Gió đêm hè trong mát mà hiền dịu, mấy vì sao trên bầu trời mờ mờ nhạt nhạt dưới vầng sáng ràng rạng của mặt trăng. Lúc Tử Hân bước ra khỏi Trúc Ngô viện, Lưu Tuấn đã đứng đợi ngoài cửa rất lâu rồi.
Chẳng có gì khiến cho tâm tình người ta trở nên thoải mái sau khi bị phạt đứng hơn là nhìn thấy bằng hữu tốt. Tử Hân dừng bước, cười hỏi: “A Tuấn, ngươi đang đợi ta à?”.
Lưu Tuấn nói: “Có rắc rối rồi”.
“Rắc rối gì?”
“Tối nay là ngày Giang đại thúc mở quán thu nhận đồ đệ. Cha ta muốn ta tới đó thử một lần, xem liệu có thể theo Giang sư phụ học võ không?”, không cần phải giải thích, giống như tất cả bậc làm cha làm mẹ trên đời, Lưu Gia Quý tuyệt đối sẽ không để con trai của mình bỏ lỡ một cơ hội tốt nào. Có điều, bọn trẻ con trong cốc đều biết, Giang sư phụ tên thật là Giang Thiên Tiếu, học võ ở Thiếu Lâm, năm xưa cũng là một nhân vật có tiếng trong võ lâm, hiện nay được Tạ Đình Vân mời về mở quán thu nhận đồ đệ, học trò tiến vào trụ lại được thì ít mà bị đuổi ra thì nhiều. Ấy đều bởi vị này tuyển chọn đồ đệ cực kỳ nghiêm khắc, dạy võ luyện công cũng vô cùng cực khổ. Một năm nay, đã có quá nửa số đệ tử không chịu nổi sự mắng mỏ với chì chiết của Giang Thiên Tiếu nên đã lũ lượt đi tìm sư phụ khác ngoài cốc.
Tử Hân cười khổ: “Thế thì ngươi tới đây đợi ta làm gì? Ta chẳng giúp gì được ngươi”.
Luyện võ công là thứ vô cùng xa cách với Tử Hân, mà Tử Hân trước giờ cũng chẳng bén mảng đến thứ đó. Các học trò của võ quán, ai ai cũng được Giang Thiên Tiếu dạy tuân thủ nghiêm ngặt quy củ võ lâm, không dễ dàng động thủ với người khác, càng không được gây chiến làm loạn.
“Nghe bảo năm nay trong võ quán chỉ có một chỗ trống nhưng lại có tới mười lăm người muốn tiến vào. Cha ta nói, nếu Giang sư phụ không chọn ta, tức là thể hiện rõ ta không phải… không phải là thứ đào tạo được. Ta… ta… có chút sợ hãi. Nếu ngươi tới đứng một bên cổ vũ, ta sẽ không sợ nữa”, Lưu Tuấn lắp ba lắp bắp nói, bởi vì đang cuống, đầu lưỡi líu cả lại.
Tử Hân mỉm cười: “Vậy cùng đi nào”.
Hai đứa thong thả đi tới võ quán, trông thấy khoảng đất trống trước võ quán sớm đã lác đác mười mấy người mình mặc đồ gọn nhẹ đứng rải rác. Cũng có mấy người sang một bên tập đá tập đấm như thật, phô ra bộ dạng đã luyện võ công gia truyền.
“Ngươi xem”, Lưu Tuấn kéo tay Tử Hân nói: “Chân của A Tả có thể xoạc ra thành một đường thẳng! Tiểu Đậu Tử lại có thể nhào lộn không dùng tay!”. Trong mười mấy người, có đến non nửa là học sinh trong học đường. Ngày thường trông bọn chúng nho nhã lịch thiệp, chẳng ngờ tới chỗ này, bỗng trở nên có vài phần bản lĩnh.
Tử Hân tựa vào một cây ngô đồng, thấy Lưu Tuấn thiếu lòng tin như thế mới an ủi rằng: “Nhưng ta thấy bọn họ đều ngốc hơn ngươi. Nếu ngươi có người chỉ giáo, nhào lộn có là cái gì?”.
Đang nhỏ tiếng thì thầm, chợt thấy Giang Thiên Tiếu sải bước đi ra khỏi võ quán nhanh như sao băng, lớn tiếng hỏi: “Mọi người đều đến rồi chứ?”.
Giọng của ông ta vang khỏe, âm thanh mạnh mẽ làm lỗ tai bọn trẻ chấn động mà nghe ung ung. Tất cả đồng thanh hô: “Ra mắt Giang sư phụ!”.
“Không cần khách khí”, Giang Thiên Tiếu đi tới chính giữa võ trường, người đứng thẳng như cây thương, nói: “Thịnh tình của mọi người, lão Giang thật không dám nhận. Năm nay ta chỉ có thể thu nhận một đồ đệ, là đi hay ở, chỉ có thể trông vào duyên phận thầy trò mà thôi. Bây giờ ta sẽ đi một bộ quyền ở đây, chỉ làm một lần, mọi người cố gắng nhìn cho kỹ, sau đó tự mình vào trong rừng luyện tập một canh giờ rồi quay lại múa cho ta xem, ai học được nhiều nhất sẽ là đồ đệ của ta”.
Dứt lời, mọi người đứng thành hàng ngang, toàn bộ mở to mắt nhìn Giang Thiên Tiếu.
“Đều chuẩn bị xong cả rồi chứ?”
“Chuẩn bị xong rồi!”
Giang Thiên Tiếu cười nhạt, sau khi từ từ bày ra khởi thức, thân thể bỗng nhoáng lên như chớp giật, song quyền chợt tóm chợt móc, song thoái lúc đá lúc vung, đánh ra một bài Thiếu Lâm La Hán quyền thân pháp cực nhanh, biến hóa cực nhiều, mấy chục chiêu đó chỉ trong chớp mắt đã diễn từ đầu tới cuối. Đa số mọi người còn chưa kịp nhớ nổi bộ pháp của mấy chiêu mào đầu, tới lúc hoàn hồn lại, Giang Thiên Tiếu đã múa tới thu thức. Nhất thời, toàn bộ đều đần mặt ra.
Giang Thiên Tiếu chắp tay nói: “Mọi người thong thả luyện tập, ta đi uống tách trà, một canh giờ sau gặp lại”.
Nói rồi thong dong đi vào võ quán.
Thời gian có hạn, mọi người đều lập tức tản vào rừng, người nào người nấy tìm chỗ vắng vẻ, cật lực nhớ lại từng chiêu từng thức vừa rồi Giang Thiên Tiếu diễn qua. Lưu Tuấn đau khổ nói với Tử Hân: “Chẳng phải ông ấy múa quá nhanh sao? Ta chỉ mang máng nhớ được tám chín chiêu đầu. Ta múa cho ngươi coi, xem có đúng không nhé?”.
Nói xong, thằng bé bắt chước theo mà múa một lượt sáu chiêu đầu, cũng ra hình ra dáng.
Tử Hân vừa nhìn vừa nói: “Bộ pháp chiêu thứ ba không đúng, chân trái phải bước về phía trước một bước, thân thể quay qua phải, quyền phải đánh ra”.
Lưu Tuấn y lời làm theo rồi cười nói: “Quả nhiên là như thế này, thuận tay hơn nhiều rồi”. Nói rồi ngồi thụp xuống vắt óc suy nghĩ hết một tuần hương mới nhớ ra thêm được hai chiêu, sợ bản thân quên mất vội vàng nói: “Ta lại nhớ ra hai chiêu, múa cho ngươi coi”.
Dứt lời, múa lại một lượt liền mạch mấy chiêu đầu cùng với hai chiêu vừa mới nhớ lại, hỏi: “Ngươi xem đúng chưa?”.
“Chiêu cuối cùng hình như không đúng, đáng ra phải là chân đá trước rồi tay mới xuất quyền chứ?”, Tử Hân đứng có chút mệt liền đặt mông ngồi xuống cỏ.
Lưu Tuấn tung hai chân đá lên không trung, quyền trái một chém một đẩy, hỏi: “Là thế này sao?”.
Tử Hân gật đầu.
“Làm sao đây, ta chỉ nhớ được có bây nhiêu”, Lưu Tuấn cúi đầu ủ rũ nói.
“Có lẽ những người khác còn không nhớ được nhiều như ngươi”, Tử Hân ngắt một ngọn cỏ, bỏ vào miệng nhai. Một lúc sau, lại đưa móng tay lên miệng cắn.
