ẤY CÒN THIẾU THÀNH VIÊN.
Hoà thượng Thượng Vân ngơ ngác đứng ngắm phong cách mới của Thanh Đăng đại sư hồi lâu, bắt gặp ánh mắt vẫn thản nhiên của chàng thì sực tỉnh, vội gói ghém vẻ kinh hoàng, chắp tay nghiêm túc mà thưa: “Thanh Đăng sư tổ, trụ trì sai tôi đến báo tin.”
Hắn còn thảng thốt, nhủ thầm ôi thôi tu hành chưa đến chốn mới thất thố trước cảnh này, chẳng qua cũng chỉ là vẻ ngoài, cớ gì hoang mang như thế. Thanh Đăng sư tổ thì sao, gặp chuyện vẫn hoài điềm nhiên, đúng là sư tổ!
Hoà thượng nọ thêm kính nể và càng muốn học hỏi Thanh Đăng hơn nữa. Hắn xốc lại tinh thần, đón ánh mắt của đại sư, nhớ lại lý do mình đến, lấy làm buồn đau, cúi người thật sâu: “Nhược Viễn sư tổ – một trong ba vị sư tổ trấn thủ Thiên Cảnh đã toạ hoá.”
Các bậc đại năng đang toạ trấn Thiên Cảnh hòng kéo dài vận khí cõi tu chân đến từ khắp các tông môn lớn, phần lớn những nhân vật lánh đời bao năm này đã sắp đến chặng cuối của cuộc đời, song vẫn chưa đạt ngưỡng đột phá. Cõi tu chân lâu nay vắng bóng tu sĩ vượt ngưỡng Độ Kiếp lên tiên Phật, sang một thế giới khác.
Mỗi phái thường cử ba vị đại năng đến Thiên Cảnh, cách khoảng lại đổi đồng môn, ngoại trừ Thượng Vân tự. Ba vị đại năng Thượng Vân chưa từng rời vị trí, tự nguyện toạ trấn nơi ấy.
Họ đã sống hằng bao năm tháng, toạ hoá vì chúng sanh hẳn là ước mong cuối đời.
Thanh Đăng đại sư không đau buồn tột độ như tăng nhân đến báo tin, chỉ xua đi nụ cười mỉm thản nhiên thường thấy, tỏ bày tiếc thương. Hạch Đào Nhỏ ngồi đấy lơ mơ nghe cả, chẳng biết có hiểu không, bé trèo xuống ghế, lạch bạch chạy đến bên cha, ôm đầu gối chàng.
“Tháp Thiên Phật sẽ cử vị sư tổ nào đến Thiên Cảnh toạ trấn thay Nhược Viễn sư tổ?” Thanh Đăng xoa đầu Hạch Đào Nhỏ, hỏi hoà thượng nọ.
Đa số đại năng lánh đời của Thượng Vân sẽ thanh tu tại tháp Thiên Phật, Thanh Đăng nằm lòng tình trạng của mỗi người, cũng nắm rõ tình hình ở Thiên Cảnh, chàng đã biết đáp án trước cả khi tăng nhân trả lời.
“Bẩm sư tổ, là Nhược Phòng sư tổ.”
Thanh Đăng niệm Phật hiệu, bắt đầu tụng kinh. Nhược Phòng sư tổ là vị sư tổ cuối thuộc lứa chữ “Nhược”. Thế giới không ngừng vụn vỡ, họ vẫn sẽ thay phiên nhau mà không oán than gì, toạ hoá đấy, kế tục ngay, đến khi tăng nhân cuối cùng của Thượng Vân về trời.
Tiền bối ở tháp Thiên Phật toạ hoá cả chính là lúc họ – Thanh Đăng lão tổ, trụ trì Thù Ấn, Thù Chỉ – lên đường…
Nơi Thiên Cảnh hư vô ở lõi thế giới không có ngày đêm, không thấy mặt trăng mặt trời, chỉ độc một đài cao kê cột chống trời dựng thẳng. Trên cột chống trời chi chít hoa văn đẹp đẽ lạ lùng, nhìn rồi khó lòng dứt ra. Song giờ đây văn hoa lỗ chỗ vết nứt đen đúa, chúng đua nhau xuất hiện, rậm rịt nuốt lấy từng đường vân bạc vốn có.
Dưới cột chống trời an toạ chừng hai mươi vị đại năng phong cách khác nhau, vân đen trên cột được họ rót linh lực vào đã lan chậm hơn, hoa văn bạc bị che lấp dần dà xuất hiện lại. Nhưng chẳng mấy chốc, vết nhơ tiếp tục bành trướng. Khi linh lực với mọi loại sắc thái được truyền tải vào cột chống trời cũng là lúc các đại năng yếu đi, dẫu thế vẫn không ai dừng lại.
