lên:
- Thằng nào muốn xuống âm phủ đo? Vào bẻ họng nó cho tao! Hầy à! Mấy đứa kia lui ra, để con ngựa đỏ đấy cho tao!
"Vút" tiếng thòng lọng, Huyết Phong Câu hý đá lung tung. Thổ phỉ kêu oai oái. Thái Dũng sợ chúng nổi giận bắn chết ngựa quý, sực nghĩ ra một kế, vùng thét dữ:
- Chó đú! Không biết có bản soái gia trong này sao? Coi đây!
Miệng quát, tay rút phăng súng ra, bắn liền mấy phát, rụng luôn pạc-hoọc trên tay tên chủ tướng và hai tên cận vệ. Tên tướng trợn mắt dòm vào quán có vẻ sửng sốt khác thường.
- Hầy à! Phải... phải Thập Vạn Đại Sơn...
- Chú mày là thằng nào? Hà hà!
- Hầy à! Lầm Tắc Mềnh này...
- Đi phương khác kiếm ăn!
Thái Dũng lúc đó mới sực nhớ ra tên tướng thổ phỉ chính "Lầm Đại vương" khét tiếng miền Đông biên giới đã gặp ngày từ Quảng Đông về nước. Chàng trai thấy hắn đã nao núng, liền đưa luôn họng súng cối lên miệng thổi một tràng. Âm thép đầy công lực vang động khắp trong quán, ngoài đường bọn thổ phỉ, khách buôn, lính tráng thảy đều giật mình, muốn thủng màng tang như bị dùi đâm, vội bít chặt lấy tai. Lâm Tắc Mềnh tướng thổ phỉ bỗng kêu ồm ồm.
- Hầy à! "Thiết pháo khẩu!" Thiết pháo khẩu Đại Sơn Vương! Xuất hành gặp gái à! Quân đâu! Hàng đôi! Xếp hàng đôi! Tao ra mắt soái ông Thần Xạ!
Thái Dũng thấy Lầm tướng thổ phỉ đổi thái độ, sợ chúng sấn vào rất phiền, nên vẫn ẩn mặt, nghiêm giọng nói lớn:
- A Lầm! Mỗ bận chút việc, bất tất khách tình! Đi thôi! Mỗ có lời chúc mạnh giỏi!
Lầm vuốt râu, tay xua quân gia, mắt vẫn nhìn vào quán cười hô hố:
- Hầy à! Cái "ngộ" không piếc soái ông... Lại thấy con ngựa đỏ, con ngựa trắng à. Soái bà cỡi ngựa trắng, còn soái ông vẫn cỡi ngựa đen đen xam xám mà!
- Lầm mắt vọ! Ngựa huyết của Thần Quân mới tặng đó! Muốn cỡi ư?
- Ý à! Cái "ngộ" thích ăn cơm hút thuốc phiện, không thích ăn kẹo đồng.
Quân đâu! Hầy à! Không nghe thấy gì ư? Chó đú! Rút về Tàu... a!
Nhặt pạc-hoọc bắn chỉ thiên liền mấy phát, Lầm cùng thủ hạ quay ngựa tế về phía Bắc như giông, thoáng đã mất.
Từ Tây đồn đến khách thương đều đứng ngơ ngác như vừa mê ngủ, mãi đến lúc bọn thổ phỉ đã đi xa, mọi người mới hoàn hồn, chạy ùa ra cửa dòm thấy hàng hóa còn chất ngổn ngang, không mất một cái tóc.
Chủ quán lạy Dũng như tế sao:
- Bẩm... không ngờ Đại Vương giáng lâm, con người trần mắt thịt trót phạm thượng, xin Đại Vương sinh phúc! Hú vía! Ông thổ phỉ râu xồm ấy chính ông Lầm hung thần chuyên xẻo tai người ngâm rượu chơi!
Cả quán nhao nhao lạy tạ. Tây đồn cũng sửng sốt không kém, ngỏ lời xin lỗi, thỉnh chàng về đồn. Thái Dũng chỉ cười gạt đi, nói qua loa vài câu, đoạn khoác "sắc" lên đường ngay.
Chàng khách trẻ ra theo, cười bảo:
- Bữa nay không có đại huynh, vùng này nguy vì thổ phỉ rồi! Đệ tưởng nghe danh Đại Sơn Vương, không ngờ lại được gặp!
Dũng lắc đầu, tặc lưỡi:
- Đệ đâu phải Đại Sơn Vương! Chẳng qua gặp lúc khẩn cấp, chúng ập đến vây, đệ sực nghĩ oai dán Thần Xạ đành liều làm kế "cáo đội lốt hùm" đó thôi!
Chàng khách trẻ nghe nói cất tiếng cười khanh khách:
- À ra thế! Nhưng đệ vừa được coi đại huynh bắn súng tài lắm. Giờ huynh có thể cho đệ cùng đi được chăng?
Thái Dũng thấy chàng ta cốt cách khoan hòa, nói năng hoạt bát, rất thiện cảm, nhưng nghĩ mình đang bận việc lớn, nên đành kiếm lời thoái thác. Đó rồi, hai người chia tay, Dũng phóng ngựa vào một cánh rừng sâu về hướng Đông Nam, tìm một con suối vắng bốn bề không người, bèn xuống ngựa đi dọc theo bờ nước tìm tổ kiến. Không đầy nửa phút, đã kiếm thấy một tổ lớn tại gốc cây tùng gần bờ nước.
Cả mừng, chàng móc luôn cuốn gia phả mở rộng xòe, đặt dựng ngang trên tổ kiến, mắt nhìn chòng chọc, đợi xem có chi lạ xảy ra.
Lúc đó mặt trời đã lên cao, chiếu tia ấm dịu xuống gốc cây, đàn kiến càng này thuộc loại đẻ trứng rất bùi, dân đường ngược thường kiếm trứng giống kiến này về đồ với xôi nếp cẩm, lúc này đang bò ngược bò xuôi đi các ngả kiếm mồi.
Có hai, ba bọn kiến thợ đang tha về, bò cả lên mặt sách. Dũng theo dõi chăm chú chỉ thấy chúng bò qua, coi mãi chán, bèn đưa mắt nhìn bốn phía rừng già xem có kẻ nào theo hút không. Rừng vẫn vắng vẻ, chừng phút sau chợt chàng ngó lại đã thấy kiến từ đâu kéo về bu đầy mặt giấy đến hàng vạn con, còn nhiều bọn đổ tới dài dặc, Vẫn không chi lạ.
Bỗng chàng để ý thấy lũ kiến chỉ bò trên hai tờ giấy thôi, tờ có lá huyết thư, còn tờ khác không có con nào, và sau một hồi bò thẳng, giờ chợt bò nối đuôi, có thể cả vạn con đổ dồn vào hai mặt giấy, nháy mắt tất cả như đứng im, chỉ còn vài con bò quanh tìm chỗ.
Nhìn lũ kiến bu, bất thần tim Dũng như ngừng đập, vụt nhận ra chúng đã nằm rất đều, đen ngòm theo những đường nét dọc ngang như phượng múa, trên mặt giấy bỗng hiện ra... những "chữ kiến bu đen" lối chữ thảo, mỗi chữ to bằng ngón chân cái, trên hai tờ giấy, rõ không kém tô mực đen. ÂM THANH ĐỘNG KHƯƠNG THƯỢNG NGỘ VĂN VƯƠNG
- À, ra thế! Thật không ngờ! Thì ra chữ viết bằng một chất ngọt đặc biệt nào như "thoòng chinh" hay một chất ép mật hoa chi đó được ướp giữ lâu ngày không mất. Giống kiến đánh hơi thấy bu cả vào những chỗ có chất ngọt, chữ hiện ra!
Nhưng "âm thanh động" là gì? Động là hang động hay động đậy? Sao lại Khương Thượng gặp Văn Vương? Úp mở khó hiểu thật! Nhưng có điều chắc là động đây là hang động chỉ địa điểm chôn dấu đây.
Thái Dũng thở phào như trút được cả ngọn Thái Sơn trong óc. Lập tức đuổi hết kiến bỏ sách vào ống cất kỹ, đoạn nhảy luôn lên lưng ngựa, ra khỏi cánh rừng sâu. Ngẫm nghĩ mãi chưa rõ đoạn cuối, chàng trai bèn tìm lối ra đường mòn, có ý kiếm thổ dân thử hỏi xem sao.
Phút chốc đã ra tới đường mòn khá rộng, rải rác quanh đó có nhiều bản dân lưng đồi. Chàng trai cứ theo hướng Đông ruổi ngựa, nhân ngày gặp phiên Chợ Châu, Tỉnh chi đó, dân núi hạ sơn mua muối, bán lâm sản khá nhiều. Nhưng hỏi đến chục người Mán, Mèo, Kinh cũng không ai biết. Thái Dũng vẫn không nản, cứ cho ngựa bước đều.
Chợt gặp một toán người Kha cỡi ngựa Thổ đi tới, lố nhố cả đàn ông đàn bà, dẫn đầu là một ông già chít khăn rẽ, râu thưa dài bạc. Thái Dũng lễ phép chào, dùng tiếng Thổ hỏi:
- Ông "phìa" làm ơn cho hỏi thăm chút! "Phìa" nhiều tuổi, có biết cái hang động bản dân nào là Động Thanh Âm không? Ông lão Kha nhai trầu bỏm bẻm, nhìn khách Kinh, nghĩ ngợi khá lâu, mới lên tiếng:
- À, hình như có... Dạ phải, đúng rồi! Nhưng xa lắm, tít tận Cao Bằng. Động Thanh Âm! Phải rồi! Hồi còn trẻ lão có lần đến Cao Bằng thăm bà con, nghe nói có cái tên hang động đó!
Mừng rỡ, Dũng hỏi dồn:
- Cao Bằng? Nhưng cụ có biết ở mạn nào?
- Hình như tận giáp Tàu thì phải! Nghe nói cái động lạ lắm, cái ma hát suốt đêm, hình như đi qua vùng động Cai Kinh thì phải!
Hỏi thêm nữa, lão Kha không biết gì thêm. Dũng cám ơn từ biệt, lập tức quay ngựa về phía Cao Bằng đi miết.
Huyết Phong Câu thả kiệu ngỏ trên đường được chừng vài dặm, đến một chiếc cầu mây, chợt nghe phía trước có tiếng người hát véo von giọng Kinh cao vút như suối đàn:
- Nàng về nuôi cái cùng con Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng... ... Cao Bằng xa lắm anh ơi, Để em gánh nước giếng khơi cho gần...
Tiếng hát như khơi dậy niềm đất nước, Thái Dũng nghe xúc động tâm hồn, đưa mắt nhìn quanh, tìm kiếm. Rừng già quạnh quẽ, cầu mây vắt vẻo, giòng suối lững lờ, chim kêu ríu rít, chẳng thấy bóng ai cả.
Dũng tiến ngựa đến đầu bắc qua ghềnh đá cao, chợt lại nghe tiếng người thánh thót:
- Ai về đường ấy hôm nay?
Ngựa hồn ai cỡi cổ tay ai cầm?
Thấy hay hay, chàng trai họ Lê cao hứng buột miệng ngâm vang:
- Ngựa hồng đã có tri âm, Cổ tay đã có người cầm... còn chi?
Im mấy giây, bỗng tiếng nãy giờ lại cất lên, lần này vừa hào hùng bướng bỉnh, vừa xúc động úp mở khó hiểu:
- Nghênh ngang một cõi biên thùy, Thiếu gì cô quả thiếu gì bá vương Trước cờ ai dám tranh cường Năm năm hùng cứ một phương hải tần!
Tiếng hát bốc cao uẩn khí vờn mây, đến tiếng "hải tần" chợt đổ xuống như muốn dìm lòng người tận đáy biển sâu, khiến Dũng không nén được tiếng "chà hay" hứng khởi. Bỗng lại nghe giọng hát rót vào tai, như có kẻ trờ sát ngâm vậy.
- Ấy ai đi ngược về xuôi, Có lên Đông Bắc cho tôi đi cùng Đời người được mấy anh hùng Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Thái Dũng vọt ngựa lên cầu, đảo nhìn theo hình cung, theo hướng phát âm, thấy một kỵ sĩ gò cương dưới thung lũng cho ngựa uống nước bên giòng. Ngựa trắng toát, người y phụ lối con cháu tiểu vương sơn cước. Vừa nhác bóng, Dũng nhận ra ngay chính chàng khách trẻ tuổi vừa gặp trong quán bên đường lúc nãy.
- Một người khó hiểu! Rừng biên giới đầy giặc cướp, thú dữ, không có khí giới, nãy gặp thổ phỉ vẫn tươi cười... Hay giấu nghề?
Thái Dũng vừa chợt nảy ý thử xem, đã thấy chàng khách ngẩng trông lên, gọi lớn:
- Đại huynh! Huynh cũng đi Cao Bằng.... cho đệ theo được chăng?
Dũng gò cương, mỉm cười:
- Huynh biết võ chứ?
- Võ? Không! Đệ không biết! Nhưng ngựa đệ hay lắm, gặp chuyện chi, khỏi sợ quẩn chân huynh!
Chàng khách trẻ điển trai giục ngựa quành lên, chào Dũng. Đã có chủ tâm, Dũng tiến ngựa lên, bất thần đánh ra một nhát phản phong.
Cách năm bộ, tay Dũng ra chỉ một phần mười sức lực, nào ngờ chàng trai giương mắt nhìn lãnh đủ phản phong, "hự" một cái, bắn lên, từ trên lưng ngựa xuống thành cầu nằm vắt mình trên một cành xòe rũ đầu cầu, từ từ đổ xuống suối sâu.
Thất kinh, Dũng nhảy vụt tới, quày tay túm được áo người khách, ôm xốc lên, rung giọng, sờ tay chẩn mạch:
- Trời! Huynh có sao không?
Nhưng người lạ đã cố gượng đứng xuống, mặt tái hẳn đi gạt tay Dũng ra, ôm ngực cố cười, phào giọng:
- Không sao! Sao tay huynh lạ thế, có gió ép dữ! Huynh ghét đệ lắm sao?
Dũng vò đầu bứt tai hối hận vô cùng, đỡ vội chàng trai dìu ngồi xuống một phiến đá, cho một viên thuốc hồi chân khí. Giây phút chàng trai đã hoàn sức, da dẻ hồng hào như cũ.
- Mỗ thật bậy. Định thử xem huynh hữu nghề võ đến đâu... Vì vì... May mới sơ sơ chút.
- Không hề gì! Đệ có người hộ tống, không chờ được. Thôi cũng là cái lễ tương kiến! Huynh cho đệ đi cùng chứ?
Chàng trai vẫn tươi cười, không tỏ vẻ chi giận, cả hai cùng lên ngựa ruổi rong.
Từ lúc bị một đòn suýt vỡ ngực, Dũng hết nghi vấn, cùng chàng trai trò chuyện rất cởi mở. Hỏi thêm, mới hay chàng ta là họ Long tên Phụng, cháu họ Đại tướng Tỉnh trưởng Vân Nam, mẹ Tàu, cha Việt, cùng gia nhân sang Nam xem mặt vợ theo lệnh cha, chú. Quen đi rừng, không lạ giới thổ phỉ, học rộng, vui tính, nói chuyện rất hay. Chàng ta vui miệng còn cho biết sẽ tới thẳng trấn Cao Bằng, có người đón, cùng đi lễ vấn danh. Dũng không tiện hỏi cặn kẽ, cũng cho người bạn đường biết mình họ Lê.
