Dù chiến sự thành Đại Đồng quyết liệt nhưng cũng không gian nan, nguy hiểm bằng ở núi Bạch Đăng. Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, kiêm giữ ấn Chinh tây Tiền tướng quân, thống lĩnh năm vệ, bảy sở, nhưng giờ đây phần lớn đại quân của ông ta lại trú đóng bên ngoài Trường Thành. Thành Đại Đồng lại có tường cao vững chắc nên trong thành chỉ có hai vệ quân coi giữ. Hứa Thái mang bảy ngàn người ngựa đi, trong thành chỉ còn lại hơn năm ngàn người.
Vốn Hỏa Sư nhận được mệnh lệnh là nội ứng sẽ mở cửa thành phía tây cho đại quân tràn vào. Với mười lăm ngàn quân tinh nhuệ của hắn thì cả tòa thành Đại Đồng lập tức sẽ trở thành món đồ trong túi, vì vậy ngay cả khí giới công thành hắn cũng không thèm mang theo. Nhưng khi quân khinh kị của hắn hào hứng chạy đến dưới thành phía tây lại bất ngờ bị quân coi giữ Đại Đồng bắn cho một trận mưa tên phải thối lui, Hỏa Sư tức giận đến mức chửi thầm trong bụng.
Khi thấy Bá Nhan tự mình dẫn đại quân đánh úp núi Bạch Đăng, Hỏa Sư cũng ghét chuyện tranh cướp công đầu của Khả Hãn, nhưng suy đi nghĩ lại hắn nhận định cho dù thị vệ bên người Hoàng đế không quá mười ngàn nhưng chắc chắn toàn là tinh binh, trận chiến đó nhất định sẽ rất khó khăn. Trong khi đó, quân của mình không cần tốn bao nhiêu công sức cũng hạ được Đại Đồng, thoải mái đốt giết cướp bóc có thể giúp đám sĩ tốt từng chịu đựng nhiều nỗi gian nan vất vả này kiếm được một mớ, tính ra cũng lời chán. Nào ngờ việc phòng ngự trên thành Đại Đồng rất nghiêm, chờ mãi vẫn không thấy nội ứng mở cửa thành, Hỏa Sư cho rằng Bá Nhan cố ý lừa mình, tuy nổi giận trong lòng nhưng phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Lúc này lại không thể một mình lui quân làm hỏng đại cục, hắn đành phải cố gắng cho quân khổ chiến.
Chặt cây tại chỗ đóng thành thang dài, đám binh lính cuồng nhiệt trong mắt chỉ có rượu mạnh, gái đẹp, vàng bạc lẫn tiền của ra sức leo lên không hề sợ hãi. Quân Minh coi giữ trên tường thành sớm đã bày trận chờ địch, dù gặp đại chiến mà vẫn ung dung kéo cung bắn tên, vác đá ném xuống, hàng loạt câu liêm vô tình đẩy những chiếc thang ra khỏi tường thành cao mấy trượng. Tiếng kêu thảm của binh lính Thát Đát vang lên, những khúc gỗ đóng đầy đinh sắt dài cả thước lại được lăn xuống dưới thành.
Thành Đại Đồng được xây dựng rất hùng vĩ, tường thành vừa chắc chắn vừa hiểm trở, các loại thiết bị phòng ngự đều đầy đủ, thân tường thành được xây bằng gạch, bên trong đổ vữa rồi đầm từng đoạn từng lớp. Tường thành cao khoảng năm trượng, mặt trên tường thành cũng rộng năm trượng, đủ chỗ cho đại đội nhân mã di chuyển nhanh chóng. Lỗ châu mai, lầu thành, vọng lâu, vọng canh đan xen nhau, có thể quan sát địch từ xa, ẩn nấp, bắn tên, tiếp ứng, khống chế điểm cao, tạo thành một phòng tuyến nhiều tầng nhiều lớp hoàn chỉnh.
Độc hỏa pháo, Oanh thiên phích lịch pháo không ngừng bắn những viên đạn vô tình xuống dưới thành thu hoạch mạng người. Vô số binh lính qua lại trên tường thành lăn gỗ, lăn đá, đổ dầu, bắn tên tạo thành một phòng tuyến không thể phá vỡ. Còn quân Thát thì như từng đợt sóng không ngừng điên cuồng lao vào thành trì. Tên giặc bắn như mưa, cũng không ngừng gặt hái tính mạng quân Minh.
Xác chất như núi, máu chảy khắp nơi, tiếng chém giết rung trời. Thi thể của đồng đội bị chà đạp vô tình như những miếng giẻ rách; không ngừng có người ngã xuống, trở thành một trong những xác chết bị giẫm đạp. Mặc dù thành trì vẫn sừng sững bất động dưới những đợt sóng tiến công của giặc Thát nhưng trong lòng Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc lại như lửa đốt, gần như cả hai sắp hộc máu đến nơi.
Núi Bạch Đăng mới là chốn bọn họ thật sự bận tâm lo lắng. Nếu như chỗ đó có bất trắc gì thì trời mới biết Đại Minh sẽ gặp phải một tương lai u ám như thế nào. Nhìn thấy một sợi khói đặc quánh bay lên xa xa từ núi Bạch Đăng, Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc vừa cảm thấy vui mừng lại lập tức sắc mặt trở thành xanh mét.
Núi Bạch Đăng báo tin Hoàng đế không việc gì, đỉnh núi còn chưa bị giặc Thát chiếm đóng. Nhưng đồng thời cũng cho biết tình thế hết sức ngặt nghèo, nếu như viện binh không đến kịp thì đỉnh núi có thể sẽ bị đánh chiếm trong chốc lát.
Hồ Toản giậm mạnh chân, hai mắt đỏ ngầu nhìn Đỗ Nhân Quốc quát:
- Đỗ đại nhân! Ta phải tập hợp toàn bộ người ngựa, bỏ thành đi tiếp viện núi Bạch Đăng. Hoàng thượng ở đó, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng cho được! Chỉ cần giữ được đỉnh núi, đại quân của Dương Nhất Thanh kéo tới là chúng ta còn có thể đoạt lại Đại Đồng!
Ý kiến này thật sự ngu xuẩn. Quân chính quy trong thành không quá năm nghìn, cho dù cộng thêm binh nghĩa dũng và tráng đinh thì toàn bộ quân binh vẫn không đông bằng quân công thành. Hơn nữa giặc Thát ở ngoài thành là kỵ binh, nếu bọn họ thật sự tập hợp binh lính lao ra khỏi thành thì chẳng những thành sẽ bị mất mà chỉ trong nửa canh giờ toàn bộ binh mã cũng sẽ bị đối phương chia cắt rồi lần lượt tiêu diệt.
Đỗ Nhân Quốc gian nan nuốt nước bọt. Hắn còn chưa kịp trả lời thì đã nghe một tiếng gầm giận dữ vang lên:
- Ngu không ai bằng! Quân ta ra thành là trúng gian kế của giặc Thát, nếu Hoàng thượng gặp nạn mà tòa thành vững chắc này rơi vào tay địch thì còn ai có thể địch được quân Thát? Toàn bộ Sơn Tây, thậm chí cả kinh thành cũng sẽ gặp nguy trong sớm tối!
Hai người quay phắt lại, nhận thấy một đội giáp sĩ vây quanh Đại vương điện hạ đi vào vọng lâu. Tiếng chém giết vẫn vang lên khắp nơi, Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản vội vàng tiến lên bái kiến. Hồ Toản khóc lóc báo:
- Điện hạ! Núi Bạch Đăng truyền tin báo động, Hoàng thượng gặp nguy hiểm rồi!
Đại vương cũng biết hắn nói có lý, chỉ riêng chuyện thấy nguy không cứu và những lời hôm nay, một khi Hoàng đế vị quốc vong thân thì đã đủ để trở thành lý do vạch tội bọn họ. Ngay cả hắn là dòng dõi hoàng tộc cũng khó tránh khỏi trở thành vật hi sinh chính trị, nếu chỉ bị tù chung thân thì chắc chắn đó cũng là hình phạt nhẹ nhất rồi.
Nhưng cội rễ của hắn ở đây, tất cả con cháu hắn đều ở trong thành. Dòng dõi Đại vương đã sống ở đây hơn trăm năm, trừ năm trước vào kinh còn những lúc khác thậm chí hắn còn chưa bao giờ rời khỏi Đại Đồng một bước. Hồ Toản có thể mở thành chịu chết, không tiếc tính mạng nhằm mưu đồ một hư danh nhưng hắn lại không thể.
Sắc mặt Đại vương xám như tro tàn, hắn than thở:
- Cô(*) biết! Nhưng quân coi giữ Đại Đồng quá ít, mở cửa thành đánh địch sẽ vô dụng, ngược lại sẽ đánh mất trọng trấn biên cương này vào tay giặc.
(*: tiếng tự xưng của Vương hầu thời phong kiến)
Hắn đột nhiên xoay người, rút trường kiếm của thị vệ bên cạnh ra đặt ngang trước ngực rồi quát to:
- Dòng dõi Đại vương thụ phong Đại Đồng, mang trọng trách giữ biên cương bảo vệ xã tắc. Quân coi giữ Đại Đồng đều phải nghe theo hiệu lệnh của bản vương!
Đỗ tổng binh, Hồ tuần phủ! Toàn lực thủ thành, không được để một binh một lính giặc Thát công được lên thành. Cô vương ở đây đốc thúc, nếu Hoàng thượng tuẫn quốc thì là do bản vương không thể cứu viện, cô vương sẽ tự vẫn tạ tội, không quan hệ gì với các vị đại nhân!
Còn không mau đi!
Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản lộ vẻ xúc động, buột miệng:
- Đại vương gia, ngài...
Đại vương trợn mắt hét lớn:
- Còn không mau đi?
Hai người giậm chân liên hồi ra vẻ chẳng đặng đừng, rồi cũng đành vội vã rời khỏi vọng lâu, chạy lên lầu thành chỉ huy việc thủ thành. Đại vương đi tới cửa ngách, chống kiếm quay về hướng đông nhìn núi Bạch Đăng xa xa, lặng lẽ cầu khẩn:
- Hoàng thượng! Người tốt sẽ được ông trời cứu giúp, nhất định phải giữ vững cho được nghe!