Đen và bạc không ngừng đôi co, rốt lại sắc đen vẫn nhỉnh hơn đôi chút, chầm chậm lan khắp cột.
Nếu vân bạc trên cột chống trời – hiện thân của vận số cõi này – biến mất hoàn toàn, thế giới sẽ đến hồi diệt vong.
Mặt trận kháng tử giới ở Thiên Cảnh hư vô chưa từng ngơi nghỉ, cùng lúc ấy, cuộc chiến chống ảnh hưởng của tử giới dưới mặt đất cũng nở rộ khắp nơi.
Kiếm của Giang Trừng đã hoá bạc lộng lẫy sau khi cô tăng tu vi, vô số tia bạc bén ngót vọt từ mũi kiếm lượn khắp chiến trường, xẻo thịt đám rối ma mỗi khi chúng lướt qua.
Lúc đương đầu với địch, Giang Trừng dẹp gọn vẻ tươi cười rạng rỡ thường thấy, thay vào đó là sát ý sực nức lạnh lùng, ai thấy cũng sợ, cô như hoá thành một người khác. Ánh mắt các đệ tử Dung Trần dành cho cô chất chứa cuồng nhiệt.
Cõi tu chân, kẻ mạnh luôn được kính nể. Mới đầu nhóm đệ tử Dung Trần này thấy Giang Trừng sư thúc xinh đẹp yếu ớt thì đinh ninh cô không thạo chém giết, song họ nhanh chóng nhận ra rằng mình đã sai, vị sư thúc hiền hoà thân thiết này hễ đến lúc giết địch là lại xoành xoạch thay đổi khí chất, vẻ liều mạng kia cực kỳ hút mắt.
Hiển nhiên thôi, kiếm của Giang Trừng được phòng tối tôi luyện mà thành, mỗi chiêu thức đều đã giác ngộ ý chí địch chết ta mới sống, mãi rồi thành quen, quen rồi không đổi, dần dà mới bừng bừng sát khí thế kia.
Trận chiến kết thúc, đám rối ma bò ra từ lòng đất đã rã tan từng mảnh, bị thiêu huỷ hoàn toàn, tu sĩ lần lượt ngừng tay, vài tu sĩ dọn dẹp chiến trường, xem có bỏ sót kẻ địch nào không.
Giang Trừng cất kiếm, lấy khăn lau thịt vụn dây vào người, mặt mũi lại dịu dàng như trước, chừng như nhân vật hung tợn vừa dạo quanh mặt trận, phanh thây đám rối ma không phải là cô vậy.
“Giang đạo hữu.” Một tu sĩ cũng mặc áo trắng đi đến chỗ Giang Trừng, theo sau là mười mấy nam nữ đệ tử.
Họ là đệ tử Vạn Thành sơn môn vẫn luôn đối đầu với Dung Trần, người đi đầu vừa gọi Giang Trừng bằng giọng điệu rất đỗi lạ lùng kia là sư thúc của mười mấy người còn lại, tu vi suýt soát, thậm chí còn nhỉnh hơn cô đôi chút.
Gã họ Nguyên, nghe đồn cha mẹ đều là tu sĩ Nguyên Anh của Vạn Thành, bởi thế cũng khá nổi tiếng trong sơn môn nhà họ. Nguyên tu sĩ tính tình kiêu căng, trước đó luôn cầm đầu những trò gây rối nhằm vào môn đồ Dung Trần, hôm qua Giang Trừng tới, gã vẫn định sai phái làm phiền, ngờ đâu sau màn đánh giết rối ma lại bị cô chỉ đích danh ra so găng một phen.
Nguyên tu sĩ đã thua, lại còn thua ê chề vô cùng ngay trước mặt quần chúng. Giang Trừng nhỏ mọn, cũng khá bênh vực người nhà, thấy đồng môn bị kẻ khác đè đầu cưỡi cỗ như thế, cô quyết định xả giận dùm họ ngay, cố ý tẩm quất Nguyên tu sĩ đến nỗi thân thể bầm dập, áo xống tả tơi, mớ vải rách lúc lắc trên người tung bay theo gió, trông thích mắt biết bao.
Giang Trừng vốn đinh ninh sau tiết mục hôm qua, kẻ này sẽ ghi hận rồi sang quấy rối cô, ngờ đâu từ đầu trận đến nay chúng lại tránh né, không bới móc nữa. Ờ thì nhịn cả buổi, rốt cũng ra mặt rồi.
Đệ tử Dung Trần quanh đấy thoắt cái đã tụm lại, đứng cả về phía Giang Trừng, ít người hơn nhưng khí thế chẳng kém là bao! Bọn nó đông thì đông đấy, cơ mà đập nhau thì chưa biết mèo nào cắn mỉu nào đâu!
