Việc Ngải Mễ xuất ngoại có liên quan đến Viện Harvard Yenching của Đại học Harvard. Ngải Mễ có thiện cảm đặc biệt với trường Đại học Harvard, mối thiện cảm này nặng đến mức chỉ cần có chữ “Ha” là cô đã ngất ngây rồi, tỉ dụHarbin (Cáp Nhĩ Tân), Ha-sa-ke (Kazakhstan) gì gì đó đều có thể khiến cô quan tâm. Nghe nói Allan có mang một phần n dòng máu Kazakhstan, đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khiến Ngải Mễ yêu anh.
Tuy nhiên Ngải Mễ là một quân tử điển hình, vì quân tử là người “miệng nói mà không làm”. Nếu đã có thiện cảm với Harvard như vậy thì phải nỗ lực chứ, người ta vẫn nói rằng: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền” còn gì?
Ngải Mễ vốn là người “có lòng bền”, hay nói cách khác là cô chỉ có lòng mà không có hành động. Cô có quyết tâm đi học Harvard nhưng lại không muốn bỏ công sức ra phấn đấu. Cô đổ lỗi chuyện không thành công của mình cho câu nói “chỉ sợ lòng không bền”. Nếu cổ nhân không nói như thế, mà nói “chỉ sợ người không làm” thì chắc chắn cô sẽ bắt tay vào hành động. Bây giờ cổ nhân đã nói “chỉ sợ lòng không bền” thì cô chỉ có lòng, không hành động cũng không thể trách cô. Cổ nhân cũng đã nói: “Không nghe lời cổ nhân sẽ thiệt thòi suốt đời” rồi mà.
Thế nên Ngải Mễ có hai cụm từ nói hàng trăm lần mà không biết chán, một cụm từ là “chỉ nói vậy thôi”, cụm từ kia là “sau này tính sau”. Bố cô hỏi: “Lâu nay con vẫn bảo là muốn sang Harvard học, sao không thấy con bắt tay vào chuẩn bị gì cả?”
Ngải Mễ liền đáp: “Sang Harvard học ạ? Con chỉ nói vậy thôi mà.”
Nếu bố cô hỏi tiếp câu nữa: “Không sang Harvard thì các trường khác cũng được mà.”
Cô sẽ uể oải đáp: “Sau này tính sau.”
Bạn có thể dùng thử hai cụm từ này, chỉ cần bạn nói thật lòng, nói tỉnh bơ như không, đảm bảo có thể đối phó với mọi câu hỏi. Trong các tác phẩm của mình, Ngải Mễ ít khi dùng cụm từ “chỉ nói vậy thôi”, chắc là do trong forum đã từng có người chỉ trích, cô sợ dùng cụm từ này, mọi người sẽ hiểu lầm là “chẳng có gì ghê gớm, chỉ là thề thốt vậy thôi”.
Sở dĩ Ngải Mễ được xuất ngoại, chủ yếu là do đột nhiên khoa có một cơ hội sang Viện Harvard Yenching học tập. Nói là kinh phí nằm trong Điều ước bồi thường Canh Tý[1], mang ra để hỗ trợ tài chính cho các học giả trong nước. Ngải Mễ không biết Điều ước bồi thường Canh Tý, Cơm Tý là gì, điều khiến cô có hứng thú nhất là hai chữ “Harvard”, bởi đây là mối thiện cảm đặc biệt của cô.