Chỉ nửa ngày đồng hành, hai chàng đã thân nhau, đi một mạch đến trưa mới tạm nghỉ. Sực nhớ đến câu "Khương Thượng ngộ Văn Vương", Dũng bèn làm vẻ thản nhiên hỏi bạn:
- Huynh hữu biết Khương Thượng, Văn Vương chứ?
Long Phụng mỉm cười đáp:
- Ê! Đệ xem truyện Phong Thần từ hồi còn để chỏm! Huynh muốn làm Khương Thượng sao? Còn sớm chán! Tử Nha thất thập ngộ Văn Vương, thường người ta nói thế nhưng chính ra là "thất thập tam" mới đúng! Tử Nha hạ sơn đã hơn bốn mươi, lúc sang Tây Kỳ, ngồi câu bên sông Vị, đã bảy mươi ba tuổi rồi, mà vẫn câu lưỡi câu thẳng mới gàn chứ!
Thái Dũng có biết qua Phong Thần, nhất thời không lưu ý chi tiết, đến chỗ "bảy mươi ba tuổi ngộ Văn...", "câu lưỡi câu thẳng", vốn nhanh trí, tự nhiên lời nói nhấn mạnh của Long Phụng gợi ngay ý liên tưởng đến câu ám ngữ trong gia phả, chàng trai vụt nghĩ:
- Bảy mươi ba tuổi... bảy mươi ba bước, bộ, thước... ngộ Văn... gặp Văn sách, ngồi câu lưỡi câu thẳng... không phải câu cá... À! Biết đâu ám ngữ "Động Thanh Âm Khương Thượng ngộ Văn Vương" không là bước bảy mươi ba bước từ cửa động vào, tay cầm cần câu thẳng, không có mồi sẽ gặp vật yểm tàng quanh đó!
- Vật chi rồi sẽ rõ!
Khoan khoái như làm được con tính thứ hai, Thái Dũng tươi hẳn mặt, bàn sang chuyện khác, quất ngựa chạy như gió cuốn, làm Long Phụng cũng phải phóng đại theo.
Dặm thẳm xuyên sơn, thu ngắn hành trình, thiên lý mã nuốt đường như long cuốn thủy, ngay chiều hôm đó, hai chàng đã đến vùng Nguyên Bình.
Dũng bảo Long Phụng:
- Giờ ta tạm chia tay hai ngả! Mỗ có việc lên biên!
Long Phụng theo Dũng lên một trái đồi, Dũng trỏ xuống thung lũng có con đường mòn chạy qua:
- Cứ theo ngả đó, bạn sẽ đến Cao Bằng. Tiếc đệ không thể tiễn huynh thêm nữa! Đáng lẽ đệ đã xuyên sơn từ nãy!
Long Phụng có vẻ lưu luyến bảo:
- Tuần sau đệ lại có mặt tại Cao Bằng. Nếu huynh không bận....
Thái Dũng rút viễn kính rê khắp vùng thung đèo, chợt dừng mạn hẻm Nam:
- Kìa, có bọn ra tỉnh! Quái, sao lại đội toàn quả sơn đỏ như đi dẫn cưới vậy?
Long Phụng đỡ ống nhòm, xem khẽ kêu:
- À, bọn người nhà đệ ra tỉnh đón đó!
Dứt lời, lập tức bắc tay quanh miệng gọi lớn.
Bọn dưới thung vừa qua hẻm, lô nhô chừng hơn hai mươi tên cỡi ngựa mặc toàn áo the, quần trắng thắt lưng đỏ, đầu đội quả sơn chông chênh, dòm lên lập tức phóng tới lũ lượt.
Dũng thấy bọn này mặc như trong "kịch thơ lịch sử" lòng cũng vui vui nhớ lại những đám cưới dưới xuôi, đầy vẻ dân tộc. Lại chợt để ý bọn đó đội quả có kẻ chồng mấy tầng, chạy ngựa không đổ, bất giác bật khen:
- À! Đám gia nhân nhà huynh toàn tay có "nghệ" cho làm xiếc được đó!
Bập! Cả bọn lên đồi cung kính vái chào chủ nhân và Dũng. Gã đi đầu mặc cái áo xường xám dài, mặt mày đanh thép, cất giọng chuông rè nói một tràng tiếng Quảng:
- Bẩm... công tử! Tưởng công tử đã đến Cao Bằng? May quá! Cái ngộ vừa đến nơi thì gặp Tướng công đi trận, cả Tiểu thư nữa! Con dâng thiếp danh rồi!
Tướng công mừng lắm, muốn thân đi đón công tử... Nhưng "người" hơi ngại về Cao Bằng lại gặp... Giám Binh!
- Liệu người đã đến chưa? Hay ta cứ đến thẳng trại dinh?
- Dạ, cái ngộ có phái thằng Sềnh ở lại, có gì nó phải báo liền à!
Thái Dũng đoán chắc thông gia họ Long là một viên quan triều hay tù trưởng chi đó, nên vội ngỏ lời chúc duyên cầm sắt theo phép xã giao, đoạn chào giật ngoắt cương, phóng luôn về hướng Bắc.
Nhưng mới đi được vài chục bộ, chưa kịp xuống đồi, bỗng nghe có tù và vang động rừng xanh. Thái Dũng vội vén cành lá dòm xuống thấy bọn Long Phụng đang xuống đồi tít hẻm Nam. Vừa có một đoàn nhân mã đen chạy kiệu băm ra, đông hàng trăm, cờ quạt cũng đen, dưới bóng cờ, một hình thù oai dữ trong lốt giáp tượng đen, tay cầm roi trỏ lên đồi.
- Đông Quân Phi Mã Ác Sơn!
- Nguy cho bọn Long Phụng rồi!
Thái Dũng giật mình lo cho họ Long, chưa biết cứu cách nào, đã nghe súng nổ đì đẹt, đám giặc Cờ Đen nổi ốc khua cồng, vọt lên dàn ngang thung, trong lúc Long cứ lóc cóc tế thẳng đến trước mũi súng hung thần.
Tuy mới gặp nhau non ngày, nhưng Thái Dũng rất mến chàng họ Long, mắt thấy quân Cờ Đen dàn gọng kìm bắn súng vây kẹp bọn Long, chàng trai họ Lê lập tức lộn phắt ngựa lại, nương bóng cây um tùm tiến lại gần. Nào ngờ mới được vài chục thước, trông xuống đã thấy đám giặc Cờ Đen gò cương, bồng súng chào "phạch phạch", tiếp theo một tiếng hô nghiêm chỉnh, cả cánh quân im phăng phắc, lão soái con rể Lưu Vĩnh Phúc giục ngựa lên trước hàng quân chừng mươi bộ, thì bọn Long Phụng cũng vừa tế ngựa đến nơi rập dừng dàn ngang hàng một. Long tiến thêm mấy thước, đối diện tướng Cờ Đen.
Và trước cặp mắt ngạc nhiên của Thái Dũng, Long Phụng nghiêng mình lễ phép chào lão chúa Phi Mã Ác Sơn, trong khi đám gia nhân tùy tùng cúi rạp đầu chắp tay vái hết sức kính cẩn.
Lão soái Cờ Đen hơi nghiêng mình đáp lễ, viên tướng hộ pháp râu xồm đứng xế sau hô lên một tiếng, cả hàng quân lập tức nối đuôi nhau vọt ngựa lên chạy như đèn cù quanh Long, vừa bắn chỉ thiên vừa tung súng lên cao, hò hét như điên trong khi đó sừng trâu cồng đồng nổi khua vang động cả thung lũng.
Thái Dũng trợn tròn mắt, vừa mừng rỡ vừa sửng sốt trước cảnh chào đón nồng nhiệt của đám giặc Cờ Đen khét tiếng uống máu người không tanh.
- Lạ dữ à! Chắc họ Long có quen lão Đông Quân chi đây! Mà sao lại chào đón theo nghi lễ cường sơn long trọng đến thế? Cờ Đen vốn ngạo mạn, chưa từng đón ai thế kia. Long là hạng nào lại được lão biệt nhỡn khác thường? Mà kỳ nữa, là đi xem mặt vợ làm lễ vấn danh, sao lũ gia nhân lại dàn đồ sinh lễ trước ngựa?
Chàng trai họ Lê lẩm bẩm sinh tò mò, cứ kín đáo men ngựa lại gần. Dưới thung lũng "đèn kéo quân" đã về chỗ, giữa cánh rừng chiều im lặng, bỗng nghe lão soái Cờ Đen phát cười khanh khách nói một tràng tiếng Quan Hỏa:
- Công tử đi đường mạnh giỏi chứ? Lão phu sợ bọn cáo chồn không biết lỡ phạm đến thượng khách Cờ Đen, nên phải thân đem quân đi đón! Đại nhân nhà sao không thấy qua chơi?
Long Phụng lễ phép đáp:
- Mong ân đại soái gia lượng thứ, gia phụ, gia thúc tiểu sinh rất lấy làm áy náy vì quá bận việc binh nên chưa sang chuyến này được. Nếu soái gia không có lòng ghét bỏ lễ sau thế nào cũng phải thân sang tạ lỗi! Đông Quân cười ha hả có vẻ thích chí về câu nói văn hoa nho nhã của chàng trai.
- Lão Võ này từng được nghe chúng đồn nhiều về mỹ mạo công tử Vân Nam, không ngờ lời đồn còn chưa đúng hẳn. Nay chính mắt được thấy, dầu thằng con trai tuần phủ Cao Bằng cũng không ăn đứt! Giờ đã chiều! Bay đâu, thỉnh công tử về đại trại!
Lúc đó Thái Dũng đi cách ngót trăm bộ, nhưng tiếng Đông Quân nghe rõ mồn một. Chàng trai bỗng dột lòng nghĩ thầm:
- À, ra Long Phụng, Đông Quân hai nhà quen nhau. Cờ Đen đi đón họ Long!
Nhưng còn... đồ sính lễ kia...
Còn đang thắc mắc, sực lại nghe Đông Quân cao giọng:
- Nào! Công tử! Ta đi thôi! Bay đâu! Phát pháo mã hồi!
Liền mấy tràng súng nổ, giặc Cờ Đen rầm rập dàn tiền hậu. Gã Tàu mặc xường xám tiến lên, cúi đầu nói chi với Đông Quân, chỉ nghe lão soái Cờ Đen:
- Cứ cho bọn gia nhân đội quả đi phía trước, về núi sẽ làm lễ tiếp nhận cho tiện!
Trên đồi cao, chàng tuổi trẻ họ Lê giật bắn người như chạm phải điện, đất trời đảo lộn, tai ù ù như vừa bị sét đánh màng tang.
Cánh quân Cờ Đen nổi hiệu, rầm rộ phò bọn Long Phụng về hướng chếch Tây, vòng qua chỗ Thái Dũng đứng ngựa.
Long Phụng, Đông Quân sóng đôi thả kiệu băm, trò chuyện có vẻ tương đắc lắm.
Bỗng từ phía quèn Nam có một viên đầu mục Cờ Đen chừng xích hầu thám mã chi đó, phi như giông thẳng đến giữa hàng quân rạp đầu báo:
- Bẩm soái gia, có một cánh quân kỵ đi tới ngựa phóng nhanh lắm không thấy cờ hiệu!
Lão soái Cờ Đen hất hàm một cái. Gã tùy tướng hộ pháp Thiên Lôi Đả giật luôn chiếc tù và to như cái cột nhà đưa lên miệng rúc liền mấy tràng.
Vừa dứt đã nghe văng vẳng tiếng sừng trâu vọng lại từ bên kia rặng núi đá cao âm hưởng "ti u tu ti u tu" nổi chìm trong hơi gió rừng chiều nghe huyền bí xa xăm như từ quá khứ "ám" về...
- À, soái cô! Sao lại bỏ sơn trại, tới vùng này? A Thiên! Mau đi trước đón soái cô!
Viên cận tướng hộ pháp rạp mình tế nước đại qua quèn, đám binh đen tiếp tục thả kiệu băm lóc cóc theo sau.
Thái Dũng từ khắc nghe rõ Đông Quân bảo "về núi sẽ làm lễ", đầu óc choáng váng, ngồi im không khác Từ Hải chết đứng vậy.
Như vừa bị một mũi dùi xuyên thấu tim, chàng tuổi trẻ điếng hẳn người đến mấy mươi giây mãi tới lúc A Thiên tế ngựa đi, mới bàng hoàng lẩm bẩm một mình:
- Có thể thế được sao? Thì ra đồ sính lễ kia đem đến Phi Mã Ác Sơn nạp cho nhà họ Võ! Vấn danh, ăn hỏi Thiên Kiều? Trời! Còn ai nữa? Đông Quân chỉ có mình nàng! Nàng... nàng sắp lấy chồng? Lấy cháu Long Vân? Nàng... mới hai, ba hôm trước... còn đón ta dưới chân núi Quạ?
Chàng trai nhìn theo bóng Long Phụng, người bạn đường văn nhược điển trai, ruột gan quặn đau, ngực như tắc nghẹn.
- Vô lý! Kiều lấy chồng... lấy một thư sinh? Mà có lý chứ. Long mỹ mạo, hào hao, cha chú làm chúa tể Vân Nam, giang sơn một cõi, tay nắm binh quyền hàng mấy trăm ngàn quân mã, lại bất hòa với Trung Ương. Đông Quân Phi Mã Ác Sơn rể Lưu Vĩnh Phúc, quân gia tuy ít nhưng tinh nhuệ khác thường, lão lại trấn phương vị võ lâm, oai thế lừng lẫy, hai đàng thông gia, dựa nhau mưu đại sự, gì bằng! Nhất Long Nữ lại nổi tiếng giỏi cầm binh tác chiến, ai không trọng? Còn ta, gia đình tan tác, tứ cố vô thân, là "nghịch thù" của họ Võ, Đông Quân thấy mặt chỉ muốn giết!
Kiều với ta, oan gia tình nghiệt, còn gì? Tốt hơn hết, nên...
Máu bừng sôi, Thái Dũng giật phắt tay cương, bỏ đi lên hướng Bắc, nhưng chẳng hiểu sao, chàng lại lộn luôn ngựa về Nam, xuyên cánh rừng bên, rạp mình phi như giông gió, đâm thẳng vào một cánh nữ binh mặc quần áo đen tuyền đang bôn hành rầm rập.
Nhưng cơn "mê" chợt tỉnh nhờ dăm gió đìu hiu. Chàng tuổi trẻ vừa nhác thấy bóng nữ binh Cờ Đen trên lối mòn đã kịp thời kìm phải dây cương dừng sững sau một ghềnh đá gần quèn, cách đường hành quân chỉ độ sáu mươi bộ.
Vừa lúc đoàn nữ đi tới, và A Thiên hộ pháp trong hẻm tế ngựa ra.
Quả đó là cánh quân thủ túc của Võ Thiên Kiều Long Nữ, chừng bốn, năm chục nhân mã, không trương cờ hiệu riêng và Cẩm Lình, A Lục đi theo.
