Trúc Hải thôn là một tiểu sơn thôn cách biệt với thế giới, có lẽ gọi nó là một nơi ‘thế ngoại đào viên’ cũng không quá.
Cả thôn trang tọa lạc trong một thung lũng, bốn phía núi cao bao bọc, do tám ngọn núi lớn sừng sững quay chặt cái tiểu thôn chẳng hề bắt mắt này vào giữa. Bởi vì không khí lạnh đã bị chặn lại tại những ngọn núi lớn bên ngoài cho nên bên trong thủy chung bốn mùa xanh tốt, từ đầu năm tới cuối năm khí hậu đều rất dễ chịu. Hiện giờ đang trong mùa lạnh nhất trong năm, thế giới bên ngoài sớm đã phủ đầy băng tuyết, nhưng trong này thì nơi nào cũng có thể thấy những bóng cây xanh biếc, trừ cây thân gỗ ra thì thứ có thể nhìn thấy nhiều nhất chính là trúc, đây đại khái có lẽ là nguyên nhân cái thôn này được mang tên Trúc Hải thôn.
Điểm đặc sắc nhất của Trúc Hải thôn này không phải là cảnh sắc đẹp đẽ mà là kiến trúc của thôn này. Cả thông đều là dùng gạch xanh ngói đen xây lên, chính giữa còn xen vào mấy ngôi nhà gỗ, đặc biệt là tại những đồng ruộng gần đó còn có mấy gian nhà cỏ tranh chỉ có thể nhìn thấy trong điện ảnh cổ trang. Kết cấu của các gian phòng vẫn còn mang theo mùi vị của phong cách kiến trúc Long Quốc cổ đại, trên đỉnh ngói mấy tòa nhà còn khảm những bức điêu khắc hình đầu rồng. Đặc biệt là trung tâm của thôn là một hồ nước, tại chính giữa hồ nước có một đạo quán được xây bằng gạch xanh ngói đỏ, một cây cầu cong cong bằng gỗ màu đồng cổ đạo quán với bên bờ. Đi trên chiếc cầu gỗ, nhìn mặt hồ trong xanh và những khu dân cư cổ kính, luôn khiến người ta cảm thấy tâm thần thoải mái.
Một quần thể kiến trúc mang phong cách cổ như thế này, ở Long Quốc cũng chẳng còn được bao nhiêu, hơn nữa còn có thể để người ta an tĩnh mà thưởng thức phong cảnh và cảnh sắc núi non tự nhiên thì càng thêm ít ỏi. Giống như trong cảm nhận của người dân Long Quốc về thánh địa phật môn, những ngôi cổ miếu ngàn năm như Thiếu Lâm tự đó, hiện hay cũng sớm đã biến thành nơi tụ tập của các con buôn và những đoàn khách du lịch, đến cả trễn quảng trưởng của Thiếu Lâm tự cũng đã bày đầy những quầy hàng bày bán những thứ được gọi là vật kỉ niệm. Mà đám đệ tự Thiếu Lâm được xưng là lục căn thanh tịnh, trảm đoạn tam thiên phiền não bây giờ thì mỗi ngày chỉ biết đứng bên hòm công đức mà chờ đếm tiền. Dưới ma lực của đồng tiền, ngôi thánh địa cổ tự ngàn năm hiện giờ đã giống như một cái chợ bán rau vậy, huyên náo vô bỉ, sớm đã chẳng còn cái vẻ trang nghiêm và thần thánh năm đó rồi. Điều này thực không thể không khiến người ta đau lòng. Nhưng, nghe nói mạch Thiếu Lâm võ tông chân chính hiện nay sớm đã rời khỏi ngôi cổ tự ngàn năm này mà ẩn cư nơi núi cao rừng thẳm tiếp tục thanh tu. Chỉ là cái truyền thuyết này có phải là thực tế hay không, sợ rằng số biết được cũng không nhiều.
Mười Một đứng trên chiếc cầu gỗ nối liền đạo quán và bờ hồ, ngẩng đầu nhìn tới đạo quán trang nghiêm cổ kính trước mặt. Diện tích của đạo quán không lớn, chỉ chừng hơn trăm mét vuông, tọa lạc tại vị trí trung tâm hồ nước. Bậc thềm bốn phía được xây bằng đá xanh để người ta có thể thưởng thức phong cảnh trong hồ. Chỉ là cửa lớn của đạo quán quanh năm đóng chặt, không biết bên trong có thứ gì hay đang cung phụng vị thần tiên nào. Phía trên đạo quán có khảm một tấm hoành phi làm bằng đá xanh, trong tấm hoành phi có khắc hai chữ Long Quốc cổ, trông như rồng bay phượng múa, Mười Một lại không hiểu hai chữ này là chữ gì.
Mười Một sau khi từ trong nhà của Lục Huyền đi ra liền nhàn nhã dạo chơi bốn phía. Nói rằng nhàn nhã dạo chơi cũng chưa chính xác bằng nói là làm quen với hoàn cảnh trước, đây là thói quen mà trước nay hắn vẫn duy trì. Mười Một không hề để lời của Lục Huyền vào lòng, trong suy nghĩ của hắn, bản thân chỉ có thể rơi vào trong tay của ba thế lực. Một, đúng là Lục Dương nhờ Long gia đem mình đưa tới bản môn Kiếm tông. Hai, hắn rơi vào tay Lục Thanh, nhưng Lục Thanh tại sao lại phải lừa hắn, cái này thì chẳng thể biết được. Ba, hắn bị Long Hồn giam lỏng, đây có lẽ chính là nơi Long Hồn dùng để chuyên môn giảm long những phản đồ phản bội tổ chức. Nhưng khả năng này là nhỏ nhất, theo Mười Một được biết, người trong Long Hồn, đặc biệt là những cao thủ đời cũ thì đều cực kì cao ngạo, rất coi khinh chuyện lừa gạt người khác. Cho nên nếu rơi vào trong tay Long hồn, bọn họ chắc sẽ trực tiếp nói mình là người của Long Hồn chứ chẳng thèm nói là Kiếm Tông kiếm phái gì đó.
Nhưng mặc kệ là thế lực nào, hắn xác thực không thể tùy tiện rời đi. Nếu thực sự là Kiếm Tông thì còn tốt, có lẽ đợi sau khi mưa gió bên ngoài qua rồi, Lục Dương sẽ tới dẫn hắn trở về, Nhưng ít nhất bây giờ còn chưa được. Bởi vì chỉ cần hắn vừa xuất hiện, cái chờ đợi hắn sẽ chính là sự đuổi giết và tấn công của thế lực các phương. Nếu rơi vào tay hai thế lực còn lại, lúc đó thì khỏi cần nghĩ rồi. Có thể cho hắn tự do hoạt động trong một phạm vi nhất định đã là một ân huệ cực lớn rồi.