“Ngươi cũng chỉ nhớ có bấy nhiêu sao, Tử Hân?... Trước giờ ngươi vẫn luôn thông minh hơn ta”, Lưu Tuấn mặt mày khổ não nói.
“Ta còn nhớ được mấy chiêu khác, nhưng không cách nào múa cho ngươi xem được”, Tử Hân nhẹ giọng nói.
Lưu Tuấn mừng rỡ: “Không sao cả, ngươi nói ra là được!”.
Tử Hân nói: “Được rồi. Chiêu sau, trước tiên ngươi đánh ra quyền trái, chân phải cung bộ tiến lên, chân trái đá một cái, xoay người đánh ra một chưởng, eo trái ngả về bên phải một chút”.
Lưu Tuấn y lời múa lại hai lần, nhớ kỹ vào lòng. Tử Hân lại tả cho nó thế tay, chỉ từng chiêu, từng chiêu cho Lưu Tuấn đánh về phía sau thế nào. Thấy bộ pháp của nó không đúng, Tử Hân bèn dùng trượng điểm vào chân nó. Hai đứa người tả người luyện, bất tri bất giác đã hết già nửa canh giờ. Tử Hân nói: “Chiêu kế tiếp, hai chân khép lại, song quyền thu về vị trí cũ, hít sâu một hơi. Đây là thu thức”. Lưu Tuấn vò đầu, hỏi: “Thế là múa xong rồi?”.
“Múa xong rồi. Tổng cộng bốn mươi hai chiêu. Còn dư chút thời gian, ngươi tự mình luyện tập lại từ đầu tới cuối hai lượt là được.”
“Tử Hân, mọi người đều nói phụ thân ngươi là thiên tài. Ta thấy ngươi cũng vậy!”, bội phục tới đi đầu xuống đất, Lưu Tuấn không khỏi giơ ngón tay cái tán tụng.
“Ta chỉ là một đứa què mà thôi”, Tử Hân cười tự trào.
Lưu Tuấn thấy trong mắt nó tựa như chất chứa nỗi ưu sầu khó nói, trong lòng thương cảm, nhưng lại không dám nhiều lời, chỉ nói: “Đợi ta có võ công rồi, ai dám bắt nạt ngươi, ta nhất định sẽ không bỏ qua cho hắn!”.
Tử Hân từ từ đứng dậy, cười khẽ: “Giờ là lúc nào mà ngươi còn ở đấy vỗ ngực”.
Tiếp đó Lưu Tuấn đánh lại bộ quyền một lượt từ đầu tới cuối. Trí nhớ của bản thân nó cũng không kém, Tử Hân dạy qua một lần thì không cần phải chỉnh sửa lại nữa, nó đã có thể múa đâu ra đấy.
Đến giờ hẹn, Giang Thiên Tiếu tách mọi người ra, gọi từng người một vào trong quán biểu diễn. Lúc này Lưu Tuấn mới biết, đại đa số đệ tử chỉ nhớ được năm, sáu chiêu đầu, còn như có thể nhớ được mười chiêu, một người cũng không có. Cuối cùng, Giang Thiên Tiếu vỗ vỗ vai Lưu Tuấn: “Ngày mai giờ này ngươi tới đây. Đầu tiên ta sẽ dạy ngươi mã bộ”.
Lưu Tuấn mừng rỡ nói: “Đa tạ sư phụ!”.
Ra khỏi cửa, thấy Tử Hân đang đứng tựa gốc cây đợi mình, nó liền nắm lấy tay Tử Hân, mừng khấp khởi nói: “Tử Hân! Sư phụ đồng ý nhận ta làm đệ tử rồi!”.
Tử Hân cười nói: “Ta nói có sai đâu? Ngươi cứ không tin. Lần sau chớ có bắt ta đi cùng ngươi nữa”.
Lưu Tuần vui mừng nói: “Ngươi có nhớ lần trước chúng ta đọc truyện ghi trong Giang hồ kỳ văn không? Sau này nếu có thể trở thành một đại hiệp, sống những ngày tháng đầu đao mũi kiếm, sảng khoái yêu ghét, thế thì tốt biết bao nhiêu!”.
Tử Hân nghe thế vừa ước ao vừa buồn tủi, đáp như không có chuyện gì: “Đúng thế”.
Lưu Tuấn nói: “Không còn sớm nữa, ta đưa ngươi về”.
Tử Hân lắc đầu: “Ta tự về, ngươi không cần tiễn đâu”.
Lưu Tuấn vội nói: “Đường xa như thế, một mình ngươi đi, ta không yên tâm”.
Tử Hân nhìn nó một cái, Lưu Tuấn vội vàng sửa: “Được rồi, ta về đây, ngươi đi cẩn thận nhé!”.
“Ngày mai gặp lại.”
“Mai gặp lại.”
Sau khi hai đứa chia tay, Tử Hân một mình chống trượng đi về. Con đường này nó không quen thuộc, dưới bóng cây hòe có tiếng cóc kêu. Dưới ánh trăng, lửa đèn trong Vân Mộng cốc nhấp nhoáng, mấy hành lang dài sáng như trên phố. Tâm tình nó lại không biết vì sao trở nên buồn bực cực độ. Đi được mấy bước, nước mắt bất tri bất giác đã dâng đầy hốc mắt, nó cắn răng, gồng mình ép nước mắt quay vào. Trong đầu nó là một mảng hỗn loạn, hít vào một hơi, phăng phăng đi khoảng một tuần hương, chỉ cảm thấy mặt hồng tai đỏ, mồ hôi đẫm lưng. Trong ngực như chứa một ngọn lửa, thiêu đốt khắp nơi, bất tri bất giác chân đã rời khỏi lối chính, càng đi càng xa, tới một nơi hoang vu lạnh lẽo, dấn bước tiến tiếp thì đã là đầu cuối của hành lang. Trước mắt con đường lát đá vụn, cỏ hoang che kín lối, đưa mắt trông ra, thấy phía xa là những hàng bia đá khin khít như rừng, sương đêm dần đậm, giờ nó mới sực nhớ ra nơi đây là nghĩa trang trong cốc. Trong lòng nó buồn bực, không muốn về nhà, liền ngồi xuống dọc hành lang, chăm chăm nhìn bia mộ tới xuất thần.
Ngồi một mình rất lâu, sau lưng bỗng vang lên tiếng thở dài nhè nhẹ.
Nó quay đầu nhìn lại, thấy mẫu thân.
“Muốn học võ công?”
Nó gật đầu.
“Sau này dậy sớm, ta sẽ dạy con.”
“Có thể dạy con cưỡi ngựa trước không?”, Tử Hân không nén được niềm vui trong lòng.
“Không được”, mẫu thân có chút do dự, kế đó không do dự nữa, trả lời chắc như đinh đóng cột: “Con có bệnh suyễn, cha con tuyệt đối sẽ không đồng ý”.
…
Người trong Vân Mộng cốc tuyệt đối không hiểu được lòng thiết tha vội vã học cưỡi ngựa của Tử Hân.
Trong cốc có những chiếc xe ngựa tiện nghi nhất vùng này, có mã phu hạng nhất bất cứ lúc nào cũng có thể tùy ý gọi. Bất kể nó muốn đi tới đâu cũng đều không nhất thiết phải cưỡi ngựa.
Huống chi trên người nó còn bao nhiêu bệnh tật, bao nhiêu điều phải kiêng kỵ.
Cho nên trong mấy năm sau đó, mẫu thân dạy nó võ công, phụ thân dạy nó y thuật, nó vẫn không thể được như ý nguyện.
Thật ra, Tử Hân thích là thích cái cảm giác cưỡi trên lưng ngựa tự do bay nhảy.
Thậm chí, kể cả sau khi nó đã học được khinh công, có thể chống trượng phi thân, nó vẫn khát khao cưỡi ngựa.
Bởi vì nó cho rằng bộ dạng đi lại của mình rất xấu.
Nó đã lựa lúc tâm tình Lưu Tuấn tốt mà thỉnh cầu mấy lần, nhưng không lần nào có hiệu quả.
“Ta có thể đồng ý với ngươi bất cứ chuyện gì, chỉ trừ một chuyện này”, Lưu Tuấn vội vàng xua tay: “Lúc trước cha ta chỉ dùng tay đánh ta, hiện giờ thấy ta đã rắn rỏi rồi, sớm đã đổi sang dùng roi ngựa. Ngươi phải tha cho ta!”.