***
Những khẩu pháo Hồi Hồi to lớn cao tới ba trượng, có thể ném những tảng đá lớn nặng hai trăm cân ra xa một trăm trượng. Núi Bạch Đăng chỉ cao hơn năm mươi trượng, đạn bắn ra lại là các loại đạn tạo khói lửa đựng trong chum vò gốm nặng có sáu bảy cân, cho nên pháo Hồi Hồi được biến đổi rất nhiều, chủ yếu chỉ dùng máy ném đá cao chưa đến hai trượng, dùng mười một cây gỗ dài ngắn khác nhau kết lại thành một cái giá đỡ giản dị. Hơn nữa bởi vì phải tập kích thần tốc nên bọn chúng không thể mang theo những quả tạ làm đối trọng nặng mấy ngàn cân nên đành chỉ dùng sức người để kéo dây chằng.
Phân trâu, phân sói, các loại cỏ độc ngâm thạch tín bốc cháy phát ra mùi cay thối sặc sụa làm mọi người buồn nôn. Trên núi có gió nhưng người Thát không ngừng ném đồ dẫn hỏa lên núi từ phía đầu gió, sau khi rơi xuống đất vỡ tan, những viên đạn “hóa học” vẫn không ngừng tỏa khói đặc. Khói độc không ngừng bay về phía cuối gió, rất nhiều sĩ tốt bị hun đến không cầm được nước mắt, không thể mở mắt ra được.
Còn may đây là một hòn núi đất, không phải tường thành toàn đá hộc. Chúng tướng lập tức ra lệnh cho binh lính đào đất chôn các bãi chất cháy. Từ trên trời những quầng lửa liên tục bay xuống, còn tất cả sĩ tốt trên đỉnh núi thì ra sức đào đất để chôn. Mặc dù rất nhiều sĩ tốt bị hun đến mức hai mắt sưng đỏ, không ngừng chảy nước mắt nhưng vẫn chưa đến mức không thể chịu được.
Đám người Chính Đức đang ở trong lều lớn cũng không ngờ tới giặc Thát sẽ dùng tới chiêu này. Dương Lăng vội vã chạy về doanh trướng nhắc Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh chui xuống hang ngầm tạm lánh, nhưng lúc này chính là thời khắc nguy cấp, đứng trên núi có thể thấy tình thế công thủ địch ta nên còn đỡ sốt ruột. Nếu chui xuống hang, mặc dù không bị khói độc hun nữa nhưng ngọn lửa trong lòng thì dập tắt bằng kiểu gì?
Thấy đám người Chính Đức và Hoa Đương đều không muốn xuống hang tránh né, Dương Lăng đành phải gọi người lột khăn trải bàn xuống nhúng nước sạch rồi đưa cho mọi người che lên mặt. Đôi mắt to xinh đẹp của Ngân Kì cũng đã bị khói hun sưng húp, nước mắt lưng tròng, ngay cả chiếc mũi nhỏ nhắn cũng đỏ ửng. Đã giao ước ngầm với cô ta nên Dương Lăng cũng yên tâm hơn với vị cô nương không biết rõ này. Y đã dặn hai thị vệ đại nội chú ý đến mọi hành vi của cô ta; nay thấy cô ta chạy qua chạy lại chỉ lo giúp đỡ mọi người kể cả cha cô ta che khói độc, không có hiện tượng gì khác lạ nên y cũng yên lòng.
Mười mấy khúc gỗ, mấy chục người lắp ráp là đã thành một cái giá ném “đạn hóa học”, tốc độ cực nhanh. Từng chiếc máy ném đá đơn sơ không ngừng được đưa đến dưới chân núi, càng lúc càng nhiều quả bóng chứa chất cháy độc được ném lên trên núi. Bá Nhan cũng đã ước đoán trên núi có thể đào đất chôn vật cháy. Cho dù ông trời phù hộ không có gió, không có tuyết nhưng không thể chỉ dựa vào mấy ngàn quả đạn khí độc mang theo mà có thể đánh hạ được quân Minh. Mục đích của hắn chỉ là muốn khiến cho quân Minh bị đau mắt, giảm sức chiến đấu để quân mình tấn công dễ dàng hơn mà thôi.
Hơn ba trăm quả đạn khói lửa khí độc đã được ném lên núi, khói mù che khắp đỉnh núi. Bá Nhan vừa sai người tiếp tục ném vừa tổ chức đại quân tiến công núi lần nữa. Mùi thạch tín cháy quá khó chịu, cung thủ quân Minh và binh lính của Đóa Nhan Tam Vệ đang không ngừng phải chảy nước mắt, ảnh hưởng rất lớn đến sức phòng ngự từ xa. Quân Thát nhanh chóng tấn công lên đến lưng chừng núi và bắt đầu giáp lá cà với quân Minh.
Số lượng máy ném đá không ngừng tăng, càng ngày càng nhiều đạn khói được ném lên núi. Trong khi đó đa số quân Minh đã băng xuống lưng chừng núi chặn đánh quân Thát, số lượng quân sĩ đào đất chôn chất cháy càng lúc càng ít. Kết quả là khói trên núi cũng càng lúc càng nhiều, sức chiến đấu của quân Minh càng trở nên suy yếu.
Mọi người đều thầm biết rõ việc đỉnh núi bị đánh hạ chỉ còn là vấn đề thời gian. Hi vọng duy nhất trong lòng bọn họ nằm ở chỗ nơi này là địa bàn của Đại Minh, quân Minh có mấy chục ngàn đại quân đóng ở quan ải Trường Thành gần đó; giờ đây bọn họ chỉ có thể cố gắng giết địch, cố gắng kéo dài thời gian.
Viện quân mà đến thì có thể hình thành thế trận bao vây quân giặc cả bốn phía và bọn họ sẽ từ giữa bung ra. Nếu như không thể vây diệt toàn bộ đội kỵ binh tác chiến của quân Thát tại đây thì cũng có thể khiến Bá Nhan thảm bại, thực lực tổn thương nghiêm trọng, do đó triều Minh sẽ đạt được một thắng lợi mang tính quyết định. Nếu như viện quân đến muộn thì chỉ có thể nhặt xác cho mọi người mà thôi.
Đám người Hoa Đáng không hề ngu. Đến lúc này bọn họ cũng đã thấy được cái gọi là mưu kế lấy chính mình làm mồi dụ dỗ Bá Nhan vào bẫy có đến tám chín phần mười là giả. Chỉ có điều lúc này chiến sự đã nổ ra kịch liệt bốn bề núi Bạch Đăng, tất cả binh lính đều chen chúc liều mình chém giết. Cho dù bọn họ có hối hận cũng không có cách nào tập kết quân đội của mình để chống lại quân Minh hay bỏ chạy thoát thân.
Quân đội cố thủ núi Bạch Đăng đã tới đường cùng, hỏa mai đã bắn hết, tên cũng không còn, chỉ có thể dùng đao thương chém giết. Quân Thát đang dần dần lấn lên đỉnh núi, ép quân Minh vào giữa. Dương Lăng chỉ chia một ngàn đao thuẫn thủ và hai trăm thị vệ đại nội bảo vệ lều lớn, còn lại tất cả quan quân đều được phái ra bốn phía chống địch, ngay cả đội dự bị cũng không có.
Quân Minh đang từng bước lui lại, nói chính xác là đám Thát Đát hung hãn liều mạng đang vừa chém giết vừa giẫm đạp thi thể tiến lên đỉnh núi từng tấc một. Giữa lúc đỉnh núi đang trong thế chỉ mành treo chuông, bỗng có tiếng vó ngựa từ xa xa vọng đến. Từ trên cao, những quan binh đang chặn đánh địch ở bên mé tây đã có thể thấy rõ một đại đội kỵ binh đang phi đến như bay. Áo giáp sáng lòa, cờ bay phần phật, rõ ràng là quan binh Đại Minh.
Giống như được tiêm một mũi thuốc trợ tim, đám quan binh sức cùng lực kiệt lập tức reo hò, đao thương mãnh liệt vung lên, càng đánh càng hăng. Cuối cùng cũng đợi được viện quân đến rồi, còn viện quân có bao nhiêu thì bây giờ còn chưa ước lượng được. Nhưng sự kiện viện quân đã đến này lại khiến cho nhuệ khí hai bên thay đổi rất rõ ràng. Cho dù binh lính Thát Đát cực kỳ dũng mãnh cũng không khỏi cảm thấy chán nản, toàn quân đều bắt đầu nhụt chí.
Nhận được tin, Bá Nhan thầm rợn người, chuyện hắn lo lắng nhất rốt cục đã xảy ra. Nếu như đại đội nhân mã quân Minh chạy tới bao vây toàn bộ đội quân của hắn thì chẳng những nước cờ được ăn cả ngã về không này khó thể thành công, mà nếu như không kịp thời phá vòng vây, khiến cho bị trong ngoài giáp công thì có thể toàn quân bị diệt, tất cả đi đời nhà ma.
Chỉ kém một bước, chỉ cần khoảng non nửa canh giờ nữa Chính Đức sẽ trở thành đồ trong túi của mình. Cứ như vậy mà lui về đại mạc hay sao? Mũi Bá Nhan cay cay, hắn điên cuồng rống to:
- Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, dẫn người của ngươi ngăn cản viện quân Minh triều. Ta chỉ cần nửa canh giờ, chỉ cần nửa canh giờ nữa thôi!
Tiếng gào thảm thiết của hắn làm đám tùy tùng và thủ lĩnh các bộ lạc xung quanh rối loạn. Đội dự bị có sáu ngàn người, do hai anh em kết nghĩa với Bá Nhan là Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ và Húc Nhật Cán chỉ huy. Hai người này đã đi theo Bá Nhan tung hoành thảo nguyên đại mạc không gì cản nổi, là một trong những tướng quân anh dũng thiện chiến nhất.
Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ cũng biết kéo dài nửa canh giờ có ý nghĩa gì đối với cả thảo nguyên. Hắn rút thành cương đao sáng như tuyết ra, quát lớn:
- Theo ta chặn địch! Cho dù quân Minh là một trận bão cát cũng phải chặn đứng bọn chúng. Xông lên!
Ba nghìn tinh kỵ cùng hò hét vang dội, rút loan đao (đao cong) sáng như tuyết ra, không hề chùn bước xông lên chặn đánh đám quân Minh đang phi đến như bay. Đối với đại đội quân Minh đang phi nhanh đến, ba nghìn tinh kỵ Mông Cổ giống như một mũi dao nhọn sắc bén. Nếu như hai quân lao vào nhau, tinh kỵ Thát Đát lấy khỏe đánh mệt, quyết tâm tử chiến đến cùng sẽ có thể xé đội hình rời rạc của quân Minh ra một vệt dài, có thể đột nhập thẳng vào sâu nửa dặm, từ giữa tách đôi đội hình địch ra, tiến hành chém giết.
Tuy nhiên quân Minh lại như không nhận thấy dụng ý của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, vẫn lao tới với đội hình rời rạc. Dương Lăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng trên đỉnh núi nhìn thấy đại đội nhân mã quân Minh kéo đến đều cảm thấy tinh thần phấn chấn. Làm cho bọn họ vui mừng nhất là, đây là một đội ngũ toàn kỵ binh, hơn nữa từ trên núi có thể thấy rõ nhân số của họ nhiều hơn ba nghìn kỵ binh quân Thát chặn đánh gấp mấy lần. Đây là đội thiên binh từ đâu xuất hiện?
Một cây soái kỳ trong tay tên lính cầm cờ cường tráng đang bay phần phật do cuồng phong do đàn tuấn mã phi nhanh tạo nên. Hắn điều khiển ngựa bằng hai chân, hai tay gồng lên nắm chặt cán cờ được giữ chắc chân bằng một cái vòng cài bên cạnh yên ngựa. Trên lá cờ chỉ có một chữ rõ to: “Vương”!
Người tiên phong đi trước soái kỳ chữ Vương bỗng nhiên giương cung, một phát ba mũi tên, lập tức trong đám kỵ binh Thát Đát chạy như bay đối diện có ba kẻ rơi xuống ngựa. Ba mũi tên này như là hiệu lệnh, tinh binh Mông Cổ cũng lập tức giương cung đặt tên, một cơn mưa tên rợp trời ngập đất bay tới.
Đại soái của cánh tinh binh này chính là Phó tướng Tam Quan Vương Thủ Nhân, người dẫn hai vị tướng quân du kích chơi trốn tìm với Hỏa Sư ở quan ngoại. Bởi vì hắn dẫn quân ra ngoài Trường Thành, không ngừng giằng co với Hỏa Sư, nếu sức cơ động không đủ thì chắc chắn sẽ thất bại, cho nên Dương Nhất Thanh tập hợp đại bộ phận kỵ binh của các lộ quân trong tay mình, tạm thời tạo nên một đội quân toàn kỵ binh giao cho Vương Thủ Nhân chỉ huy.
Tổng binh lực của Vương Thủ Nhân ước chừng hai mươi ngàn người, đông hơn quân Hỏa Sư, nhưng hắn rất ít khi tiếp chiến chính diện với Hỏa Sư. Dù sao cưỡi ngựa bắn cung cũng không phải chuyện thành thục trong một sớm một chiều, chiến lực của quân đội hắn còn chênh lệch so với bộ đội sở thuộc của Hỏa Sư. Có điều khiến Hỏa Sư đau đầu là vị tướng quân Đại Minh này vẫn bám sát hắn không rời, bất kể hắn muốn tấn công quấy rối nơi nào cánh quân này cũng luôn đi theo phía sau cháy nhà hôi của.
Hỏa Sư giận dữ muốn tìm hắn quyết chiến nhưng đối phương lại tránh không tiếp chiêu, bất đắc dĩ đành dẫn hắn vào khe núi định sử dụng địa lợi chống lại.
Trong lần duy nhất tác chiến ở đồng bằng này, Hỏa Sư vốn định một đòn đánh tan đội kỵ binh chủ lực của quân Minh, không ngờ Vương Thủ Nhân đã đào hố bẫy ngựa, đặt ván chông, thậm chí còn đặt cả những cây gỗ tròn phía trước vót nhọn, phía sau đóng ván ngang, bên dưới ván ngang đào hố trên đường xung phong của quân Hỏa Sư.
Chiến mã chạy trước đạp lên ván gỗ, đầu nhọn phía sau sẽ chống lên đâm xuyên qua chiến mã phía sau. Hai quân chưa gặp nhau, quân Hỏa Sư đã tổn thương nặng nề, hơn nữa kỵ binh không dám chạy nhanh nữa. Người Mông Cổ vô địch thiên hạ không phải dựa vào đao thương mà là tên nhọn và khoái mã. Quả thực khoái mã bị mất ưu thế chính là quân Thát tự phế một nửa sức lực. Sau trận này, chỉ cần nhìn thấy đại kỳ chữ Vương thì Hỏa Sư đã đau đầu, dứt khoát chuyển sang chơi trò trốn tìm với hắn.
Hôm nay đang bám theo đại quân của Hỏa Sư đi tới gần Cự Lỗ môn, đột nhiên Vương Thủ Nhân phát hiện quân địch lại biến mất. Vùng này nhiều núi, lúc đầu Vương Thủ Nhân cho rằng Hỏa Sư cũng bắt chước mai phục lại mình, nên liền ra lệnh cho đại quân hạ trại men núi, lưng dựa vào Kháng Hồ Bảo, phái thám mã truy tìm hành tung của Hỏa Sư.
Một lát sau khói lửa nổi lên, liền sau đó thám mã báo dấu chân ngựa biến mất trong khe núi hẹp ở Cự Lỗ môn, hoàn toàn không còn bóng dáng, nhưng trên quan ải Cự Lỗ môn vẫn cắm cờ Đại Minh. Vương Thủ Nhân chợt nghi ngờ: Dù Hỏa Sư vẫn quanh quẩn gần các quan ải nhưng hắn xảo trá như cáo, nếu muốn mai phục thì hắn sẽ không mạo hiểm mai phục hàng vạn người ở gần quan ải của Đại Minh. Hơn nữa, hai bên khe núi kia rất hiểm trở, không thể giấu được đông người, người của Hỏa Sư bay lên trời hoặc chui xuống đất rồi hay sao?
Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân lập tức từ bỏ nhiệm vụ bám theo Hỏa Sư, nhổ trại trở về quan ải, vào quan ải qua Kháng Hồ Bảo cách cửa Cự Lỗ vài dặm. Hỏi quân canh giữ phong hỏa đài, bọn họ cũng chỉ biết có khói lửa dấy lên nên tăng cường đề phòng ở quan ải này, nhưng không hề biết quân Thát đang tấn công ở nơi nào.
Vương Thủ Nhân nghe tin lập tức chạy như bay đến Đại Đồng, còn tiện tay lấy vài món lợi khí mang theo. Hắn cũng biết hôm nay Hoàng đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ bàn bạc kết minh ở núi Bạch Đăng, tuy rằng phỏng đoán quân Thát đã dễ dàng lọt vào quan ải và đang đánh úp núi Bạch Đăng đúng là quá lớn mật, nhưng chuyện này quá quan trọng, luôn phải đề phòng cho yên tâm. Cùng lắm xem như là mình lui quân về nghỉ ngơi là xong.
Đại quân vừa chạy tới Thủy Thanh Sách, còn cách thành Đại Đồng vài dặm, bọn hắn đã nghe thấy tiếng chém giết rung trời từ xa xa, đúng lúc này trên núi Bạch Đăng cũng dấy lên khói lửa. Hiểu rõ địa hình bản địa, Vương Thủ Nhân lập tức ra lệnh đại quân bỏ đường lớn đi đường tắt chạy đến núi Bạch Đăng, vừa kịp chạy tới đúng lúc núi sắp bị công chiếm.
Xa xa nhìn thấy quân lính rợp núi, không biết bây giờ Hoàng đế còn sống hay đã chết, Vương Thủ Nhân sợ đến mức tái mặt. Vì vậy, hắn lập tức thúc ngựa đi đầu, dẫn quân lao tới. Cơn mưa tên của giặc Thát bay tới, các binh sĩ đều cầm lá chắn tròn bên cạnh yên ngựa lên che chắn. Vương Thủ Nhân tay trái cầm cung, tay phải cầm lá chắn, ngồi trên ngựa hét lớn: "Bắn thần hỏa tiễn!"
Đám binh lính xông lên đầu tiên đều mang những loại vũ khí có hình thù khá kỳ lạ. Tất cả các loại vũ khí lấy từ Kháng Hồ Bảo này đều là các loại tên lửa gọn nhẹ. Có tên tổ ong (nhất oa phong tiễn), tên đàn ưng đuổi thỏ (quần ưng trục thố tiễn), tên lửa sao băng (hỏa nỗ lưu tinh tiễn), tên trường xà phá địch (trường xà phá địch tiễn). Chỉ trừ hai loại tên phi liêm bốn mươi chín mũi (tứ thập cửu thỉ phi liêm tiễn) khá nặng nề và loại tên trăm hổ cùng chạy (bách hổ tề bôn tiễn) phải dùng xe đẩy hoặc phải hai người mới bắn được, còn lại hắn đều vơ vét sạch sẽ. Các binh sĩ dùng dây đeo buộc trước ngực, có khoảng hai mươi mấy hòm.
Đám binh lính xông lên đầu tiên đội mưa tên đánh đá lửa, trong tiếng xé gió, từng mũi tên lửa bay vụt ra ngoài. Độ chính xác của tên lửa thì không có gì đáng chờ mong, nhất là ngồi trên khoái mã mà bắn thì càng khỏi phải nói.