Trên đường đi Mười Một đã phát hiện, tất cả nam nữ già trẻ, thậm chí là những tiểu hài nhỏ xíu hắn gặp cũng đều biết công phu. Chủ yếu là bọn họ cước bộ trầm ổn, hô hấp nhỏ dài, đây là dấu vết của việc đã từng luyện qua công phu. Hơn nữa một đám tiểu hài tử năm sáu tuổi vừa chạy quan bên cạnh Mười Một cũng đều bước chân nhẹ nhàng, chẳng giống những tiểu hài tử phổ thông bên ngoài, khi chạy thì cứ lảo đảo loạng choạng.
Cái thôn này, quả thực là một nơi chuyên sản xuất võ lâm cao thủ. Trong lòng Mười Một không khỏi cảm khái vạn phần.
Khi còn ở tại huấn luyện doanh, hắn đã không chỉ một hai lần nghe thấy giáo quan nhắc đến đất nước thần bí nhất phương đông, Long Quốc. Thân là Long Quốc, một trong tứ đại văn minh cổ quốc, không thể nghi ngờ chuyện nó sẽ tràn ngập những sắc thái thần bí và truyền kì (cũng có người nói là ngũ đại văn minh cổ quốc, người viết lấy cái đầu tiên). Mười Một vẫn luôn cảm thấy rất thích thú nền văn hóa Long Quốc, cho nên khi hắn ở huấn luyện doanh cũng đã nỗ lực học tập ngôn ngữ Long Quốc. Đặc biệt là sau khi quen biết Lục Dương trong thời gian làm vệ sĩ cho Mardy, hắn càng cảm thấy chấn kinh vì võ học cổ của Long Quốc, cũng cực kì đề cao hứng thú của hắn đối với đất nước thần bí này. Lòng hiếu kì này cho đến sau khi hắn tới Long Quốc mới dần mất đi, trong mắt hắn cái văn minh cổ quốc này sau khi vén lên bức màn bí mật đã chẳng còn sung mãn sắc thái thần bí nữa. Nó chẳng giống như trong tưởng tượng của hắn, thần tiên bay đầy trời, cao thủ chạy đầy đất, sự kiến thiết và xây dựng thành thị cũng chẳng có gì khác với những quốc gia khác, có thể nói Long Quốc trừ việc có Long Hồng, một tổ chức võ lực cường đại ra thì chẳng có thứ gì có thể khiến hắn cảm thấy hứng thú nữa. Có lẽ giống như Lục Dương đã nói, văn hóa của Long Quốc sớm đã mai một rồi, nền võ học cổ, ảo học đạo thuật và công pháp tu chân đã từng làm thế giới chấn kinh giờ đều đã bị chôn vùi trong dòng lịch sử, chẳng thể nào hồi phục được thời thịnh thế của võ học năm đó nữa rồi.
Có lẽ cái thời đại thần tiên bay đầy trời, cao thủ chạy đầy đất giống như trong điện ảnh kia thực sự đã trở thành lịch sử rồi.
Nhưng sau khi đến nơi này, cái tâm đang dần dần nhạt đi của Mười Một đã lại một lần nữa bị chấn động một sâu sắc rồi. Trong mắt hắn, nơi đây có không ít người công phu thực sự không yếu, đặc biệt là Lục Huyền đó, thực lực gần như có thể ngang với những cao thủ trong Long Hồn.
Nơi này thực sự chỉ là một nơi không bắt mắt, chẳng có ai hỏi tới sơn thôn nghèo này sao? Sợ rằng chỉ cần tùy tiện chọn ra vài người ở nơi đây rồi huấn luyện một quãng thời gian là đều có thể trở thành những cao thủ cận chiến hợp cách nhất. Hơn nữa Mười Một tin rằng, chỉ riêng cái sơn thôn nghèo này là đã có thể đối phó với tam đại gia tộc còn lại của Long Quốc mà chẳng hề thua kém chút nào rồi.
“Đạo quán này thế nào?” Trong lúc Mười Một còn đang suy nghĩ về vấn đề của cái thôn trang này thì sau lưng đột nhiên có một thanh âm vang lên.
Mười Một quay người lại, phát hiện một lão giả tuổi tác xấp xỉ với Lục Huyền không biết đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Hắn trong lòng hơn giật mình một chút, với sự cảnh giác của hắn, không ngờ lại có người dễ dàng đứng sau lưng hắn mà hắn không hề phát hiện ra, như vậy tu vi của người này có thể dùng từ đáng sợ để hình dung.
Tuy Mười Một trong lòng kinh ngạc không ít, nhưng trên mặt vẫn chẳng có biểu hiện gì, chỉ lạnh lùng liếc nhìn lão giả này hai cái rồi quay đầu lại. Đồng thời hắn cũng chú ý tới, ánh mắt của những thôn dân qua đường gần đó nhìn về phía hắn đều mang theo thần săc kính sợ, nhưng khi nhìn lão giả này thì đều là một sự tôn kính xuất phát từ nội tâm. Xem ra uy vọng của lão giả này ở trong thông cũng không thấp.
Lão giả đi đến bên cạnh Mười Một, đứng sóng đôi với hắn, cùng ngẩng đầu nhìn về phía đạo quán ở giữa hồ như hắn, thản nhiên nói: “Tòa Kiếm Trủng* này là do tiên tổ khi mới tới đây định cư xây dựng nên, tiên tổ vốn có xuất thân là đệ tử đạo gia, từ nhỏ đã trưởng thành trong đạo quán. Sau khi tới nơi này định cư cũng y theo đạo quán người ở lúc nhỏ mà xây dựng nên cái tiểu đạo quán này, tiên tổ vốn là muốn hoài niệm nơi ở xưa, nhưng sau này thì nơi đây đã biến thành từ đường của tông môn.”
* Kiếm Trủng: Mộ kiếm
Dừng lại một chút, lão giả lại tiếp: “Nơi này trước đây gọi là Lục Gia Trang, sau khi lập quốc mới đổi tên thành Trúc Hải Thôn. Từ đời tông chủ thứ ba mươi nhăm, sau khi tổ tiên di cư tới đất này, đệ tử Lục gia đời đời đều ẩn cư sinh sống rại nơi đây, không còn hỏi tới chuyện trong giang hồ nữa.”
Mười Một đột nhiên hỏi: “Người nơi đây đều họ Lục?”
Chú: Liên quan tới ngũ đại văn minh cổ quốc, hình như thế giới đã công nhận có ngũ đại văn minh cổ quốc, đó là Trung Quốc cổ, Ấn Độ cổ, Hi Lạp cổ, Babilon cổ, Ai Cập cổ.
“Không!” Lão giả lắc lắc đầu nói: “Họ Lục chỉ là một bộ phận mà thôi. Thôn này tổng cộng có hơn ba trăm sáu mươi hộ gia đình. Trong đó đệ tử Lục gia còn không tới trăm hộ. Những hộ khác đều là do mộ danh bái sư mà tới đây định cư. Hoặc là những cô nhi và hậu nhân mà chúng ta đã thu lưu.”