[1] Năm Canh Tý (1900), Nghĩa Hòa Đoàn chiếm Bắc Kinh và một số thành phố. Triều đình nhà Thanh của Từ Hy Thái hậu chạy lên Tây An, bỏ ngỏ Bắc Kinh. Quân Nghĩa Hòa Đoàn mặc sức hãm hại giáo sĩ, kiều dân nước ngoài, cướp phá tài sản của họ và các sứ quán. Trước tình hình đó, lấy danh nghĩa bảo vệ kiều dân và sứ quán, quân đội tám nước Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga, Nhật, Ý và đế quốc Áo – Hung liên kết tiến vào Bắc Kinh và các thành phố bị chiếm. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bị dập tắt. Tháng Chín năm 1901, triều đình nhà Thanh phải đàm phán với mười một nước phương Tây và ký Điều ước Tân Sửu gồm mười hai điều khoản; trong đó có điều khoản nhận bồi thường toàn bộ phí tổn và thiệt hại của các nước này do Nghĩa Hòa Đoàn gây ra (các nước tự khai phí tổn và thiệt hại). Khoản bồi thường đó gọi là Khoản bồi thường Canh Tý, quy định bằng 450 triệu lạng bạc, tức mỗi người Trung Quốc lúc đó phải trả một lạng bạc.
Lúc ấy Ngải Mễ đang dạy tiếng Anh tại trường Đại học R, sở dĩ cô vào trường này làm giảng viên tiếng Anh là do có liên quan đến Allan, mặc dù Allan không ở Đại học R.
Nhớ lại chuyện cũ, Ngải Mễ phát hiện ra cuộc sống của mình về cơ bản có thể chia thành hai giai đoạn là Pre-Allan (Tiền Allan) và Post-Allan (Hậu Allan).
Giai đoạn tiền Allan được tính từ thời điểm Allan rời thành phố J về Thâm Quyến công tác. Sáng hôm ấy, khi taxi đến chở Allan ra ga, Ngải Mễ lười nên ở lì trong phòng chứ không tiễn anh xuống dưới. Trước khi đi, anh sang phòng tạm biệt cô, dặn cô nhớ giữ gìn sức khỏe. Cô cũng đáp lại mấy câu tương tự, rồi anh đứng cạnh cửa phòng cô một lúc, sau đó mới xuống sân.
Cô đã không còn giận anh nữa nhưng cô không muốn chạy xuống sân, thể hiện vẻ lưu luyến của mình trước mặt mọi người. Thậm chí cô còn cảm thấy mình không còn lưu luyến gì nữa, cô đã đả thông tư tưởng cho mình, hay nói cách khác là đã được bố cô đả thông tư tưởng sau khi nghe những lời giáo huấn vàng ngọc, hoặc cũng có thể nói là đã bị những điều mê tín mà mẹ cô nói mê hoặc. Bất luận là nguyên nhân gì, tóm lại tư tưởng đã được “đả thông”. Đả thông rồi sẽ không đau đớn, đả thông rồi thì không còn cảm thấy đau khổ khi phải chia ly.
Bố cô nói: “Con không nên coi cậu ấy là con búp bê của con để mang theo bên mình, khi nào muốn chơi thì lôi ra chơi. Cậu ấy là một con người, một người đàn ông, một người đã trưởng thành, cậu ấy có công việc và sự nghiệp của riêng mình. Cậu ấy muốn về miền Nam làm thì tại sao con lại không cho cậu ấy đi?”
“Thế con làm con búp bê cho anh ấy không được ư?” Từ trước đến nay, Ngải Mễ chẳng bao giờ chịu nghe những lời bố cô răn dạy, cô biết cách tốt nhất để đối phó với những lời giáo huấn đó là giở tính ngang. “Con theo anh ấy về Thâm Quyến, để anh ấy mang theo con bên người, lúc nào muốn chơi là lôi ra chơi không được sao?”
Chắc là bố đã hiểu từ “chơi” với nghĩa khác nên nạt cô luôn: “Con gái con đứa, đừng có nói linh tinh!”
Nếu nói bố cô là một diễn giả luôn nói những lời nghiêm túc nhưng hiệu quả lại không cao thì mẹ cô lại có thể mê hoặc lòng người bằng những câu nói sặc mùi mê tín. Mẹ lúc nào cũng nói với vẻ rất thờ ơ, dường như không nhằm mục đích gì, như đang đề cập về một người nào đó không liên quan, cũng có thể đang nói về chính bản thân bà, nhưng những điều mẹ nói lại tựa như tiếng hát rì rào của sóng biển, xuyên qua màn đêm, nhẹ nhàng bay đến bên cô, mê hoặc cô lúc nào không hay.