Bởi thế cả năm ấy Tử Hân không dám xin Lưu Tuấn nữa, quyết định đợi nó lớn thêm một chút, có cái gan đôi co với phụ thân rồi hẵng nói.
Nhưng sau năm năm hai đứa quen biết, vào một đêm tuyết buốt giá, cả gia đình Lưu Tuấn đột nhiên biến mất không còn trong cốc nữa.
Nghe nói, trước lúc đi Lưu Gia Quý chỉ ở trước cửa lớn trao đổi ngắn gọn nguyên nhân với Tạ tổng quản, nói là phụ thân của mình lâm trọng bệnh, cả nhà phải trở về tây bắc thăm nom.
Vân Mộng cốc có mấy chục mã phu, thêm một người không gọi là nhiều mà bớt đi một cũng chẳng ít bao nhiêu, Tạ Đình Vân không hề bận tâm, còn đặc biệt chi thêm cho Lưu Gia Quý hai tháng tiền lương phòng khi cần dùng gấp. Mọi người đều cho rằng hai tháng sau cả nhà bọn họ sẽ quay lại.
Nhưng, bọn họ không hề quay trở lại nữa.
Không ai biết được tung tích của bọn họ, kể cả người trung gian giới thiệu họ vào cốc cũng biến mất theo.
Đương nhiên, cũng chẳng có ai chịu bỏ công sức ra truy cứu tới cùng. Lưu Gia Quý chẳng qua chỉ là một mã phu, với lại đứa con gái điên điên dở dở của hắn cũng đem lại quá nhiều phiền phức trong cốc rồi. Thực ra, sau khi Tiên Nhi làm hai đứa trẻ bị thương, người trong cốc đều hy vọng gia đình này nhanh nhanh chuyển đi, thậm chí có người còn ngầm đề nghị với các tổng quản, thà phải bỏ ra nhiều ngân lượng cũng muốn nhà họ Lưu chuyển tới chỗ khác.
Bọn họ còn nói, thật ra đánh xe đi hôm đó tuyệt không phải là Lưu Gia Quý, mà là một vị mã phu khác. Một người xa lạ, thân thủ linh hoạt, cao to, trầm lặng.
Lưu Gia Quý nói, người ấy là cháu mình.
Nhưng trong năm năm Lưu gia ở trong cốc, chưa ai từng trông thấy cháu đó. Ngày hôm sau, khi nghe được tin đó, Tử Hân như người mất hồn, bồi hồi đứng trong ngôi nhà nhỏ của Lưu gia. Ngay đêm hôm đó, nó còn đội tuyết lớn lén ra khỏi cốc, ý muốn tìm tung tích Lưu Tuấn.
Nó không biết cưỡi ngựa, không có sự đồng ý của Mộ Dung Vô Phong, chẳng xe ngựa nào dám đưa nó ra khỏi cốc.
Nó chống trượng đi trong cái lạnh căm căm, một mình đi bộ tới Thần Nông trấn.
Ở nơi đó, nó trông thấy vô số bóng người đi trong gió tuyết. Bên bờ sông mênh mông sương giá, mấy chiếc thuyền khách đang cởi thừng viễn hành.
Nó đi đi lại lại trên bến thuyền cạnh sông, thất thần nhìn mênh mông khói sóng cho tới sáng hôm sau.
Lưu Tuấn cứ thế mà biến mất.
Sau khi Lưu Tuấn mất tích một năm, Tử Hân cũng không nhắc tới chuyện học cưỡi ngựa nữa.
Năm sau, nó gặp được Tiểu Mi.
Nó vĩnh viễn không quên được đôi mắt màu bích sâu thẳm, yên tĩnh tựa mặt hồ trong Trúc Ngô viện của cô bé, cũng không quên được khuôn mặt trắng trẻo xinh xắn, mái tóc màu hạt dẻ mềm mại, xoăn xoăn ấy, và cả khuôn mặt đỏ hồng lúc cười nữa.
Mẫu thân của Tiểu Mi là người Ba Tư, là muội muội của tổng quản Ô Lý Nha Đa.
Nhiều năm học y không thành, cuối cùng Ô Lý Nha Đa cũng đổi nghề, sau khi Triệu Khiêm Hòa về nghỉ lão, bèn tiếp quản làm một tổng quản trong Vân Mộng cốc.
Mọi người nói Mộ Dung Vô Phong có thiện cảm với người Ba Tư là vì nó khiến chàng nhớ tới những ngày tháng bản thân ở Tuyết Sơn. Trên con đường tơ lụa cổ có thể gặp được thương nhân Ba Tư kết thành thương đoàn, đem theo châu ngọc kỳ lạ và những đồ vật sáng lấp lánh, lặn lội đường xa tới trung thổ đổi lấy tài phú.
Ô Lý Nha Đa sống trong cảnh sung túc bèn nhờ người đưa thư về cho vợ chồng muội muội nơi phương xa, bảo cả nhà bọn họ tới làm khách ở Vân Mộng cốc, còn nói khắp trung nguyên là vàng bạc, đến đâu cũng có cơ hội phát tài. Vợ chồng muội muội bị mê hoặc liền thu gom của cải, mang cả nhà theo thương đoàn tham gia cuộc lữ hành. Ai ngờ mộng phát tài còn chưa kịp bắt đầu thì nửa đường đã gặp phải mã tặc. Vợ chồng hai người cùng nhau bỏ mạng, chỉ còn lại đứa con gái mười tuổi được đám thương nhân chạy trốn mang theo. Ô Lý Nha Đa cảm thấy vô cùng cắn rứt trong lòng cho nên xem cô bé là bảo bối, đặt cho cô bé một cái tên tiếng Hán là Tiểu Mi.
Mọi người trong cốc đều cho rằng đứa bé gái Ba Tư này có phần hơi ngây thơ. Lòng hiếu kỳ của cô bé đối với vùng đất mới mẻ vượt xa nỗi đau cha mẹ qua đời, cả ngày chạy nhảy khắp nơi, đùa nghịch vui vẻ.
Mọi người thường trông thấy nó trò chuyện với đám con gái khác trong cốc bằng thứ tiếng Hán vụng về, mọi người nghe mà thấy mơ mơ hồ hồ, hiểu mà như không hiểu. Còn may là ngoài nói năng, biểu cảm trên mặt cũng như động tác chân tay của cô bé cũng rất phong phú, gần như có thể coi là một thứ ngôn ngữ thứ hai. Nếu vẫn không đủ dùng, cô bé còn lấy cành cây vẽ lên mặt đất. Tóm lại, bọn con gái trong cốc đều cảm động bởi tính kiên trì của cô bé, chúng hăng hái dạy cô bé tiếng địa phương. Chưa đầy một năm, cô bé đã nói được không ít, cùng với thời gian, cô bé càng nói càng trôi chảy.
Tử Hân sớm đã nghe qua về cô bé này từ miệng Tử Duyệt, bởi tính nó cả thẹn, hay ngượng ngùng, cho nên cứ thấy cô bé là tránh ra thật xa.
Lần thứ nhất nói chuyện với Tiểu Mi chính là ở nghĩa địa của Vân Mộng cốc.
Hôm đó, gió nhẹ thoang thoảng, đem mùi hương hoa vương vất từ sâu trong cốc thổi tới. Tử Hân xử lý xong y vụ của mình liền men theo hành lang chống trượng đi một mình, bất tri bất giác lại đi tới khu nghĩa địa nọ.
Nó không hề đặc biệt ưa thích gì nghĩa địa, chỉ là thích tản bộ ở những nơi vắng người như thế này.
Liền kề với nghĩa địa là một vùng bằng phẳng rộng thoáng, đi xuống phía dưới là vườn thuốc, khắp núi trồng cỏ long đảm.
Sơn cốc đầu xuân yên tĩnh đến độ khiến lòng người thoải mái, ánh nắng tà tà, hương hoa đườm đượm.
Đưa mắt nhìn xung quanh, xa xa là rừng sâu tĩnh mịch, cây cối nhấp nhô, tiếng chim lảnh lót.
Nó vừa đi vừa suy nghĩ, chợt nghe thấy sau lưng có tiếng vó ngựa vọng tới.
Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một bóng người áo màu bích nhạt trên lưng ngựa ở phía xa. Con ngựa kia tung bốn vó, chạy một vòng trong cốc rồi chạy về phía nó.
Lúc tới gần, người trên lưng ngựa kéo dây cương, dừng trước mặt nó, ngồi trên lưng ngựa ngọt ngào nói: “Tử Hân ca ca!”.