Chính khi các đệ tử mài đấm soàn soạt chuẩn bị xáp là cà một trận và tu sĩ môn phái khác từ xa ngó tới, Giang Trừng lại nghe Nguyên tu sĩ đang đứng trước mặt mình bảo: “Ta thích Giang đạo hữu lắm, nên duyên đạo lữ cùng ta được chăng?”
Giang Trừng: … Cõi tu chân trước nay chẳng thiếu kẻ lạ lùng quái đản, hễ gặp cô lại cạn lời.
Nguyên tu sĩ thấy Giang Trừng không đáp, khăng khăng nói tiếp: “Nàng thuộc Dung Trần nên chưa chắc cha mẹ ta bằng lòng, song chỉ cần nàng đồng ý, ta sẽ tìm cách thuyết phục họ.”
Giang Trừng: “Ờ, tôi không đồng ý.”
Nguyên tu sĩ lạ lẫm nhìn cô, “Nàng không đồng ý? Tại sao? Nguyên Hưng ta đây hơn hẳn nàng về tu vi và gia thế, tính ra nàng vớ bẫm đấy nhé, thế vẫn không chịu?”
Giang Trừng cũng muốn hỏi tại sao gã lại làm như lạ lùng lắm ý, trời đất ơi mới gặp hai lần, hôm qua còn bị nàng tẩn cho te tua xơ mướp, nhẽ nào tên này bị M? Ăn đòn xong nằng nặc đòi kết mô đen với đầu sỏ.
Thực ra Giang Trừng gặp không ít người mến mộ mình ngoài này. Có điều trước kia đa phần là nữ tu nhận nhầm giới tính của cô, hai năm trở lại đây mới có nam tu ngỏ ý. Ai đàng hoàng sẽ được Giang Trừng lịch sự từ chối với lý do mình đã có người thương, còn những kẻ xấu tính ương bướng á, Giang Trừng đành lấy cứng chọi cứng thôi.
Giờ tâm trạng của cô đang không được tốt cho lắm, cười từ thiện với Nguyên Hưng, thong dong bảo: “Xét tu vi, cậu cao hơn tôi, nhưng cậu đánh đâu có lại tôi. Chẳng nhẽ tu vi của Nguyên tu sĩ là nhờ nốc thuốc mà ra? Hay là già đầu rồi vẫn chưa từng rời nhà chém giết cả ai, thế mới thua một nữ tu có tu vi thấp hơn mình? Còn về mặt mũi á, trong số những người theo đuổi tôi thì cậu cũng chỉ vào hàng trung bình kém, dùng từ ‘không nổi trội’ đã là khách sáo lắm rồi. Xin lỗi nha, nếu Nguyên tu sĩ không đắp đầy linh khí hộ mạng lên người thì tôi không nhớ nổi bản mặt của cậu đâu.”
Cô cười khẽ, dung nhan lại thêm yêu kiều, có điều ánh mắt đầy tràn vẻ giễu nhại, thấy mà ê răng, “Cõi tu chân mênh mông như thế, Nguyên tu sĩ nên thăm thú đó đây nhiều hơn, chứ ở rịt trong cái hốc Vạn Thành tý hin khéo lại thành ếch ngồi đáy giếng, chẳng những tầm nhìn hạn hẹp, lại còn om sòm quá lắm.”
Thật vậy, Nguyên Hưng “được” cha mẹ nhốt trong Vạn Thành mà nuôi, nốc biết bao linh đơn diệu dược mới ra tu vi chừng đấy, hai đấng sinh thành mà không hay tin cõi này sắp lâm đại nạn thì đã chẳng đẩy con trai cưng ra ngoài lịch luyện như giờ. Gã ta cậy thế cha yêu mẹ chìu mà hoá trùm sỏ ở sơn môn, từ bấy thích gì được nấy, chưa bị ai làm nhục nhường này, đỏ gay cả mặt.
Giang Trừng dắt đệ tử, xoay lưng mà đi, cười cười buông tiếng: “Nguyên tu sĩ lo lấy thân mình, tôi không tiếp nữa.”
Nguyên Hưng nghiến răng trèo trẹo, rống lên: “Đồ không biết điều, hôm nay ngươi liệu mà chôn chân chốn này!”
Hôm qua mất mặt, gã đã định dạy cho Giang Trừng một bài, có điều thấy cô đẹp quá, động lòng tính chiếm làm của riêng, đinh ninh mình từ bi hỉ xả lắm rồi, ngờ đâu hôm nay lại nhục nhã hơn thêm. Gã chẳng màng sắc nước hương trời chi nữa, giục linh khí cao cấp nhằm hướng Giang Trừng mà đánh.