Cháu gái tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc cỡi ngựa vằn, choàng áo tía (trong đen) tay còn cầm ống nhòm, từ nẻo hậu quân phi lên, vừa gặp A Thiên đã hỏi luôn:
- Cánh quân nào đó, sao lại thổi hiệu sáo?
A Thiên cúi chào kính cẩn:
- Bẩm... chính soái gia!
- Kìa, ta tưởng soái gia đi Cao Bằng.
- Dạ. Người đi đón khách, nhưng vừa gặp, nên lộn lại! Bẩm, soái cô đi đâu sao chỉ đem theo có mấy chục tay súng à?
- À, có chút việc. Mà khách nào thế?
Hơi lưỡng lự, nhìn cô soái trẻ, viên tướng hộ pháp hạ thấp giọng:
- Bẩm... tới... tới... Hầy à! Tới để vấn... vấn... a...! Nói cái....
Thiên Kiều tiến ngựa lên được mười bộ, cách cửa hẻm quãng ngắn, chợt giơ tay ra hiệu cho toán nữ binh ngừng cả lại.
Trong hẻm, toán tiền đội Cờ Đen hiện ra, theo sau là lũ gia nhân đội quả sơn đỏ chót nối đuôi nhau chạy lóc cóc. Chợt thấy một lũ hai mươi gã vạm vỡ mặt mũi đặc Tàu Vân Nam, lại mặc áo the đen, quần ống sớ, thắt lưng đỏ, đội quả đỏ chênh vênh, coi khá lạ mắt giữa cảnh rừng rú, nàng nữ tặc ngạc nhiên trợn mắt kêu:
- Chà! Lạ dữ! Bọn này làm gì mà áo the khăn xếp đội quả như đi dẫn cưới thế này?
Cả lũ đứng lại. A Thiên đưa tay giật giật bộ râu xồm, nhe răng cười, gật đầu lia lịa.
- Hầy à! Dạ phải rồi! Hỏi vợ dẫn cưới vẫn... vẫn... Hỏi vợ... Ý a!
Nàng nữ tặc ngơ ngác nhìn cả bọn, nhưng cau mày.
- Hỏi vợ? Sao lại đi vào đây? Mà hỏi ai? Ai hỏi ai?
- Hỏi soái cô mà!
Mắt phượng tròn xoe, nàng nữ tặc thò tay túm luôn lấy ngực gã Thiên Lôi Đả, hét:
- Hỏi ta? Tàu sâu quảng! Giỡn mất đầu hà!
Thiên Lôi Đả kêu "hầy" rối rít, mắt trợn ngược, hoảng vía, làm lũ đội quỳ dạt cả sang bên, ngay khi đó Cẩm Lình khẽ kêu "soái gia".
Thiên Kiều buông A Thiên liền, trông ra đã thấy lão soái Cờ Đen cùng chàng họ Long đi tới. Vừa thấy mặt con, lão nói luôn:
- Hay lắm! Gặp con đây thật tiện, cha tưởng con vẫn ở trại? Đây là Long công tử mới bên Vân Nam sang. Cha ra Cao Bằng đón may lại gặp giữa đường!
Võ Thiên Kiều nhìn sang phía Long Phụng rồi nghiêng mình chào, và tự nhiên đưa mặt ngó lũ đội quả sơn, mặt thoáng biến sắc, nghe lão soái Phi Mã tiếp liền:
- Công tử đây là mỹ mục thư sinh cha đã nói với con ngày nọ đấy! Công tử vốn giòng thế gia thông minh xuất chúng. Long Đại nhân có lòng ái mộ con, ta muốn kết thông gia. Cha rất vui thấy con có nơi xứng đáng nâng khăn sửa túi nên đã nhận lời, thâu đồ sính lễ!
Nàng nữ tặc thất kinh chết lặng trên lưng ngựa, mãi mới run giọng nghẹn họng:
- Hôn nhân là việc hệ trọng. Giữa chốn ba quân không tiện nói chuyện đàn bà quần vận yếm mang, cha cho con nghĩ kỹ.
Nàng chợt ngừng, ngó quanh quân sĩ đã lánh cả ra xa, chỉ còn ba người.
Chừng không muốn dài dòng, Đông Quân buông gọn:
- Chiều muộn rồi! Về cho kịp giờ tối!
Chàng trai họ Long mỉm cười nghiêng người, từ tốn:
- Chính tiểu thư! Đường đột dám mong miễn thứ. Long này bấy lâu nay vẫn ngưỡng mộ đại danh Long Nữ Ngân Sơn, thật không ngờ gái bách chiến lại là một trang quốc sắc hoa nhường nguyệt thẹn. Ước mong kẻ học trò này không đến nỗi làm tiểu thơ giận ghét.
Thiên Kiều vốn tay cãi bướng, đã nặng lòng vì Lê, nghe lời kẻ khác dẫu êm ái như rót vào tai càng như gai đâm ruột, bực mình giật ngoắt cương chạy theo cha run giọng:
- Phụ thân! Xin phụ thân nghĩ lại. Con từ ngày... Đông Quân vẫn nhìn thẳng, giọng bỗng rắn như đanh đóng cột trầm hẳn:
- Ta biết! Từ ngày nuốt miếng thịt vai nó, thịt nó đã hòa vào huyết quản con!
Nhưng nó là xác thịt oan gia, tình là oan nghiệt. Không thể kết thông gia! Một là con quên nó đi, làm dâu họ Long, nên việc lớn, rạng thêm uy danh ông ngoại, tròn chữ hiếu. Hai là ta Đông Quân, ta sẽ làm lễ "hakahiri" cho mi tròn chữ tình! Chỉ có hai đường!
Giọng trầm đanh đến rợn người chứng tỏ lão đã quyết định gớm ghê không gì lay chuyển nổi, khiến nàng nữ tặc nghe như cắt, nghĩ đến người yêu, lắp bắp:
- Cha... cha... không thương con... thương chúng con...
- Nó thì không, mi ta thương nên mới cho chọn hai đường! Hai mươi năm nay, ta không thương ai, không cả ta! Chỉ còn thương mi thôi!
Cô gái không dám nói nữa, lủi ngựa lại, lòng tan tác.
Cha nàng, ông già quái đản, chính nàng cũng không biết mặt đã mang nàng trên hông ngựa từ thuở lọt lòng, đem đi khắp thiên sơn, dạy nàng trên yên, người cả thiên hạ nghe đến tên phải lạnh gáy, chặt đầu thiên hạ như chặt bụi khô lau, nhưng chưa khi nào từ chối nàng một điều chi.
Một lần, hồi nàng mới lên bảy, lên tám, lúc đó đang ở miền Mãn Châu, cô bé cô độc vì thiếu mẹ, đồ chơi gì cũng chán. Bữa kia hai cha con xuống núi ngoạn cảnh đến gần quan lộ chợt thấy một người đàn bà có mớ tóc dọc đuôi sau chấm gót đi cùng đám gia nhân, người này ngồi trong kiệu có hai người khiêng (lối kiệu gần giống cái ghế bành hiện nay, dân Tạng vẫn phải dùng leo núi cho tiện). Gia nhân cưỡi ngựa hầu, người đàn bà chợt vén rèm nhìn ra, cô bé trông thấy, khen tấm tắc.
- Cô tiên có tóc đẹp quá! Cái đầu xinh hơn con búp bê cha đã cho con!
Người cha nhìn theo kiệu, mắt sáng hẳn lên.
Sớm mai khi cô bé vừa tỉnh đã thấy trên bàn đồ chơi, có một cái quả sơn chót vót. Mở ra trong có cái đầu người, mặt tươi như còn sống, tóc đuôi quấn mấy vòng gần cổ, môi son mỉm cười.
Tưởng đầu "búp bê" cô bé vừa chạy tới ôm lấy nghịch, vừa reo lên:
- À! Cái đầu đẹp quá! Giống cái đầu người ngồi kiệu! Cái đầu biết ngồi!
Nhưng tay vừa mò vào thấy nhũn, cô bé sợ khóc thét lên. Ông già chạy vào ôm vội lên lòng, đưa tay phất phất lia lịa, cái đầu gật gù, mắt chớp ngược, môi mấp máy làm trò coi càng gớm ghiếc. Cô bé giãy nãy, không bằng lòng.
- Đầu bằng thịt nhun nhủn, sờ lạnh tay con khiếp lắm! Cha đeo cho con cái bằng gỗ! Ông vừa dỗ:
- Cha đeo cả đêm, nhưng xấu lắm, cái này của "bà mụ" nặn đẹp chứ! Bên Tân thế giới xưa, trẻ con vẫn chơi "búp bê" tóc lột da đầu người da đỏ mà! Con xem có tươi không? Này! Nữ tóc mun dài mượt đẹp chưa? Đầu "cô tiên", cô tiên hôm qua đó. Cha phải đợi đúng lúc cô ta trang điểm xong đặng mỉm cười, mới "lấy" về đây!
Cô bé vẫn không dám mó vào, nằng nặc đòi chơi đầu gỗ, ông già phải ra sau nhà nhặt về cái đầu đẽo đợ còn nham nhở. Như linh tính, thiện cảm thúc đẩy cô bé ôm ngay lấy cái đầu gỗ khen rối rít. Cái đầu người đàn bà đi kiệu đó sau sơn lấy lần vào cái khô lâu và cũng là cái đầu độc nhất ông già đã chặt về cho con nhỏ chơi vì thấy con khen đẹp, khác hẳn các loại thủ cấp kia toàn là của địch thủ.
Nhưng ông già đã buồn bà mấy hôm liền vì "cái đầu búp bê" không được con thích dẫu ông đã tặng con lối Thái Tử Đan nước Yên xưa chặt tay mỹ nhân bỏ hộp biếu Kinh Kha vì lời khen tay đẹp. Và cũng từ đó cô bé không khen vật gì đẹp trước mặt cha nữa.
- Mưu đại sự vô tình với cả thiên hạ nhưng "người" lại hết lòng thương ta?
Bên hiếu bên tình có thể liều một thác, nhưng suốt một đời sinh dưỡng việc chung thân cầu có một lần, chết đi không đền đáp nghĩa Thái Sơn như nước chảy chân cầu, còn mặt nào thấy mặt tiền nhân? Mà tuân lệnh kết hôn còn Thái Dũng?
Chàng ơi!
Lòng riêng đau đớn, cô gái họ Võ cố nén, đưa mắt nhìn nắng chiều le lói trên ngọn núi tưởng đâu dáng hình người tuổi trẻ họ Lê trên lưng để ngàn dặm đăng trình, giờ này chẳng biết về đâu.
- Hừ!
Cô gái vung mạnh tay xua đuổi ám ảnh nặng nề khổ lụy, nào ngờ tay vô tình vẫy sang ngang theo hình cánh cung đúng lúc chàng trai Vân Nam từ đằng sau giục ngựa lên, định nói chi với nàng hôn thê giặc cái. Cả người ngựa quăng dạt đi hơn thước, suýt ngã, con ngựa hý chồm loạn bậy, mãi mới kìm lại được.
Nàng nữ tặc Cờ Đen bật cười khanh khách, vụt nghĩ thầm:
- À, bạch diện thư sinh trói gà không chặt! Dám dựa thế cha chú đi hỏi "vợ giặc". À! Ta đã có diệu kế rồi! Đấu võ tuyển phu thì chú mày chết! Cả nhà sang đây cũng đừng hòng bắt ta về làm dâu!
Mưu chợt định, cô gái như gỡ được thế cờ bí, mặt tươi như hoa nở, lập tức giục ngựa lên làm mặt tự nhiên, bắt chuyện cùng Long Phụng, định ý đưa Long và tròng rồi mới nói với cha, nhắc lại lời hứa trước đã có lần nàng vui mồm phát thệ "Chỉ lấy người chồng giỏi hơn mình". Chính cha nàng đã tán đồng, bảo "thư sinh chưa nghe súng nổ đã vãi đái chỉ đáng làm mã phu lau gươm chùi súng cho con gái Đông Quân."
Lân la trò chuyện, nàng nữ tặc Cờ Đen chợt chuyển sang chuyện võ thuật, trận mạc, đoạn bảo Long Phụng:
- Còn một điều quan hệ nữa chẳng hiểu soái phụ tôi đã cho công tử biết chưa? Từ lâu, tôi đã có lời nguyền chỉ kết duyên với kẻ nào hạ nổi tôi trên võ đài.
Vậy chẳng rõ công tử có chịu dự cuộc đấu võ tuyển phu tại Phi Mã Ác Sơn chăng?
Cười rất tươi, gã trai Vân Nam đáp:
- Nếu tiểu thư sai nhảy vào hỏa, Long mỗ cũng chẳng từ nan, huống chi lên võ đài. Mỗ tuy dốt võ, nhưng lại có miếng gia truyền đã để... rước tiểu thơ về Côn Minh!
Nàng nữ tặc cười khô, vọt lên gặp Đông Quân, xin lập đài võ tuyển phu. Lão toan gạt đi, nhưng nghe Long Phụng đã chịu, lão chấp thuận liền, đầu óc đã lóe mưu cơ.
Nhưng nàng nữ tặc không cần biết. Cô gái cũng đã nghĩ được mưu cho gã Long Phụng rớt đài. Đoàn quân nữ phóng về miên căn cứ địa, vó câu khua động sơn lâm.
Trong khi đó, một mình một ngựa ngổn ngang trăm mối, chàng trai họ Lê xuyên sơn vượt lãnh địa Hà Giang, sang đất Cao Bằng, đi tìm động Cao Kinh, Thanh Âm.
Lúc đi lúc nghỉ, chiều kia tới một vùng thuộc Cao Bằng, tiếp giáp Hà Giang.
Thấy mặt trời sắp gác núi, Thái Dũng bèn lững thững đi tìm bản trọ. Chàng đã qua nhiều miền sơn cước nên rất hiểu phong tục tập quán dân miền núi, đặc biệt sắc dân nào cũng hiếu khách vô cùng. Bất kể lạ quen, khách phương xa tới đều được đón tiếp nồng hậu.
Cơm rượu đãi đằng trọng hậu, khách muốn ở chơi bao ngày cũng được, không lấy tiền, nếu khách có chút thuốc lào, ký ninh, muối, gương lược v.v... tặng chủ, càng được quý mến. Khi từ giã, chủ lại biếu cả những món lâm sản rất quý như nhung, mật gấu, mật ong... nên có lắm dân con buôn người Kinh thường "đóng vai du khách thâm sơn" mò vào cùng cốc, đổi hàng hóa lãi một đi lời mười.
Thái Dũng biết tục rừng xanh, nên hết tiền vẫn vững tâm, rẽ vào một bản ngay, sau một rặng núi đá. Đây là một bản Thổ Cao Bằng, lắm con gái xinh bu quanh "ông tiên" đón tiếp líu lo đầy đủ của ngon vật lạ. Dũng ở nhà viên xã trưởng, người ngựa ăn uống xong thì trời đã tối hẳn. Định nghỉ đến canh hai lên đường, hỏi thăm lối đi đến động Cai Kinh, Thanh Âm.
Bỗng nghe cồng khua inh ỏi, báo có khách lạ. Viên xã trưởng vội xuống sàn, ra ngoài.
Chỉ chừng mười lăm phút sau, xã trưởng cùng người nhà cầm đuốc dẫn về một khách lạ mặc áo xường xám, khổ người cao gầy, trạc gần ba mươi, nét mặt lạnh lùng xương xương, mắt sắc như đao, cỡi một con ngựa ô cao lớn loại ngựa Ký Châu, Tứ Châu bên Tàu.