Mặt Tử Hân lập tức đỏ bừng lên.
Trừ Tử Duyệt, nó rất ít nói chuyện với con gái, càng chưa bao giờ có ai gọi nó thân thiết như thế.
Tử Hân đương nhiên biết cô bé là ai, ngẩng đầu nhìn cô bé, rõ ràng là ngượng ngùng nhưng vẫn cố làm ra vẻ tự nhiên: “Xin chào”.
Tử Hân phát hiện tuy tuổi tác Tiểu Mi còn nhỏ nhưng thân thể lại tương đối nở nang, so với các cô bé cùng lứa rõ ràng là lớn hơn. Vả lại, đôi mắt màu bích chẳng có nửa phần ngượng ngùng kia cứ nhìn nó không chớp mắt, quả thật mang một thần thái hiếu kỳ ngây thơ. Không biết do đâu, nó không dám nhìn vào mắt cô bé, lại cũng không muốn tỏ ra nhút nhát, bèn vờ như đang nhìn một gốc cỏ long đảm dưới đất, len lén giấu cây trượng trong tay ra sau lưng.
“Tử Duyệt tỷ tỷ nói, cha huynh không cho huynh cưỡi ngựa, tỷ ấy cũng không dám dạy huynh”, Tiểu Mi vươn thẳng người, oang oang hỏi.
Tử Hân nghẹn họng, không biết phải trả lời thế nào. Hình như có trả lời thế nào cũng tỏ ra bản thân rất kém cỏi. Cuối cùng, nó đành thật thà đáp: “Ừm, đúng là ta không được cưỡi ngựa”.
“Để muội dạy huynh.”
“Muội còn nhỏ quá, cứ cưỡi ngựa như vậy là rất nguy hiểm”, nó già dặn khuyên nhủ.
“Không nguy hiểm, từ hồi còn rất nhỏ, muội đã bắt đầu cưỡi ngựa rồi, cưỡi ngựa không khó chút nào!”, cô bé lớn tiếng sửa lại rồi vươn tay về phía Tử Hân: “Bây giờ học luôn, muội kéo huynh lên!”.
Lúc này, Tử Hân đã rất cao rồi, thân thể tuy hơi gầy nhưng vẫn nặng hơn nhiều so với một cô bé mười một tuổi.
“Không, không, không”, nó xua tay lia lịa: “Muội đi đi, ta còn có việc, cáo từ nhé”.
“Không được cáo từ! Có muội ở đây, huynh nhất định phải học!”
Rành rành nhỏ hơn nó ba tuổi, vậy mà khẩu khí của cô bé ấy lại có phần ngang tàng.
Cứ như thế, mỗi khi hoàng hôn, nó lại tới khu đất cạnh nghĩa trang đợi Tiểu Mi, theo Tiểu Mi học cưỡi ngựa. Tiểu Mi dạy gì, nó học nấy, rất chăm chỉ. Có điều, trong lòng nó, học cưỡi ngựa chỉ là thứ yếu thôi.
Tới ngày thứ năm, Tử Hân đã có thể một mình cưỡi trên lưng ngựa. Hôm ấy, Tiểu Mi dẫn nó cưỡi ngựa đi ba vòng trong cốc, sau đó nhảy xuống, cầm dây cương dắt ngựa đi.
“Trượng của ta rơi mất rồi”, Tử Hân ngồi trên ngựa chợt nói.
Nó vẫn luôn dắt cây trượng ở chỗ để roi ngựa, không biết đã rơi mất tự lúc nào.
“Đợi chút nữa rồi tìm”, Tiểu Mi quay đầu lại, khẽ mỉm cười với nó.
Kỳ thực, cây trượng đó chính là chân của nó, không có cây trượng, Tử Hân không thể đi lại. Trong lòng Tử Hân có chút bất an nhưng biết rõ bản thân không nên lo lắng như thế.
Xét cho cùng, nó đã có thể cưỡi ngựa.
“Cho muội này!”, Tử Hân dùng cỏ bện cho cô bé một con rồng nho nhỏ, cô bé hớn hở nhận lấy, đưa lên miệng khe khẽ ngâm nga, tiếp tục đi về phía trước.
“Muội đang hát bài gì thế?”, Tử Hân hỏi.
“Là bài hát của quê muội, huynh nghe không hiểu đâu”, cô bé cười.
Giọng Tiểu Mi mềm mại mà mới lạ, khúc chiết mà hòa quyện, nó nghe bỗng thấy động lòng.
“Hát to lên đi, ta nghe hiểu mà”, nó nhẹ giọng bảo.
“Huynh hiểu à?”, Tiểu Mi quay người lại, hiếu kỳ nhìn nó: “Ý huynh là, huynh biết nói tiếng Ba Tư?”.
Tử Hân đã từng theo phụ thân học qua rồi.
Phụ thân tinh thông văn tự Ba Tư và chữ Phạn, có rất nhiều thương nhân Ba Tư qua lại làm ăn với Vân Mộng cốc.
Tử Hân đang tuổi ham học hỏi, cái gì cũng muốn học, học cũng rất chuyên tâm.
Sau đó, hai người bô lô ba la nói tiếng Ba Tư.
“Muội nghe có hiểu không?”, sợ mình đã nói sai, Tử Hân gập người xuống, thì thầm hỏi.
“Muội hiểu!”, cô bé cười khanh khách: “Huynh đúng là thiên tài”.
Một lát sau, cô bé lại nói: “Vậy muội sẽ hát thật to nhé! Muội thích chỗ này bởi vì ở đây không có ai, muội có thể thoải mái hát to”.
Ngựa chàng sắc vàng óng, ngựa thiếp lại trắng phau.
Sắc ngựa tuy có khác, trong lòng chẳng cách nhau.
Cùng nhau rong chơi mãi, song hành miền Lạc Dương…[1]
[1] Bài Quân mã hoàng của thi nhân Lý Bạch thời Thịnh Đường.
“Đây không phải là bài hát quê muội đấy chứ?”, Tử Hân mỉm cười.
“Tử Duyệt tỷ tỷ dạy muội đấy, hát có hay không?”
“Hay.”
Lúc ấy, trời bỗng nổi cơn mưa nhỏ rồi dần rơi nặng hạt, ướt hết y phục Tử Hân, nó bèn nói: “Chúng ta quay về thôi”.
“Cưỡi ngựa trong mưa mới hay chứ!”, Tiểu Mi vẫn cứ cầm cương dắt ngựa đi tới.
“Vậy muội lên ngựa đi.”
“Không, muội thích làm mã phu cho huynh”, cô bé quay người lại, thè lưỡi, tinh quái cười với nó.
Vừa dứt lời, không ngờ trên trời vang lên tiếng sấm lớn. Con ngựa đột ngột sợ hãi, vươn người hý to rồi nâng hai chân đạp mạnh về phía trước!
“Cẩn thận!”, Tử Hân kinh hoàng gào lên một tiếng, nhảy từ lưng ngựa xuống, con ngựa bỏ lại hai người, phóng vào sâu trong cốc.
Nghe thấy Tiểu Mi rên lên một tiếng ngã xuống đất, Tử Hân biết cô bé đã bị ngựa đạp trúng. Nhưng lúc nó bò tới trước mặt cô bé lại thấy cô bé đang cố sức lật người, nằm ngẩng mặt nhìn trời, cố gắng mở to đôi mắt.
“Chớ có cử động!”, nó nhào tới, giữ lấy người cô bé, đang định tìm vết thương thì thấy máu hòa với nước loang ra từ sau đầu Tiểu Mi.
Cô bé mở to đôi mắt nhìn nó, đôi môi khẽ động nhưng không nói gì.
Tử Hân gào lên gọi người tới cứu.
Nơi đồng hoang vắng, ngoài tiếng mưa rơi chẳng còn tiếng gì khác.
Nó định ôm cô bé lên, nhưng rơi mất cây trượng, không cách nào đứng vững nổi.
Bất kể có làm thế nào cũng không có cách gì cứu được tính mệnh cô bé. Tử Hân nắm lấy tay Tiểu Mi, nhìn vào khuôn mặt đang mất dần huyết sắc.
Tiểu Mi miễn cưỡng mở mắt, tựa như không biết đã xảy ra chuyện gì, lại còn lo lắng về con ngựa kia: “Ngựa chạy mất rồi… làm sao đây?”.