May là kỵ binh Thát Đát phía trước xếp thành đội hình đao nhọn tập trung, quả thực chính là bia ngắm sống. Danh tướng Thích Kế Quang đời sau có một cách nói rất thú vị để hình dung về tên lửa, đại để là: “Bắn tên lửa giữa vạn kỵ binh, hoàn toàn không cần ngắm ai, châm lửa rồi mặc cho số phận. Phương hướng bắn chúng ta không đoán được, địch cũng không đoán được, thật sự vừa thú vị lại vừa kỳ diệu.”
Những mũi tên này chủ yếu là nhanh, bắn liên tục, còn nhanh gấp mấy lần những xạ thủ cao minh nhất của quân Thát. Vô số mũi tên bay ngang bay dọc, còn có mũi vừa bay vừa uốn lượn. Hai đội quân càng ngày càng gần, quân Minh ngã xuống mười mấy tên, quân Thát lại bị bắn chết gần trăm người. Làm mọi người khó hiểu nhất chính là những mũi tên bay xiêu xiêu vẹo vẹo đó, có mũi còn tránh qua tên địch phía trước rồi bắn trúng tên chạy phía sau.
Hơn trăm con chiến mã mất người cưỡi lập tức khiến đội hình xung phong sắc bén của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ bị lộn xộn. Khí thế phá núi mở đường biến mất, lập tức hai luồng nước lũ đan xen vào nhau, tiếng hét đinh tai nhức óc, tiếng vũ khí va chạm không dứt bên tai. Binh lính hai bên điên cuồng mượn đà xông của khoái mã liều mạng chém giết.
Trong trận chém giết giữa hai đội kị binh lao ngược chiều này không có chuyện chiến đấu một chọi một. Thường thường kỵ sĩ hai bên vừa chém được một đao thì hai con ngựa đã lướt qua nhau, họ lại giao thủ với đối thủ mới, giao đối thủ vừa rồi cho đồng đội đằng sau.
Trong giờ khắc này chỉ có giết người mới có thể tránh cho mình khỏi bị giết. Những binh lính thường ngày rất nhỏ bé này, bất kể trước kia là ti tiện hay là gian manh, cương nghị hay là hèn nhát, âm hiểm hay là quang minh, bây giờ tất cả đều hò hét với khí thế ngất trời, tạo thành một làn sóng xung kích làm mọi người sôi trào nhiệt huyết đưa mình trong chiến trường xay thịt, nghe thấy từng tiếng ma sát chói tai ghê răng.
Bởi vì thuật cưỡi ngựa của quân Minh không bằng quân Thát, mà mã đao muốn phát huy hết ưu thế tấn công thì phải mượn lực cánh tay, lực vặn eo và sức lao của chiến mã; người cưỡi ngựa kém thì cả ba yếu tố này đều kém theo. Vương Thủ Nhân tạm thời không thể nâng cao kỹ năng cá nhân của đội quân tổ hợp tạm thời này nên đành phải giở trò ở binh khí.
Gần năm nghìn kỵ binh đi đầu đều dùng lang nha bổng, lực cánh tay của bọn họ không đủ để sử dụng lang nha bổng bằng sắt thật sự, cho nên tất cả đều dùng những khúc gỗ lê trên to dưới nhỏ vừa cứng vừa nặng, trên đầu đóng rất nhiều đinh sắt to bằng ngón út dài nửa thước. Lang nha bổng va chạm với mã đao sắc bén của đối phương, tiếng ken két vang lên không dứt, còn có thể lợi dụng những móc câu trên đinh sắt để giảm tốc độ vung đao của đối phương.
Lang nha bổng nhẹ nhàng vẫy trái cản phải, đâm trước đập sau, triệt tiêu nhược điểm kỹ năng cá nhân của chiến sĩ. Ưu thế tuyệt đối về nhân số áp đảo sự dũng mãnh thiện chiến của đội quân Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ tinh nhuệ. Một cơn sóng cuồn cuộn tràn tới, ba nghìn tinh kỵ Thát Đát rơi vào giữa biển quân gần hai mươi ngàn người của quân Minh.
Từ đỉnh núi nhìn xuống, đội quân tiên phong và hai cánh quân Minh vẫn đang xung phong, còn chính giữa đội ngũ lại như xoáy nước cuồn cuộn không ngừng. Ba nghìn kỵ binh của Húc Nhật Can cũng đã xông lên, sử dụng mưa tên ngăn cản thế công của quân Minh chỉ trong chốc lát rồi sau đó cũng rơi vào vòng vây của quân Minh.
Lại là một trận hỗn chiến.
Vương Thủ Nhân chỉ mang mấy trăm người lao ra khỏi đội hình của Húc Nhật Can, cùng mấy ngàn binh mã hai cánh lao thẳng tới chiếc lều lông cừu phía trước.
Trong lều lông cừu là Đại Hãn Thát Đát và thủ lĩnh các bộ đã không còn đại quân bảo vệ.
Bắt giặc phải bắt vua trước!
Muốn cứu chỗ phải cứu của ta thì hãy tấn công chỗ phải cứu của địch trước!
Nếu như Vương Thủ Nhân thúc ngựa lên núi thì hắn sẽ không phát huy được ưu thế của kỵ binh, xông đến lưng chừng núi tất nhiên sẽ phải xuống ngựa khổ chiến với quân Thát đang tấn công núi. Cho dù rốt cuộc có đuổi tận giết tuyệt được toàn bộ quân Thát Đát đi chăng nữa thì việc có thể bảo đảm được an toàn của Hoàng đế trong đám loạn quân hay không lại là một vấn đề khác. Chiêu vây Ngụy cứu Triệu của hắn nhắm khiến cho quân Thát sắp đánh chiếm đỉnh núi không thể không lập tức quay lại cứu người, hiểm cảnh trên núi sẽ lập tức được giải khai.
Quả nhiên ngay từ lúc đội kị binh cứu viện của quân Minh lao tới, các đầu lĩnh quân Thát đang chỉ huy công núi đã phải chú ý theo dõi. Nay vừa thấy tình hình nguy hiểm, bọn họ liền lập tức tập kết đại quân lao ngay trở lại.
Tất cả thân binh bên người Bá Nhan và các thủ lĩnh cộng lại cũng chỉ được hơn một ngàn người, nhưng đều là những chiến sĩ dũng cảm. Bọn họ lập tức vung binh khí chặn trước mặt các thủ lĩnh, bắt đầu chém giết với quân Minh.
Xác người xác ngựa ngổn ngang, tay cụt chân gãy vô cùng thê thảm, máu tươi trộn lẫn bùn đất, mặt đất vốn phủ tuyết trắng tinh sớm đã đổi màu, không khí tràn đầy mùi máu tanh khiến mọi người buồn nôn.
Quan sát tình hình trước mắt, Dương Lăng lập tức bảo với Hứa Thái và Mã Cáp Lư đang máu nhiễm chiến bào:
- Thắng bại là ở lần này! Lập tức tập hợp toàn quân, tấn công quân địch chính diện, đón binh mã của Vương tướng quân tới gần!
Hứa Thái nhận lệnh, lập tức tập hợp đám quan binh còn chưa thở dốc xong. Trừ bộ binh, toàn bộ lên ngựa lao xuống núi. Tay cầm cây gậy sắt nặng nề, Mã Cáp Lư cũng gọi đám binh sĩ ba vệ còn sống sót lại, rồi cùng gào thét lao xuống núi. Hai luồng đại quân trang phục khác màu, đan xen vào nhau lao xuống, khói bụi bay lên cuồn cuộn. Trường thương, cương đao lấp lánh đầy sát khí bức người.
Bị Vương Thủ Nhân vây quanh tạo thành hai nửa vòng tròn một lớn một nhỏ là sáu ngàn thiết kỵ quân hậu bị Thát Đát và một ngàn tinh binh của Khả Hãn Bá Nhan và các thủ lĩnh bộ minh. Bên ngoài là binh lính Mông Cổ lũ lượt kéo về cứu viện, theo sát là hơn tám ngàn kỵ binh Đại Minh và Đóa Nhan Tam Vệ lao xuống, cố gắng thừa dịp trận hình phản bao vây của quân Thát chưa kịp hình thành để mở một lối đón viện quân lên núi.
Vó ngựa rầm rập, mặt đất rung động, các kỵ sĩ xung phong gào thét điên cuồng, trước sau trái phải khắp nơi đều là chiến sĩ địch ta lẫn lộn. Ngôn ngữ bất đồng nhưng tiếng gào thét như dã thú lại tương tự nhau.
Chính Đức trên đỉnh núi nhìn mà máu nóng sôi trào, vô cùng háo hức. Có điều, trừ phi Dương Lăng phơi thây tại chỗ, bằng không, dù chỉ còn một hơi thở y cũng không bao giờ chịu để hắn lên ngựa tham chiến.
Đúng lúc này tiếng sấm rền vang, tiếng hô xung phong rung trời, từ phía Phi Hồ Độ xuất hiện một cánh quân điên cuồng đạp tuyết chạy đến. Đội kỵ binh này giáp trụ sáng ngời, tất cả đều là đại đao cán dài, người như hổ, ngựa như rồng, bốn vó chiến mã tung bay, bụng ngựa gần như dán sát mặt đất.
Đội kỵ binh này quân số không nhiều, cùng lắm chỉ hơn ngàn người. Đội hình lại kéo rất dài, chỉ phi như bay chứ không hề quan tâm đến phối hợp, hơn nữa ngay cả chiến kỳ cũng không có, tỏ ra là một đội quân rời rạc. Nhưng đối với binh lính Thát Đát đã mất niềm tin tất thắng thì cánh quân xuất hiện đột ngột này đã triệt để đánh sập chiến ý của họ: Quân đội tiếp viện của quân Minh đã bắt đầu ùn ùn xuất hiện!
Dưới sự bảo vệ của hơn ngàn thân binh quyết tử, Bá Nhan cùng các đầu lĩnh đột phá vòng vây hội hợp với một chi hơn năm ngàn người ngựa từ trên núi kéo về tiếp viện, lúc này đội thân binh đã tổn thất hơn ba trăm người. Lòng đau như dao cắt, Bá Nhan biết trận tất tay này đã thất bại triệt để, lúc này còn không rút đi thì sợ rằng toàn quân đều phải bỏ mạng tại đây.