Giang Trừng sớm đã đề phòng gã ra tay chớp nhoáng, nghe rục rịch thì thầm bĩu môi, bịch rác này có hai đấng sinh thành ổn áp thật ấy, linh khí ngon thế mà cũng đưa ra cho gã chà đạp.
Vừa định trả đòn thật mạnh, đánh sao cho tên dở người này té re luôn thôi, bỗng lại nghe hơi thở quen thuộc ùa đến, cô lấy làm nhẹ nhõm, cười thật ấm áp.
Cô ngước nhìn trời, chỉ thấy bóng người nhanh chóng đáp xuống, gió phần phật thổi, hạc gáy kiếm reo.
Người nọ mặt mũi lạnh lùng, chỉ khi nhìn Giang Trừng mới dịu dàng vấn vương, đích thị là Hạc Kinh Hàn rồi. Lúc hắn xuất hiện ngay trước mặt Giang Trừng, Nguyên Hưng đã ngã sõng soài không xa, phun ra búng máu. Bởi tất thảy xảy ra quá nhanh, đám đệ tử Vạn Thành đứng quanh không theo kịp, tỉnh rồi mới lũ lượt hô hoán, chạy sang dìu Nguyên Hưng.
Gã ta nuốt viên linh đơn, đứng dậy rồi căm tức ngó Hạc Kinh Hàn, định khui hàng mắng nhiếc, song trông thấy đạo bào hai màu và thanh kiếm đen lập loè sáng lạnh cùng chuôi kiếm trắng vẫn chưa rời vỏ trên lưng thì nhận ra thân phận người nọ, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay, mặt mày tái xanh tái xám, rực rỡ biết bao.
Hạc Kinh Hàn đứng cạnh Giang Trừng, kiểm tra xem cô có bị thương không rồi mới lạnh lùng nhìn Nguyên Hưng, “Ngay lúc này đây, tu sĩ chính đạo không đắn đo xem phải cứu người ra sao mà lại đánh giết nhau thế này, nực cười quá lắm.”
Hắn hừ lạnh, búng tay về phía Nguyên Hưng, chẳng dùng đến kiếm. Nguyên Hưng tái mặt giục linh khí hộ mạng ra đỡ, song chỉ chốc lát chúng đã vỡ nát tan tành, còn gã thì lục khục đo đất, không bò dậy nổi nữa. Đệ tử Vạn Thành căm mà không dám cãi, cun cút rụt đầu.
“Chẳng màng cứu người thì về Vạn Thành sơn môn cả đi, ra đây thêm phiền.” Hạc Kinh Hàn thẳng thừng bảo. Nguyên Hưng trúng đòn này ắt phải dưỡng thương vài năm, không nhờ Giang Trừng lén khều em trai thì Hạc Kinh Hàn đã chẳng nương tay, bét lắm cũng cho gã liệt giường nửa thế kỷ.
Nguyên Hưng được đệ tử Vạn Thành lẹ làng khiêng đi, tu sĩ các môn phái khác còn đấy cũng không nhiều lời, ai nấy khấp khởi nhìn Hạc Kinh Hàn, rậm rịt muốn đến hàn huyên.
Mấy năm nay, Hạc Kinh Hàn vốn vô cùng nổi tiếng đã lại thơm thảo hơn thêm khi một mình giết sạch rối ma của hơn mười ải tử giới, hiện thời chắc hẳn chẳng ai không biết đến hắn, ngay cả bậc đại năng cũng biết thủ lĩnh Vô Cực Tử lứa này của đạo quán Vô Cực là một tu sĩ trẻ tuổi cừ khôi, tương lai thẳng bước thì sẽ không kém gì sư phụ Mai Tùng lão tổ.
Ngoài chuyện tu vi thì người ta bàn tán cả về tính tình lạnh nhạt của Hạc Kinh Hàn, biết bao nàng thơ đã sa ngã trên con đường theo đuổi nam thần giá rét này, thế mà chẳng ai thành công. Nay họ lại thấy Hạc Kinh Hàn vừa che chở lại còn dịu dàng trò chuyện với Giang Trừng, đầu óc tức thời nảy số.
Hạc nam thần, hoá ra đã có người thương, là ai đã khiến tôn sát thần này động lòng phàm?
Thoáng chốc, mọi người tò mò về Giang Trừng quá lắm.
Hạc Kinh Hàn chẳng màng ánh mắt xung quanh, đương báo cáo tình hình gần đây với chị yêu đã lâu không gặp, chợt nghe lanh lảnh giọng ai.
“Mẹ ơi!”
Giang Trừng và Hạc Kinh Hàn cùng ngước lên, thấy bóng người cao gầy mặc tăng bào trắng giản dị thong dong đì đùng một bé con đáng yêu bước đến, cô bé ôm lấy đầu chàng, hớn hở gọi mẹ.