Lão giả nhìn về phía Mười Một, nói: “Kiếm tông tử đệ tịnh không phải là chân chính ẩn cư lánh đời, mỗi năm chúng ta đều sẽ có một số môn hạ đệ tử nhập thế để trải nghiệm. Trong quá trình trải nghiệm nếu gặp phải những cô nhi cô khổ không người giúp đỡ thì sẽ đều cố gắng hết sức mang chúng về chăm sóc, mà những người này về sau cũng trở thành một phần tử của Lục gia trang.”
“Tại sao không phải là một phần tử của Kiếm tông?”
Lão giả thản nhiên cười nói: “Cái đó thì lại khác, tuy người trong thôn này đều tập võ từ nhỏ, nhưng võ học chân chính của Kiếm tông thì chỉ có môn nhân của Kiếm tông mới có thể học. Nó cũng giống như Thiếu Lâm tự cổ đại vậy, tuy bảy mươi hai tuyệt kĩ của Thiếu Lâm danh chấn giang hồ, nhưng trong Thiếu Lâm tự không phải tất cả mọi người đều có thể tu luyện. Chỉ có đệ tử Thiếu Lâm được Đạt Ma đường thu nhận mới có thể luyện tập bảy mươi ha tuyệt kĩ.”
Mười Một thản nhiên đưa mắt nhìn quanh bốn phía, nói: “Nói cách khác, những người này không phải người của Kiếm tông?”
“Đúng. Bọn họ là tử đệ của Lục gia trang, cũng là thôn dân của Trúc Hải Thôn, nhưng vẫn không phải là truyền nhân của Kiếm tông.” Ngừng một lát, lão giả lại hỏi: “Có muốn nghe chuyện liên quan tới lịch sử của Kiếm tông không?”
Mười Một không nói gì. Lão giả liền nói tiếp: “Kiếm tông chúng ta khai sáng vào thời Minh sơ Minh thái tổ, tiên tổ đời thứ nhất Lục Viễn Phong vốn là một viên mãnh tướng thủ hạ của Tiểu Minh Vương. Sau này sau khi Chu Nguyên Chương bày kế dìm chết Tiểu Minh Vương, tiên tổ trong cơn tức giận liền muốn dẫn mọi người rời đi, nhưng Chu Nguyên Chương ba lần tới du thuyết, cuối cùng đã nói tới chuyện đại sự quốc gia là trọng, nói động được tiên tổ làm thủ hạ cho y, vì y mà bán mạng. Sauk hi Chu Nguyên Chương thành công đánh được thiên hạ lên ngôi hoàng đế, tiên tổ biết rõ cái đạo lí công cao át chủ, sớm thoái bệnh từ quan, chỉ mang theo một nhóm thân vệ tướng sĩ đã thề chết đi theo người tới bên bờ Thái Hồ mà kiến lập nên Lục gia trang. Không lâu sau đó, Chu Nguyên Chương vì củng cố ngôi vị hoàng đế của mình quả nhiên đã bắt đầu hướng mũi dùi về phía những khai quốc công thần đã từng xả mệnh cho y. Bắt bớ đại thần, phế tướng, lập ra Cẩm Y Vệ, còn dùng các loại lí do để mượn cớ lạm sát công thần. Tuy tiên tổ sớm đã rời khỏi quan trường nhưng Chu Nguyên Chương cố kị uy vọng của người trong quân đội, không chịu bỏ qua cho tiên tổ. Lúc này, Ngự Sử Trung Thừa, kiêm Thái Sử Lệnh, Thành Ý Bá, Lưu Bá Ôn đã bí mật gặp tiên tổ, không bao lâu sau khi hai người mật đàm, tiên tổ đã liền khai tông lập phái, thành lập nên Kiếm Tông tại Lục gia trang. Sau khi Lục gia trang trở thành một môn phái võ lâm, Chu Nguyên Chương quả nhiên đã bỏ qua chuyện đối phó với tiên tổ, Lục gia chúng ta mới có thể bảo tồn tới ngày nay.”
Lão giả ngẩng đầy nhìn lên hai đại tự cổ thể “kiếm trủng” cứng cáp rắn rỏi được viết trên tấm hoành phi, sau hồi lâu mới tiếp tục nói: “Từ đó về sau Kiếm Tông liền trở thành một chi môn phái trong võ lâm. Nhưng trải qua thời gian năm trăm năm qua hai triều Minh Thanh, Kiếm Tông thủy chung vẫn đều là một môn phái không nhập lưu trong võ lâm. Điều này cũng dễ hiểu, tiên tổ Nguyên Phong công vốn là một viên mãnh tướng trên chiến trường, hành quân đánh trận đều không cần phải nói, nhưng thân nhập vào trong võ lâm, chút võ kĩ trong quân đội đó của người lại chẳng ăn thua gì nữa. Các đời tông chủ của Kiếm Tông sớm đã ý thức được vấn đề này, cho nên mỗi đời tông chủ đều lấy chuyện thu thập võ học các phái, sáng lập nên công pháp cho Kiếm Tông làm nhiệm vụ, thậm chí còn không tiếng đem Lục gia tử đệ đưa vào các môn phái khác để bái sư học nghệ. Đáng tiếc, Kiếm tông bỏ ra mấy trăm năm thời gian, cái đạt được cũng chỉ là chút lông da thô thiển nhất của các phái võ học, những thứ tinh túy chân chính thì thủy chung vẫn chẳng thể lấy được, bởi vậy Kiếm Tông vẫn luôn nằm ngoài cửu lưu môn phái. Cho đế tông chủ đời thứ ba mươi nhăm, Lục Môn Trường Minh Công hoành không xuất thế, loại tình hình này mới được cải thiện. Trường Minh Công từ nhỏ đã được đưa tới Võ Đang học nghệ, sau khi kiếm nghệ có thành tựu thì liền trở về môn phái. Bế môn hơn mười năm, chỉnh lí tất cả những thứ võ học tạp nham mà Kiếm Tông thu thập được từ các phái trong mấy trăm năm qua, cuối cùng bằng vào thiên phú hơn người của bản thân mà tự sáng tạo ra Thiên Lang Thập Tam Kiếm Chiêu cùng thiên nội công độc môn. Sau này, Trường Minh công dựa vào Thiên Lang Thập Tam thức hành tẩu trên giang hồ hiếm có địch thủ, Kiếm Tông nhất môn cuối cùng khổ tận cam lai, ngóc đầu lên được. Đáng tiếc, trời không thuận ta a.”