Tiếng kèn thê lương vang lên, đó là tín hiệu phá vòng vây rút lui của quân Thát...
Vốn Hỏa Sư nhận được mệnh lệnh là nội ứng sẽ mở cửa thành phía tây cho đại quân tràn vào. Với mười lăm ngàn quân tinh nhuệ của hắn thì cả tòa thành Đại Đồng lập tức sẽ trở thành món đồ trong túi, vì vậy ngay cả khí giới công thành hắn cũng không thèm mang theo. Nhưng khi quân khinh kị của hắn hào hứng chạy đến dưới thành phía tây lại bất ngờ bị quân coi giữ Đại Đồng bắn cho một trận mưa tên phải thối lui, Hỏa Sư tức giận đến mức chửi thầm trong bụng.
Khi thấy Bá Nhan tự mình dẫn đại quân đánh úp núi Bạch Đăng, Hỏa Sư cũng ghét chuyện tranh cướp công đầu của Khả Hãn, nhưng suy đi nghĩ lại hắn nhận định cho dù thị vệ bên người Hoàng đế không quá mười ngàn nhưng chắc chắn toàn là tinh binh, trận chiến đó nhất định sẽ rất khó khăn. Trong khi đó, quân của mình không cần tốn bao nhiêu công sức cũng hạ được Đại Đồng, thoải mái đốt giết cướp bóc có thể giúp đám sĩ tốt từng chịu đựng nhiều nỗi gian nan vất vả này kiếm được một mớ, tính ra cũng lời chán. Nào ngờ việc phòng ngự trên thành Đại Đồng rất nghiêm, chờ mãi vẫn không thấy nội ứng mở cửa thành, Hỏa Sư cho rằng Bá Nhan cố ý lừa mình, tuy nổi giận trong lòng nhưng phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Lúc này lại không thể một mình lui quân làm hỏng đại cục, hắn đành phải cố gắng cho quân khổ chiến.
Chặt cây tại chỗ đóng thành thang dài, đám binh lính cuồng nhiệt trong mắt chỉ có rượu mạnh, gái đẹp, vàng bạc lẫn tiền của ra sức leo lên không hề sợ hãi. Quân Minh coi giữ trên tường thành sớm đã bày trận chờ địch, dù gặp đại chiến mà vẫn ung dung kéo cung bắn tên, vác đá ném xuống, hàng loạt câu liêm vô tình đẩy những chiếc thang ra khỏi tường thành cao mấy trượng. Tiếng kêu thảm của binh lính Thát Đát vang lên, những khúc gỗ đóng đầy đinh sắt dài cả thước lại được lăn xuống dưới thành.
Thành Đại Đồng được xây dựng rất hùng vĩ, tường thành vừa chắc chắn vừa hiểm trở, các loại thiết bị phòng ngự đều đầy đủ, thân tường thành được xây bằng gạch, bên trong đổ vữa rồi đầm từng đoạn từng lớp. Tường thành cao khoảng năm trượng, mặt trên tường thành cũng rộng năm trượng, đủ chỗ cho đại đội nhân mã di chuyển nhanh chóng. Lỗ châu mai, lầu thành, vọng lâu, vọng canh đan xen nhau, có thể quan sát địch từ xa, ẩn nấp, bắn tên, tiếp ứng, khống chế điểm cao, tạo thành một phòng tuyến nhiều tầng nhiều lớp hoàn chỉnh.
Độc hỏa pháo, Oanh thiên phích lịch pháo không ngừng bắn những viên đạn vô tình xuống dưới thành thu hoạch mạng người. Vô số binh lính qua lại trên tường thành lăn gỗ, lăn đá, đổ dầu, bắn tên tạo thành một phòng tuyến không thể phá vỡ. Còn quân Thát thì như từng đợt sóng không ngừng điên cuồng lao vào thành trì. Tên giặc bắn như mưa, cũng không ngừng gặt hái tính mạng quân Minh.
Xác chất như núi, máu chảy khắp nơi, tiếng chém giết rung trời. Thi thể của đồng đội bị chà đạp vô tình như những miếng giẻ rách; không ngừng có người ngã xuống, trở thành một trong những xác chết bị giẫm đạp. Mặc dù thành trì vẫn sừng sững bất động dưới những đợt sóng tiến công của giặc Thát nhưng trong lòng Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc lại như lửa đốt, gần như cả hai sắp hộc máu đến nơi.
Núi Bạch Đăng mới là chốn bọn họ thật sự bận tâm lo lắng. Nếu như chỗ đó có bất trắc gì thì trời mới biết Đại Minh sẽ gặp phải một tương lai u ám như thế nào. Nhìn thấy một sợi khói đặc quánh bay lên xa xa từ núi Bạch Đăng, Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc vừa cảm thấy vui mừng lại lập tức sắc mặt trở thành xanh mét.
Núi Bạch Đăng báo tin Hoàng đế không việc gì, đỉnh núi còn chưa bị giặc Thát chiếm đóng. Nhưng đồng thời cũng cho biết tình thế hết sức ngặt nghèo, nếu như viện binh không đến kịp thì đỉnh núi có thể sẽ bị đánh chiếm trong chốc lát.
Hồ Toản giậm mạnh chân, hai mắt đỏ ngầu nhìn Đỗ Nhân Quốc quát:
- Đỗ đại nhân! Ta phải tập hợp toàn bộ người ngựa, bỏ thành đi tiếp viện núi Bạch Đăng. Hoàng thượng ở đó, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng cho được! Chỉ cần giữ được đỉnh núi, đại quân của Dương Nhất Thanh kéo tới là chúng ta còn có thể đoạt lại Đại Đồng!
Ý kiến này thật sự ngu xuẩn. Quân chính quy trong thành không quá năm nghìn, cho dù cộng thêm binh nghĩa dũng và tráng đinh thì toàn bộ quân binh vẫn không đông bằng quân công thành. Hơn nữa giặc Thát ở ngoài thành là kỵ binh, nếu bọn họ thật sự tập hợp binh lính lao ra khỏi thành thì chẳng những thành sẽ bị mất mà chỉ trong nửa canh giờ toàn bộ binh mã cũng sẽ bị đối phương chia cắt rồi lần lượt tiêu diệt.
Đỗ Nhân Quốc gian nan nuốt nước bọt. Hắn còn chưa kịp trả lời thì đã nghe một tiếng gầm giận dữ vang lên:
- Ngu không ai bằng! Quân ta ra thành là trúng gian kế của giặc Thát, nếu Hoàng thượng gặp nạn mà tòa thành vững chắc này rơi vào tay địch thì còn ai có thể địch được quân Thát? Toàn bộ Sơn Tây, thậm chí cả kinh thành cũng sẽ gặp nguy trong sớm tối!
Hai người quay phắt lại, nhận thấy một đội giáp sĩ vây quanh Đại vương điện hạ đi vào vọng lâu. Tiếng chém giết vẫn vang lên khắp nơi, Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản vội vàng tiến lên bái kiến. Hồ Toản khóc lóc báo:
- Điện hạ! Núi Bạch Đăng truyền tin báo động, Hoàng thượng gặp nguy hiểm rồi!
Đại vương cũng biết hắn nói có lý, chỉ riêng chuyện thấy nguy không cứu và những lời hôm nay, một khi Hoàng đế vị quốc vong thân thì đã đủ để trở thành lý do vạch tội bọn họ. Ngay cả hắn là dòng dõi hoàng tộc cũng khó tránh khỏi trở thành vật hi sinh chính trị, nếu chỉ bị tù chung thân thì chắc chắn đó cũng là hình phạt nhẹ nhất rồi.
Nhưng cội rễ của hắn ở đây, tất cả con cháu hắn đều ở trong thành. Dòng dõi Đại vương đã sống ở đây hơn trăm năm, trừ năm trước vào kinh còn những lúc khác thậm chí hắn còn chưa bao giờ rời khỏi Đại Đồng một bước. Hồ Toản có thể mở thành chịu chết, không tiếc tính mạng nhằm mưu đồ một hư danh nhưng hắn lại không thể.
Sắc mặt Đại vương xám như tro tàn, hắn than thở:
- Cô(*) biết! Nhưng quân coi giữ Đại Đồng quá ít, mở cửa thành đánh địch sẽ vô dụng, ngược lại sẽ đánh mất trọng trấn biên cương này vào tay giặc.
(*: tiếng tự xưng của Vương hầu thời phong kiến)
Hắn đột nhiên xoay người, rút trường kiếm của thị vệ bên cạnh ra đặt ngang trước ngực rồi quát to:
- Dòng dõi Đại vương thụ phong Đại Đồng, mang trọng trách giữ biên cương bảo vệ xã tắc. Quân coi giữ Đại Đồng đều phải nghe theo hiệu lệnh của bản vương!
Đỗ tổng binh, Hồ tuần phủ! Toàn lực thủ thành, không được để một binh một lính giặc Thát công được lên thành. Cô vương ở đây đốc thúc, nếu Hoàng thượng tuẫn quốc thì là do bản vương không thể cứu viện, cô vương sẽ tự vẫn tạ tội, không quan hệ gì với các vị đại nhân!
Còn không mau đi!
Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản lộ vẻ xúc động, buột miệng:
- Đại vương gia, ngài...
Đại vương trợn mắt hét lớn:
- Còn không mau đi?
Hai người giậm chân liên hồi ra vẻ chẳng đặng đừng, rồi cũng đành vội vã rời khỏi vọng lâu, chạy lên lầu thành chỉ huy việc thủ thành. Đại vương đi tới cửa ngách, chống kiếm quay về hướng đông nhìn núi Bạch Đăng xa xa, lặng lẽ cầu khẩn:
- Hoàng thượng! Người tốt sẽ được ông trời cứu giúp, nhất định phải giữ vững cho được nghe!