Hoà thượng Thượng Vân ngơ ngác đứng ngắm phong cách mới của Thanh Đăng đại sư hồi lâu, bắt gặp ánh mắt vẫn thản nhiên của chàng thì sực tỉnh, vội gói ghém vẻ kinh hoàng, chắp tay nghiêm túc mà thưa: “Thanh Đăng sư tổ, trụ trì sai tôi đến báo tin.”
Hắn còn thảng thốt, nhủ thầm ôi thôi tu hành chưa đến chốn mới thất thố trước cảnh này, chẳng qua cũng chỉ là vẻ ngoài, cớ gì hoang mang như thế. Thanh Đăng sư tổ thì sao, gặp chuyện vẫn hoài điềm nhiên, đúng là sư tổ!
Hoà thượng nọ thêm kính nể và càng muốn học hỏi Thanh Đăng hơn nữa. Hắn xốc lại tinh thần, đón ánh mắt của đại sư, nhớ lại lý do mình đến, lấy làm buồn đau, cúi người thật sâu: “Nhược Viễn sư tổ – một trong ba vị sư tổ trấn thủ Thiên Cảnh đã toạ hoá.”
Các bậc đại năng đang toạ trấn Thiên Cảnh hòng kéo dài vận khí cõi tu chân đến từ khắp các tông môn lớn, phần lớn những nhân vật lánh đời bao năm này đã sắp đến chặng cuối của cuộc đời, song vẫn chưa đạt ngưỡng đột phá. Cõi tu chân lâu nay vắng bóng tu sĩ vượt ngưỡng Độ Kiếp lên tiên Phật, sang một thế giới khác.
Mỗi phái thường cử ba vị đại năng đến Thiên Cảnh, cách khoảng lại đổi đồng môn, ngoại trừ Thượng Vân tự. Ba vị đại năng Thượng Vân chưa từng rời vị trí, tự nguyện toạ trấn nơi ấy.
Họ đã sống hằng bao năm tháng, toạ hoá vì chúng sanh hẳn là ước mong cuối đời.
Thanh Đăng đại sư không đau buồn tột độ như tăng nhân đến báo tin, chỉ xua đi nụ cười mỉm thản nhiên thường thấy, tỏ bày tiếc thương. Hạch Đào Nhỏ ngồi đấy lơ mơ nghe cả, chẳng biết có hiểu không, bé trèo xuống ghế, lạch bạch chạy đến bên cha, ôm đầu gối chàng.
“Tháp Thiên Phật sẽ cử vị sư tổ nào đến Thiên Cảnh toạ trấn thay Nhược Viễn sư tổ?” Thanh Đăng xoa đầu Hạch Đào Nhỏ, hỏi hoà thượng nọ.
Đa số đại năng lánh đời của Thượng Vân sẽ thanh tu tại tháp Thiên Phật, Thanh Đăng nằm lòng tình trạng của mỗi người, cũng nắm rõ tình hình ở Thiên Cảnh, chàng đã biết đáp án trước cả khi tăng nhân trả lời.
“Bẩm sư tổ, là Nhược Phòng sư tổ.”
Thanh Đăng niệm Phật hiệu, bắt đầu tụng kinh. Nhược Phòng sư tổ là vị sư tổ cuối thuộc lứa chữ “Nhược”. Thế giới không ngừng vụn vỡ, họ vẫn sẽ thay phiên nhau mà không oán than gì, toạ hoá đấy, kế tục ngay, đến khi tăng nhân cuối cùng của Thượng Vân về trời.
Tiền bối ở tháp Thiên Phật toạ hoá cả chính là lúc họ – Thanh Đăng lão tổ, trụ trì Thù Ấn, Thù Chỉ – lên đường…
Nơi Thiên Cảnh hư vô ở lõi thế giới không có ngày đêm, không thấy mặt trăng mặt trời, chỉ độc một đài cao kê cột chống trời dựng thẳng. Trên cột chống trời chi chít hoa văn đẹp đẽ lạ lùng, nhìn rồi khó lòng dứt ra. Song giờ đây văn hoa lỗ chỗ vết nứt đen đúa, chúng đua nhau xuất hiện, rậm rịt nuốt lấy từng đường vân bạc vốn có.
Dưới cột chống trời an toạ chừng hai mươi vị đại năng phong cách khác nhau, vân đen trên cột được họ rót linh lực vào đã lan chậm hơn, hoa văn bạc bị che lấp dần dà xuất hiện lại. Nhưng chẳng mấy chốc, vết nhơ tiếp tục bành trướng. Khi linh lực với mọi loại sắc thái được truyền tải vào cột chống trời cũng là lúc các đại năng yếu đi, dẫu thế vẫn không ai dừng lại.