Mẹ nói: “Đàn ông có một điểm chung là nghĩ “chim nắm trong tay không bằng chim bay trong rừng”. Nếu bám riết lấy anh ta thì anh ta chẳng coi mình ra gì, khi không bắt được, anh ta mới tìm mọi cách đuổi theo.”
Những điều mẹ nói thường là ám chỉ chung chung, không biết là để cho đúng trong mọi hoàn cảnh, địa điểm và thời điểm hay để thoái thác trách nhiệm, nhưng những thính giả nghiêm túc lại tưởng đang nói về họ, thế nên những chủ đề thế này phần lớn là bị bố cắt lời, bố sẽ tranh cãi với mẹ một hồi về vấn đề “rốt cuộc là em đang nói ai vậy”.
“Em đang ám chỉ ai thế? Nghe giọng em cứ như đang nói anh không biết trân trọng em vậy?” Bố hậm hực nói. “Hay là trước đây, em cũng áp dụng sách lược vờ tha để bắt đối với anh?”
Ngải Mễ liền cười thầm và không quan tâm đến chuyện bố mẹ ai thắng ai thua nữa. Cô biết sau đó, bố mẹ cô sẽ ôn lại chuyện cũ của họ, hùng hổ vạch trần xem ngày xưa rốt cuộc ai tán ai, sau đó nữa, đấu văn không giải quyết được vấn đề liền lên giường đấu võ. Nếu với tính cách mắm thối của cô ngày trước, chắc chắn cô sẽ phá cửa phòng họ ra và gào: “Phải đấu văn, không được đấu võ.” Nhưng hiện tại cô không còn thô lỗ như thế nữa, vì cô cũng được coi là người “từng trải”, biết người đang có hứng mà bị người khác phá bĩnh như thế, chắc chắn sẽ tụt hứng, không biết sẽ rủa kẻ gây sự bằng những ngôn từ khủng khiếp thế nào. Nghiêm trọng hơn là mắc thêm tật xấu nào đó chứ chẳng chơi.
Cô cảm thấy những điều mẹ nói cũng có lý, xem ra mình phải làm người mà Allan không bắt được, như thế anh ấy mới nghĩ đủ mọi cách để theo đuổi mình. Biết sớm thế này thì đáng lẽ hồi đầu không nên ngớ ngẩn tỏ tình với anh chàng. Có lẽ hiện tại anh chàng kiên quyết ra đi như vậy cũng là do có được quá dễ dàng.
Hối hận cũng đã muộn! Không biết từ bây giờ áp dụng chiến thuật vờ tha để bắt có còn kịp nữa không? Nhưng nghĩ như vậy, ít nhất trong lòng cũng cảm thấy dễ chịu hơn. Anh tưởng là anh tự ra đi ư? Đừng có tưởng bở, là tôi đang vờ tha anh đó thôi.
Ngải Mễ trốn ở sau rèm cửa, nhìn Allan lên taxi, xe chuyển bánh rồi biến mất trong tích tắc.
Có một số sự kiện, ý nghĩa thực tế của nó thường không sâu sắc, lớn lao như ý nghĩa lịch sử. Khi xảy ra sự kiện, bạn không cảm nhận được điều gì, nhưng trong những tháng ngày dài dằng dặc sau đó, độ ảnh hưởng của sự kiện mới dần dần bộc lộ.
Đối với Ngải Mễ, sự ra đi của Allan là sự kiện như thế. Lúc nhìn anh đứng vẫy tay trước cửa sổ phòng ngủ của cô rồi lên taxi, cô không cảm nhận được nỗi đau khắc cốt ghi tâm, cảm giác như anh đang có chuyến công tác ngắn ngày, chỉ vài ngày thôi sẽ quay về. Tuy nhiên cảnh tượng ấy vẫn thường xuyên hiện lên trước mắt cô trong những năm tháng sau này, khiến cô ngày càng cảm nhận được sâu sắc hơn từ “vĩnh biệt” được bắt đầu sau khi cảnh tượng đó trôi qua rất lâu.