Khách theo chủ nhà lên sàn đảo mắt một vòng thấy Thái Dũng ngồi bên bếp lửa, bèn cúi chào rất lịch sự. Dũng nhác diện mạo thấy có vẻ gian ác không ưa nhưng theo phép xã giao phải đứng dậy đáp lễ.
Từ đó người khách Tàu chỉ trò chuyện với chủ nhà. Cơm rượu dọn lên gã ăn hết cả một chõ xôi lớn hai con gà luộc một bầu rượu nặng cứ lầm lì uống mãi.
Dũng nghĩ thầm:
- Người ta thường bảo "người gầy thầy cơm" đúng thật! Chú khách này coi bộ ăn không thua Lang Mường Ghềnh Làng Cẩm Thủy Hà? Trường Nguyệt! Thôi!
Mặc hắn! Giờ mình lên đường! Đoạn từ giã chủ nhà đeo "sắc" toan đi, nào ngờ người Tàu cũng đứng luôn dậy vươn vai bằng tiếng Quan Hỏa:
- Tiên sinh không nghỉ lại đây? Giờ này rừng sâu nguy hiểm lắm! Sao không ở đến sáng?
Dũng hơi chau mày cười:
- Cám ơn! Mỗ có việc gấp! Vả lại đi đêm nhiều quen rồi!
Dứt lời xăm xăm bước đi nhưng người Tàu lại cười mỉm chợt nói một tràng tiếng Kinh:
- Đi đêm lắm sẽ có ngày gặp ma! Tiên sinh nên ở lại tại vì tôi vừa coi tướng mạo tiên sinh, đúng canh ba sẽ gặp họa dữ.
Ngạc nhiên Dũng cau mày hỏi:
- Chú không phải người Tàu? Chú xem tướng mỗ?
- Vâng, mà không khi nào sai! Nghề Ma Y Thần Tướng mà! Nói để tiên sinh rõ, canh ba này, tiên sinh sẽ ma rừng đêm giữa tam tinh tuệ nhỡn, và nội bảy mươi hai giờ, sẽ vong mạng, sau khi đã chịu cực hình mù hai mắt!
Thái Dũng phì cười:
- Chú tưởng mỗ có thể tin được ư? Nhảm nhí! Tướng số! Hừ! Thiên cơ mà có hạng phàm nhân như chú cũng biết, còn gì là thiên cơ! Thôi! Cám ơn!
Buông lời mỉa, chàng vác "sắc" phăng phăng xuống sàn. Nhưng chàng vừa lên ngựa, người khách lạ kia cũng lên yên, chặn trước nghiêm mặt bảo:
- Tiên sinh không tin kẻ như "ngộ" biết rõ thiên cơ? Cũng như tiên sinh không thể ngờ đại họa hiện đang nằm trong mình "ngộ" coi vật di họa hình cuốn sách, giờ này đang chiếu mệnh, lát nữa thôi, họa phát tam tinh!
Nghe hắn bảo "vật di họa hình cuốn sách" Thái Dũng không khỏi giật mình kinh dị, quắc mắt nhìn, hỏi dằn:
- Chú thấy họa, liệu biết trừ họa chăng?
- Biết chứ! Vật hung chiếu mệnh, bỏ đi là hết!
Vừa nghe dứt, Dũng vụt dột lòng, quắc mắt nhìn hắn không chớp, tay đặt lên đầu gậy, cười ngờ vực:
- Bỏ đi là khỏi, nhưng chú biết vật chi không?
- Biết chứ! Kim thư, sách nói về... vàng!
- À! Đoán không sai! Chính bọn mi đã theo ta từ núi Quạ! Còn định dùng lời con nít gạt ư?
Soạt! Dũng tuốt phắt kiếm ra, nhưng người Tàu đã cười ngất, xua tay:
- Chớ nóng! Chớ nóng! Canh ba sẽ biết! Không tin thầy tướng sẽ hối không kịp. Tình cờ "ngộ" thấy thì nói chơi, không tin thì thôi!
Nói đoạn, hắn giục ngựa đi luôn. Dũng tra kiếm, trông theo. Được một quãng chợt hắn ngoái lại, khoa tay trốc đầu, nói lớn:
- Chào tiên sinh! Ngộ về Cao Bằng đây! Nội bảy mươi hai tiếng, muốn gặp, cứ tới Cao Bằng, đeo cái "băng" trắng cổ tay, ngoài bảy mươi hai tiếng cứ việc xuống âm phủ mà tìm!
Rập! Vó ngựa lẫn vào rừng tối. Thái Dũng ngờ vực chẳng cùng, muốn đuổi theo bắt hỏi, nhưng hắn đã mất dạng. Chàng trai đành theo lời chỉ dẫn, kiếm đường đến vùng động Cái Kinh.
Rừng đêm hoang vắng, vó ngựa truy phong vượt đèo, băng suối, tới miền động Cai Kinh, vừa canh ba.
Nhớ đến lời gã Tàu áo xường xám, Dũng vừa nhếch mép cười. Thình lình thấy ru
Cha chú ta đều là võ tướng, gia sư cho Phụ Chính Đại Thần Tôn Thất Thuyết, còn ta cận tướng cho Hoàng Kế Viêm. Sau ngày Tôn Thất Thuyết đánh úp đồn Mang Cá (Huế) không thành. Đêm kia, ta đang nằm tại vùng Sơn Tây cùng với chủ tướng, bỗng từ ngoài nhảy vào hai bóng người, máu me đầm đìa. Nhìn lại thì ra cha ta, sau lưng còn cắm một ngọn kiếm dài xuyên tận ngực, chú ta tay run rẩy vừa buông đốc kiếm. Cả hai ngã gục xuống chân ta.
Trong cơn hấp hối, "người" moi ra cuốn sách trao cho ta, miệng phều phào trối lại vài lời, rồi cha chú ta ôm lấy nhau cùng chết. Cầm sách trên tay, ta còn tưởng mình mê ngủ, chừng dở xem mới hay đó là cuốn gia phả ngành họ nhà ta, kèm theo một tờ di chúc dặn điều bí mật. Xem xong, đó là bí mật kho vàng Tôn Thất Thuyết, tình cờ lọt vào tay cha ta và cha chú ta đã giết nhau tranh đoạt bí mật yểm tàng, như tổ phụ xưa cứ hai đời rơi vào vòng oan nghiệt, mưu đại sự rồi sinh ra cốt nhục tương tàn.
Oan oan tương báo? Lẽ trời huyền vi? Hay huyết thống tâm linh xui khiến?
Phải chăng "có con yêu tiềm thức" vẫn theo ám ngành chi thứ, gây nên cảnh oan nghiệt truyền kiếp? Tính ra, sẽ tới con cháu ta phải gánh... Hỡi ôi, oan nghiệt nối đời đời, đời ta đã vậy còn đời con cháu, đời chúng mi! Kiến thức hẹp hòi, là võ tướng ta chỉ quen cỡi ngựa đánh gươm, nhưng còn tim còn óc, ta còn lo cho cuộc đời con cháu mai sau. Kho vàng! Kho vàng lá của nước Nam, ta không chí lớn, tài cao, dám mong chỉ làm chủ kho vàng, mà... than ôi! Vận nước suy vong, anh hùng khuất bóng, tiểu nhân đầy rẫy, còn biết tính sao? Ta chỉ còn biết trông mong vận nước hoặc con cháu ta hoặc giòng họ khác lấy vàng hưng quốc, cứu dân, rửa nhục cho trăm họ, tích đức tu nhân may ra có giải được mối oan nghiệt thảm thê cho giòng họ Lê chi thứ Ngọa Triều tằng tổ Xạ." Đến đây hết chữ son, trang sau mở đầu phả hệ từ đời ông nội, có mấy hàng chữ Hán viết lối chân phương khá lớn, đã xỉn lại, toàn bằng máu: "Cái Văn: phụ tác tử thừa, thử chi vi kế, bất cải ư phụ chi đạo khả vị "hiếu hỉ"!"
"Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp huyết thư." Thích, đổi chữ Tố Như thành huyết thư, không biết ngoài ba trăm năm sau trong thiên hạ, có ai khóc lá thư máu này chăng?
Còn mấy hàng trên, nghĩa Nôm là: Thường nghe: Cha làm con theo, đó là nối, không đổi đạo cha ấy là Hiếu.
Chắc ý ông nội chẳng muốn con cháu về sau theo di ngôn dặn lại, nghĩ đến hiếu trung nhân nghĩa, đừng để lòng tham làm mờ lương tri, để lại rơi vào vòng oan nghiệt gớm ghê như tổ phụ.
Sau những dòng trên đến đoạn phả hệ ghi rõ chi phái từ đời ông nội về sau, già, trẻ, trai, gái, sống, chết, ngày, giờ, năm, tháng, nghề nghiệp, công danh, tính hạnh.
Lạ nhất là vừa đến đời của chú chàng, tờ gia phả bị xé đi mất mấy tờ, còn về sau chỉ là phụ khoản, ghi về mồ mả và các sự di chuyển dời cư, không có gì đặc biệt.
- Ai xé những tờ kia? Có chi quan hệ trong những tờ bị mất mà sao tuyệt nhiên không nó chi về nơi yểm tàng? Cả thiên hạ lục lâm giang hồ, nhà nước Tây Tàu đều đi kiếm gia phả, lẽ đâu chỉ có thế này? Tất cả bí ẩn chỉ là mối oan nghiệt của dòng họ ta, không quan hệ chi đến người ngoài, kho tàng? Hay bí mật kho vàng nằm trong mấy tờ bị mất?
Thái Dũng đặt sách xuống bàn, uống một hơi cạn ly rượu đầy, đầu óc đầy thắc mắc đoán cuốn gia phả bị xé phần quan trọng trước khi vào tay Thần Quân.
Nhưng lại nhớ đến lời ghi trong tập giấy của ông thầy kỳ dị, đầu óc chàng trai càng nghi hoặc, rối loạn. Ngồi nghĩ vẩn vơ, giở từng tờ soi đi xét lại, không chi khác lạ, tần ngần mở rộng chỗ có di ngôn của Lê Hổ ông nội chàng trối lại cho con cháu, nhìn từng nét chữ người quá cố, chừng đã lâu năm, rải rác có mấy chữ bị mọt lỗ chỗ.
Gió rừng thu hắt hiu lùa vào quán, thỉnh thoảng chàng trai lại nhìn ra cảnh lâm tuyền ngoài cửa sổ, mơ màng tưởng về dĩ vãng xa xưa... trải bao đời oan nghiệt lạ kỳ, dòng tư tưởng chảy dần về đời ông nội chàng, thời quân Tây hạ thành Hà Nội, ông nội theo Hoàng Kế Viêm, cùng giặc Cờ Đen trấn mạn Sơn Tây, cùng những trận đánh du kích nửa cổ nửa kim với súng trường, mã tấu. Cờ Đen phục binh Cầu Giấy, bắt sống Tây Sông (Henri Rivière) bắn Ngạc Nhi (Francis Garnier) một thời nhiễu loạn, hào hùng, tủi nhục, súng thần công bắn vỡ thành trì, mở đời bút thép đè bẹp bút lông.
Liên miên hình dung đến ông nội võ tướng áo the, dây đạn, giáp đỉnh đồng, người đầy tâm huyết lại gặp thời vong quốc thình lình đang lúc binh say lại gặp cảnh cha chú tương tàn, tranh kho vàng, quên tình cốt nhục, quên ca mối oan gia...
Không tham vàng, chỉ nghĩ đến dân tộc con cháu dòng họ để di ngôn máu lại, còn buồn con cháu người ngoài biết có ai thông cảm lòng mình...
- Ông nội thề... con cháu lại ra làm quan...
Tự nhiên, Thái Dũng xúc động lạ thường, thương ông già võ tướng quá cố, tưởng luôn gia cảnh thân thế mình, cánh mũi cay cay, mắt nhẹ rưng rưng.
Và không ngờ sự lạ đã hiện lên như một phép màu. Chàng trai vừa toan đưa tay lên trán, sợ lệ ứa ra người chung quanh trông thấy, nhưng vừa giơ tay chớp mắt bỗng chàng giật thót mình, "à" lên một tiếng ngạc nhiên.
Thường khi mắt rưng rưng mờ đi vì lệ long lanh đọng rèm mi, mà cứ nhìn đăm đăm vào một khoảng chi, tất cả những vật nơi đó đều như phải mờ theo, chỉ còn thứ gì đặc biệt nhất nổi bật lên trước khóe mắt đăm mờ hoặc về hình thể hoặc về màu sắc, tĩnh vật hay động vật v.v... Thái Dũng nhìn mãi vào trang giấy trắng, chữ son, tất cả đều bằng phẳng giống nhau, mắt chợt rưng mờ chữ cũng nhòe mờ như chìm đi, chỉ còn những vết mọt gặm đập vào mắt, gần như linh tính, hay một thói quen thông thường, chàng để ý đến vết mọt, lập tức đế ý ngay đến chữ bị mọt đục, như một ánh chớp lóe, trang giấy chỉ còn chữ mọt nổi lên tuần tự từ trên xuống dưới.
Và khoảng cách mất đi, Dũng vụt đọc thấy những chữ:
"ĐỂ SÁCH TRÊN TỔ KIẾN"
- Để sách trên tổ kiến? Chữ mọt tình cờ hay cố ý? Nghe đúng là một câu nói mạch lạc!
Vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, Dũng lật đật cầm cuốn sách lên coi lại, mới hay chỉ là những vết mọt nhân tạo. Thì ra bí mật ngầm trao cho kẻ nào khóc trước tờ huyết thư, khóc rưng mờ mắt vì cảm động mới chợt nhận ra một bí mật thật bất ngờ, chỉ dành cho người đa cảm. Đa cảm hướng có lòng, chỉ có gian tặc ác nhân lòng gỗ đá mới không có nước mắt. Chọn cách trao bí mật này, ông nội Dũng hẳn không chỉ là một kẻ chỉ biết đánh gươm bắn súng.
Thành kính, chàng tuổi trẻ họ Lê gấp luôn gia phả lại, chấp trước ngực nhìn ra xa như hướng về dĩ vãng người xưa.
- Đội ân Thượng Đế, tổ phụ! Lê này nguyện tuân theo di ngôn!
Thở phào một hơi như vừa giải xong một bài toán khó, Dũng đưa mắt trông quanh quẩn, tìm tổ kiến. Khách hàng thấy chàng dòm góc nhà, gầm bàn, thảy đều ngạc nhiên, lên tiếng hỏi:
- Ông tìm gì đó? Rơi tiền ư?
- Không! Mỗ tìm... kiến!
Ai nấy cùng cười ồ. Bỗng tít góc bên kia, một người lái buôn vùng kêu oai oái:
- Ôi chao! Đau chết mất thôi! Thấy ông bà ông vải... dưới gầm đây này! Tìm đâu cho mệt xác!
Dũng nhìn sang, thấy chú ta đang suýt xoa kêu khổ, dưới chân, xương xẩu vung vãi, kiến bu đầy.
Thái Dũng vừa định bước lại, bỗng nghe ngoài quán có tiếng nhạc đồng khua vang, rập vó câu phi nước đại, chợt dừng trước quán.