Lão giả cảm thán nói: “Lúc đó đã là thời Thanh mạt, liên quân các nước binh bức Hoa Hạ, ý đồ xâu xé đại địa Long Quốc ta. Các môn phái võ lâm đương thời liền tổ thành những tổ chức phản kháng một cách tự phát, Trường Min Công dân môn nhân Kiếm Tông chúng ta gia nhập vào trong đó. Bọn họ và người tây giao chiến hơn mười trận. Trảm sát không ít quân địch, nhưng mỗi lần đều vì đối phương chiếm lợi thế về hỏa khí mà tổn thất thảm trọng, bị bức phải lui. Hơn nữa, chính phủ Thanh triều lúc đó thực sự là đã quá thối nát vô năng, chỉ biết cắt đất cầu hòa. Trường Minh Công ôm bụng muốn cứu nước nhưng lại chẳng có ai để theo, cuối cùng dưới sự bi thương đành dẫn tộc nhân của Lục gia tới nơi đây lánh đời. Sau khi ở đây, Trường Minh Công cuối cùng cùng buồn rầu thành bệnh mà qua đời. Tông chủ Kiếm Tông đời thứ ba mươi sáu lập ra môn quy, phàm là đệ tử Kiếm Tông ta thì không được hỏi tới chuyện thế tục nữa. Từ đó về sau, Kiếm Tông mới chân chính ẩn cư lánh đời. Nhưng trong những đệ tử đời thứ ba mươi bảy, xuất hiện một vị võ học kì tài có thể so sánh với Trường Minh Công, cũng chính là đại sư bá Lục Môn Dương Công, môn quy này mới bị phá vỡ. Năm đó Kiếm Tông đã phát sinh một đoạn bí sử gian nan, đại sư bá Dương Công được tán tụng là võ học kì tài kế tục cho Kiếm Tông môn sau Trường Minh Công và tứ sư bá, cũng là phản đồ của Kiếm Tông Lục Thanh hai người đã lần lượt rời khỏi Lục gia trang. Tứ sư bá Lục Thanh từ đó về sau bặt vô âm tín, còn đại sư bá thì mấy chục năm trước đã trở lại một lần, chỉ nói mình đã gia nhập vào một tổ chức của quốc gia. Sau đó mang theo nhi tử của người rời đi, sau nay cha con bọn họ chẳng còn trở lại nữa.”
Mười Một tuy mặt vẫn chẳng có biểu tình gì, nhưng trong lòng lại vô vàn cảm khái. Hắn đoán được đoạn bí sử kia về Lục Dương, có thể là có liên quan tới nữ nhân đã từng là vị hôn thê, sau này lại trở thành em dâu của lão. Chỉ là tại sao lão nhân này lại gọi Lục Thanh là phản đồ? Lẽ nào bọn họ biết chuyện Lục Thanh đã bán đứng Lục Dương? Hay là Lục Thanh trước đây đã phản bội Kiếm Tông rồi? Ngoài ra hai huynh đệ Lục Dương và Lục Thanh năm đó lại sao lại rời khỏi Kiếm Tông? Lục Dương tại sao lại gia nhập Long Hồn? Ngoài ra, lão giả này gọi Lục Dương này gọi Lục Dương là võ học kì tài của Kiếm Tông, lẽ nào công phu của Lục Dương trước đây thực sự rất lợi hại? Cho đến khi lão bị Lục Hanh và Mardy hãm hại, phế đi một thân võ công mới trở nên như vậy? Hay là lão cố ý thu tang? Còn nữa, Mười Một chỉ biết Lục Dương có người cháu gái đã gả cho Long Hải Du. Nhưng trước nay lại chưa từng nghe lão nhắc đến con trai của lão, con trai của lão là ai? Bây giờ đang ở đâu?
Dường như tất cả những chuyện này, Lục Dương chưa từng nhắc tới với Mười Một. Trước đây còn chưa cảm thấy lão nhân tuổi đã quá trăm này có gì đặc sắc, bây giờ hắn mới phát hiện, người sư phụ này của mình, cao thủ đời thứ ba của Long Hồn không ngờ trên người lại có nhiều bí mật ít người biết được như thế.
“Lục Dương… Ông ấy là tông chủ đời thứ ba mươi bảy?”
Lão giả sắc mặt khác thường liếc nhìn Mười Một, lắc đầu nói: “Không phải, người không phải là tông chủ. Đại sư bá cả đời đam mê võ học, chỉ thích bế môn khổ tu, không muốn tiếp nhận chức vị tông chủ. Vốn chức vị tông chủ trừ đại sư bá ra thì chỉ có đệ đệ của người, cũng chính là tứ sư bá Lục Thanh tiếp nhiệm, nhưng trong đó lại xuất hiện một số chuyện, cuối cùng chức vị tông chủ do gia sư đứng ra đảm nhiệm. Sau khi gia sư quy liên, lại do lục sư huynh kế nhiệm chức tông chủ, đáng tiếc lục sư huynh tham công hám lợi, một lòng muốn có được thành tựu cao như Trường Minh Công và đại sư bá, kết quả là tự bó buộc mình, qua đời ở tuối tráng niên. Sau đó mới tới Lục Huyền, người xuất sắc nhất trong những đệ tử đời thứ ba mươi chín tiếp nhiệm chức tông chủ.”
Mười Một hỏi: “Năm đó Lục Dương và Lục Thanh đã phát sinh chuyện gì?”
Lão giả lắc đầu nói: “Đây là cấm sử của Kiếm Tông, không được nhắc đến nữa. Nếu ngươi muốn biết thì hãy đi hỏi chính đại sư bá đi!”
Mười Một và lão giả hai người tựa như trong lòng đều có tâm sự, đứng sóng vai nhau trên chiếc cầu gỗ, trầm mặc không nói gì.
Sau một hồi lâu, Mười Một đang nhìn lên hai đại tự như rồng bay phượng múa trên bức hoành phi đột nhiên hỏi: “Nơi này tại sao lại gọi là Kiếm Trủng?”
Lão giả thản nhiên cười nói: “Đây là quy củ của Kiếm Tông. Môn nhân Kiếm Tông lấy luyện kiếm làm chủ, luyện kiếm tất phải lấy luyện tâm làm chủ. Tông chủ đời thứ ba mươi nhăm Trường Minh Công sau khi di cư đến đất này đã lập ra môn quy, phàm là môn nhân của tông, lúc nào cũng phải nhớ kĩ lời dạy kiếm còn người còn, kiếm gãy người vong. Vì để đệ tự trọng thị thanh trường kiếm trong tay, phàm là đệ tử Kiếm Tông thì đều phải tận tay đúc một thanh kiếm, cả đời phải mang theo thanh kiếm này. Cho tới sau khi môn hạ đệ tử qua đời, thanh trường kiếm mà y mang theo và trường sinh bài sẽ cùng được cung phụng trong kiếm trủng.”
Láo giả dứt lời liền chỉ về phía đạo quán trước mặt, rồi đột nhiên cười nói: “Kì thực cái lời răn dạy kiếm còn người còn, kiếm gãy người vong là quy củ của Võ Đang, Trường Minh Công sau khi ra khỏi Võ Đang, cả đời yêu kiếm như mạng, đích thân đích ra một thanh Thiên Lang kiếm, sau này thanh kiếm đó theo người người chém giết địch nhân, lập nên không ít công lao. Trước khi mắc bệnh qua đời người còn ở bên lò đúc kiếm đúc lại thanh Thiên Lang kiếm đó, đáng tiếc Thiên Lang còn chưa đúc xong thì người đã về trời rồi. Sau này, tông chủ đời thứ ba mươi sáu đem thanh Thiên Lang kiếm còn chưa đúc xong đó và trường sinh bài của Trường Minh Công đồng thời khóa trong tòa lầu này, gọi tên nó là Kiếm Trủng. Từ đó về sau, Kiếm Trủng này liền trở thành từ đường của Kiếm Tông.”