Tử Hân không dám rơi nước mắt, lo cô bé sợ hãi nhưng không sao nhịn được tiếng nghẹn ngào.
“Muội buồn ngủ rồi, mai lại dạy huynh…”
Tiểu Mi khép đôi mắt lại.
Bắt đầu ở nghĩa địa, kết thúc ở nghĩa địa, nó quen biết cô bé tổng cộng được năm ngày.
Lần sau cùng gặp Tiểu Mi, cô bé đã biến thành một ngôi mộ nho nhỏ.
Chẳng có gì khiến cho tâm tình người ta trở nên thoải mái sau khi bị phạt đứng hơn là nhìn thấy bằng hữu tốt. Tử Hân dừng bước, cười hỏi: “A Tuấn, ngươi đang đợi ta à?”.
Lưu Tuấn nói: “Có rắc rối rồi”.
“Rắc rối gì?”
“Tối nay là ngày Giang đại thúc mở quán thu nhận đồ đệ. Cha ta muốn ta tới đó thử một lần, xem liệu có thể theo Giang sư phụ học võ không?”, không cần phải giải thích, giống như tất cả bậc làm cha làm mẹ trên đời, Lưu Gia Quý tuyệt đối sẽ không để con trai của mình bỏ lỡ một cơ hội tốt nào. Có điều, bọn trẻ con trong cốc đều biết, Giang sư phụ tên thật là Giang Thiên Tiếu, học võ ở Thiếu Lâm, năm xưa cũng là một nhân vật có tiếng trong võ lâm, hiện nay được Tạ Đình Vân mời về mở quán thu nhận đồ đệ, học trò tiến vào trụ lại được thì ít mà bị đuổi ra thì nhiều. Ấy đều bởi vị này tuyển chọn đồ đệ cực kỳ nghiêm khắc, dạy võ luyện công cũng vô cùng cực khổ. Một năm nay, đã có quá nửa số đệ tử không chịu nổi sự mắng mỏ với chì chiết của Giang Thiên Tiếu nên đã lũ lượt đi tìm sư phụ khác ngoài cốc.
Tử Hân cười khổ: “Thế thì ngươi tới đây đợi ta làm gì? Ta chẳng giúp gì được ngươi”.
Luyện võ công là thứ vô cùng xa cách với Tử Hân, mà Tử Hân trước giờ cũng chẳng bén mảng đến thứ đó. Các học trò của võ quán, ai ai cũng được Giang Thiên Tiếu dạy tuân thủ nghiêm ngặt quy củ võ lâm, không dễ dàng động thủ với người khác, càng không được gây chiến làm loạn.
“Nghe bảo năm nay trong võ quán chỉ có một chỗ trống nhưng lại có tới mười lăm người muốn tiến vào. Cha ta nói, nếu Giang sư phụ không chọn ta, tức là thể hiện rõ ta không phải… không phải là thứ đào tạo được. Ta… ta… có chút sợ hãi. Nếu ngươi tới đứng một bên cổ vũ, ta sẽ không sợ nữa”, Lưu Tuấn lắp ba lắp bắp nói, bởi vì đang cuống, đầu lưỡi líu cả lại.
Tử Hân mỉm cười: “Vậy cùng đi nào”.
Hai đứa thong thả đi tới võ quán, trông thấy khoảng đất trống trước võ quán sớm đã lác đác mười mấy người mình mặc đồ gọn nhẹ đứng rải rác. Cũng có mấy người sang một bên tập đá tập đấm như thật, phô ra bộ dạng đã luyện võ công gia truyền.
“Ngươi xem”, Lưu Tuấn kéo tay Tử Hân nói: “Chân của A Tả có thể xoạc ra thành một đường thẳng! Tiểu Đậu Tử lại có thể nhào lộn không dùng tay!”. Trong mười mấy người, có đến non nửa là học sinh trong học đường. Ngày thường trông bọn chúng nho nhã lịch thiệp, chẳng ngờ tới chỗ này, bỗng trở nên có vài phần bản lĩnh.
Tử Hân tựa vào một cây ngô đồng, thấy Lưu Tuấn thiếu lòng tin như thế mới an ủi rằng: “Nhưng ta thấy bọn họ đều ngốc hơn ngươi. Nếu ngươi có người chỉ giáo, nhào lộn có là cái gì?”.
Đang nhỏ tiếng thì thầm, chợt thấy Giang Thiên Tiếu sải bước đi ra khỏi võ quán nhanh như sao băng, lớn tiếng hỏi: “Mọi người đều đến rồi chứ?”.
Giọng của ông ta vang khỏe, âm thanh mạnh mẽ làm lỗ tai bọn trẻ chấn động mà nghe ung ung. Tất cả đồng thanh hô: “Ra mắt Giang sư phụ!”.
“Không cần khách khí”, Giang Thiên Tiếu đi tới chính giữa võ trường, người đứng thẳng như cây thương, nói: “Thịnh tình của mọi người, lão Giang thật không dám nhận. Năm nay ta chỉ có thể thu nhận một đồ đệ, là đi hay ở, chỉ có thể trông vào duyên phận thầy trò mà thôi. Bây giờ ta sẽ đi một bộ quyền ở đây, chỉ làm một lần, mọi người cố gắng nhìn cho kỹ, sau đó tự mình vào trong rừng luyện tập một canh giờ rồi quay lại múa cho ta xem, ai học được nhiều nhất sẽ là đồ đệ của ta”.
Dứt lời, mọi người đứng thành hàng ngang, toàn bộ mở to mắt nhìn Giang Thiên Tiếu.
“Đều chuẩn bị xong cả rồi chứ?”
“Chuẩn bị xong rồi!”
Giang Thiên Tiếu cười nhạt, sau khi từ từ bày ra khởi thức, thân thể bỗng nhoáng lên như chớp giật, song quyền chợt tóm chợt móc, song thoái lúc đá lúc vung, đánh ra một bài Thiếu Lâm La Hán quyền thân pháp cực nhanh, biến hóa cực nhiều, mấy chục chiêu đó chỉ trong chớp mắt đã diễn từ đầu tới cuối. Đa số mọi người còn chưa kịp nhớ nổi bộ pháp của mấy chiêu mào đầu, tới lúc hoàn hồn lại, Giang Thiên Tiếu đã múa tới thu thức. Nhất thời, toàn bộ đều đần mặt ra.
Giang Thiên Tiếu chắp tay nói: “Mọi người thong thả luyện tập, ta đi uống tách trà, một canh giờ sau gặp lại”.
Nói rồi thong dong đi vào võ quán.
Thời gian có hạn, mọi người đều lập tức tản vào rừng, người nào người nấy tìm chỗ vắng vẻ, cật lực nhớ lại từng chiêu từng thức vừa rồi Giang Thiên Tiếu diễn qua. Lưu Tuấn đau khổ nói với Tử Hân: “Chẳng phải ông ấy múa quá nhanh sao? Ta chỉ mang máng nhớ được tám chín chiêu đầu. Ta múa cho ngươi coi, xem có đúng không nhé?”.
Nói xong, thằng bé bắt chước theo mà múa một lượt sáu chiêu đầu, cũng ra hình ra dáng.
Tử Hân vừa nhìn vừa nói: “Bộ pháp chiêu thứ ba không đúng, chân trái phải bước về phía trước một bước, thân thể quay qua phải, quyền phải đánh ra”.
Lưu Tuấn y lời làm theo rồi cười nói: “Quả nhiên là như thế này, thuận tay hơn nhiều rồi”. Nói rồi ngồi thụp xuống vắt óc suy nghĩ hết một tuần hương mới nhớ ra thêm được hai chiêu, sợ bản thân quên mất vội vàng nói: “Ta lại nhớ ra hai chiêu, múa cho ngươi coi”.
Dứt lời, múa lại một lượt liền mạch mấy chiêu đầu cùng với hai chiêu vừa mới nhớ lại, hỏi: “Ngươi xem đúng chưa?”.
“Chiêu cuối cùng hình như không đúng, đáng ra phải là chân đá trước rồi tay mới xuất quyền chứ?”, Tử Hân đứng có chút mệt liền đặt mông ngồi xuống cỏ.
Lưu Tuấn tung hai chân đá lên không trung, quyền trái một chém một đẩy, hỏi: “Là thế này sao?”.
Tử Hân gật đầu.
“Làm sao đây, ta chỉ nhớ được có bây nhiêu”, Lưu Tuấn cúi đầu ủ rũ nói.