Tiếp liền có tiếng trong trẻo vọng vào:
- Chủ quán! Có thịt rừng, rượu ngon lấy cho ta mau! À! Làm ơn cho ngựa ăn cỏ ngay! Ta cần đi gấp!
- Dạ! Mời quý khách chiếu cố! Quán có đủ cả! Kìa, mà sao tay quý khách...
- Tốt lắm! À! Tay ta bị xây sát thường thôi! Vừa bị thổ phỉ đuổi đó!
Thái Dũng bỏ luôn cuốn gia phả vào trong ngực áo.
Từ ngoài, bước vào một chàng khách trẻ tay cầm chiếc roi ngựa ve vẩy, dáng rất hào hoa. Khách trẻ đưa mắt nhìn quanh, chợt thấy Dũng, chàng khách tươi cười nghiêng mình chào, đoạn nhanh nhẹn bước vào ngồi ngay chiếc ghế xế ngang Dũng, đặt roi ngựa và "sắc" hành lý lên bàn.
Vừa nhác dạng chàng khách, Thái Dũng có cảm tình ngay. Đó là chàng trai trạc hai mươi, hai mươi mốt, đẹp như Tống Ngọc thời xưa, mắt sáng, mày xanh, mặt tươi như hoa, mặc quần áo Chàm chít khăn chàm giống con cái các tiểu vương sơn cước, trên mình không có một tấc thép, thoạt trông đã đoán ngay là một chàng quý tộc thư sinh đi du sơn ngoạn thủy.
Thái Dũng, chàng khách, cả hai mỗi người một vẻ, Phan An, Tống Ngọc tái thế, ngồi một góc khiến bọn khách buôn cứ luôn tay chỉ trỏ trầm trồ. Chừng cũng lấy làm lạ giữa chốn rừng xanh lại gặp người mỹ mạo khác thường. Chàng khách trẻ vừa ngồi đã ngoảnh sang Dũng làm quen:
- Đại huynh tha lỗi, đại huynh lên Hoàng Su Phì?
Thái Dũng lắc đầu:
- Đệ đi Hà Giang! Còn huynh chắc từ xa tới... Huynh lên Su Phì?
- Dạ. Xong, đệ đi Cao Bằng. À, Cao Bằng dạo này chẳng hiểu có yên không?
- Biên giới hồi này loạn dữ! Thổ phỉ như rươi, chỗ nào cũng có cường sơn.
Huynh đi một mình... không ngại?
- Dạ, cũng có người nhà nhưng có chút việc, đến Cao Bằng mới gặp lại.
Không ngờ dạo này lắm thổ phỉ quá, đệ vừa qua, chúng bắn nhau với quân Mèo, không nhờ ngựa hay khéo nguy rồi!
Vừa nói, chàng khách vừa giơ tay cho Dũng coi, tay bị đạn sướt buộc băng.
Một khách thương bàn góp:
- Mới có bọn thổ phỉ Tàu ghê lắm! Tuần trước kéo sang ăn cướp đánh cả đồn Tây! Nghe đồn thằng đầu đảng chỉ thích cắt tai người ngâm rượu chơi!
Chủ quán dọn rượu thịt ra. Khách trẻ mời Dũng, Dũng mỉm cười cám ơn, chàng ta ngồi ăn uống ngon lành, vừa ăn vừa nói chuyện với Dũng. Đường xa cô đơn gặp người đồng điệu, Dũng cũng nguôi lòng, nhân thấy chàng ta vui tính, tự nhiên có duyên, Dũng cùng cởi mở đối đáp, hai người có chiều tương đắc lắm. Hỏi chàng cho biết mới từ Vân Nam sang kiếm bà con, nhân thể về xem mặt hôn thê tại Cao Bằng. Ăn uống xong, Thái Dũng nhớ đến việc riêng, vội đứng lên từ giã, gọi chủ quán tính tiền.
Ngờ đâu, tiền bạc đã nhẵn, chàng trai sững sờ đứng ngẩn ra. Rõ ràng còn còn một mớ bạc xòe chưa tiêu đến, bỗng không cánh bay mất! Sực nghĩ có lẽ đã rơi dọc đường từ núi Quạ hoặc khi lũ vượn cướp "sắc" chạy, Thái Dũng lúng túng không biết tính sao, đành nói nhỏ với chủ quán xin tạm khất và tạm gửi lại... cây súng làm tin!
Chủ quán giãy nảy:
- Úi chao! Làm nghề làm ăn lương thiện, giữ của nợ này để mang họa, vào tù ăn cơm vôi ư?
Nhăn nhó điều đình mãi chưa xong, chủ quán có ý muốn giữ tạm con ngựa, đang giằng dai, bỗng thấy chàng khách trẻ đứng lên mắng chủ quán:
- Bữa ăn đáng bao nhiêu, chú đòi lấy ngựa? Chú mày thật không biết người biết của! Điệu bán quán của nhà chú chỉ bán cho thổ phỉ là hay! Bao nhiêu?
Huynh tha lỗi!
Chủ quán nhăn nhở cười ruồi:
- Dạ, không mấy, chỉ vài "xòe" thôi!
Khách trẻ moi túi lấy ra mấy đồng xòe, cười rất tươi đưa Dũng. Dũng tần ngần muốn trả, lại phiền với chủ quán, đành cám ơn khách trẻ vừa đưa cho chủ quán. Thình lình nghe rầm rập tiếng chân ngựa, ngoài cửa ồn ào, rồi có tiếng Tây, ra quát tháo, giật giọng:
- Đây rồi! Bẩm quan đồn, ngựa "nó" đây rồi!
- Attention! Alora! Chassez moi ce type la!
Súng lên "quy lát", ngựa hý, chân chạy rầm rập, khách ăn kinh hoảng, đứng xồ cả lên, sợ sệt thất thần.
- Tây đồn! Tây đồn!
Từ ngoài, một viên quan hai khố xanh, xách súng lúc ập vào, lố nhố theo sau hai, ba chú lính chĩa súng trường lên đạn, rê chỏ vào mọi người.
- Tất cả ngồi im! Giơ tay lên!
- Kìa! Bẩm quan đồn, nó kia kìa! Một người đứng gần Tây đồn, trỏ phăng về phía hai chàng trai, Tây đồn gạt mũi súng lục quát:
- Còng hắn lại! Tước súng!
Hai chú lính sấn tới, chàng khách trẻ vẫn tươi tỉnh nhìn Dũng, Dũng vẫn đứng yên khó xử. Đoán bọn này lầm mình, chàng đành hướng vào Tây đồn, nói tràng tiếng Pháp.
- Chắc ông lầm rồi! Tôi vừa từ Cao Bằng tới...
Vẫn chĩa súng lăm lăm, viên Tây đồn hất hàm truyền lịnh:
- Đem về đồn!
Bọn lính xông lại, kẻ với tay định tước súng, người chìa còng ra, Dũng bí quá, đành lùi phắt lại, nghiêm mặt:
- Đứng đó! Bắt người vô cớ, đừng buộc mỗ phải ra tay!
Viên Tây đồn trợn mắt vừa lên tiếng hô lính cứ sấn tới. Thình lình nghe liền mấy tràng pạc-hoọc nổ rất gần, ngoài cửa quán nhốn nháo, khách buôn chạy loạn, ngựa hý giật. Một chú lính khố xanh đâm bổ vào, mặt cắt không còn hột máu:
- Thổ phỉ! Thổ phỉ!
Pạc-hoọc nổ dòn, lẫn vài tiếng súng "mút". Đạn vãi cả vào quán, ai nấy thất kinh, bở vía. Viên Tây đồn cùng bọn lính xách súng nhảy túa ra, khách trong quán chạy cuống, chui cả xuống gầm bàn. Vài tiếng súng "mút" đì đẹt, rồi tắt họng, rầm rập có tiếng ngựa phi lẫn tiếng xạ phang quát lớ. Viên Tây đồn vai bị một vết thương, một bọn bốn, năm người vừa lính vừa dân chạy bổ vào quán, mắt xanh lè:
- Thổ phỉ! Đóng cửa mau! Đông lắm! Giết hết lính rồi!
Cánh cửa vừa ập đóng đã bật tung, rập lố nhố bên ngoài đã đầy bóng xạ phang mặc quần áo đen. Một cái thủ cấp bay vụt vào quay long lóc như bình vôi.
Viên Tây đồn vừa thò tay bắn đã bị một phát tung cả súng, rồi có tiếng cười hô hố ngoài quán:
- Hầy a! Mấy con ngựa đẹp dữ! Còn đứa nào ra cửa ngoài này! Xích tất cả lại đem về Tàu! Lũ dân nội địa béo tốt "có giá", hầy à.
Bọn thổ phỉ ào đến nhanh như cơn lốc. Lúc đó đã vây gọn cả khu quán. Thái Dũng trông ra thấy quân xạ phang cỡi ngựa lố nhố đầy đường, trước cửa sau nhà, mấy tên đang sấn lại bắt ngựa, dồn người về một góc. Thấp thoáng bóng một tên cao lớn vạm vỡ đội mũ rộng vành, hai tay hai pạc-hoọc, vừa chồm tới, ngổn ngang đến năm, sáu xác lính nằm chết gục cạnh súng trường.
- Hầy à! Trong nhà còn thằng Tây đồn! Vào chỉ làm con tin đi lấy đồn! Lùa chúng ra mau!
Ai nấy hết vía, run lẩy bẩy. Viên Tây đồn ôm vai, tuyệt vọng. Chàng khách điển trai vẫn ngồi bên bàn uống. Thái Dũng thấy tình thế hiểm nghèo vội bảo viên Tây đồn:
- Nó định bắt sống ông, xuống cướp phố đồn. Lục tìm chỗ nấp tránh đạn, để mỗ liệu giúp!
Lời vừa dứt, từ ngoài hai, ba bóng thổ phỉ xông vào. Dũng phất tay một cái đánh bắn cả bọn ra như mấy trái cầu, vùng quát lớn:
- Thổ phỉ! Các chú mày tới số rồi! Biết điều cút ngay! Sao không kiếm ăn ngoài biên lại vào tận nội địa? Mỗ sắp nổi giận rồi đó!
Bên ngoài đang ồn, chợt im bặt. Tiếp theo liền mấy tiếng chửi tục. Tên chủ tướng gầm lên:
- Thằng nào muốn xuống âm phủ đo? Vào bẻ họng nó cho tao! Hầy à! Mấy đứa kia lui ra, để con ngựa đỏ đấy cho tao!
"Vút" tiếng thòng lọng, Huyết Phong Câu hý đá lung tung. Thổ phỉ kêu oai oái. Thái Dũng sợ chúng nổi giận bắn chết ngựa quý, sực nghĩ ra một kế, vùng thét dữ:
- Chó đú! Không biết có bản soái gia trong này sao? Coi đây!
Miệng quát, tay rút phăng súng ra, bắn liền mấy phát, rụng luôn pạc-hoọc trên tay tên chủ tướng và hai tên cận vệ. Tên tướng trợn mắt dòm vào quán có vẻ sửng sốt khác thường.
- Hầy à! Phải... phải Thập Vạn Đại Sơn...
- Chú mày là thằng nào? Hà hà!
- Hầy à! Lầm Tắc Mềnh này...
- Đi phương khác kiếm ăn!
Thái Dũng lúc đó mới sực nhớ ra tên tướng thổ phỉ chính "Lầm Đại vương" khét tiếng miền Đông biên giới đã gặp ngày từ Quảng Đông về nước. Chàng trai thấy hắn đã nao núng, liền đưa luôn họng súng cối lên miệng thổi một tràng. Âm thép đầy công lực vang động khắp trong quán, ngoài đường bọn thổ phỉ, khách buôn, lính tráng thảy đều giật mình, muốn thủng màng tang như bị dùi đâm, vội bít chặt lấy tai. Lâm Tắc Mềnh tướng thổ phỉ bỗng kêu ồm ồm.
- Hầy à! "Thiết pháo khẩu!" Thiết pháo khẩu Đại Sơn Vương! Xuất hành gặp gái à! Quân đâu! Hàng đôi! Xếp hàng đôi! Tao ra mắt soái ông Thần Xạ!
Thái Dũng thấy Lầm tướng thổ phỉ đổi thái độ, sợ chúng sấn vào rất phiền, nên vẫn ẩn mặt, nghiêm giọng nói lớn:
- A Lầm! Mỗ bận chút việc, bất tất khách tình! Đi thôi! Mỗ có lời chúc mạnh giỏi!
Lầm vuốt râu, tay xua quân gia, mắt vẫn nhìn vào quán cười hô hố:
- Hầy à! Cái "ngộ" không piếc soái ông... Lại thấy con ngựa đỏ, con ngựa trắng à. Soái bà cỡi ngựa trắng, còn soái ông vẫn cỡi ngựa đen đen xam xám mà!
- Lầm mắt vọ! Ngựa huyết của Thần Quân mới tặng đó! Muốn cỡi ư?
- Ý à! Cái "ngộ" thích ăn cơm hút thuốc phiện, không thích ăn kẹo đồng.
Quân đâu! Hầy à! Không nghe thấy gì ư? Chó đú! Rút về Tàu... a!
Nhặt pạc-hoọc bắn chỉ thiên liền mấy phát, Lầm cùng thủ hạ quay ngựa tế về phía Bắc như giông, thoáng đã mất.
Từ Tây đồn đến khách thương đều đứng ngơ ngác như vừa mê ngủ, mãi đến lúc bọn thổ phỉ đã đi xa, mọi người mới hoàn hồn, chạy ùa ra cửa dòm thấy hàng hóa còn chất ngổn ngang, không mất một cái tóc.
Chủ quán lạy Dũng như tế sao:
- Bẩm... không ngờ Đại Vương giáng lâm, con người trần mắt thịt trót phạm thượng, xin Đại Vương sinh phúc! Hú vía! Ông thổ phỉ râu xồm ấy chính ông Lầm hung thần chuyên xẻo tai người ngâm rượu chơi!
Cả quán nhao nhao lạy tạ. Tây đồn cũng sửng sốt không kém, ngỏ lời xin lỗi, thỉnh chàng về đồn. Thái Dũng chỉ cười gạt đi, nói qua loa vài câu, đoạn khoác "sắc" lên đường ngay.
Chàng khách trẻ ra theo, cười bảo:
- Bữa nay không có đại huynh, vùng này nguy vì thổ phỉ rồi! Đệ tưởng nghe danh Đại Sơn Vương, không ngờ lại được gặp!
Dũng lắc đầu, tặc lưỡi:
- Đệ đâu phải Đại Sơn Vương! Chẳng qua gặp lúc khẩn cấp, chúng ập đến vây, đệ sực nghĩ oai dán Thần Xạ đành liều làm kế "cáo đội lốt hùm" đó thôi!
Chàng khách trẻ nghe nói cất tiếng cười khanh khách:
- À ra thế! Nhưng đệ vừa được coi đại huynh bắn súng tài lắm. Giờ huynh có thể cho đệ cùng đi được chăng?
Thái Dũng thấy chàng ta cốt cách khoan hòa, nói năng hoạt bát, rất thiện cảm, nhưng nghĩ mình đang bận việc lớn, nên đành kiếm lời thoái thác. Đó rồi, hai người chia tay, Dũng phóng ngựa vào một cánh rừng sâu về hướng Đông Nam, tìm một con suối vắng bốn bề không người, bèn xuống ngựa đi dọc theo bờ nước tìm tổ kiến. Không đầy nửa phút, đã kiếm thấy một tổ lớn tại gốc cây tùng gần bờ nước.