Cả thôn trang tọa lạc trong một thung lũng, bốn phía núi cao bao bọc, do tám ngọn núi lớn sừng sững quay chặt cái tiểu thôn chẳng hề bắt mắt này vào giữa. Bởi vì không khí lạnh đã bị chặn lại tại những ngọn núi lớn bên ngoài cho nên bên trong thủy chung bốn mùa xanh tốt, từ đầu năm tới cuối năm khí hậu đều rất dễ chịu. Hiện giờ đang trong mùa lạnh nhất trong năm, thế giới bên ngoài sớm đã phủ đầy băng tuyết, nhưng trong này thì nơi nào cũng có thể thấy những bóng cây xanh biếc, trừ cây thân gỗ ra thì thứ có thể nhìn thấy nhiều nhất chính là trúc, đây đại khái có lẽ là nguyên nhân cái thôn này được mang tên Trúc Hải thôn.
Điểm đặc sắc nhất của Trúc Hải thôn này không phải là cảnh sắc đẹp đẽ mà là kiến trúc của thôn này. Cả thông đều là dùng gạch xanh ngói đen xây lên, chính giữa còn xen vào mấy ngôi nhà gỗ, đặc biệt là tại những đồng ruộng gần đó còn có mấy gian nhà cỏ tranh chỉ có thể nhìn thấy trong điện ảnh cổ trang. Kết cấu của các gian phòng vẫn còn mang theo mùi vị của phong cách kiến trúc Long Quốc cổ đại, trên đỉnh ngói mấy tòa nhà còn khảm những bức điêu khắc hình đầu rồng. Đặc biệt là trung tâm của thôn là một hồ nước, tại chính giữa hồ nước có một đạo quán được xây bằng gạch xanh ngói đỏ, một cây cầu cong cong bằng gỗ màu đồng cổ đạo quán với bên bờ. Đi trên chiếc cầu gỗ, nhìn mặt hồ trong xanh và những khu dân cư cổ kính, luôn khiến người ta cảm thấy tâm thần thoải mái.
Một quần thể kiến trúc mang phong cách cổ như thế này, ở Long Quốc cũng chẳng còn được bao nhiêu, hơn nữa còn có thể để người ta an tĩnh mà thưởng thức phong cảnh và cảnh sắc núi non tự nhiên thì càng thêm ít ỏi. Giống như trong cảm nhận của người dân Long Quốc về thánh địa phật môn, những ngôi cổ miếu ngàn năm như Thiếu Lâm tự đó, hiện hay cũng sớm đã biến thành nơi tụ tập của các con buôn và những đoàn khách du lịch, đến cả trễn quảng trưởng của Thiếu Lâm tự cũng đã bày đầy những quầy hàng bày bán những thứ được gọi là vật kỉ niệm. Mà đám đệ tự Thiếu Lâm được xưng là lục căn thanh tịnh, trảm đoạn tam thiên phiền não bây giờ thì mỗi ngày chỉ biết đứng bên hòm công đức mà chờ đếm tiền. Dưới ma lực của đồng tiền, ngôi thánh địa cổ tự ngàn năm hiện giờ đã giống như một cái chợ bán rau vậy, huyên náo vô bỉ, sớm đã chẳng còn cái vẻ trang nghiêm và thần thánh năm đó rồi. Điều này thực không thể không khiến người ta đau lòng. Nhưng, nghe nói mạch Thiếu Lâm võ tông chân chính hiện nay sớm đã rời khỏi ngôi cổ tự ngàn năm này mà ẩn cư nơi núi cao rừng thẳm tiếp tục thanh tu. Chỉ là cái truyền thuyết này có phải là thực tế hay không, sợ rằng số biết được cũng không nhiều.
Mười Một đứng trên chiếc cầu gỗ nối liền đạo quán và bờ hồ, ngẩng đầu nhìn tới đạo quán trang nghiêm cổ kính trước mặt. Diện tích của đạo quán không lớn, chỉ chừng hơn trăm mét vuông, tọa lạc tại vị trí trung tâm hồ nước. Bậc thềm bốn phía được xây bằng đá xanh để người ta có thể thưởng thức phong cảnh trong hồ. Chỉ là cửa lớn của đạo quán quanh năm đóng chặt, không biết bên trong có thứ gì hay đang cung phụng vị thần tiên nào. Phía trên đạo quán có khảm một tấm hoành phi làm bằng đá xanh, trong tấm hoành phi có khắc hai chữ Long Quốc cổ, trông như rồng bay phượng múa, Mười Một lại không hiểu hai chữ này là chữ gì.
Mười Một sau khi từ trong nhà của Lục Huyền đi ra liền nhàn nhã dạo chơi bốn phía. Nói rằng nhàn nhã dạo chơi cũng chưa chính xác bằng nói là làm quen với hoàn cảnh trước, đây là thói quen mà trước nay hắn vẫn duy trì. Mười Một không hề để lời của Lục Huyền vào lòng, trong suy nghĩ của hắn, bản thân chỉ có thể rơi vào trong tay của ba thế lực. Một, đúng là Lục Dương nhờ Long gia đem mình đưa tới bản môn Kiếm tông. Hai, hắn rơi vào tay Lục Thanh, nhưng Lục Thanh tại sao lại phải lừa hắn, cái này thì chẳng thể biết được. Ba, hắn bị Long Hồn giam lỏng, đây có lẽ chính là nơi Long Hồn dùng để chuyên môn giảm long những phản đồ phản bội tổ chức. Nhưng khả năng này là nhỏ nhất, theo Mười Một được biết, người trong Long Hồn, đặc biệt là những cao thủ đời cũ thì đều cực kì cao ngạo, rất coi khinh chuyện lừa gạt người khác. Cho nên nếu rơi vào trong tay Long hồn, bọn họ chắc sẽ trực tiếp nói mình là người của Long Hồn chứ chẳng thèm nói là Kiếm Tông kiếm phái gì đó.
Nhưng mặc kệ là thế lực nào, hắn xác thực không thể tùy tiện rời đi. Nếu thực sự là Kiếm Tông thì còn tốt, có lẽ đợi sau khi mưa gió bên ngoài qua rồi, Lục Dương sẽ tới dẫn hắn trở về, Nhưng ít nhất bây giờ còn chưa được. Bởi vì chỉ cần hắn vừa xuất hiện, cái chờ đợi hắn sẽ chính là sự đuổi giết và tấn công của thế lực các phương. Nếu rơi vào tay hai thế lực còn lại, lúc đó thì khỏi cần nghĩ rồi. Có thể cho hắn tự do hoạt động trong một phạm vi nhất định đã là một ân huệ cực lớn rồi.
Trên đường đi Mười Một đã phát hiện, tất cả nam nữ già trẻ, thậm chí là những tiểu hài nhỏ xíu hắn gặp cũng đều biết công phu. Chủ yếu là bọn họ cước bộ trầm ổn, hô hấp nhỏ dài, đây là dấu vết của việc đã từng luyện qua công phu. Hơn nữa một đám tiểu hài tử năm sáu tuổi vừa chạy quan bên cạnh Mười Một cũng đều bước chân nhẹ nhàng, chẳng giống những tiểu hài tử phổ thông bên ngoài, khi chạy thì cứ lảo đảo loạng choạng.