Sự khác biệt giữa hai thời kỳ tiền Allan và hậu Allan nằm ở chỗ tất cả mọi việc có liên quan đến Allan hay không. Trong giai đoạn hậu Allan dài dằng dặc của cô, mỗi lần đưa ra một quyết định nào đó, gần như quyết định đó đều liên quan đến Allan. Sau khi tốt nghiệp, cô vốn định về miền Nam tìm việc, vì Allan đã đi miền Nam, miền Nam có ý nghĩa đặc biệt đối với cô, nhưng bố mẹ cô nhất quyết không đồng ý.
Bố nói: “Con gái làm giảng viên trong trường đại học thì hơn. Về miền Nam làm gì? Xin vào công ty à? Làm bình hoa cho người ta thỏa sức vần vò à? Người học tiếng Anh như con chẳng lẽ được lên làm chủ tịch hội đồng quản trị ư? Cùng lắm là được làm nhân viên hành chính trong công ty, làm đến già cũng chẳng nên công trạng gì.”
Còn mẹ thì nói đông nói tây, từ các cô làm tiếp tân ở văn phòng đến các anh làm nhân viên PR: “Thực ra hồi đầu Allan chọn vào làm việc trong công ty, mẹ đã biết là chuyện của hai đứa không thể bền lâu được. Allan học tiếng Anh, học văn, công ty đó tuyển dụng cũng vì muốn sử dụng vốn ngoại ngữ của thằng bé. Nó không phải là người an phận thủ thường, chắc chắn không bao giờ cam tâm suốt đời chỉ làm trợ lý và phiên dịch cho người ta, chắc bây giờ nó cũng bỏ công ty đó vào trường đại học làm giảng viên rồi.”
Ngải Mễ liền sốt sắng hỏi: “Thế liệu anh ấy sẽ vào trường nào hả mẹ?”
“Ai mà biết được! Nhưng có thành phố nào nhiều trường đại học và còn tập trung nhiều trường đại học nổi tiếng hơn thành phố J nữa chứ?”
Và thế là Ngải Mễ vào trường Đại học R thuộc thành phố J mà lòng tràn đầy hy vọng.
Tuy nhiên Ngải Mễ là một quân tử điển hình, vì quân tử là người “miệng nói mà không làm”. Nếu đã có thiện cảm với Harvard như vậy thì phải nỗ lực chứ, người ta vẫn nói rằng: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền” còn gì?
Ngải Mễ vốn là người “có lòng bền”, hay nói cách khác là cô chỉ có lòng mà không có hành động. Cô có quyết tâm đi học Harvard nhưng lại không muốn bỏ công sức ra phấn đấu. Cô đổ lỗi chuyện không thành công của mình cho câu nói “chỉ sợ lòng không bền”. Nếu cổ nhân không nói như thế, mà nói “chỉ sợ người không làm” thì chắc chắn cô sẽ bắt tay vào hành động. Bây giờ cổ nhân đã nói “chỉ sợ lòng không bền” thì cô chỉ có lòng, không hành động cũng không thể trách cô. Cổ nhân cũng đã nói: “Không nghe lời cổ nhân sẽ thiệt thòi suốt đời” rồi mà.
Thế nên Ngải Mễ có hai cụm từ nói hàng trăm lần mà không biết chán, một cụm từ là “chỉ nói vậy thôi”, cụm từ kia là “sau này tính sau”. Bố cô hỏi: “Lâu nay con vẫn bảo là muốn sang Harvard học, sao không thấy con bắt tay vào chuẩn bị gì cả?”
Ngải Mễ liền đáp: “Sang Harvard học ạ? Con chỉ nói vậy thôi mà.”
Nếu bố cô hỏi tiếp câu nữa: “Không sang Harvard thì các trường khác cũng được mà.”
Cô sẽ uể oải đáp: “Sau này tính sau.”