Cả mừng, chàng móc luôn cuốn gia phả mở rộng xòe, đặt dựng ngang trên tổ kiến, mắt nhìn chòng chọc, đợi xem có chi lạ xảy ra.
Lúc đó mặt trời đã lên cao, chiếu tia ấm dịu xuống gốc cây, đàn kiến càng này thuộc loại đẻ trứng rất bùi, dân đường ngược thường kiếm trứng giống kiến này về đồ với xôi nếp cẩm, lúc này đang bò ngược bò xuôi đi các ngả kiếm mồi.
Có hai, ba bọn kiến thợ đang tha về, bò cả lên mặt sách. Dũng theo dõi chăm chú chỉ thấy chúng bò qua, coi mãi chán, bèn đưa mắt nhìn bốn phía rừng già xem có kẻ nào theo hút không. Rừng vẫn vắng vẻ, chừng phút sau chợt chàng ngó lại đã thấy kiến từ đâu kéo về bu đầy mặt giấy đến hàng vạn con, còn nhiều bọn đổ tới dài dặc, Vẫn không chi lạ.
Bỗng chàng để ý thấy lũ kiến chỉ bò trên hai tờ giấy thôi, tờ có lá huyết thư, còn tờ khác không có con nào, và sau một hồi bò thẳng, giờ chợt bò nối đuôi, có thể cả vạn con đổ dồn vào hai mặt giấy, nháy mắt tất cả như đứng im, chỉ còn vài con bò quanh tìm chỗ.
Nhìn lũ kiến bu, bất thần tim Dũng như ngừng đập, vụt nhận ra chúng đã nằm rất đều, đen ngòm theo những đường nét dọc ngang như phượng múa, trên mặt giấy bỗng hiện ra... những "chữ kiến bu đen" lối chữ thảo, mỗi chữ to bằng ngón chân cái, trên hai tờ giấy, rõ không kém tô mực đen. ÂM THANH ĐỘNG KHƯƠNG THƯỢNG NGỘ VĂN VƯƠNG
- À, ra thế! Thật không ngờ! Thì ra chữ viết bằng một chất ngọt đặc biệt nào như "thoòng chinh" hay một chất ép mật hoa chi đó được ướp giữ lâu ngày không mất. Giống kiến đánh hơi thấy bu cả vào những chỗ có chất ngọt, chữ hiện ra!
Nhưng "âm thanh động" là gì? Động là hang động hay động đậy? Sao lại Khương Thượng gặp Văn Vương? Úp mở khó hiểu thật! Nhưng có điều chắc là động đây là hang động chỉ địa điểm chôn dấu đây.
Thái Dũng thở phào như trút được cả ngọn Thái Sơn trong óc. Lập tức đuổi hết kiến bỏ sách vào ống cất kỹ, đoạn nhảy luôn lên lưng ngựa, ra khỏi cánh rừng sâu. Ngẫm nghĩ mãi chưa rõ đoạn cuối, chàng trai bèn tìm lối ra đường mòn, có ý kiếm thổ dân thử hỏi xem sao.
Phút chốc đã ra tới đường mòn khá rộng, rải rác quanh đó có nhiều bản dân lưng đồi. Chàng trai cứ theo hướng Đông ruổi ngựa, nhân ngày gặp phiên Chợ Châu, Tỉnh chi đó, dân núi hạ sơn mua muối, bán lâm sản khá nhiều. Nhưng hỏi đến chục người Mán, Mèo, Kinh cũng không ai biết. Thái Dũng vẫn không nản, cứ cho ngựa bước đều.
Chợt gặp một toán người Kha cỡi ngựa Thổ đi tới, lố nhố cả đàn ông đàn bà, dẫn đầu là một ông già chít khăn rẽ, râu thưa dài bạc. Thái Dũng lễ phép chào, dùng tiếng Thổ hỏi:
- Ông "phìa" làm ơn cho hỏi thăm chút! "Phìa" nhiều tuổi, có biết cái hang động bản dân nào là Động Thanh Âm không? Ông lão Kha nhai trầu bỏm bẻm, nhìn khách Kinh, nghĩ ngợi khá lâu, mới lên tiếng:
- À, hình như có... Dạ phải, đúng rồi! Nhưng xa lắm, tít tận Cao Bằng. Động Thanh Âm! Phải rồi! Hồi còn trẻ lão có lần đến Cao Bằng thăm bà con, nghe nói có cái tên hang động đó!
Mừng rỡ, Dũng hỏi dồn:
- Cao Bằng? Nhưng cụ có biết ở mạn nào?
- Hình như tận giáp Tàu thì phải! Nghe nói cái động lạ lắm, cái ma hát suốt đêm, hình như đi qua vùng động Cai Kinh thì phải!
Hỏi thêm nữa, lão Kha không biết gì thêm. Dũng cám ơn từ biệt, lập tức quay ngựa về phía Cao Bằng đi miết.
Huyết Phong Câu thả kiệu ngỏ trên đường được chừng vài dặm, đến một chiếc cầu mây, chợt nghe phía trước có tiếng người hát véo von giọng Kinh cao vút như suối đàn:
- Nàng về nuôi cái cùng con Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng... ... Cao Bằng xa lắm anh ơi, Để em gánh nước giếng khơi cho gần...
Tiếng hát như khơi dậy niềm đất nước, Thái Dũng nghe xúc động tâm hồn, đưa mắt nhìn quanh, tìm kiếm. Rừng già quạnh quẽ, cầu mây vắt vẻo, giòng suối lững lờ, chim kêu ríu rít, chẳng thấy bóng ai cả.
Dũng tiến ngựa đến đầu bắc qua ghềnh đá cao, chợt lại nghe tiếng người thánh thót:
- Ai về đường ấy hôm nay?
Ngựa hồn ai cỡi cổ tay ai cầm?
Thấy hay hay, chàng trai họ Lê cao hứng buột miệng ngâm vang:
- Ngựa hồng đã có tri âm, Cổ tay đã có người cầm... còn chi?
Im mấy giây, bỗng tiếng nãy giờ lại cất lên, lần này vừa hào hùng bướng bỉnh, vừa xúc động úp mở khó hiểu:
- Nghênh ngang một cõi biên thùy, Thiếu gì cô quả thiếu gì bá vương Trước cờ ai dám tranh cường Năm năm hùng cứ một phương hải tần!
Tiếng hát bốc cao uẩn khí vờn mây, đến tiếng "hải tần" chợt đổ xuống như muốn dìm lòng người tận đáy biển sâu, khiến Dũng không nén được tiếng "chà hay" hứng khởi. Bỗng lại nghe giọng hát rót vào tai, như có kẻ trờ sát ngâm vậy.
- Ấy ai đi ngược về xuôi, Có lên Đông Bắc cho tôi đi cùng Đời người được mấy anh hùng Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Thái Dũng vọt ngựa lên cầu, đảo nhìn theo hình cung, theo hướng phát âm, thấy một kỵ sĩ gò cương dưới thung lũng cho ngựa uống nước bên giòng. Ngựa trắng toát, người y phụ lối con cháu tiểu vương sơn cước. Vừa nhác bóng, Dũng nhận ra ngay chính chàng khách trẻ tuổi vừa gặp trong quán bên đường lúc nãy.
- Một người khó hiểu! Rừng biên giới đầy giặc cướp, thú dữ, không có khí giới, nãy gặp thổ phỉ vẫn tươi cười... Hay giấu nghề?
Thái Dũng vừa chợt nảy ý thử xem, đã thấy chàng khách ngẩng trông lên, gọi lớn:
- Đại huynh! Huynh cũng đi Cao Bằng.... cho đệ theo được chăng?
Dũng gò cương, mỉm cười:
- Huynh biết võ chứ?
- Võ? Không! Đệ không biết! Nhưng ngựa đệ hay lắm, gặp chuyện chi, khỏi sợ quẩn chân huynh!
Chàng khách trẻ điển trai giục ngựa quành lên, chào Dũng. Đã có chủ tâm, Dũng tiến ngựa lên, bất thần đánh ra một nhát phản phong.
Cách năm bộ, tay Dũng ra chỉ một phần mười sức lực, nào ngờ chàng trai giương mắt nhìn lãnh đủ phản phong, "hự" một cái, bắn lên, từ trên lưng ngựa xuống thành cầu nằm vắt mình trên một cành xòe rũ đầu cầu, từ từ đổ xuống suối sâu.
Thất kinh, Dũng nhảy vụt tới, quày tay túm được áo người khách, ôm xốc lên, rung giọng, sờ tay chẩn mạch:
- Trời! Huynh có sao không?
Nhưng người lạ đã cố gượng đứng xuống, mặt tái hẳn đi gạt tay Dũng ra, ôm ngực cố cười, phào giọng:
- Không sao! Sao tay huynh lạ thế, có gió ép dữ! Huynh ghét đệ lắm sao?
Dũng vò đầu bứt tai hối hận vô cùng, đỡ vội chàng trai dìu ngồi xuống một phiến đá, cho một viên thuốc hồi chân khí. Giây phút chàng trai đã hoàn sức, da dẻ hồng hào như cũ.
- Mỗ thật bậy. Định thử xem huynh hữu nghề võ đến đâu... Vì vì... May mới sơ sơ chút.
- Không hề gì! Đệ có người hộ tống, không chờ được. Thôi cũng là cái lễ tương kiến! Huynh cho đệ đi cùng chứ?
Chàng trai vẫn tươi cười, không tỏ vẻ chi giận, cả hai cùng lên ngựa ruổi rong.
Từ lúc bị một đòn suýt vỡ ngực, Dũng hết nghi vấn, cùng chàng trai trò chuyện rất cởi mở. Hỏi thêm, mới hay chàng ta là họ Long tên Phụng, cháu họ Đại tướng Tỉnh trưởng Vân Nam, mẹ Tàu, cha Việt, cùng gia nhân sang Nam xem mặt vợ theo lệnh cha, chú. Quen đi rừng, không lạ giới thổ phỉ, học rộng, vui tính, nói chuyện rất hay. Chàng ta vui miệng còn cho biết sẽ tới thẳng trấn Cao Bằng, có người đón, cùng đi lễ vấn danh. Dũng không tiện hỏi cặn kẽ, cũng cho người bạn đường biết mình họ Lê.
Chỉ nửa ngày đồng hành, hai chàng đã thân nhau, đi một mạch đến trưa mới tạm nghỉ. Sực nhớ đến câu "Khương Thượng ngộ Văn Vương", Dũng bèn làm vẻ thản nhiên hỏi bạn:
- Huynh hữu biết Khương Thượng, Văn Vương chứ?
Long Phụng mỉm cười đáp:
- Ê! Đệ xem truyện Phong Thần từ hồi còn để chỏm! Huynh muốn làm Khương Thượng sao? Còn sớm chán! Tử Nha thất thập ngộ Văn Vương, thường người ta nói thế nhưng chính ra là "thất thập tam" mới đúng! Tử Nha hạ sơn đã hơn bốn mươi, lúc sang Tây Kỳ, ngồi câu bên sông Vị, đã bảy mươi ba tuổi rồi, mà vẫn câu lưỡi câu thẳng mới gàn chứ!
Thái Dũng có biết qua Phong Thần, nhất thời không lưu ý chi tiết, đến chỗ "bảy mươi ba tuổi ngộ Văn...", "câu lưỡi câu thẳng", vốn nhanh trí, tự nhiên lời nói nhấn mạnh của Long Phụng gợi ngay ý liên tưởng đến câu ám ngữ trong gia phả, chàng trai vụt nghĩ:
- Bảy mươi ba tuổi... bảy mươi ba bước, bộ, thước... ngộ Văn... gặp Văn sách, ngồi câu lưỡi câu thẳng... không phải câu cá... À! Biết đâu ám ngữ "Động Thanh Âm Khương Thượng ngộ Văn Vương" không là bước bảy mươi ba bước từ cửa động vào, tay cầm cần câu thẳng, không có mồi sẽ gặp vật yểm tàng quanh đó!
- Vật chi rồi sẽ rõ!
Khoan khoái như làm được con tính thứ hai, Thái Dũng tươi hẳn mặt, bàn sang chuyện khác, quất ngựa chạy như gió cuốn, làm Long Phụng cũng phải phóng đại theo.
Dặm thẳm xuyên sơn, thu ngắn hành trình, thiên lý mã nuốt đường như long cuốn thủy, ngay chiều hôm đó, hai chàng đã đến vùng Nguyên Bình.
Dũng bảo Long Phụng:
- Giờ ta tạm chia tay hai ngả! Mỗ có việc lên biên!
Long Phụng theo Dũng lên một trái đồi, Dũng trỏ xuống thung lũng có con đường mòn chạy qua:
- Cứ theo ngả đó, bạn sẽ đến Cao Bằng. Tiếc đệ không thể tiễn huynh thêm nữa! Đáng lẽ đệ đã xuyên sơn từ nãy!
Long Phụng có vẻ lưu luyến bảo:
- Tuần sau đệ lại có mặt tại Cao Bằng. Nếu huynh không bận....
Thái Dũng rút viễn kính rê khắp vùng thung đèo, chợt dừng mạn hẻm Nam:
- Kìa, có bọn ra tỉnh! Quái, sao lại đội toàn quả sơn đỏ như đi dẫn cưới vậy?
Long Phụng đỡ ống nhòm, xem khẽ kêu:
- À, bọn người nhà đệ ra tỉnh đón đó!
Dứt lời, lập tức bắc tay quanh miệng gọi lớn.
Bọn dưới thung vừa qua hẻm, lô nhô chừng hơn hai mươi tên cỡi ngựa mặc toàn áo the, quần trắng thắt lưng đỏ, đầu đội quả sơn chông chênh, dòm lên lập tức phóng tới lũ lượt.
Dũng thấy bọn này mặc như trong "kịch thơ lịch sử" lòng cũng vui vui nhớ lại những đám cưới dưới xuôi, đầy vẻ dân tộc. Lại chợt để ý bọn đó đội quả có kẻ chồng mấy tầng, chạy ngựa không đổ, bất giác bật khen:
- À! Đám gia nhân nhà huynh toàn tay có "nghệ" cho làm xiếc được đó!
Bập! Cả bọn lên đồi cung kính vái chào chủ nhân và Dũng. Gã đi đầu mặc cái áo xường xám dài, mặt mày đanh thép, cất giọng chuông rè nói một tràng tiếng Quảng:
- Bẩm... công tử! Tưởng công tử đã đến Cao Bằng? May quá! Cái ngộ vừa đến nơi thì gặp Tướng công đi trận, cả Tiểu thư nữa! Con dâng thiếp danh rồi!
Tướng công mừng lắm, muốn thân đi đón công tử... Nhưng "người" hơi ngại về Cao Bằng lại gặp... Giám Binh!
- Liệu người đã đến chưa? Hay ta cứ đến thẳng trại dinh?
- Dạ, cái ngộ có phái thằng Sềnh ở lại, có gì nó phải báo liền à!