Cái thôn này, quả thực là một nơi chuyên sản xuất võ lâm cao thủ. Trong lòng Mười Một không khỏi cảm khái vạn phần.
Khi còn ở tại huấn luyện doanh, hắn đã không chỉ một hai lần nghe thấy giáo quan nhắc đến đất nước thần bí nhất phương đông, Long Quốc. Thân là Long Quốc, một trong tứ đại văn minh cổ quốc, không thể nghi ngờ chuyện nó sẽ tràn ngập những sắc thái thần bí và truyền kì (cũng có người nói là ngũ đại văn minh cổ quốc, người viết lấy cái đầu tiên). Mười Một vẫn luôn cảm thấy rất thích thú nền văn hóa Long Quốc, cho nên khi hắn ở huấn luyện doanh cũng đã nỗ lực học tập ngôn ngữ Long Quốc. Đặc biệt là sau khi quen biết Lục Dương trong thời gian làm vệ sĩ cho Mardy, hắn càng cảm thấy chấn kinh vì võ học cổ của Long Quốc, cũng cực kì đề cao hứng thú của hắn đối với đất nước thần bí này. Lòng hiếu kì này cho đến sau khi hắn tới Long Quốc mới dần mất đi, trong mắt hắn cái văn minh cổ quốc này sau khi vén lên bức màn bí mật đã chẳng còn sung mãn sắc thái thần bí nữa. Nó chẳng giống như trong tưởng tượng của hắn, thần tiên bay đầy trời, cao thủ chạy đầy đất, sự kiến thiết và xây dựng thành thị cũng chẳng có gì khác với những quốc gia khác, có thể nói Long Quốc trừ việc có Long Hồng, một tổ chức võ lực cường đại ra thì chẳng có thứ gì có thể khiến hắn cảm thấy hứng thú nữa. Có lẽ giống như Lục Dương đã nói, văn hóa của Long Quốc sớm đã mai một rồi, nền võ học cổ, ảo học đạo thuật và công pháp tu chân đã từng làm thế giới chấn kinh giờ đều đã bị chôn vùi trong dòng lịch sử, chẳng thể nào hồi phục được thời thịnh thế của võ học năm đó nữa rồi.
Có lẽ cái thời đại thần tiên bay đầy trời, cao thủ chạy đầy đất giống như trong điện ảnh kia thực sự đã trở thành lịch sử rồi.
Nhưng sau khi đến nơi này, cái tâm đang dần dần nhạt đi của Mười Một đã lại một lần nữa bị chấn động một sâu sắc rồi. Trong mắt hắn, nơi đây có không ít người công phu thực sự không yếu, đặc biệt là Lục Huyền đó, thực lực gần như có thể ngang với những cao thủ trong Long Hồn.
Nơi này thực sự chỉ là một nơi không bắt mắt, chẳng có ai hỏi tới sơn thôn nghèo này sao? Sợ rằng chỉ cần tùy tiện chọn ra vài người ở nơi đây rồi huấn luyện một quãng thời gian là đều có thể trở thành những cao thủ cận chiến hợp cách nhất. Hơn nữa Mười Một tin rằng, chỉ riêng cái sơn thôn nghèo này là đã có thể đối phó với tam đại gia tộc còn lại của Long Quốc mà chẳng hề thua kém chút nào rồi.
“Đạo quán này thế nào?” Trong lúc Mười Một còn đang suy nghĩ về vấn đề của cái thôn trang này thì sau lưng đột nhiên có một thanh âm vang lên.
Mười Một quay người lại, phát hiện một lão giả tuổi tác xấp xỉ với Lục Huyền không biết đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Hắn trong lòng hơn giật mình một chút, với sự cảnh giác của hắn, không ngờ lại có người dễ dàng đứng sau lưng hắn mà hắn không hề phát hiện ra, như vậy tu vi của người này có thể dùng từ đáng sợ để hình dung.
Tuy Mười Một trong lòng kinh ngạc không ít, nhưng trên mặt vẫn chẳng có biểu hiện gì, chỉ lạnh lùng liếc nhìn lão giả này hai cái rồi quay đầu lại. Đồng thời hắn cũng chú ý tới, ánh mắt của những thôn dân qua đường gần đó nhìn về phía hắn đều mang theo thần săc kính sợ, nhưng khi nhìn lão giả này thì đều là một sự tôn kính xuất phát từ nội tâm. Xem ra uy vọng của lão giả này ở trong thông cũng không thấp.
Lão giả đi đến bên cạnh Mười Một, đứng sóng đôi với hắn, cùng ngẩng đầu nhìn về phía đạo quán ở giữa hồ như hắn, thản nhiên nói: “Tòa Kiếm Trủng* này là do tiên tổ khi mới tới đây định cư xây dựng nên, tiên tổ vốn có xuất thân là đệ tử đạo gia, từ nhỏ đã trưởng thành trong đạo quán. Sau khi tới nơi này định cư cũng y theo đạo quán người ở lúc nhỏ mà xây dựng nên cái tiểu đạo quán này, tiên tổ vốn là muốn hoài niệm nơi ở xưa, nhưng sau này thì nơi đây đã biến thành từ đường của tông môn.”
* Kiếm Trủng: Mộ kiếm
Dừng lại một chút, lão giả lại tiếp: “Nơi này trước đây gọi là Lục Gia Trang, sau khi lập quốc mới đổi tên thành Trúc Hải Thôn. Từ đời tông chủ thứ ba mươi nhăm, sau khi tổ tiên di cư tới đất này, đệ tử Lục gia đời đời đều ẩn cư sinh sống rại nơi đây, không còn hỏi tới chuyện trong giang hồ nữa.”
Mười Một đột nhiên hỏi: “Người nơi đây đều họ Lục?”
Chú: Liên quan tới ngũ đại văn minh cổ quốc, hình như thế giới đã công nhận có ngũ đại văn minh cổ quốc, đó là Trung Quốc cổ, Ấn Độ cổ, Hi Lạp cổ, Babilon cổ, Ai Cập cổ.
“Không!” Lão giả lắc lắc đầu nói: “Họ Lục chỉ là một bộ phận mà thôi. Thôn này tổng cộng có hơn ba trăm sáu mươi hộ gia đình. Trong đó đệ tử Lục gia còn không tới trăm hộ. Những hộ khác đều là do mộ danh bái sư mà tới đây định cư. Hoặc là những cô nhi và hậu nhân mà chúng ta đã thu lưu.”
Lão giả nhìn về phía Mười Một, nói: “Kiếm tông tử đệ tịnh không phải là chân chính ẩn cư lánh đời, mỗi năm chúng ta đều sẽ có một số môn hạ đệ tử nhập thế để trải nghiệm. Trong quá trình trải nghiệm nếu gặp phải những cô nhi cô khổ không người giúp đỡ thì sẽ đều cố gắng hết sức mang chúng về chăm sóc, mà những người này về sau cũng trở thành một phần tử của Lục gia trang.”