“Có lẽ những người khác còn không nhớ được nhiều như ngươi”, Tử Hân ngắt một ngọn cỏ, bỏ vào miệng nhai. Một lúc sau, lại đưa móng tay lên miệng cắn.
“Ngươi cũng chỉ nhớ có bấy nhiêu sao, Tử Hân?... Trước giờ ngươi vẫn luôn thông minh hơn ta”, Lưu Tuấn mặt mày khổ não nói.
“Ta còn nhớ được mấy chiêu khác, nhưng không cách nào múa cho ngươi xem được”, Tử Hân nhẹ giọng nói.
Lưu Tuấn mừng rỡ: “Không sao cả, ngươi nói ra là được!”.
Tử Hân nói: “Được rồi. Chiêu sau, trước tiên ngươi đánh ra quyền trái, chân phải cung bộ tiến lên, chân trái đá một cái, xoay người đánh ra một chưởng, eo trái ngả về bên phải một chút”.
Lưu Tuấn y lời múa lại hai lần, nhớ kỹ vào lòng. Tử Hân lại tả cho nó thế tay, chỉ từng chiêu, từng chiêu cho Lưu Tuấn đánh về phía sau thế nào. Thấy bộ pháp của nó không đúng, Tử Hân bèn dùng trượng điểm vào chân nó. Hai đứa người tả người luyện, bất tri bất giác đã hết già nửa canh giờ. Tử Hân nói: “Chiêu kế tiếp, hai chân khép lại, song quyền thu về vị trí cũ, hít sâu một hơi. Đây là thu thức”. Lưu Tuấn vò đầu, hỏi: “Thế là múa xong rồi?”.
“Múa xong rồi. Tổng cộng bốn mươi hai chiêu. Còn dư chút thời gian, ngươi tự mình luyện tập lại từ đầu tới cuối hai lượt là được.”
“Tử Hân, mọi người đều nói phụ thân ngươi là thiên tài. Ta thấy ngươi cũng vậy!”, bội phục tới đi đầu xuống đất, Lưu Tuấn không khỏi giơ ngón tay cái tán tụng.
“Ta chỉ là một đứa què mà thôi”, Tử Hân cười tự trào.
Lưu Tuấn thấy trong mắt nó tựa như chất chứa nỗi ưu sầu khó nói, trong lòng thương cảm, nhưng lại không dám nhiều lời, chỉ nói: “Đợi ta có võ công rồi, ai dám bắt nạt ngươi, ta nhất định sẽ không bỏ qua cho hắn!”.
Tử Hân từ từ đứng dậy, cười khẽ: “Giờ là lúc nào mà ngươi còn ở đấy vỗ ngực”.
Tiếp đó Lưu Tuấn đánh lại bộ quyền một lượt từ đầu tới cuối. Trí nhớ của bản thân nó cũng không kém, Tử Hân dạy qua một lần thì không cần phải chỉnh sửa lại nữa, nó đã có thể múa đâu ra đấy.
Đến giờ hẹn, Giang Thiên Tiếu tách mọi người ra, gọi từng người một vào trong quán biểu diễn. Lúc này Lưu Tuấn mới biết, đại đa số đệ tử chỉ nhớ được năm, sáu chiêu đầu, còn như có thể nhớ được mười chiêu, một người cũng không có. Cuối cùng, Giang Thiên Tiếu vỗ vỗ vai Lưu Tuấn: “Ngày mai giờ này ngươi tới đây. Đầu tiên ta sẽ dạy ngươi mã bộ”.
Lưu Tuấn mừng rỡ nói: “Đa tạ sư phụ!”.
Ra khỏi cửa, thấy Tử Hân đang đứng tựa gốc cây đợi mình, nó liền nắm lấy tay Tử Hân, mừng khấp khởi nói: “Tử Hân! Sư phụ đồng ý nhận ta làm đệ tử rồi!”.
Tử Hân cười nói: “Ta nói có sai đâu? Ngươi cứ không tin. Lần sau chớ có bắt ta đi cùng ngươi nữa”.
Lưu Tuần vui mừng nói: “Ngươi có nhớ lần trước chúng ta đọc truyện ghi trong Giang hồ kỳ văn không? Sau này nếu có thể trở thành một đại hiệp, sống những ngày tháng đầu đao mũi kiếm, sảng khoái yêu ghét, thế thì tốt biết bao nhiêu!”.
Tử Hân nghe thế vừa ước ao vừa buồn tủi, đáp như không có chuyện gì: “Đúng thế”.
Lưu Tuấn nói: “Không còn sớm nữa, ta đưa ngươi về”.
Tử Hân lắc đầu: “Ta tự về, ngươi không cần tiễn đâu”.
Lưu Tuấn vội nói: “Đường xa như thế, một mình ngươi đi, ta không yên tâm”.
Tử Hân nhìn nó một cái, Lưu Tuấn vội vàng sửa: “Được rồi, ta về đây, ngươi đi cẩn thận nhé!”.
“Ngày mai gặp lại.”
“Mai gặp lại.”
Sau khi hai đứa chia tay, Tử Hân một mình chống trượng đi về. Con đường này nó không quen thuộc, dưới bóng cây hòe có tiếng cóc kêu. Dưới ánh trăng, lửa đèn trong Vân Mộng cốc nhấp nhoáng, mấy hành lang dài sáng như trên phố. Tâm tình nó lại không biết vì sao trở nên buồn bực cực độ. Đi được mấy bước, nước mắt bất tri bất giác đã dâng đầy hốc mắt, nó cắn răng, gồng mình ép nước mắt quay vào. Trong đầu nó là một mảng hỗn loạn, hít vào một hơi, phăng phăng đi khoảng một tuần hương, chỉ cảm thấy mặt hồng tai đỏ, mồ hôi đẫm lưng. Trong ngực như chứa một ngọn lửa, thiêu đốt khắp nơi, bất tri bất giác chân đã rời khỏi lối chính, càng đi càng xa, tới một nơi hoang vu lạnh lẽo, dấn bước tiến tiếp thì đã là đầu cuối của hành lang. Trước mắt con đường lát đá vụn, cỏ hoang che kín lối, đưa mắt trông ra, thấy phía xa là những hàng bia đá khin khít như rừng, sương đêm dần đậm, giờ nó mới sực nhớ ra nơi đây là nghĩa trang trong cốc. Trong lòng nó buồn bực, không muốn về nhà, liền ngồi xuống dọc hành lang, chăm chăm nhìn bia mộ tới xuất thần.
Ngồi một mình rất lâu, sau lưng bỗng vang lên tiếng thở dài nhè nhẹ.
Nó quay đầu nhìn lại, thấy mẫu thân.
“Muốn học võ công?”
Nó gật đầu.
“Sau này dậy sớm, ta sẽ dạy con.”
“Có thể dạy con cưỡi ngựa trước không?”, Tử Hân không nén được niềm vui trong lòng.
“Không được”, mẫu thân có chút do dự, kế đó không do dự nữa, trả lời chắc như đinh đóng cột: “Con có bệnh suyễn, cha con tuyệt đối sẽ không đồng ý”.
…
Người trong Vân Mộng cốc tuyệt đối không hiểu được lòng thiết tha vội vã học cưỡi ngựa của Tử Hân.
Trong cốc có những chiếc xe ngựa tiện nghi nhất vùng này, có mã phu hạng nhất bất cứ lúc nào cũng có thể tùy ý gọi. Bất kể nó muốn đi tới đâu cũng đều không nhất thiết phải cưỡi ngựa.
Huống chi trên người nó còn bao nhiêu bệnh tật, bao nhiêu điều phải kiêng kỵ.
Cho nên trong mấy năm sau đó, mẫu thân dạy nó võ công, phụ thân dạy nó y thuật, nó vẫn không thể được như ý nguyện.
Thật ra, Tử Hân thích là thích cái cảm giác cưỡi trên lưng ngựa tự do bay nhảy.
Thậm chí, kể cả sau khi nó đã học được khinh công, có thể chống trượng phi thân, nó vẫn khát khao cưỡi ngựa.
Bởi vì nó cho rằng bộ dạng đi lại của mình rất xấu.
Nó đã lựa lúc tâm tình Lưu Tuấn tốt mà thỉnh cầu mấy lần, nhưng không lần nào có hiệu quả.
“Ta có thể đồng ý với ngươi bất cứ chuyện gì, chỉ trừ một chuyện này”, Lưu Tuấn vội vàng xua tay: “Lúc trước cha ta chỉ dùng tay đánh ta, hiện giờ thấy ta đã rắn rỏi rồi, sớm đã đổi sang dùng roi ngựa. Ngươi phải tha cho ta!”.