Thái Dũng đoán chắc thông gia họ Long là một viên quan triều hay tù trưởng chi đó, nên vội ngỏ lời chúc duyên cầm sắt theo phép xã giao, đoạn chào giật ngoắt cương, phóng luôn về hướng Bắc.
Nhưng mới đi được vài chục bộ, chưa kịp xuống đồi, bỗng nghe có tù và vang động rừng xanh. Thái Dũng vội vén cành lá dòm xuống thấy bọn Long Phụng đang xuống đồi tít hẻm Nam. Vừa có một đoàn nhân mã đen chạy kiệu băm ra, đông hàng trăm, cờ quạt cũng đen, dưới bóng cờ, một hình thù oai dữ trong lốt giáp tượng đen, tay cầm roi trỏ lên đồi.
- Đông Quân Phi Mã Ác Sơn!
- Nguy cho bọn Long Phụng rồi!
Thái Dũng giật mình lo cho họ Long, chưa biết cứu cách nào, đã nghe súng nổ đì đẹt, đám giặc Cờ Đen nổi ốc khua cồng, vọt lên dàn ngang thung, trong lúc Long cứ lóc cóc tế thẳng đến trước mũi súng hung thần.
Tuy mới gặp nhau non ngày, nhưng Thái Dũng rất mến chàng họ Long, mắt thấy quân Cờ Đen dàn gọng kìm bắn súng vây kẹp bọn Long, chàng trai họ Lê lập tức lộn phắt ngựa lại, nương bóng cây um tùm tiến lại gần. Nào ngờ mới được vài chục thước, trông xuống đã thấy đám giặc Cờ Đen gò cương, bồng súng chào "phạch phạch", tiếp theo một tiếng hô nghiêm chỉnh, cả cánh quân im phăng phắc, lão soái con rể Lưu Vĩnh Phúc giục ngựa lên trước hàng quân chừng mươi bộ, thì bọn Long Phụng cũng vừa tế ngựa đến nơi rập dừng dàn ngang hàng một. Long tiến thêm mấy thước, đối diện tướng Cờ Đen.
Và trước cặp mắt ngạc nhiên của Thái Dũng, Long Phụng nghiêng mình lễ phép chào lão chúa Phi Mã Ác Sơn, trong khi đám gia nhân tùy tùng cúi rạp đầu chắp tay vái hết sức kính cẩn.
Lão soái Cờ Đen hơi nghiêng mình đáp lễ, viên tướng hộ pháp râu xồm đứng xế sau hô lên một tiếng, cả hàng quân lập tức nối đuôi nhau vọt ngựa lên chạy như đèn cù quanh Long, vừa bắn chỉ thiên vừa tung súng lên cao, hò hét như điên trong khi đó sừng trâu cồng đồng nổi khua vang động cả thung lũng.
Thái Dũng trợn tròn mắt, vừa mừng rỡ vừa sửng sốt trước cảnh chào đón nồng nhiệt của đám giặc Cờ Đen khét tiếng uống máu người không tanh.
- Lạ dữ à! Chắc họ Long có quen lão Đông Quân chi đây! Mà sao lại chào đón theo nghi lễ cường sơn long trọng đến thế? Cờ Đen vốn ngạo mạn, chưa từng đón ai thế kia. Long là hạng nào lại được lão biệt nhỡn khác thường? Mà kỳ nữa, là đi xem mặt vợ làm lễ vấn danh, sao lũ gia nhân lại dàn đồ sinh lễ trước ngựa?
Chàng trai họ Lê lẩm bẩm sinh tò mò, cứ kín đáo men ngựa lại gần. Dưới thung lũng "đèn kéo quân" đã về chỗ, giữa cánh rừng chiều im lặng, bỗng nghe lão soái Cờ Đen phát cười khanh khách nói một tràng tiếng Quan Hỏa:
- Công tử đi đường mạnh giỏi chứ? Lão phu sợ bọn cáo chồn không biết lỡ phạm đến thượng khách Cờ Đen, nên phải thân đem quân đi đón! Đại nhân nhà sao không thấy qua chơi?
Long Phụng lễ phép đáp:
- Mong ân đại soái gia lượng thứ, gia phụ, gia thúc tiểu sinh rất lấy làm áy náy vì quá bận việc binh nên chưa sang chuyến này được. Nếu soái gia không có lòng ghét bỏ lễ sau thế nào cũng phải thân sang tạ lỗi! Đông Quân cười ha hả có vẻ thích chí về câu nói văn hoa nho nhã của chàng trai.
- Lão Võ này từng được nghe chúng đồn nhiều về mỹ mạo công tử Vân Nam, không ngờ lời đồn còn chưa đúng hẳn. Nay chính mắt được thấy, dầu thằng con trai tuần phủ Cao Bằng cũng không ăn đứt! Giờ đã chiều! Bay đâu, thỉnh công tử về đại trại!
Lúc đó Thái Dũng đi cách ngót trăm bộ, nhưng tiếng Đông Quân nghe rõ mồn một. Chàng trai bỗng dột lòng nghĩ thầm:
- À, ra Long Phụng, Đông Quân hai nhà quen nhau. Cờ Đen đi đón họ Long!
Nhưng còn... đồ sính lễ kia...
Còn đang thắc mắc, sực lại nghe Đông Quân cao giọng:
- Nào! Công tử! Ta đi thôi! Bay đâu! Phát pháo mã hồi!
Liền mấy tràng súng nổ, giặc Cờ Đen rầm rập dàn tiền hậu. Gã Tàu mặc xường xám tiến lên, cúi đầu nói chi với Đông Quân, chỉ nghe lão soái Cờ Đen:
- Cứ cho bọn gia nhân đội quả đi phía trước, về núi sẽ làm lễ tiếp nhận cho tiện!
Trên đồi cao, chàng tuổi trẻ họ Lê giật bắn người như chạm phải điện, đất trời đảo lộn, tai ù ù như vừa bị sét đánh màng tang.
Cánh quân Cờ Đen nổi hiệu, rầm rộ phò bọn Long Phụng về hướng chếch Tây, vòng qua chỗ Thái Dũng đứng ngựa.
Long Phụng, Đông Quân sóng đôi thả kiệu băm, trò chuyện có vẻ tương đắc lắm.
Bỗng từ phía quèn Nam có một viên đầu mục Cờ Đen chừng xích hầu thám mã chi đó, phi như giông thẳng đến giữa hàng quân rạp đầu báo:
- Bẩm soái gia, có một cánh quân kỵ đi tới ngựa phóng nhanh lắm không thấy cờ hiệu!
Lão soái Cờ Đen hất hàm một cái. Gã tùy tướng hộ pháp Thiên Lôi Đả giật luôn chiếc tù và to như cái cột nhà đưa lên miệng rúc liền mấy tràng.
Vừa dứt đã nghe văng vẳng tiếng sừng trâu vọng lại từ bên kia rặng núi đá cao âm hưởng "ti u tu ti u tu" nổi chìm trong hơi gió rừng chiều nghe huyền bí xa xăm như từ quá khứ "ám" về...
- À, soái cô! Sao lại bỏ sơn trại, tới vùng này? A Thiên! Mau đi trước đón soái cô!
Viên cận tướng hộ pháp rạp mình tế nước đại qua quèn, đám binh đen tiếp tục thả kiệu băm lóc cóc theo sau.
Thái Dũng từ khắc nghe rõ Đông Quân bảo "về núi sẽ làm lễ", đầu óc choáng váng, ngồi im không khác Từ Hải chết đứng vậy.
Như vừa bị một mũi dùi xuyên thấu tim, chàng tuổi trẻ điếng hẳn người đến mấy mươi giây mãi tới lúc A Thiên tế ngựa đi, mới bàng hoàng lẩm bẩm một mình:
- Có thể thế được sao? Thì ra đồ sính lễ kia đem đến Phi Mã Ác Sơn nạp cho nhà họ Võ! Vấn danh, ăn hỏi Thiên Kiều? Trời! Còn ai nữa? Đông Quân chỉ có mình nàng! Nàng... nàng sắp lấy chồng? Lấy cháu Long Vân? Nàng... mới hai, ba hôm trước... còn đón ta dưới chân núi Quạ?
Chàng trai nhìn theo bóng Long Phụng, người bạn đường văn nhược điển trai, ruột gan quặn đau, ngực như tắc nghẹn.
- Vô lý! Kiều lấy chồng... lấy một thư sinh? Mà có lý chứ. Long mỹ mạo, hào hao, cha chú làm chúa tể Vân Nam, giang sơn một cõi, tay nắm binh quyền hàng mấy trăm ngàn quân mã, lại bất hòa với Trung Ương. Đông Quân Phi Mã Ác Sơn rể Lưu Vĩnh Phúc, quân gia tuy ít nhưng tinh nhuệ khác thường, lão lại trấn phương vị võ lâm, oai thế lừng lẫy, hai đàng thông gia, dựa nhau mưu đại sự, gì bằng! Nhất Long Nữ lại nổi tiếng giỏi cầm binh tác chiến, ai không trọng? Còn ta, gia đình tan tác, tứ cố vô thân, là "nghịch thù" của họ Võ, Đông Quân thấy mặt chỉ muốn giết!
Kiều với ta, oan gia tình nghiệt, còn gì? Tốt hơn hết, nên...
Máu bừng sôi, Thái Dũng giật phắt tay cương, bỏ đi lên hướng Bắc, nhưng chẳng hiểu sao, chàng lại lộn luôn ngựa về Nam, xuyên cánh rừng bên, rạp mình phi như giông gió, đâm thẳng vào một cánh nữ binh mặc quần áo đen tuyền đang bôn hành rầm rập.
Nhưng cơn "mê" chợt tỉnh nhờ dăm gió đìu hiu. Chàng tuổi trẻ vừa nhác thấy bóng nữ binh Cờ Đen trên lối mòn đã kịp thời kìm phải dây cương dừng sững sau một ghềnh đá gần quèn, cách đường hành quân chỉ độ sáu mươi bộ.
Vừa lúc đoàn nữ đi tới, và A Thiên hộ pháp trong hẻm tế ngựa ra.
Quả đó là cánh quân thủ túc của Võ Thiên Kiều Long Nữ, chừng bốn, năm chục nhân mã, không trương cờ hiệu riêng và Cẩm Lình, A Lục đi theo.
Cháu gái tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc cỡi ngựa vằn, choàng áo tía (trong đen) tay còn cầm ống nhòm, từ nẻo hậu quân phi lên, vừa gặp A Thiên đã hỏi luôn:
- Cánh quân nào đó, sao lại thổi hiệu sáo?
A Thiên cúi chào kính cẩn:
- Bẩm... chính soái gia!
- Kìa, ta tưởng soái gia đi Cao Bằng.
- Dạ. Người đi đón khách, nhưng vừa gặp, nên lộn lại! Bẩm, soái cô đi đâu sao chỉ đem theo có mấy chục tay súng à?
- À, có chút việc. Mà khách nào thế?
Hơi lưỡng lự, nhìn cô soái trẻ, viên tướng hộ pháp hạ thấp giọng:
- Bẩm... tới... tới... Hầy à! Tới để vấn... vấn... a...! Nói cái....
Thiên Kiều tiến ngựa lên được mười bộ, cách cửa hẻm quãng ngắn, chợt giơ tay ra hiệu cho toán nữ binh ngừng cả lại.
Trong hẻm, toán tiền đội Cờ Đen hiện ra, theo sau là lũ gia nhân đội quả sơn đỏ chót nối đuôi nhau chạy lóc cóc. Chợt thấy một lũ hai mươi gã vạm vỡ mặt mũi đặc Tàu Vân Nam, lại mặc áo the đen, quần ống sớ, thắt lưng đỏ, đội quả đỏ chênh vênh, coi khá lạ mắt giữa cảnh rừng rú, nàng nữ tặc ngạc nhiên trợn mắt kêu:
- Chà! Lạ dữ! Bọn này làm gì mà áo the khăn xếp đội quả như đi dẫn cưới thế này?
Cả lũ đứng lại. A Thiên đưa tay giật giật bộ râu xồm, nhe răng cười, gật đầu lia lịa.
- Hầy à! Dạ phải rồi! Hỏi vợ dẫn cưới vẫn... vẫn... Hỏi vợ... Ý a!
Nàng nữ tặc ngơ ngác nhìn cả bọn, nhưng cau mày.
- Hỏi vợ? Sao lại đi vào đây? Mà hỏi ai? Ai hỏi ai?
- Hỏi soái cô mà!
Mắt phượng tròn xoe, nàng nữ tặc thò tay túm luôn lấy ngực gã Thiên Lôi Đả, hét:
- Hỏi ta? Tàu sâu quảng! Giỡn mất đầu hà!
Thiên Lôi Đả kêu "hầy" rối rít, mắt trợn ngược, hoảng vía, làm lũ đội quỳ dạt cả sang bên, ngay khi đó Cẩm Lình khẽ kêu "soái gia".
Thiên Kiều buông A Thiên liền, trông ra đã thấy lão soái Cờ Đen cùng chàng họ Long đi tới. Vừa thấy mặt con, lão nói luôn:
- Hay lắm! Gặp con đây thật tiện, cha tưởng con vẫn ở trại? Đây là Long công tử mới bên Vân Nam sang. Cha ra Cao Bằng đón may lại gặp giữa đường!
Võ Thiên Kiều nhìn sang phía Long Phụng rồi nghiêng mình chào, và tự nhiên đưa mặt ngó lũ đội quả sơn, mặt thoáng biến sắc, nghe lão soái Phi Mã tiếp liền:
- Công tử đây là mỹ mục thư sinh cha đã nói với con ngày nọ đấy! Công tử vốn giòng thế gia thông minh xuất chúng. Long Đại nhân có lòng ái mộ con, ta muốn kết thông gia. Cha rất vui thấy con có nơi xứng đáng nâng khăn sửa túi nên đã nhận lời, thâu đồ sính lễ!
Nàng nữ tặc thất kinh chết lặng trên lưng ngựa, mãi mới run giọng nghẹn họng:
- Hôn nhân là việc hệ trọng. Giữa chốn ba quân không tiện nói chuyện đàn bà quần vận yếm mang, cha cho con nghĩ kỹ.
Nàng chợt ngừng, ngó quanh quân sĩ đã lánh cả ra xa, chỉ còn ba người.
Chừng không muốn dài dòng, Đông Quân buông gọn:
- Chiều muộn rồi! Về cho kịp giờ tối!
Chàng trai họ Long mỉm cười nghiêng người, từ tốn:
- Chính tiểu thư! Đường đột dám mong miễn thứ. Long này bấy lâu nay vẫn ngưỡng mộ đại danh Long Nữ Ngân Sơn, thật không ngờ gái bách chiến lại là một trang quốc sắc hoa nhường nguyệt thẹn. Ước mong kẻ học trò này không đến nỗi làm tiểu thơ giận ghét.
Thiên Kiều vốn tay cãi bướng, đã nặng lòng vì Lê, nghe lời kẻ khác dẫu êm ái như rót vào tai càng như gai đâm ruột, bực mình giật ngoắt cương chạy theo cha run giọng:
- Phụ thân! Xin phụ thân nghĩ lại. Con từ ngày... Đông Quân vẫn nhìn thẳng, giọng bỗng rắn như đanh đóng cột trầm hẳn:
- Ta biết! Từ ngày nuốt miếng thịt vai nó, thịt nó đã hòa vào huyết quản con!