“Tại sao không phải là một phần tử của Kiếm tông?”
Lão giả thản nhiên cười nói: “Cái đó thì lại khác, tuy người trong thôn này đều tập võ từ nhỏ, nhưng võ học chân chính của Kiếm tông thì chỉ có môn nhân của Kiếm tông mới có thể học. Nó cũng giống như Thiếu Lâm tự cổ đại vậy, tuy bảy mươi hai tuyệt kĩ của Thiếu Lâm danh chấn giang hồ, nhưng trong Thiếu Lâm tự không phải tất cả mọi người đều có thể tu luyện. Chỉ có đệ tử Thiếu Lâm được Đạt Ma đường thu nhận mới có thể luyện tập bảy mươi ha tuyệt kĩ.”
Mười Một thản nhiên đưa mắt nhìn quanh bốn phía, nói: “Nói cách khác, những người này không phải người của Kiếm tông?”
“Đúng. Bọn họ là tử đệ của Lục gia trang, cũng là thôn dân của Trúc Hải Thôn, nhưng vẫn không phải là truyền nhân của Kiếm tông.” Ngừng một lát, lão giả lại hỏi: “Có muốn nghe chuyện liên quan tới lịch sử của Kiếm tông không?”
Mười Một không nói gì. Lão giả liền nói tiếp: “Kiếm tông chúng ta khai sáng vào thời Minh sơ Minh thái tổ, tiên tổ đời thứ nhất Lục Viễn Phong vốn là một viên mãnh tướng thủ hạ của Tiểu Minh Vương. Sau này sau khi Chu Nguyên Chương bày kế dìm chết Tiểu Minh Vương, tiên tổ trong cơn tức giận liền muốn dẫn mọi người rời đi, nhưng Chu Nguyên Chương ba lần tới du thuyết, cuối cùng đã nói tới chuyện đại sự quốc gia là trọng, nói động được tiên tổ làm thủ hạ cho y, vì y mà bán mạng. Sauk hi Chu Nguyên Chương thành công đánh được thiên hạ lên ngôi hoàng đế, tiên tổ biết rõ cái đạo lí công cao át chủ, sớm thoái bệnh từ quan, chỉ mang theo một nhóm thân vệ tướng sĩ đã thề chết đi theo người tới bên bờ Thái Hồ mà kiến lập nên Lục gia trang. Không lâu sau đó, Chu Nguyên Chương vì củng cố ngôi vị hoàng đế của mình quả nhiên đã bắt đầu hướng mũi dùi về phía những khai quốc công thần đã từng xả mệnh cho y. Bắt bớ đại thần, phế tướng, lập ra Cẩm Y Vệ, còn dùng các loại lí do để mượn cớ lạm sát công thần. Tuy tiên tổ sớm đã rời khỏi quan trường nhưng Chu Nguyên Chương cố kị uy vọng của người trong quân đội, không chịu bỏ qua cho tiên tổ. Lúc này, Ngự Sử Trung Thừa, kiêm Thái Sử Lệnh, Thành Ý Bá, Lưu Bá Ôn đã bí mật gặp tiên tổ, không bao lâu sau khi hai người mật đàm, tiên tổ đã liền khai tông lập phái, thành lập nên Kiếm Tông tại Lục gia trang. Sau khi Lục gia trang trở thành một môn phái võ lâm, Chu Nguyên Chương quả nhiên đã bỏ qua chuyện đối phó với tiên tổ, Lục gia chúng ta mới có thể bảo tồn tới ngày nay.”
Lão giả ngẩng đầy nhìn lên hai đại tự cổ thể “kiếm trủng” cứng cáp rắn rỏi được viết trên tấm hoành phi, sau hồi lâu mới tiếp tục nói: “Từ đó về sau Kiếm Tông liền trở thành một chi môn phái trong võ lâm. Nhưng trải qua thời gian năm trăm năm qua hai triều Minh Thanh, Kiếm Tông thủy chung vẫn đều là một môn phái không nhập lưu trong võ lâm. Điều này cũng dễ hiểu, tiên tổ Nguyên Phong công vốn là một viên mãnh tướng trên chiến trường, hành quân đánh trận đều không cần phải nói, nhưng thân nhập vào trong võ lâm, chút võ kĩ trong quân đội đó của người lại chẳng ăn thua gì nữa. Các đời tông chủ của Kiếm Tông sớm đã ý thức được vấn đề này, cho nên mỗi đời tông chủ đều lấy chuyện thu thập võ học các phái, sáng lập nên công pháp cho Kiếm Tông làm nhiệm vụ, thậm chí còn không tiếng đem Lục gia tử đệ đưa vào các môn phái khác để bái sư học nghệ. Đáng tiếc, Kiếm tông bỏ ra mấy trăm năm thời gian, cái đạt được cũng chỉ là chút lông da thô thiển nhất của các phái võ học, những thứ tinh túy chân chính thì thủy chung vẫn chẳng thể lấy được, bởi vậy Kiếm Tông vẫn luôn nằm ngoài cửu lưu môn phái. Cho đế tông chủ đời thứ ba mươi nhăm, Lục Môn Trường Minh Công hoành không xuất thế, loại tình hình này mới được cải thiện. Trường Minh Công từ nhỏ đã được đưa tới Võ Đang học nghệ, sau khi kiếm nghệ có thành tựu thì liền trở về môn phái. Bế môn hơn mười năm, chỉnh lí tất cả những thứ võ học tạp nham mà Kiếm Tông thu thập được từ các phái trong mấy trăm năm qua, cuối cùng bằng vào thiên phú hơn người của bản thân mà tự sáng tạo ra Thiên Lang Thập Tam Kiếm Chiêu cùng thiên nội công độc môn. Sau này, Trường Minh công dựa vào Thiên Lang Thập Tam thức hành tẩu trên giang hồ hiếm có địch thủ, Kiếm Tông nhất môn cuối cùng khổ tận cam lai, ngóc đầu lên được. Đáng tiếc, trời không thuận ta a.”