***
Những khẩu pháo Hồi Hồi to lớn cao tới ba trượng, có thể ném những tảng đá lớn nặng hai trăm cân ra xa một trăm trượng. Núi Bạch Đăng chỉ cao hơn năm mươi trượng, đạn bắn ra lại là các loại đạn tạo khói lửa đựng trong chum vò gốm nặng có sáu bảy cân, cho nên pháo Hồi Hồi được biến đổi rất nhiều, chủ yếu chỉ dùng máy ném đá cao chưa đến hai trượng, dùng mười một cây gỗ dài ngắn khác nhau kết lại thành một cái giá đỡ giản dị. Hơn nữa bởi vì phải tập kích thần tốc nên bọn chúng không thể mang theo những quả tạ làm đối trọng nặng mấy ngàn cân nên đành chỉ dùng sức người để kéo dây chằng.
Phân trâu, phân sói, các loại cỏ độc ngâm thạch tín bốc cháy phát ra mùi cay thối sặc sụa làm mọi người buồn nôn. Trên núi có gió nhưng người Thát không ngừng ném đồ dẫn hỏa lên núi từ phía đầu gió, sau khi rơi xuống đất vỡ tan, những viên đạn “hóa học” vẫn không ngừng tỏa khói đặc. Khói độc không ngừng bay về phía cuối gió, rất nhiều sĩ tốt bị hun đến không cầm được nước mắt, không thể mở mắt ra được.
Còn may đây là một hòn núi đất, không phải tường thành toàn đá hộc. Chúng tướng lập tức ra lệnh cho binh lính đào đất chôn các bãi chất cháy. Từ trên trời những quầng lửa liên tục bay xuống, còn tất cả sĩ tốt trên đỉnh núi thì ra sức đào đất để chôn. Mặc dù rất nhiều sĩ tốt bị hun đến mức hai mắt sưng đỏ, không ngừng chảy nước mắt nhưng vẫn chưa đến mức không thể chịu được.
Đám người Chính Đức đang ở trong lều lớn cũng không ngờ tới giặc Thát sẽ dùng tới chiêu này. Dương Lăng vội vã chạy về doanh trướng nhắc Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh chui xuống hang ngầm tạm lánh, nhưng lúc này chính là thời khắc nguy cấp, đứng trên núi có thể thấy tình thế công thủ địch ta nên còn đỡ sốt ruột. Nếu chui xuống hang, mặc dù không bị khói độc hun nữa nhưng ngọn lửa trong lòng thì dập tắt bằng kiểu gì?
Thấy đám người Chính Đức và Hoa Đương đều không muốn xuống hang tránh né, Dương Lăng đành phải gọi người lột khăn trải bàn xuống nhúng nước sạch rồi đưa cho mọi người che lên mặt. Đôi mắt to xinh đẹp của Ngân Kì cũng đã bị khói hun sưng húp, nước mắt lưng tròng, ngay cả chiếc mũi nhỏ nhắn cũng đỏ ửng. Đã giao ước ngầm với cô ta nên Dương Lăng cũng yên tâm hơn với vị cô nương không biết rõ này. Y đã dặn hai thị vệ đại nội chú ý đến mọi hành vi của cô ta; nay thấy cô ta chạy qua chạy lại chỉ lo giúp đỡ mọi người kể cả cha cô ta che khói độc, không có hiện tượng gì khác lạ nên y cũng yên lòng.
Mười mấy khúc gỗ, mấy chục người lắp ráp là đã thành một cái giá ném “đạn hóa học”, tốc độ cực nhanh. Từng chiếc máy ném đá đơn sơ không ngừng được đưa đến dưới chân núi, càng lúc càng nhiều quả bóng chứa chất cháy độc được ném lên trên núi. Bá Nhan cũng đã ước đoán trên núi có thể đào đất chôn vật cháy. Cho dù ông trời phù hộ không có gió, không có tuyết nhưng không thể chỉ dựa vào mấy ngàn quả đạn khí độc mang theo mà có thể đánh hạ được quân Minh. Mục đích của hắn chỉ là muốn khiến cho quân Minh bị đau mắt, giảm sức chiến đấu để quân mình tấn công dễ dàng hơn mà thôi.
Hơn ba trăm quả đạn khói lửa khí độc đã được ném lên núi, khói mù che khắp đỉnh núi. Bá Nhan vừa sai người tiếp tục ném vừa tổ chức đại quân tiến công núi lần nữa. Mùi thạch tín cháy quá khó chịu, cung thủ quân Minh và binh lính của Đóa Nhan Tam Vệ đang không ngừng phải chảy nước mắt, ảnh hưởng rất lớn đến sức phòng ngự từ xa. Quân Thát nhanh chóng tấn công lên đến lưng chừng núi và bắt đầu giáp lá cà với quân Minh.
Số lượng máy ném đá không ngừng tăng, càng ngày càng nhiều đạn khói được ném lên núi. Trong khi đó đa số quân Minh đã băng xuống lưng chừng núi chặn đánh quân Thát, số lượng quân sĩ đào đất chôn chất cháy càng lúc càng ít. Kết quả là khói trên núi cũng càng lúc càng nhiều, sức chiến đấu của quân Minh càng trở nên suy yếu.
Mọi người đều thầm biết rõ việc đỉnh núi bị đánh hạ chỉ còn là vấn đề thời gian. Hi vọng duy nhất trong lòng bọn họ nằm ở chỗ nơi này là địa bàn của Đại Minh, quân Minh có mấy chục ngàn đại quân đóng ở quan ải Trường Thành gần đó; giờ đây bọn họ chỉ có thể cố gắng giết địch, cố gắng kéo dài thời gian.
Viện quân mà đến thì có thể hình thành thế trận bao vây quân giặc cả bốn phía và bọn họ sẽ từ giữa bung ra. Nếu như không thể vây diệt toàn bộ đội kỵ binh tác chiến của quân Thát tại đây thì cũng có thể khiến Bá Nhan thảm bại, thực lực tổn thương nghiêm trọng, do đó triều Minh sẽ đạt được một thắng lợi mang tính quyết định. Nếu như viện quân đến muộn thì chỉ có thể nhặt xác cho mọi người mà thôi.
Đám người Hoa Đáng không hề ngu. Đến lúc này bọn họ cũng đã thấy được cái gọi là mưu kế lấy chính mình làm mồi dụ dỗ Bá Nhan vào bẫy có đến tám chín phần mười là giả. Chỉ có điều lúc này chiến sự đã nổ ra kịch liệt bốn bề núi Bạch Đăng, tất cả binh lính đều chen chúc liều mình chém giết. Cho dù bọn họ có hối hận cũng không có cách nào tập kết quân đội của mình để chống lại quân Minh hay bỏ chạy thoát thân.
Quân đội cố thủ núi Bạch Đăng đã tới đường cùng, hỏa mai đã bắn hết, tên cũng không còn, chỉ có thể dùng đao thương chém giết. Quân Thát đang dần dần lấn lên đỉnh núi, ép quân Minh vào giữa. Dương Lăng chỉ chia một ngàn đao thuẫn thủ và hai trăm thị vệ đại nội bảo vệ lều lớn, còn lại tất cả quan quân đều được phái ra bốn phía chống địch, ngay cả đội dự bị cũng không có.
Quân Minh đang từng bước lui lại, nói chính xác là đám Thát Đát hung hãn liều mạng đang vừa chém giết vừa giẫm đạp thi thể tiến lên đỉnh núi từng tấc một. Giữa lúc đỉnh núi đang trong thế chỉ mành treo chuông, bỗng có tiếng vó ngựa từ xa xa vọng đến. Từ trên cao, những quan binh đang chặn đánh địch ở bên mé tây đã có thể thấy rõ một đại đội kỵ binh đang phi đến như bay. Áo giáp sáng lòa, cờ bay phần phật, rõ ràng là quan binh Đại Minh.
Giống như được tiêm một mũi thuốc trợ tim, đám quan binh sức cùng lực kiệt lập tức reo hò, đao thương mãnh liệt vung lên, càng đánh càng hăng. Cuối cùng cũng đợi được viện quân đến rồi, còn viện quân có bao nhiêu thì bây giờ còn chưa ước lượng được. Nhưng sự kiện viện quân đã đến này lại khiến cho nhuệ khí hai bên thay đổi rất rõ ràng. Cho dù binh lính Thát Đát cực kỳ dũng mãnh cũng không khỏi cảm thấy chán nản, toàn quân đều bắt đầu nhụt chí.
Nhận được tin, Bá Nhan thầm rợn người, chuyện hắn lo lắng nhất rốt cục đã xảy ra. Nếu như đại đội nhân mã quân Minh chạy tới bao vây toàn bộ đội quân của hắn thì chẳng những nước cờ được ăn cả ngã về không này khó thể thành công, mà nếu như không kịp thời phá vòng vây, khiến cho bị trong ngoài giáp công thì có thể toàn quân bị diệt, tất cả đi đời nhà ma.
Chỉ kém một bước, chỉ cần khoảng non nửa canh giờ nữa Chính Đức sẽ trở thành đồ trong túi của mình. Cứ như vậy mà lui về đại mạc hay sao? Mũi Bá Nhan cay cay, hắn điên cuồng rống to:
- Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, dẫn người của ngươi ngăn cản viện quân Minh triều. Ta chỉ cần nửa canh giờ, chỉ cần nửa canh giờ nữa thôi!
Tiếng gào thảm thiết của hắn làm đám tùy tùng và thủ lĩnh các bộ lạc xung quanh rối loạn. Đội dự bị có sáu ngàn người, do hai anh em kết nghĩa với Bá Nhan là Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ và Húc Nhật Cán chỉ huy. Hai người này đã đi theo Bá Nhan tung hoành thảo nguyên đại mạc không gì cản nổi, là một trong những tướng quân anh dũng thiện chiến nhất.
Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ cũng biết kéo dài nửa canh giờ có ý nghĩa gì đối với cả thảo nguyên. Hắn rút thành cương đao sáng như tuyết ra, quát lớn:
- Theo ta chặn địch! Cho dù quân Minh là một trận bão cát cũng phải chặn đứng bọn chúng. Xông lên!