Nhưng nó là xác thịt oan gia, tình là oan nghiệt. Không thể kết thông gia! Một là con quên nó đi, làm dâu họ Long, nên việc lớn, rạng thêm uy danh ông ngoại, tròn chữ hiếu. Hai là ta Đông Quân, ta sẽ làm lễ "hakahiri" cho mi tròn chữ tình! Chỉ có hai đường!
Giọng trầm đanh đến rợn người chứng tỏ lão đã quyết định gớm ghê không gì lay chuyển nổi, khiến nàng nữ tặc nghe như cắt, nghĩ đến người yêu, lắp bắp:
- Cha... cha... không thương con... thương chúng con...
- Nó thì không, mi ta thương nên mới cho chọn hai đường! Hai mươi năm nay, ta không thương ai, không cả ta! Chỉ còn thương mi thôi!
Cô gái không dám nói nữa, lủi ngựa lại, lòng tan tác.
Cha nàng, ông già quái đản, chính nàng cũng không biết mặt đã mang nàng trên hông ngựa từ thuở lọt lòng, đem đi khắp thiên sơn, dạy nàng trên yên, người cả thiên hạ nghe đến tên phải lạnh gáy, chặt đầu thiên hạ như chặt bụi khô lau, nhưng chưa khi nào từ chối nàng một điều chi.
Một lần, hồi nàng mới lên bảy, lên tám, lúc đó đang ở miền Mãn Châu, cô bé cô độc vì thiếu mẹ, đồ chơi gì cũng chán. Bữa kia hai cha con xuống núi ngoạn cảnh đến gần quan lộ chợt thấy một người đàn bà có mớ tóc dọc đuôi sau chấm gót đi cùng đám gia nhân, người này ngồi trong kiệu có hai người khiêng (lối kiệu gần giống cái ghế bành hiện nay, dân Tạng vẫn phải dùng leo núi cho tiện). Gia nhân cưỡi ngựa hầu, người đàn bà chợt vén rèm nhìn ra, cô bé trông thấy, khen tấm tắc.
- Cô tiên có tóc đẹp quá! Cái đầu xinh hơn con búp bê cha đã cho con!
Người cha nhìn theo kiệu, mắt sáng hẳn lên.
Sớm mai khi cô bé vừa tỉnh đã thấy trên bàn đồ chơi, có một cái quả sơn chót vót. Mở ra trong có cái đầu người, mặt tươi như còn sống, tóc đuôi quấn mấy vòng gần cổ, môi son mỉm cười.
Tưởng đầu "búp bê" cô bé vừa chạy tới ôm lấy nghịch, vừa reo lên:
- À! Cái đầu đẹp quá! Giống cái đầu người ngồi kiệu! Cái đầu biết ngồi!
Nhưng tay vừa mò vào thấy nhũn, cô bé sợ khóc thét lên. Ông già chạy vào ôm vội lên lòng, đưa tay phất phất lia lịa, cái đầu gật gù, mắt chớp ngược, môi mấp máy làm trò coi càng gớm ghiếc. Cô bé giãy nãy, không bằng lòng.
- Đầu bằng thịt nhun nhủn, sờ lạnh tay con khiếp lắm! Cha đeo cho con cái bằng gỗ! Ông vừa dỗ:
- Cha đeo cả đêm, nhưng xấu lắm, cái này của "bà mụ" nặn đẹp chứ! Bên Tân thế giới xưa, trẻ con vẫn chơi "búp bê" tóc lột da đầu người da đỏ mà! Con xem có tươi không? Này! Nữ tóc mun dài mượt đẹp chưa? Đầu "cô tiên", cô tiên hôm qua đó. Cha phải đợi đúng lúc cô ta trang điểm xong đặng mỉm cười, mới "lấy" về đây!
Cô bé vẫn không dám mó vào, nằng nặc đòi chơi đầu gỗ, ông già phải ra sau nhà nhặt về cái đầu đẽo đợ còn nham nhở. Như linh tính, thiện cảm thúc đẩy cô bé ôm ngay lấy cái đầu gỗ khen rối rít. Cái đầu người đàn bà đi kiệu đó sau sơn lấy lần vào cái khô lâu và cũng là cái đầu độc nhất ông già đã chặt về cho con nhỏ chơi vì thấy con khen đẹp, khác hẳn các loại thủ cấp kia toàn là của địch thủ.
Nhưng ông già đã buồn bà mấy hôm liền vì "cái đầu búp bê" không được con thích dẫu ông đã tặng con lối Thái Tử Đan nước Yên xưa chặt tay mỹ nhân bỏ hộp biếu Kinh Kha vì lời khen tay đẹp. Và cũng từ đó cô bé không khen vật gì đẹp trước mặt cha nữa.
- Mưu đại sự vô tình với cả thiên hạ nhưng "người" lại hết lòng thương ta?
Bên hiếu bên tình có thể liều một thác, nhưng suốt một đời sinh dưỡng việc chung thân cầu có một lần, chết đi không đền đáp nghĩa Thái Sơn như nước chảy chân cầu, còn mặt nào thấy mặt tiền nhân? Mà tuân lệnh kết hôn còn Thái Dũng?
Chàng ơi!
Lòng riêng đau đớn, cô gái họ Võ cố nén, đưa mắt nhìn nắng chiều le lói trên ngọn núi tưởng đâu dáng hình người tuổi trẻ họ Lê trên lưng để ngàn dặm đăng trình, giờ này chẳng biết về đâu.
- Hừ!
Cô gái vung mạnh tay xua đuổi ám ảnh nặng nề khổ lụy, nào ngờ tay vô tình vẫy sang ngang theo hình cánh cung đúng lúc chàng trai Vân Nam từ đằng sau giục ngựa lên, định nói chi với nàng hôn thê giặc cái. Cả người ngựa quăng dạt đi hơn thước, suýt ngã, con ngựa hý chồm loạn bậy, mãi mới kìm lại được.
Nàng nữ tặc Cờ Đen bật cười khanh khách, vụt nghĩ thầm:
- À, bạch diện thư sinh trói gà không chặt! Dám dựa thế cha chú đi hỏi "vợ giặc". À! Ta đã có diệu kế rồi! Đấu võ tuyển phu thì chú mày chết! Cả nhà sang đây cũng đừng hòng bắt ta về làm dâu!
Mưu chợt định, cô gái như gỡ được thế cờ bí, mặt tươi như hoa nở, lập tức giục ngựa lên làm mặt tự nhiên, bắt chuyện cùng Long Phụng, định ý đưa Long và tròng rồi mới nói với cha, nhắc lại lời hứa trước đã có lần nàng vui mồm phát thệ "Chỉ lấy người chồng giỏi hơn mình". Chính cha nàng đã tán đồng, bảo "thư sinh chưa nghe súng nổ đã vãi đái chỉ đáng làm mã phu lau gươm chùi súng cho con gái Đông Quân."
Lân la trò chuyện, nàng nữ tặc Cờ Đen chợt chuyển sang chuyện võ thuật, trận mạc, đoạn bảo Long Phụng:
- Còn một điều quan hệ nữa chẳng hiểu soái phụ tôi đã cho công tử biết chưa? Từ lâu, tôi đã có lời nguyền chỉ kết duyên với kẻ nào hạ nổi tôi trên võ đài.
Vậy chẳng rõ công tử có chịu dự cuộc đấu võ tuyển phu tại Phi Mã Ác Sơn chăng?
Cười rất tươi, gã trai Vân Nam đáp:
- Nếu tiểu thư sai nhảy vào hỏa, Long mỗ cũng chẳng từ nan, huống chi lên võ đài. Mỗ tuy dốt võ, nhưng lại có miếng gia truyền đã để... rước tiểu thơ về Côn Minh!
Nàng nữ tặc cười khô, vọt lên gặp Đông Quân, xin lập đài võ tuyển phu. Lão toan gạt đi, nhưng nghe Long Phụng đã chịu, lão chấp thuận liền, đầu óc đã lóe mưu cơ.
Nhưng nàng nữ tặc không cần biết. Cô gái cũng đã nghĩ được mưu cho gã Long Phụng rớt đài. Đoàn quân nữ phóng về miên căn cứ địa, vó câu khua động sơn lâm.
Trong khi đó, một mình một ngựa ngổn ngang trăm mối, chàng trai họ Lê xuyên sơn vượt lãnh địa Hà Giang, sang đất Cao Bằng, đi tìm động Cao Kinh, Thanh Âm.
Lúc đi lúc nghỉ, chiều kia tới một vùng thuộc Cao Bằng, tiếp giáp Hà Giang.
Thấy mặt trời sắp gác núi, Thái Dũng bèn lững thững đi tìm bản trọ. Chàng đã qua nhiều miền sơn cước nên rất hiểu phong tục tập quán dân miền núi, đặc biệt sắc dân nào cũng hiếu khách vô cùng. Bất kể lạ quen, khách phương xa tới đều được đón tiếp nồng hậu.
Cơm rượu đãi đằng trọng hậu, khách muốn ở chơi bao ngày cũng được, không lấy tiền, nếu khách có chút thuốc lào, ký ninh, muối, gương lược v.v... tặng chủ, càng được quý mến. Khi từ giã, chủ lại biếu cả những món lâm sản rất quý như nhung, mật gấu, mật ong... nên có lắm dân con buôn người Kinh thường "đóng vai du khách thâm sơn" mò vào cùng cốc, đổi hàng hóa lãi một đi lời mười.
Thái Dũng biết tục rừng xanh, nên hết tiền vẫn vững tâm, rẽ vào một bản ngay, sau một rặng núi đá. Đây là một bản Thổ Cao Bằng, lắm con gái xinh bu quanh "ông tiên" đón tiếp líu lo đầy đủ của ngon vật lạ. Dũng ở nhà viên xã trưởng, người ngựa ăn uống xong thì trời đã tối hẳn. Định nghỉ đến canh hai lên đường, hỏi thăm lối đi đến động Cai Kinh, Thanh Âm.
Bỗng nghe cồng khua inh ỏi, báo có khách lạ. Viên xã trưởng vội xuống sàn, ra ngoài.
Chỉ chừng mười lăm phút sau, xã trưởng cùng người nhà cầm đuốc dẫn về một khách lạ mặc áo xường xám, khổ người cao gầy, trạc gần ba mươi, nét mặt lạnh lùng xương xương, mắt sắc như đao, cỡi một con ngựa ô cao lớn loại ngựa Ký Châu, Tứ Châu bên Tàu.
Khách theo chủ nhà lên sàn đảo mắt một vòng thấy Thái Dũng ngồi bên bếp lửa, bèn cúi chào rất lịch sự. Dũng nhác diện mạo thấy có vẻ gian ác không ưa nhưng theo phép xã giao phải đứng dậy đáp lễ.
Từ đó người khách Tàu chỉ trò chuyện với chủ nhà. Cơm rượu dọn lên gã ăn hết cả một chõ xôi lớn hai con gà luộc một bầu rượu nặng cứ lầm lì uống mãi.
Dũng nghĩ thầm:
- Người ta thường bảo "người gầy thầy cơm" đúng thật! Chú khách này coi bộ ăn không thua Lang Mường Ghềnh Làng Cẩm Thủy Hà? Trường Nguyệt! Thôi!
Mặc hắn! Giờ mình lên đường! Đoạn từ giã chủ nhà đeo "sắc" toan đi, nào ngờ người Tàu cũng đứng luôn dậy vươn vai bằng tiếng Quan Hỏa:
- Tiên sinh không nghỉ lại đây? Giờ này rừng sâu nguy hiểm lắm! Sao không ở đến sáng?
Dũng hơi chau mày cười:
- Cám ơn! Mỗ có việc gấp! Vả lại đi đêm nhiều quen rồi!
Dứt lời xăm xăm bước đi nhưng người Tàu lại cười mỉm chợt nói một tràng tiếng Kinh:
- Đi đêm lắm sẽ có ngày gặp ma! Tiên sinh nên ở lại tại vì tôi vừa coi tướng mạo tiên sinh, đúng canh ba sẽ gặp họa dữ.
Ngạc nhiên Dũng cau mày hỏi:
- Chú không phải người Tàu? Chú xem tướng mỗ?
- Vâng, mà không khi nào sai! Nghề Ma Y Thần Tướng mà! Nói để tiên sinh rõ, canh ba này, tiên sinh sẽ ma rừng đêm giữa tam tinh tuệ nhỡn, và nội bảy mươi hai giờ, sẽ vong mạng, sau khi đã chịu cực hình mù hai mắt!
Thái Dũng phì cười:
- Chú tưởng mỗ có thể tin được ư? Nhảm nhí! Tướng số! Hừ! Thiên cơ mà có hạng phàm nhân như chú cũng biết, còn gì là thiên cơ! Thôi! Cám ơn!
Buông lời mỉa, chàng vác "sắc" phăng phăng xuống sàn. Nhưng chàng vừa lên ngựa, người khách lạ kia cũng lên yên, chặn trước nghiêm mặt bảo:
- Tiên sinh không tin kẻ như "ngộ" biết rõ thiên cơ? Cũng như tiên sinh không thể ngờ đại họa hiện đang nằm trong mình "ngộ" coi vật di họa hình cuốn sách, giờ này đang chiếu mệnh, lát nữa thôi, họa phát tam tinh!
Nghe hắn bảo "vật di họa hình cuốn sách" Thái Dũng không khỏi giật mình kinh dị, quắc mắt nhìn, hỏi dằn:
- Chú thấy họa, liệu biết trừ họa chăng?
- Biết chứ! Vật hung chiếu mệnh, bỏ đi là hết!
Vừa nghe dứt, Dũng vụt dột lòng, quắc mắt nhìn hắn không chớp, tay đặt lên đầu gậy, cười ngờ vực:
- Bỏ đi là khỏi, nhưng chú biết vật chi không?
- Biết chứ! Kim thư, sách nói về... vàng!
- À! Đoán không sai! Chính bọn mi đã theo ta từ núi Quạ! Còn định dùng lời con nít gạt ư?
Soạt! Dũng tuốt phắt kiếm ra, nhưng người Tàu đã cười ngất, xua tay:
- Chớ nóng! Chớ nóng! Canh ba sẽ biết! Không tin thầy tướng sẽ hối không kịp. Tình cờ "ngộ" thấy thì nói chơi, không tin thì thôi!
Nói đoạn, hắn giục ngựa đi luôn. Dũng tra kiếm, trông theo. Được một quãng chợt hắn ngoái lại, khoa tay trốc đầu, nói lớn:
- Chào tiên sinh! Ngộ về Cao Bằng đây! Nội bảy mươi hai tiếng, muốn gặp, cứ tới Cao Bằng, đeo cái "băng" trắng cổ tay, ngoài bảy mươi hai tiếng cứ việc xuống âm phủ mà tìm!
Rập! Vó ngựa lẫn vào rừng tối. Thái Dũng ngờ vực chẳng cùng, muốn đuổi theo bắt hỏi, nhưng hắn đã mất dạng. Chàng trai đành theo lời chỉ dẫn, kiếm đường đến vùng động Cái Kinh.
Rừng đêm hoang vắng, vó ngựa truy phong vượt đèo, băng suối, tới miền động Cai Kinh, vừa canh ba.
Nhớ đến lời gã Tàu áo xường xám, Dũng vừa nhếch mép cười. Thình lình thấy ru
/36
|