Lão giả cảm thán nói: “Lúc đó đã là thời Thanh mạt, liên quân các nước binh bức Hoa Hạ, ý đồ xâu xé đại địa Long Quốc ta. Các môn phái võ lâm đương thời liền tổ thành những tổ chức phản kháng một cách tự phát, Trường Min Công dân môn nhân Kiếm Tông chúng ta gia nhập vào trong đó. Bọn họ và người tây giao chiến hơn mười trận. Trảm sát không ít quân địch, nhưng mỗi lần đều vì đối phương chiếm lợi thế về hỏa khí mà tổn thất thảm trọng, bị bức phải lui. Hơn nữa, chính phủ Thanh triều lúc đó thực sự là đã quá thối nát vô năng, chỉ biết cắt đất cầu hòa. Trường Minh Công ôm bụng muốn cứu nước nhưng lại chẳng có ai để theo, cuối cùng dưới sự bi thương đành dẫn tộc nhân của Lục gia tới nơi đây lánh đời. Sau khi ở đây, Trường Minh Công cuối cùng cùng buồn rầu thành bệnh mà qua đời. Tông chủ Kiếm Tông đời thứ ba mươi sáu lập ra môn quy, phàm là đệ tử Kiếm Tông ta thì không được hỏi tới chuyện thế tục nữa. Từ đó về sau, Kiếm Tông mới chân chính ẩn cư lánh đời. Nhưng trong những đệ tử đời thứ ba mươi bảy, xuất hiện một vị võ học kì tài có thể so sánh với Trường Minh Công, cũng chính là đại sư bá Lục Môn Dương Công, môn quy này mới bị phá vỡ. Năm đó Kiếm Tông đã phát sinh một đoạn bí sử gian nan, đại sư bá Dương Công được tán tụng là võ học kì tài kế tục cho Kiếm Tông môn sau Trường Minh Công và tứ sư bá, cũng là phản đồ của Kiếm Tông Lục Thanh hai người đã lần lượt rời khỏi Lục gia trang. Tứ sư bá Lục Thanh từ đó về sau bặt vô âm tín, còn đại sư bá thì mấy chục năm trước đã trở lại một lần, chỉ nói mình đã gia nhập vào một tổ chức của quốc gia. Sau đó mang theo nhi tử của người rời đi, sau nay cha con bọn họ chẳng còn trở lại nữa.”
Mười Một tuy mặt vẫn chẳng có biểu tình gì, nhưng trong lòng lại vô vàn cảm khái. Hắn đoán được đoạn bí sử kia về Lục Dương, có thể là có liên quan tới nữ nhân đã từng là vị hôn thê, sau này lại trở thành em dâu của lão. Chỉ là tại sao lão nhân này lại gọi Lục Thanh là phản đồ? Lẽ nào bọn họ biết chuyện Lục Thanh đã bán đứng Lục Dương? Hay là Lục Thanh trước đây đã phản bội Kiếm Tông rồi? Ngoài ra hai huynh đệ Lục Dương và Lục Thanh năm đó lại sao lại rời khỏi Kiếm Tông? Lục Dương tại sao lại gia nhập Long Hồn? Ngoài ra, lão giả này gọi Lục Dương này gọi Lục Dương là võ học kì tài của Kiếm Tông, lẽ nào công phu của Lục Dương trước đây thực sự rất lợi hại? Cho đến khi lão bị Lục Hanh và Mardy hãm hại, phế đi một thân võ công mới trở nên như vậy? Hay là lão cố ý thu tang? Còn nữa, Mười Một chỉ biết Lục Dương có người cháu gái đã gả cho Long Hải Du. Nhưng trước nay lại chưa từng nghe lão nhắc đến con trai của lão, con trai của lão là ai? Bây giờ đang ở đâu?
Dường như tất cả những chuyện này, Lục Dương chưa từng nhắc tới với Mười Một. Trước đây còn chưa cảm thấy lão nhân tuổi đã quá trăm này có gì đặc sắc, bây giờ hắn mới phát hiện, người sư phụ này của mình, cao thủ đời thứ ba của Long Hồn không ngờ trên người lại có nhiều bí mật ít người biết được như thế.
“Lục Dương… Ông ấy là tông chủ đời thứ ba mươi bảy?”
Lão giả sắc mặt khác thường liếc nhìn Mười Một, lắc đầu nói: “Không phải, người không phải là tông chủ. Đại sư bá cả đời đam mê võ học, chỉ thích bế môn khổ tu, không muốn tiếp nhận chức vị tông chủ. Vốn chức vị tông chủ trừ đại sư bá ra thì chỉ có đệ đệ của người, cũng chính là tứ sư bá Lục Thanh tiếp nhiệm, nhưng trong đó lại xuất hiện một số chuyện, cuối cùng chức vị tông chủ do gia sư đứng ra đảm nhiệm. Sau khi gia sư quy liên, lại do lục sư huynh kế nhiệm chức tông chủ, đáng tiếc lục sư huynh tham công hám lợi, một lòng muốn có được thành tựu cao như Trường Minh Công và đại sư bá, kết quả là tự bó buộc mình, qua đời ở tuối tráng niên. Sau đó mới tới Lục Huyền, người xuất sắc nhất trong những đệ tử đời thứ ba mươi chín tiếp nhiệm chức tông chủ.”
Mười Một hỏi: “Năm đó Lục Dương và Lục Thanh đã phát sinh chuyện gì?”
Lão giả lắc đầu nói: “Đây là cấm sử của Kiếm Tông, không được nhắc đến nữa. Nếu ngươi muốn biết thì hãy đi hỏi chính đại sư bá đi!”
Mười Một và lão giả hai người tựa như trong lòng đều có tâm sự, đứng sóng vai nhau trên chiếc cầu gỗ, trầm mặc không nói gì.
Sau một hồi lâu, Mười Một đang nhìn lên hai đại tự như rồng bay phượng múa trên bức hoành phi đột nhiên hỏi: “Nơi này tại sao lại gọi là Kiếm Trủng?”
Lão giả thản nhiên cười nói: “Đây là quy củ của Kiếm Tông. Môn nhân Kiếm Tông lấy luyện kiếm làm chủ, luyện kiếm tất phải lấy luyện tâm làm chủ. Tông chủ đời thứ ba mươi nhăm Trường Minh Công sau khi di cư đến đất này đã lập ra môn quy, phàm là môn nhân của tông, lúc nào cũng phải nhớ kĩ lời dạy kiếm còn người còn, kiếm gãy người vong. Vì để đệ tự trọng thị thanh trường kiếm trong tay, phàm là đệ tử Kiếm Tông thì đều phải tận tay đúc một thanh kiếm, cả đời phải mang theo thanh kiếm này. Cho tới sau khi môn hạ đệ tử qua đời, thanh trường kiếm mà y mang theo và trường sinh bài sẽ cùng được cung phụng trong kiếm trủng.”
Láo giả dứt lời liền chỉ về phía đạo quán trước mặt, rồi đột nhiên cười nói: “Kì thực cái lời răn dạy kiếm còn người còn, kiếm gãy người vong là quy củ của Võ Đang, Trường Minh Công sau khi ra khỏi Võ Đang, cả đời yêu kiếm như mạng, đích thân đích ra một thanh Thiên Lang kiếm, sau này thanh kiếm đó theo người người chém giết địch nhân, lập nên không ít công lao. Trước khi mắc bệnh qua đời người còn ở bên lò đúc kiếm đúc lại thanh Thiên Lang kiếm đó, đáng tiếc Thiên Lang còn chưa đúc xong thì người đã về trời rồi. Sau này, tông chủ đời thứ ba mươi sáu đem thanh Thiên Lang kiếm còn chưa đúc xong đó và trường sinh bài của Trường Minh Công đồng thời khóa trong tòa lầu này, gọi tên nó là Kiếm Trủng. Từ đó về sau, Kiếm Trủng này liền trở thành từ đường của Kiếm Tông.”
/967
|