Đen và bạc không ngừng đôi co, rốt lại sắc đen vẫn nhỉnh hơn đôi chút, chầm chậm lan khắp cột.
Nếu vân bạc trên cột chống trời – hiện thân của vận số cõi này – biến mất hoàn toàn, thế giới sẽ đến hồi diệt vong.
Mặt trận kháng tử giới ở Thiên Cảnh hư vô chưa từng ngơi nghỉ, cùng lúc ấy, cuộc chiến chống ảnh hưởng của tử giới dưới mặt đất cũng nở rộ khắp nơi.
Kiếm của Giang Trừng đã hoá bạc lộng lẫy sau khi cô tăng tu vi, vô số tia bạc bén ngót vọt từ mũi kiếm lượn khắp chiến trường, xẻo thịt đám rối ma mỗi khi chúng lướt qua.
Lúc đương đầu với địch, Giang Trừng dẹp gọn vẻ tươi cười rạng rỡ thường thấy, thay vào đó là sát ý sực nức lạnh lùng, ai thấy cũng sợ, cô như hoá thành một người khác. Ánh mắt các đệ tử Dung Trần dành cho cô chất chứa cuồng nhiệt.
Cõi tu chân, kẻ mạnh luôn được kính nể. Mới đầu nhóm đệ tử Dung Trần này thấy Giang Trừng sư thúc xinh đẹp yếu ớt thì đinh ninh cô không thạo chém giết, song họ nhanh chóng nhận ra rằng mình đã sai, vị sư thúc hiền hoà thân thiết này hễ đến lúc giết địch là lại xoành xoạch thay đổi khí chất, vẻ liều mạng kia cực kỳ hút mắt.
Hiển nhiên thôi, kiếm của Giang Trừng được phòng tối tôi luyện mà thành, mỗi chiêu thức đều đã giác ngộ ý chí địch chết ta mới sống, mãi rồi thành quen, quen rồi không đổi, dần dà mới bừng bừng sát khí thế kia.
Trận chiến kết thúc, đám rối ma bò ra từ lòng đất đã rã tan từng mảnh, bị thiêu huỷ hoàn toàn, tu sĩ lần lượt ngừng tay, vài tu sĩ dọn dẹp chiến trường, xem có bỏ sót kẻ địch nào không.
Giang Trừng cất kiếm, lấy khăn lau thịt vụn dây vào người, mặt mũi lại dịu dàng như trước, chừng như nhân vật hung tợn vừa dạo quanh mặt trận, phanh thây đám rối ma không phải là cô vậy.
“Giang đạo hữu.” Một tu sĩ cũng mặc áo trắng đi đến chỗ Giang Trừng, theo sau là mười mấy nam nữ đệ tử.
Họ là đệ tử Vạn Thành sơn môn vẫn luôn đối đầu với Dung Trần, người đi đầu vừa gọi Giang Trừng bằng giọng điệu rất đỗi lạ lùng kia là sư thúc của mười mấy người còn lại, tu vi suýt soát, thậm chí còn nhỉnh hơn cô đôi chút.
Gã họ Nguyên, nghe đồn cha mẹ đều là tu sĩ Nguyên Anh của Vạn Thành, bởi thế cũng khá nổi tiếng trong sơn môn nhà họ. Nguyên tu sĩ tính tình kiêu căng, trước đó luôn cầm đầu những trò gây rối nhằm vào môn đồ Dung Trần, hôm qua Giang Trừng tới, gã vẫn định sai phái làm phiền, ngờ đâu sau màn đánh giết rối ma lại bị cô chỉ đích danh ra so găng một phen.
Nguyên tu sĩ đã thua, lại còn thua ê chề vô cùng ngay trước mặt quần chúng. Giang Trừng nhỏ mọn, cũng khá bênh vực người nhà, thấy đồng môn bị kẻ khác đè đầu cưỡi cỗ như thế, cô quyết định xả giận dùm họ ngay, cố ý tẩm quất Nguyên tu sĩ đến nỗi thân thể bầm dập, áo xống tả tơi, mớ vải rách lúc lắc trên người tung bay theo gió, trông thích mắt biết bao.
Giang Trừng vốn đinh ninh sau tiết mục hôm qua, kẻ này sẽ ghi hận rồi sang quấy rối cô, ngờ đâu từ đầu trận đến nay chúng lại tránh né, không bới móc nữa. Ờ thì nhịn cả buổi, rốt cũng ra mặt rồi.
Đệ tử Dung Trần quanh đấy thoắt cái đã tụm lại, đứng cả về phía Giang Trừng, ít người hơn nhưng khí thế chẳng kém là bao! Bọn nó đông thì đông đấy, cơ mà đập nhau thì chưa biết mèo nào cắn mỉu nào đâu!