Bởi thế cả năm ấy Tử Hân không dám xin Lưu Tuấn nữa, quyết định đợi nó lớn thêm một chút, có cái gan đôi co với phụ thân rồi hẵng nói.
Nhưng sau năm năm hai đứa quen biết, vào một đêm tuyết buốt giá, cả gia đình Lưu Tuấn đột nhiên biến mất không còn trong cốc nữa.
Nghe nói, trước lúc đi Lưu Gia Quý chỉ ở trước cửa lớn trao đổi ngắn gọn nguyên nhân với Tạ tổng quản, nói là phụ thân của mình lâm trọng bệnh, cả nhà phải trở về tây bắc thăm nom.
Vân Mộng cốc có mấy chục mã phu, thêm một người không gọi là nhiều mà bớt đi một cũng chẳng ít bao nhiêu, Tạ Đình Vân không hề bận tâm, còn đặc biệt chi thêm cho Lưu Gia Quý hai tháng tiền lương phòng khi cần dùng gấp. Mọi người đều cho rằng hai tháng sau cả nhà bọn họ sẽ quay lại.
Nhưng, bọn họ không hề quay trở lại nữa.
Không ai biết được tung tích của bọn họ, kể cả người trung gian giới thiệu họ vào cốc cũng biến mất theo.
Đương nhiên, cũng chẳng có ai chịu bỏ công sức ra truy cứu tới cùng. Lưu Gia Quý chẳng qua chỉ là một mã phu, với lại đứa con gái điên điên dở dở của hắn cũng đem lại quá nhiều phiền phức trong cốc rồi. Thực ra, sau khi Tiên Nhi làm hai đứa trẻ bị thương, người trong cốc đều hy vọng gia đình này nhanh nhanh chuyển đi, thậm chí có người còn ngầm đề nghị với các tổng quản, thà phải bỏ ra nhiều ngân lượng cũng muốn nhà họ Lưu chuyển tới chỗ khác.
Bọn họ còn nói, thật ra đánh xe đi hôm đó tuyệt không phải là Lưu Gia Quý, mà là một vị mã phu khác. Một người xa lạ, thân thủ linh hoạt, cao to, trầm lặng.
Lưu Gia Quý nói, người ấy là cháu mình.
Nhưng trong năm năm Lưu gia ở trong cốc, chưa ai từng trông thấy cháu đó. Ngày hôm sau, khi nghe được tin đó, Tử Hân như người mất hồn, bồi hồi đứng trong ngôi nhà nhỏ của Lưu gia. Ngay đêm hôm đó, nó còn đội tuyết lớn lén ra khỏi cốc, ý muốn tìm tung tích Lưu Tuấn.
Nó không biết cưỡi ngựa, không có sự đồng ý của Mộ Dung Vô Phong, chẳng xe ngựa nào dám đưa nó ra khỏi cốc.
Nó chống trượng đi trong cái lạnh căm căm, một mình đi bộ tới Thần Nông trấn.
Ở nơi đó, nó trông thấy vô số bóng người đi trong gió tuyết. Bên bờ sông mênh mông sương giá, mấy chiếc thuyền khách đang cởi thừng viễn hành.
Nó đi đi lại lại trên bến thuyền cạnh sông, thất thần nhìn mênh mông khói sóng cho tới sáng hôm sau.
Lưu Tuấn cứ thế mà biến mất.
Sau khi Lưu Tuấn mất tích một năm, Tử Hân cũng không nhắc tới chuyện học cưỡi ngựa nữa.
Năm sau, nó gặp được Tiểu Mi.
Nó vĩnh viễn không quên được đôi mắt màu bích sâu thẳm, yên tĩnh tựa mặt hồ trong Trúc Ngô viện của cô bé, cũng không quên được khuôn mặt trắng trẻo xinh xắn, mái tóc màu hạt dẻ mềm mại, xoăn xoăn ấy, và cả khuôn mặt đỏ hồng lúc cười nữa.
Mẫu thân của Tiểu Mi là người Ba Tư, là muội muội của tổng quản Ô Lý Nha Đa.
Nhiều năm học y không thành, cuối cùng Ô Lý Nha Đa cũng đổi nghề, sau khi Triệu Khiêm Hòa về nghỉ lão, bèn tiếp quản làm một tổng quản trong Vân Mộng cốc.
Mọi người nói Mộ Dung Vô Phong có thiện cảm với người Ba Tư là vì nó khiến chàng nhớ tới những ngày tháng bản thân ở Tuyết Sơn. Trên con đường tơ lụa cổ có thể gặp được thương nhân Ba Tư kết thành thương đoàn, đem theo châu ngọc kỳ lạ và những đồ vật sáng lấp lánh, lặn lội đường xa tới trung thổ đổi lấy tài phú.
Ô Lý Nha Đa sống trong cảnh sung túc bèn nhờ người đưa thư về cho vợ chồng muội muội nơi phương xa, bảo cả nhà bọn họ tới làm khách ở Vân Mộng cốc, còn nói khắp trung nguyên là vàng bạc, đến đâu cũng có cơ hội phát tài. Vợ chồng muội muội bị mê hoặc liền thu gom của cải, mang cả nhà theo thương đoàn tham gia cuộc lữ hành. Ai ngờ mộng phát tài còn chưa kịp bắt đầu thì nửa đường đã gặp phải mã tặc. Vợ chồng hai người cùng nhau bỏ mạng, chỉ còn lại đứa con gái mười tuổi được đám thương nhân chạy trốn mang theo. Ô Lý Nha Đa cảm thấy vô cùng cắn rứt trong lòng cho nên xem cô bé là bảo bối, đặt cho cô bé một cái tên tiếng Hán là Tiểu Mi.
Mọi người trong cốc đều cho rằng đứa bé gái Ba Tư này có phần hơi ngây thơ. Lòng hiếu kỳ của cô bé đối với vùng đất mới mẻ vượt xa nỗi đau cha mẹ qua đời, cả ngày chạy nhảy khắp nơi, đùa nghịch vui vẻ.
Mọi người thường trông thấy nó trò chuyện với đám con gái khác trong cốc bằng thứ tiếng Hán vụng về, mọi người nghe mà thấy mơ mơ hồ hồ, hiểu mà như không hiểu. Còn may là ngoài nói năng, biểu cảm trên mặt cũng như động tác chân tay của cô bé cũng rất phong phú, gần như có thể coi là một thứ ngôn ngữ thứ hai. Nếu vẫn không đủ dùng, cô bé còn lấy cành cây vẽ lên mặt đất. Tóm lại, bọn con gái trong cốc đều cảm động bởi tính kiên trì của cô bé, chúng hăng hái dạy cô bé tiếng địa phương. Chưa đầy một năm, cô bé đã nói được không ít, cùng với thời gian, cô bé càng nói càng trôi chảy.
Tử Hân sớm đã nghe qua về cô bé này từ miệng Tử Duyệt, bởi tính nó cả thẹn, hay ngượng ngùng, cho nên cứ thấy cô bé là tránh ra thật xa.
Lần thứ nhất nói chuyện với Tiểu Mi chính là ở nghĩa địa của Vân Mộng cốc.
Hôm đó, gió nhẹ thoang thoảng, đem mùi hương hoa vương vất từ sâu trong cốc thổi tới. Tử Hân xử lý xong y vụ của mình liền men theo hành lang chống trượng đi một mình, bất tri bất giác lại đi tới khu nghĩa địa nọ.
Nó không hề đặc biệt ưa thích gì nghĩa địa, chỉ là thích tản bộ ở những nơi vắng người như thế này.
Liền kề với nghĩa địa là một vùng bằng phẳng rộng thoáng, đi xuống phía dưới là vườn thuốc, khắp núi trồng cỏ long đảm.
Sơn cốc đầu xuân yên tĩnh đến độ khiến lòng người thoải mái, ánh nắng tà tà, hương hoa đườm đượm.
Đưa mắt nhìn xung quanh, xa xa là rừng sâu tĩnh mịch, cây cối nhấp nhô, tiếng chim lảnh lót.
Nó vừa đi vừa suy nghĩ, chợt nghe thấy sau lưng có tiếng vó ngựa vọng tới.
Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một bóng người áo màu bích nhạt trên lưng ngựa ở phía xa. Con ngựa kia tung bốn vó, chạy một vòng trong cốc rồi chạy về phía nó.