Bạn có thể dùng thử hai cụm từ này, chỉ cần bạn nói thật lòng, nói tỉnh bơ như không, đảm bảo có thể đối phó với mọi câu hỏi. Trong các tác phẩm của mình, Ngải Mễ ít khi dùng cụm từ “chỉ nói vậy thôi”, chắc là do trong forum đã từng có người chỉ trích, cô sợ dùng cụm từ này, mọi người sẽ hiểu lầm là “chẳng có gì ghê gớm, chỉ là thề thốt vậy thôi”.
Sở dĩ Ngải Mễ được xuất ngoại, chủ yếu là do đột nhiên khoa có một cơ hội sang Viện Harvard Yenching học tập. Nói là kinh phí nằm trong Điều ước bồi thường Canh Tý[1], mang ra để hỗ trợ tài chính cho các học giả trong nước. Ngải Mễ không biết Điều ước bồi thường Canh Tý, Cơm Tý là gì, điều khiến cô có hứng thú nhất là hai chữ “Harvard”, bởi đây là mối thiện cảm đặc biệt của cô.
[1] Năm Canh Tý (1900), Nghĩa Hòa Đoàn chiếm Bắc Kinh và một số thành phố. Triều đình nhà Thanh của Từ Hy Thái hậu chạy lên Tây An, bỏ ngỏ Bắc Kinh. Quân Nghĩa Hòa Đoàn mặc sức hãm hại giáo sĩ, kiều dân nước ngoài, cướp phá tài sản của họ và các sứ quán. Trước tình hình đó, lấy danh nghĩa bảo vệ kiều dân và sứ quán, quân đội tám nước Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga, Nhật, Ý và đế quốc Áo – Hung liên kết tiến vào Bắc Kinh và các thành phố bị chiếm. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bị dập tắt. Tháng Chín năm 1901, triều đình nhà Thanh phải đàm phán với mười một nước phương Tây và ký Điều ước Tân Sửu gồm mười hai điều khoản; trong đó có điều khoản nhận bồi thường toàn bộ phí tổn và thiệt hại của các nước này do Nghĩa Hòa Đoàn gây ra (các nước tự khai phí tổn và thiệt hại). Khoản bồi thường đó gọi là Khoản bồi thường Canh Tý, quy định bằng 450 triệu lạng bạc, tức mỗi người Trung Quốc lúc đó phải trả một lạng bạc.
Lúc ấy Ngải Mễ đang dạy tiếng Anh tại trường Đại học R, sở dĩ cô vào trường này làm giảng viên tiếng Anh là do có liên quan đến Allan, mặc dù Allan không ở Đại học R.
Nhớ lại chuyện cũ, Ngải Mễ phát hiện ra cuộc sống của mình về cơ bản có thể chia thành hai giai đoạn là Pre-Allan (Tiền Allan) và Post-Allan (Hậu Allan).
Giai đoạn tiền Allan được tính từ thời điểm Allan rời thành phố J về Thâm Quyến công tác. Sáng hôm ấy, khi taxi đến chở Allan ra ga, Ngải Mễ lười nên ở lì trong phòng chứ không tiễn anh xuống dưới. Trước khi đi, anh sang phòng tạm biệt cô, dặn cô nhớ giữ gìn sức khỏe. Cô cũng đáp lại mấy câu tương tự, rồi anh đứng cạnh cửa phòng cô một lúc, sau đó mới xuống sân.
Cô đã không còn giận anh nữa nhưng cô không muốn chạy xuống sân, thể hiện vẻ lưu luyến của mình trước mặt mọi người. Thậm chí cô còn cảm thấy mình không còn lưu luyến gì nữa, cô đã đả thông tư tưởng cho mình, hay nói cách khác là đã được bố cô đả thông tư tưởng sau khi nghe những lời giáo huấn vàng ngọc, hoặc cũng có thể nói là đã bị những điều mê tín mà mẹ cô nói mê hoặc. Bất luận là nguyên nhân gì, tóm lại tư tưởng đã được “đả thông”. Đả thông rồi sẽ không đau đớn, đả thông rồi thì không còn cảm thấy đau khổ khi phải chia ly.