Chính khi các đệ tử mài đấm soàn soạt chuẩn bị xáp là cà một trận và tu sĩ môn phái khác từ xa ngó tới, Giang Trừng lại nghe Nguyên tu sĩ đang đứng trước mặt mình bảo: “Ta thích Giang đạo hữu lắm, nên duyên đạo lữ cùng ta được chăng?”
Giang Trừng: … Cõi tu chân trước nay chẳng thiếu kẻ lạ lùng quái đản, hễ gặp cô lại cạn lời.
Nguyên tu sĩ thấy Giang Trừng không đáp, khăng khăng nói tiếp: “Nàng thuộc Dung Trần nên chưa chắc cha mẹ ta bằng lòng, song chỉ cần nàng đồng ý, ta sẽ tìm cách thuyết phục họ.”
Giang Trừng: “Ờ, tôi không đồng ý.”
Nguyên tu sĩ lạ lẫm nhìn cô, “Nàng không đồng ý? Tại sao? Nguyên Hưng ta đây hơn hẳn nàng về tu vi và gia thế, tính ra nàng vớ bẫm đấy nhé, thế vẫn không chịu?”
Giang Trừng cũng muốn hỏi tại sao gã lại làm như lạ lùng lắm ý, trời đất ơi mới gặp hai lần, hôm qua còn bị nàng tẩn cho te tua xơ mướp, nhẽ nào tên này bị M? Ăn đòn xong nằng nặc đòi kết mô đen với đầu sỏ.
Thực ra Giang Trừng gặp không ít người mến mộ mình ngoài này. Có điều trước kia đa phần là nữ tu nhận nhầm giới tính của cô, hai năm trở lại đây mới có nam tu ngỏ ý. Ai đàng hoàng sẽ được Giang Trừng lịch sự từ chối với lý do mình đã có người thương, còn những kẻ xấu tính ương bướng á, Giang Trừng đành lấy cứng chọi cứng thôi.
Giờ tâm trạng của cô đang không được tốt cho lắm, cười từ thiện với Nguyên Hưng, thong dong bảo: “Xét tu vi, cậu cao hơn tôi, nhưng cậu đánh đâu có lại tôi. Chẳng nhẽ tu vi của Nguyên tu sĩ là nhờ nốc thuốc mà ra? Hay là già đầu rồi vẫn chưa từng rời nhà chém giết cả ai, thế mới thua một nữ tu có tu vi thấp hơn mình? Còn về mặt mũi á, trong số những người theo đuổi tôi thì cậu cũng chỉ vào hàng trung bình kém, dùng từ ‘không nổi trội’ đã là khách sáo lắm rồi. Xin lỗi nha, nếu Nguyên tu sĩ không đắp đầy linh khí hộ mạng lên người thì tôi không nhớ nổi bản mặt của cậu đâu.”
Cô cười khẽ, dung nhan lại thêm yêu kiều, có điều ánh mắt đầy tràn vẻ giễu nhại, thấy mà ê răng, “Cõi tu chân mênh mông như thế, Nguyên tu sĩ nên thăm thú đó đây nhiều hơn, chứ ở rịt trong cái hốc Vạn Thành tý hin khéo lại thành ếch ngồi đáy giếng, chẳng những tầm nhìn hạn hẹp, lại còn om sòm quá lắm.”
Thật vậy, Nguyên Hưng “được” cha mẹ nhốt trong Vạn Thành mà nuôi, nốc biết bao linh đơn diệu dược mới ra tu vi chừng đấy, hai đấng sinh thành mà không hay tin cõi này sắp lâm đại nạn thì đã chẳng đẩy con trai cưng ra ngoài lịch luyện như giờ. Gã ta cậy thế cha yêu mẹ chìu mà hoá trùm sỏ ở sơn môn, từ bấy thích gì được nấy, chưa bị ai làm nhục nhường này, đỏ gay cả mặt.
Giang Trừng dắt đệ tử, xoay lưng mà đi, cười cười buông tiếng: “Nguyên tu sĩ lo lấy thân mình, tôi không tiếp nữa.”
Nguyên Hưng nghiến răng trèo trẹo, rống lên: “Đồ không biết điều, hôm nay ngươi liệu mà chôn chân chốn này!”
Hôm qua mất mặt, gã đã định dạy cho Giang Trừng một bài, có điều thấy cô đẹp quá, động lòng tính chiếm làm của riêng, đinh ninh mình từ bi hỉ xả lắm rồi, ngờ đâu hôm nay lại nhục nhã hơn thêm. Gã chẳng màng sắc nước hương trời chi nữa, giục linh khí cao cấp nhằm hướng Giang Trừng mà đánh.