Ba nghìn tinh kỵ cùng hò hét vang dội, rút loan đao (đao cong) sáng như tuyết ra, không hề chùn bước xông lên chặn đánh đám quân Minh đang phi đến như bay. Đối với đại đội quân Minh đang phi nhanh đến, ba nghìn tinh kỵ Mông Cổ giống như một mũi dao nhọn sắc bén. Nếu như hai quân lao vào nhau, tinh kỵ Thát Đát lấy khỏe đánh mệt, quyết tâm tử chiến đến cùng sẽ có thể xé đội hình rời rạc của quân Minh ra một vệt dài, có thể đột nhập thẳng vào sâu nửa dặm, từ giữa tách đôi đội hình địch ra, tiến hành chém giết.
Tuy nhiên quân Minh lại như không nhận thấy dụng ý của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, vẫn lao tới với đội hình rời rạc. Dương Lăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng trên đỉnh núi nhìn thấy đại đội nhân mã quân Minh kéo đến đều cảm thấy tinh thần phấn chấn. Làm cho bọn họ vui mừng nhất là, đây là một đội ngũ toàn kỵ binh, hơn nữa từ trên núi có thể thấy rõ nhân số của họ nhiều hơn ba nghìn kỵ binh quân Thát chặn đánh gấp mấy lần. Đây là đội thiên binh từ đâu xuất hiện?
Một cây soái kỳ trong tay tên lính cầm cờ cường tráng đang bay phần phật do cuồng phong do đàn tuấn mã phi nhanh tạo nên. Hắn điều khiển ngựa bằng hai chân, hai tay gồng lên nắm chặt cán cờ được giữ chắc chân bằng một cái vòng cài bên cạnh yên ngựa. Trên lá cờ chỉ có một chữ rõ to: “Vương”!
Người tiên phong đi trước soái kỳ chữ Vương bỗng nhiên giương cung, một phát ba mũi tên, lập tức trong đám kỵ binh Thát Đát chạy như bay đối diện có ba kẻ rơi xuống ngựa. Ba mũi tên này như là hiệu lệnh, tinh binh Mông Cổ cũng lập tức giương cung đặt tên, một cơn mưa tên rợp trời ngập đất bay tới.
Đại soái của cánh tinh binh này chính là Phó tướng Tam Quan Vương Thủ Nhân, người dẫn hai vị tướng quân du kích chơi trốn tìm với Hỏa Sư ở quan ngoại. Bởi vì hắn dẫn quân ra ngoài Trường Thành, không ngừng giằng co với Hỏa Sư, nếu sức cơ động không đủ thì chắc chắn sẽ thất bại, cho nên Dương Nhất Thanh tập hợp đại bộ phận kỵ binh của các lộ quân trong tay mình, tạm thời tạo nên một đội quân toàn kỵ binh giao cho Vương Thủ Nhân chỉ huy.
Tổng binh lực của Vương Thủ Nhân ước chừng hai mươi ngàn người, đông hơn quân Hỏa Sư, nhưng hắn rất ít khi tiếp chiến chính diện với Hỏa Sư. Dù sao cưỡi ngựa bắn cung cũng không phải chuyện thành thục trong một sớm một chiều, chiến lực của quân đội hắn còn chênh lệch so với bộ đội sở thuộc của Hỏa Sư. Có điều khiến Hỏa Sư đau đầu là vị tướng quân Đại Minh này vẫn bám sát hắn không rời, bất kể hắn muốn tấn công quấy rối nơi nào cánh quân này cũng luôn đi theo phía sau cháy nhà hôi của.
Hỏa Sư giận dữ muốn tìm hắn quyết chiến nhưng đối phương lại tránh không tiếp chiêu, bất đắc dĩ đành dẫn hắn vào khe núi định sử dụng địa lợi chống lại.
Trong lần duy nhất tác chiến ở đồng bằng này, Hỏa Sư vốn định một đòn đánh tan đội kỵ binh chủ lực của quân Minh, không ngờ Vương Thủ Nhân đã đào hố bẫy ngựa, đặt ván chông, thậm chí còn đặt cả những cây gỗ tròn phía trước vót nhọn, phía sau đóng ván ngang, bên dưới ván ngang đào hố trên đường xung phong của quân Hỏa Sư.
Chiến mã chạy trước đạp lên ván gỗ, đầu nhọn phía sau sẽ chống lên đâm xuyên qua chiến mã phía sau. Hai quân chưa gặp nhau, quân Hỏa Sư đã tổn thương nặng nề, hơn nữa kỵ binh không dám chạy nhanh nữa. Người Mông Cổ vô địch thiên hạ không phải dựa vào đao thương mà là tên nhọn và khoái mã. Quả thực khoái mã bị mất ưu thế chính là quân Thát tự phế một nửa sức lực. Sau trận này, chỉ cần nhìn thấy đại kỳ chữ Vương thì Hỏa Sư đã đau đầu, dứt khoát chuyển sang chơi trò trốn tìm với hắn.
Hôm nay đang bám theo đại quân của Hỏa Sư đi tới gần Cự Lỗ môn, đột nhiên Vương Thủ Nhân phát hiện quân địch lại biến mất. Vùng này nhiều núi, lúc đầu Vương Thủ Nhân cho rằng Hỏa Sư cũng bắt chước mai phục lại mình, nên liền ra lệnh cho đại quân hạ trại men núi, lưng dựa vào Kháng Hồ Bảo, phái thám mã truy tìm hành tung của Hỏa Sư.
Một lát sau khói lửa nổi lên, liền sau đó thám mã báo dấu chân ngựa biến mất trong khe núi hẹp ở Cự Lỗ môn, hoàn toàn không còn bóng dáng, nhưng trên quan ải Cự Lỗ môn vẫn cắm cờ Đại Minh. Vương Thủ Nhân chợt nghi ngờ: Dù Hỏa Sư vẫn quanh quẩn gần các quan ải nhưng hắn xảo trá như cáo, nếu muốn mai phục thì hắn sẽ không mạo hiểm mai phục hàng vạn người ở gần quan ải của Đại Minh. Hơn nữa, hai bên khe núi kia rất hiểm trở, không thể giấu được đông người, người của Hỏa Sư bay lên trời hoặc chui xuống đất rồi hay sao?
Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân lập tức từ bỏ nhiệm vụ bám theo Hỏa Sư, nhổ trại trở về quan ải, vào quan ải qua Kháng Hồ Bảo cách cửa Cự Lỗ vài dặm. Hỏi quân canh giữ phong hỏa đài, bọn họ cũng chỉ biết có khói lửa dấy lên nên tăng cường đề phòng ở quan ải này, nhưng không hề biết quân Thát đang tấn công ở nơi nào.
Vương Thủ Nhân nghe tin lập tức chạy như bay đến Đại Đồng, còn tiện tay lấy vài món lợi khí mang theo. Hắn cũng biết hôm nay Hoàng đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ bàn bạc kết minh ở núi Bạch Đăng, tuy rằng phỏng đoán quân Thát đã dễ dàng lọt vào quan ải và đang đánh úp núi Bạch Đăng đúng là quá lớn mật, nhưng chuyện này quá quan trọng, luôn phải đề phòng cho yên tâm. Cùng lắm xem như là mình lui quân về nghỉ ngơi là xong.
Đại quân vừa chạy tới Thủy Thanh Sách, còn cách thành Đại Đồng vài dặm, bọn hắn đã nghe thấy tiếng chém giết rung trời từ xa xa, đúng lúc này trên núi Bạch Đăng cũng dấy lên khói lửa. Hiểu rõ địa hình bản địa, Vương Thủ Nhân lập tức ra lệnh đại quân bỏ đường lớn đi đường tắt chạy đến núi Bạch Đăng, vừa kịp chạy tới đúng lúc núi sắp bị công chiếm.
Xa xa nhìn thấy quân lính rợp núi, không biết bây giờ Hoàng đế còn sống hay đã chết, Vương Thủ Nhân sợ đến mức tái mặt. Vì vậy, hắn lập tức thúc ngựa đi đầu, dẫn quân lao tới. Cơn mưa tên của giặc Thát bay tới, các binh sĩ đều cầm lá chắn tròn bên cạnh yên ngựa lên che chắn. Vương Thủ Nhân tay trái cầm cung, tay phải cầm lá chắn, ngồi trên ngựa hét lớn: "Bắn thần hỏa tiễn!"
Đám binh lính xông lên đầu tiên đều mang những loại vũ khí có hình thù khá kỳ lạ. Tất cả các loại vũ khí lấy từ Kháng Hồ Bảo này đều là các loại tên lửa gọn nhẹ. Có tên tổ ong (nhất oa phong tiễn), tên đàn ưng đuổi thỏ (quần ưng trục thố tiễn), tên lửa sao băng (hỏa nỗ lưu tinh tiễn), tên trường xà phá địch (trường xà phá địch tiễn). Chỉ trừ hai loại tên phi liêm bốn mươi chín mũi (tứ thập cửu thỉ phi liêm tiễn) khá nặng nề và loại tên trăm hổ cùng chạy (bách hổ tề bôn tiễn) phải dùng xe đẩy hoặc phải hai người mới bắn được, còn lại hắn đều vơ vét sạch sẽ. Các binh sĩ dùng dây đeo buộc trước ngực, có khoảng hai mươi mấy hòm.
Đám binh lính xông lên đầu tiên đội mưa tên đánh đá lửa, trong tiếng xé gió, từng mũi tên lửa bay vụt ra ngoài. Độ chính xác của tên lửa thì không có gì đáng chờ mong, nhất là ngồi trên khoái mã mà bắn thì càng khỏi phải nói.
May là kỵ binh Thát Đát phía trước xếp thành đội hình đao nhọn tập trung, quả thực chính là bia ngắm sống. Danh tướng Thích Kế Quang đời sau có một cách nói rất thú vị để hình dung về tên lửa, đại để là: “Bắn tên lửa giữa vạn kỵ binh, hoàn toàn không cần ngắm ai, châm lửa rồi mặc cho số phận. Phương hướng bắn chúng ta không đoán được, địch cũng không đoán được, thật sự vừa thú vị lại vừa kỳ diệu.”