Bố cô nói: “Con không nên coi cậu ấy là con búp bê của con để mang theo bên mình, khi nào muốn chơi thì lôi ra chơi. Cậu ấy là một con người, một người đàn ông, một người đã trưởng thành, cậu ấy có công việc và sự nghiệp của riêng mình. Cậu ấy muốn về miền Nam làm thì tại sao con lại không cho cậu ấy đi?”
“Thế con làm con búp bê cho anh ấy không được ư?” Từ trước đến nay, Ngải Mễ chẳng bao giờ chịu nghe những lời bố cô răn dạy, cô biết cách tốt nhất để đối phó với những lời giáo huấn đó là giở tính ngang. “Con theo anh ấy về Thâm Quyến, để anh ấy mang theo con bên người, lúc nào muốn chơi là lôi ra chơi không được sao?”
Chắc là bố đã hiểu từ “chơi” với nghĩa khác nên nạt cô luôn: “Con gái con đứa, đừng có nói linh tinh!”
Nếu nói bố cô là một diễn giả luôn nói những lời nghiêm túc nhưng hiệu quả lại không cao thì mẹ cô lại có thể mê hoặc lòng người bằng những câu nói sặc mùi mê tín. Mẹ lúc nào cũng nói với vẻ rất thờ ơ, dường như không nhằm mục đích gì, như đang đề cập về một người nào đó không liên quan, cũng có thể đang nói về chính bản thân bà, nhưng những điều mẹ nói lại tựa như tiếng hát rì rào của sóng biển, xuyên qua màn đêm, nhẹ nhàng bay đến bên cô, mê hoặc cô lúc nào không hay.
Mẹ nói: “Đàn ông có một điểm chung là nghĩ “chim nắm trong tay không bằng chim bay trong rừng”. Nếu bám riết lấy anh ta thì anh ta chẳng coi mình ra gì, khi không bắt được, anh ta mới tìm mọi cách đuổi theo.”
Những điều mẹ nói thường là ám chỉ chung chung, không biết là để cho đúng trong mọi hoàn cảnh, địa điểm và thời điểm hay để thoái thác trách nhiệm, nhưng những thính giả nghiêm túc lại tưởng đang nói về họ, thế nên những chủ đề thế này phần lớn là bị bố cắt lời, bố sẽ tranh cãi với mẹ một hồi về vấn đề “rốt cuộc là em đang nói ai vậy”.
“Em đang ám chỉ ai thế? Nghe giọng em cứ như đang nói anh không biết trân trọng em vậy?” Bố hậm hực nói. “Hay là trước đây, em cũng áp dụng sách lược vờ tha để bắt đối với anh?”
Ngải Mễ liền cười thầm và không quan tâm đến chuyện bố mẹ ai thắng ai thua nữa. Cô biết sau đó, bố mẹ cô sẽ ôn lại chuyện cũ của họ, hùng hổ vạch trần xem ngày xưa rốt cuộc ai tán ai, sau đó nữa, đấu văn không giải quyết được vấn đề liền lên giường đấu võ. Nếu với tính cách mắm thối của cô ngày trước, chắc chắn cô sẽ phá cửa phòng họ ra và gào: “Phải đấu văn, không được đấu võ.” Nhưng hiện tại cô không còn thô lỗ như thế nữa, vì cô cũng được coi là người “từng trải”, biết người đang có hứng mà bị người khác phá bĩnh như thế, chắc chắn sẽ tụt hứng, không biết sẽ rủa kẻ gây sự bằng những ngôn từ khủng khiếp thế nào. Nghiêm trọng hơn là mắc thêm tật xấu nào đó chứ chẳng chơi.