Giang Trừng sớm đã đề phòng gã ra tay chớp nhoáng, nghe rục rịch thì thầm bĩu môi, bịch rác này có hai đấng sinh thành ổn áp thật ấy, linh khí ngon thế mà cũng đưa ra cho gã chà đạp.
Vừa định trả đòn thật mạnh, đánh sao cho tên dở người này té re luôn thôi, bỗng lại nghe hơi thở quen thuộc ùa đến, cô lấy làm nhẹ nhõm, cười thật ấm áp.
Cô ngước nhìn trời, chỉ thấy bóng người nhanh chóng đáp xuống, gió phần phật thổi, hạc gáy kiếm reo.
Người nọ mặt mũi lạnh lùng, chỉ khi nhìn Giang Trừng mới dịu dàng vấn vương, đích thị là Hạc Kinh Hàn rồi. Lúc hắn xuất hiện ngay trước mặt Giang Trừng, Nguyên Hưng đã ngã sõng soài không xa, phun ra búng máu. Bởi tất thảy xảy ra quá nhanh, đám đệ tử Vạn Thành đứng quanh không theo kịp, tỉnh rồi mới lũ lượt hô hoán, chạy sang dìu Nguyên Hưng.
Gã ta nuốt viên linh đơn, đứng dậy rồi căm tức ngó Hạc Kinh Hàn, định khui hàng mắng nhiếc, song trông thấy đạo bào hai màu và thanh kiếm đen lập loè sáng lạnh cùng chuôi kiếm trắng vẫn chưa rời vỏ trên lưng thì nhận ra thân phận người nọ, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay, mặt mày tái xanh tái xám, rực rỡ biết bao.
Hạc Kinh Hàn đứng cạnh Giang Trừng, kiểm tra xem cô có bị thương không rồi mới lạnh lùng nhìn Nguyên Hưng, “Ngay lúc này đây, tu sĩ chính đạo không đắn đo xem phải cứu người ra sao mà lại đánh giết nhau thế này, nực cười quá lắm.”
Hắn hừ lạnh, búng tay về phía Nguyên Hưng, chẳng dùng đến kiếm. Nguyên Hưng tái mặt giục linh khí hộ mạng ra đỡ, song chỉ chốc lát chúng đã vỡ nát tan tành, còn gã thì lục khục đo đất, không bò dậy nổi nữa. Đệ tử Vạn Thành căm mà không dám cãi, cun cút rụt đầu.
“Chẳng màng cứu người thì về Vạn Thành sơn môn cả đi, ra đây thêm phiền.” Hạc Kinh Hàn thẳng thừng bảo. Nguyên Hưng trúng đòn này ắt phải dưỡng thương vài năm, không nhờ Giang Trừng lén khều em trai thì Hạc Kinh Hàn đã chẳng nương tay, bét lắm cũng cho gã liệt giường nửa thế kỷ.
Nguyên Hưng được đệ tử Vạn Thành lẹ làng khiêng đi, tu sĩ các môn phái khác còn đấy cũng không nhiều lời, ai nấy khấp khởi nhìn Hạc Kinh Hàn, rậm rịt muốn đến hàn huyên.
Mấy năm nay, Hạc Kinh Hàn vốn vô cùng nổi tiếng đã lại thơm thảo hơn thêm khi một mình giết sạch rối ma của hơn mười ải tử giới, hiện thời chắc hẳn chẳng ai không biết đến hắn, ngay cả bậc đại năng cũng biết thủ lĩnh Vô Cực Tử lứa này của đạo quán Vô Cực là một tu sĩ trẻ tuổi cừ khôi, tương lai thẳng bước thì sẽ không kém gì sư phụ Mai Tùng lão tổ.
Ngoài chuyện tu vi thì người ta bàn tán cả về tính tình lạnh nhạt của Hạc Kinh Hàn, biết bao nàng thơ đã sa ngã trên con đường theo đuổi nam thần giá rét này, thế mà chẳng ai thành công. Nay họ lại thấy Hạc Kinh Hàn vừa che chở lại còn dịu dàng trò chuyện với Giang Trừng, đầu óc tức thời nảy số.
Hạc nam thần, hoá ra đã có người thương, là ai đã khiến tôn sát thần này động lòng phàm?
Thoáng chốc, mọi người tò mò về Giang Trừng quá lắm.
Hạc Kinh Hàn chẳng màng ánh mắt xung quanh, đương báo cáo tình hình gần đây với chị yêu đã lâu không gặp, chợt nghe lanh lảnh giọng ai.
“Mẹ ơi!”
Giang Trừng và Hạc Kinh Hàn cùng ngước lên, thấy bóng người cao gầy mặc tăng bào trắng giản dị thong dong đì đùng một bé con đáng yêu bước đến, cô bé ôm lấy đầu chàng, hớn hở gọi mẹ.
/165
|