Những mũi tên này chủ yếu là nhanh, bắn liên tục, còn nhanh gấp mấy lần những xạ thủ cao minh nhất của quân Thát. Vô số mũi tên bay ngang bay dọc, còn có mũi vừa bay vừa uốn lượn. Hai đội quân càng ngày càng gần, quân Minh ngã xuống mười mấy tên, quân Thát lại bị bắn chết gần trăm người. Làm mọi người khó hiểu nhất chính là những mũi tên bay xiêu xiêu vẹo vẹo đó, có mũi còn tránh qua tên địch phía trước rồi bắn trúng tên chạy phía sau.
Hơn trăm con chiến mã mất người cưỡi lập tức khiến đội hình xung phong sắc bén của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ bị lộn xộn. Khí thế phá núi mở đường biến mất, lập tức hai luồng nước lũ đan xen vào nhau, tiếng hét đinh tai nhức óc, tiếng vũ khí va chạm không dứt bên tai. Binh lính hai bên điên cuồng mượn đà xông của khoái mã liều mạng chém giết.
Trong trận chém giết giữa hai đội kị binh lao ngược chiều này không có chuyện chiến đấu một chọi một. Thường thường kỵ sĩ hai bên vừa chém được một đao thì hai con ngựa đã lướt qua nhau, họ lại giao thủ với đối thủ mới, giao đối thủ vừa rồi cho đồng đội đằng sau.
Trong giờ khắc này chỉ có giết người mới có thể tránh cho mình khỏi bị giết. Những binh lính thường ngày rất nhỏ bé này, bất kể trước kia là ti tiện hay là gian manh, cương nghị hay là hèn nhát, âm hiểm hay là quang minh, bây giờ tất cả đều hò hét với khí thế ngất trời, tạo thành một làn sóng xung kích làm mọi người sôi trào nhiệt huyết đưa mình trong chiến trường xay thịt, nghe thấy từng tiếng ma sát chói tai ghê răng.
Bởi vì thuật cưỡi ngựa của quân Minh không bằng quân Thát, mà mã đao muốn phát huy hết ưu thế tấn công thì phải mượn lực cánh tay, lực vặn eo và sức lao của chiến mã; người cưỡi ngựa kém thì cả ba yếu tố này đều kém theo. Vương Thủ Nhân tạm thời không thể nâng cao kỹ năng cá nhân của đội quân tổ hợp tạm thời này nên đành phải giở trò ở binh khí.
Gần năm nghìn kỵ binh đi đầu đều dùng lang nha bổng, lực cánh tay của bọn họ không đủ để sử dụng lang nha bổng bằng sắt thật sự, cho nên tất cả đều dùng những khúc gỗ lê trên to dưới nhỏ vừa cứng vừa nặng, trên đầu đóng rất nhiều đinh sắt to bằng ngón út dài nửa thước. Lang nha bổng va chạm với mã đao sắc bén của đối phương, tiếng ken két vang lên không dứt, còn có thể lợi dụng những móc câu trên đinh sắt để giảm tốc độ vung đao của đối phương.
Lang nha bổng nhẹ nhàng vẫy trái cản phải, đâm trước đập sau, triệt tiêu nhược điểm kỹ năng cá nhân của chiến sĩ. Ưu thế tuyệt đối về nhân số áp đảo sự dũng mãnh thiện chiến của đội quân Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ tinh nhuệ. Một cơn sóng cuồn cuộn tràn tới, ba nghìn tinh kỵ Thát Đát rơi vào giữa biển quân gần hai mươi ngàn người của quân Minh.
Từ đỉnh núi nhìn xuống, đội quân tiên phong và hai cánh quân Minh vẫn đang xung phong, còn chính giữa đội ngũ lại như xoáy nước cuồn cuộn không ngừng. Ba nghìn kỵ binh của Húc Nhật Can cũng đã xông lên, sử dụng mưa tên ngăn cản thế công của quân Minh chỉ trong chốc lát rồi sau đó cũng rơi vào vòng vây của quân Minh.
Lại là một trận hỗn chiến.
Vương Thủ Nhân chỉ mang mấy trăm người lao ra khỏi đội hình của Húc Nhật Can, cùng mấy ngàn binh mã hai cánh lao thẳng tới chiếc lều lông cừu phía trước.
Trong lều lông cừu là Đại Hãn Thát Đát và thủ lĩnh các bộ đã không còn đại quân bảo vệ.
Bắt giặc phải bắt vua trước!
Muốn cứu chỗ phải cứu của ta thì hãy tấn công chỗ phải cứu của địch trước!
Nếu như Vương Thủ Nhân thúc ngựa lên núi thì hắn sẽ không phát huy được ưu thế của kỵ binh, xông đến lưng chừng núi tất nhiên sẽ phải xuống ngựa khổ chiến với quân Thát đang tấn công núi. Cho dù rốt cuộc có đuổi tận giết tuyệt được toàn bộ quân Thát Đát đi chăng nữa thì việc có thể bảo đảm được an toàn của Hoàng đế trong đám loạn quân hay không lại là một vấn đề khác. Chiêu vây Ngụy cứu Triệu của hắn nhắm khiến cho quân Thát sắp đánh chiếm đỉnh núi không thể không lập tức quay lại cứu người, hiểm cảnh trên núi sẽ lập tức được giải khai.
Quả nhiên ngay từ lúc đội kị binh cứu viện của quân Minh lao tới, các đầu lĩnh quân Thát đang chỉ huy công núi đã phải chú ý theo dõi. Nay vừa thấy tình hình nguy hiểm, bọn họ liền lập tức tập kết đại quân lao ngay trở lại.
Tất cả thân binh bên người Bá Nhan và các thủ lĩnh cộng lại cũng chỉ được hơn một ngàn người, nhưng đều là những chiến sĩ dũng cảm. Bọn họ lập tức vung binh khí chặn trước mặt các thủ lĩnh, bắt đầu chém giết với quân Minh.
Xác người xác ngựa ngổn ngang, tay cụt chân gãy vô cùng thê thảm, máu tươi trộn lẫn bùn đất, mặt đất vốn phủ tuyết trắng tinh sớm đã đổi màu, không khí tràn đầy mùi máu tanh khiến mọi người buồn nôn.
Quan sát tình hình trước mắt, Dương Lăng lập tức bảo với Hứa Thái và Mã Cáp Lư đang máu nhiễm chiến bào:
- Thắng bại là ở lần này! Lập tức tập hợp toàn quân, tấn công quân địch chính diện, đón binh mã của Vương tướng quân tới gần!
Hứa Thái nhận lệnh, lập tức tập hợp đám quan binh còn chưa thở dốc xong. Trừ bộ binh, toàn bộ lên ngựa lao xuống núi. Tay cầm cây gậy sắt nặng nề, Mã Cáp Lư cũng gọi đám binh sĩ ba vệ còn sống sót lại, rồi cùng gào thét lao xuống núi. Hai luồng đại quân trang phục khác màu, đan xen vào nhau lao xuống, khói bụi bay lên cuồn cuộn. Trường thương, cương đao lấp lánh đầy sát khí bức người.
Bị Vương Thủ Nhân vây quanh tạo thành hai nửa vòng tròn một lớn một nhỏ là sáu ngàn thiết kỵ quân hậu bị Thát Đát và một ngàn tinh binh của Khả Hãn Bá Nhan và các thủ lĩnh bộ minh. Bên ngoài là binh lính Mông Cổ lũ lượt kéo về cứu viện, theo sát là hơn tám ngàn kỵ binh Đại Minh và Đóa Nhan Tam Vệ lao xuống, cố gắng thừa dịp trận hình phản bao vây của quân Thát chưa kịp hình thành để mở một lối đón viện quân lên núi.
Vó ngựa rầm rập, mặt đất rung động, các kỵ sĩ xung phong gào thét điên cuồng, trước sau trái phải khắp nơi đều là chiến sĩ địch ta lẫn lộn. Ngôn ngữ bất đồng nhưng tiếng gào thét như dã thú lại tương tự nhau.
Chính Đức trên đỉnh núi nhìn mà máu nóng sôi trào, vô cùng háo hức. Có điều, trừ phi Dương Lăng phơi thây tại chỗ, bằng không, dù chỉ còn một hơi thở y cũng không bao giờ chịu để hắn lên ngựa tham chiến.
Đúng lúc này tiếng sấm rền vang, tiếng hô xung phong rung trời, từ phía Phi Hồ Độ xuất hiện một cánh quân điên cuồng đạp tuyết chạy đến. Đội kỵ binh này giáp trụ sáng ngời, tất cả đều là đại đao cán dài, người như hổ, ngựa như rồng, bốn vó chiến mã tung bay, bụng ngựa gần như dán sát mặt đất.
Đội kỵ binh này quân số không nhiều, cùng lắm chỉ hơn ngàn người. Đội hình lại kéo rất dài, chỉ phi như bay chứ không hề quan tâm đến phối hợp, hơn nữa ngay cả chiến kỳ cũng không có, tỏ ra là một đội quân rời rạc. Nhưng đối với binh lính Thát Đát đã mất niềm tin tất thắng thì cánh quân xuất hiện đột ngột này đã triệt để đánh sập chiến ý của họ: Quân đội tiếp viện của quân Minh đã bắt đầu ùn ùn xuất hiện!
Dưới sự bảo vệ của hơn ngàn thân binh quyết tử, Bá Nhan cùng các đầu lĩnh đột phá vòng vây hội hợp với một chi hơn năm ngàn người ngựa từ trên núi kéo về tiếp viện, lúc này đội thân binh đã tổn thất hơn ba trăm người. Lòng đau như dao cắt, Bá Nhan biết trận tất tay này đã thất bại triệt để, lúc này còn không rút đi thì sợ rằng toàn quân đều phải bỏ mạng tại đây.
Tiếng kèn thê lương vang lên, đó là tín hiệu phá vòng vây rút lui của quân Thát...
/679
|