Cô cảm thấy những điều mẹ nói cũng có lý, xem ra mình phải làm người mà Allan không bắt được, như thế anh ấy mới nghĩ đủ mọi cách để theo đuổi mình. Biết sớm thế này thì đáng lẽ hồi đầu không nên ngớ ngẩn tỏ tình với anh chàng. Có lẽ hiện tại anh chàng kiên quyết ra đi như vậy cũng là do có được quá dễ dàng.
Hối hận cũng đã muộn! Không biết từ bây giờ áp dụng chiến thuật vờ tha để bắt có còn kịp nữa không? Nhưng nghĩ như vậy, ít nhất trong lòng cũng cảm thấy dễ chịu hơn. Anh tưởng là anh tự ra đi ư? Đừng có tưởng bở, là tôi đang vờ tha anh đó thôi.
Ngải Mễ trốn ở sau rèm cửa, nhìn Allan lên taxi, xe chuyển bánh rồi biến mất trong tích tắc.
Có một số sự kiện, ý nghĩa thực tế của nó thường không sâu sắc, lớn lao như ý nghĩa lịch sử. Khi xảy ra sự kiện, bạn không cảm nhận được điều gì, nhưng trong những tháng ngày dài dằng dặc sau đó, độ ảnh hưởng của sự kiện mới dần dần bộc lộ.
Đối với Ngải Mễ, sự ra đi của Allan là sự kiện như thế. Lúc nhìn anh đứng vẫy tay trước cửa sổ phòng ngủ của cô rồi lên taxi, cô không cảm nhận được nỗi đau khắc cốt ghi tâm, cảm giác như anh đang có chuyến công tác ngắn ngày, chỉ vài ngày thôi sẽ quay về. Tuy nhiên cảnh tượng ấy vẫn thường xuyên hiện lên trước mắt cô trong những năm tháng sau này, khiến cô ngày càng cảm nhận được sâu sắc hơn từ “vĩnh biệt” được bắt đầu sau khi cảnh tượng đó trôi qua rất lâu.
Sự khác biệt giữa hai thời kỳ tiền Allan và hậu Allan nằm ở chỗ tất cả mọi việc có liên quan đến Allan hay không. Trong giai đoạn hậu Allan dài dằng dặc của cô, mỗi lần đưa ra một quyết định nào đó, gần như quyết định đó đều liên quan đến Allan. Sau khi tốt nghiệp, cô vốn định về miền Nam tìm việc, vì Allan đã đi miền Nam, miền Nam có ý nghĩa đặc biệt đối với cô, nhưng bố mẹ cô nhất quyết không đồng ý.
Bố nói: “Con gái làm giảng viên trong trường đại học thì hơn. Về miền Nam làm gì? Xin vào công ty à? Làm bình hoa cho người ta thỏa sức vần vò à? Người học tiếng Anh như con chẳng lẽ được lên làm chủ tịch hội đồng quản trị ư? Cùng lắm là được làm nhân viên hành chính trong công ty, làm đến già cũng chẳng nên công trạng gì.”
Còn mẹ thì nói đông nói tây, từ các cô làm tiếp tân ở văn phòng đến các anh làm nhân viên PR: “Thực ra hồi đầu Allan chọn vào làm việc trong công ty, mẹ đã biết là chuyện của hai đứa không thể bền lâu được. Allan học tiếng Anh, học văn, công ty đó tuyển dụng cũng vì muốn sử dụng vốn ngoại ngữ của thằng bé. Nó không phải là người an phận thủ thường, chắc chắn không bao giờ cam tâm suốt đời chỉ làm trợ lý và phiên dịch cho người ta, chắc bây giờ nó cũng bỏ công ty đó vào trường đại học làm giảng viên rồi.”
Ngải Mễ liền sốt sắng hỏi: “Thế liệu anh ấy sẽ vào trường nào hả mẹ?”
“Ai mà biết được! Nhưng có thành phố nào nhiều trường đại học và còn tập trung nhiều trường đại học nổi tiếng hơn thành phố J nữa chứ?”
Và thế là Ngải Mễ vào trường Đại học R thuộc thành phố J mà lòng tràn đầy hy vọng.
/48
|