Lúc tới gần, người trên lưng ngựa kéo dây cương, dừng trước mặt nó, ngồi trên lưng ngựa ngọt ngào nói: “Tử Hân ca ca!”.
Mặt Tử Hân lập tức đỏ bừng lên.
Trừ Tử Duyệt, nó rất ít nói chuyện với con gái, càng chưa bao giờ có ai gọi nó thân thiết như thế.
Tử Hân đương nhiên biết cô bé là ai, ngẩng đầu nhìn cô bé, rõ ràng là ngượng ngùng nhưng vẫn cố làm ra vẻ tự nhiên: “Xin chào”.
Tử Hân phát hiện tuy tuổi tác Tiểu Mi còn nhỏ nhưng thân thể lại tương đối nở nang, so với các cô bé cùng lứa rõ ràng là lớn hơn. Vả lại, đôi mắt màu bích chẳng có nửa phần ngượng ngùng kia cứ nhìn nó không chớp mắt, quả thật mang một thần thái hiếu kỳ ngây thơ. Không biết do đâu, nó không dám nhìn vào mắt cô bé, lại cũng không muốn tỏ ra nhút nhát, bèn vờ như đang nhìn một gốc cỏ long đảm dưới đất, len lén giấu cây trượng trong tay ra sau lưng.
“Tử Duyệt tỷ tỷ nói, cha huynh không cho huynh cưỡi ngựa, tỷ ấy cũng không dám dạy huynh”, Tiểu Mi vươn thẳng người, oang oang hỏi.
Tử Hân nghẹn họng, không biết phải trả lời thế nào. Hình như có trả lời thế nào cũng tỏ ra bản thân rất kém cỏi. Cuối cùng, nó đành thật thà đáp: “Ừm, đúng là ta không được cưỡi ngựa”.
“Để muội dạy huynh.”
“Muội còn nhỏ quá, cứ cưỡi ngựa như vậy là rất nguy hiểm”, nó già dặn khuyên nhủ.
“Không nguy hiểm, từ hồi còn rất nhỏ, muội đã bắt đầu cưỡi ngựa rồi, cưỡi ngựa không khó chút nào!”, cô bé lớn tiếng sửa lại rồi vươn tay về phía Tử Hân: “Bây giờ học luôn, muội kéo huynh lên!”.
Lúc này, Tử Hân đã rất cao rồi, thân thể tuy hơi gầy nhưng vẫn nặng hơn nhiều so với một cô bé mười một tuổi.
“Không, không, không”, nó xua tay lia lịa: “Muội đi đi, ta còn có việc, cáo từ nhé”.
“Không được cáo từ! Có muội ở đây, huynh nhất định phải học!”
Rành rành nhỏ hơn nó ba tuổi, vậy mà khẩu khí của cô bé ấy lại có phần ngang tàng.
Cứ như thế, mỗi khi hoàng hôn, nó lại tới khu đất cạnh nghĩa trang đợi Tiểu Mi, theo Tiểu Mi học cưỡi ngựa. Tiểu Mi dạy gì, nó học nấy, rất chăm chỉ. Có điều, trong lòng nó, học cưỡi ngựa chỉ là thứ yếu thôi.
Tới ngày thứ năm, Tử Hân đã có thể một mình cưỡi trên lưng ngựa. Hôm ấy, Tiểu Mi dẫn nó cưỡi ngựa đi ba vòng trong cốc, sau đó nhảy xuống, cầm dây cương dắt ngựa đi.
“Trượng của ta rơi mất rồi”, Tử Hân ngồi trên ngựa chợt nói.
Nó vẫn luôn dắt cây trượng ở chỗ để roi ngựa, không biết đã rơi mất tự lúc nào.
“Đợi chút nữa rồi tìm”, Tiểu Mi quay đầu lại, khẽ mỉm cười với nó.
Kỳ thực, cây trượng đó chính là chân của nó, không có cây trượng, Tử Hân không thể đi lại. Trong lòng Tử Hân có chút bất an nhưng biết rõ bản thân không nên lo lắng như thế.
Xét cho cùng, nó đã có thể cưỡi ngựa.
“Cho muội này!”, Tử Hân dùng cỏ bện cho cô bé một con rồng nho nhỏ, cô bé hớn hở nhận lấy, đưa lên miệng khe khẽ ngâm nga, tiếp tục đi về phía trước.
“Muội đang hát bài gì thế?”, Tử Hân hỏi.
“Là bài hát của quê muội, huynh nghe không hiểu đâu”, cô bé cười.
Giọng Tiểu Mi mềm mại mà mới lạ, khúc chiết mà hòa quyện, nó nghe bỗng thấy động lòng.
“Hát to lên đi, ta nghe hiểu mà”, nó nhẹ giọng bảo.
“Huynh hiểu à?”, Tiểu Mi quay người lại, hiếu kỳ nhìn nó: “Ý huynh là, huynh biết nói tiếng Ba Tư?”.
Tử Hân đã từng theo phụ thân học qua rồi.
Phụ thân tinh thông văn tự Ba Tư và chữ Phạn, có rất nhiều thương nhân Ba Tư qua lại làm ăn với Vân Mộng cốc.
Tử Hân đang tuổi ham học hỏi, cái gì cũng muốn học, học cũng rất chuyên tâm.
Sau đó, hai người bô lô ba la nói tiếng Ba Tư.
“Muội nghe có hiểu không?”, sợ mình đã nói sai, Tử Hân gập người xuống, thì thầm hỏi.
“Muội hiểu!”, cô bé cười khanh khách: “Huynh đúng là thiên tài”.
Một lát sau, cô bé lại nói: “Vậy muội sẽ hát thật to nhé! Muội thích chỗ này bởi vì ở đây không có ai, muội có thể thoải mái hát to”.
Ngựa chàng sắc vàng óng, ngựa thiếp lại trắng phau.
Sắc ngựa tuy có khác, trong lòng chẳng cách nhau.
Cùng nhau rong chơi mãi, song hành miền Lạc Dương…[1]
[1] Bài Quân mã hoàng của thi nhân Lý Bạch thời Thịnh Đường.
“Đây không phải là bài hát quê muội đấy chứ?”, Tử Hân mỉm cười.
“Tử Duyệt tỷ tỷ dạy muội đấy, hát có hay không?”
“Hay.”
Lúc ấy, trời bỗng nổi cơn mưa nhỏ rồi dần rơi nặng hạt, ướt hết y phục Tử Hân, nó bèn nói: “Chúng ta quay về thôi”.
“Cưỡi ngựa trong mưa mới hay chứ!”, Tiểu Mi vẫn cứ cầm cương dắt ngựa đi tới.
“Vậy muội lên ngựa đi.”
“Không, muội thích làm mã phu cho huynh”, cô bé quay người lại, thè lưỡi, tinh quái cười với nó.
Vừa dứt lời, không ngờ trên trời vang lên tiếng sấm lớn. Con ngựa đột ngột sợ hãi, vươn người hý to rồi nâng hai chân đạp mạnh về phía trước!
“Cẩn thận!”, Tử Hân kinh hoàng gào lên một tiếng, nhảy từ lưng ngựa xuống, con ngựa bỏ lại hai người, phóng vào sâu trong cốc.
Nghe thấy Tiểu Mi rên lên một tiếng ngã xuống đất, Tử Hân biết cô bé đã bị ngựa đạp trúng. Nhưng lúc nó bò tới trước mặt cô bé lại thấy cô bé đang cố sức lật người, nằm ngẩng mặt nhìn trời, cố gắng mở to đôi mắt.
“Chớ có cử động!”, nó nhào tới, giữ lấy người cô bé, đang định tìm vết thương thì thấy máu hòa với nước loang ra từ sau đầu Tiểu Mi.
Cô bé mở to đôi mắt nhìn nó, đôi môi khẽ động nhưng không nói gì.
Tử Hân gào lên gọi người tới cứu.
Nơi đồng hoang vắng, ngoài tiếng mưa rơi chẳng còn tiếng gì khác.
Nó định ôm cô bé lên, nhưng rơi mất cây trượng, không cách nào đứng vững nổi.
Bất kể có làm thế nào cũng không có cách gì cứu được tính mệnh cô bé. Tử Hân nắm lấy tay Tiểu Mi, nhìn vào khuôn mặt đang mất dần huyết sắc.
Tiểu Mi miễn cưỡng mở mắt, tựa như không biết đã xảy ra chuyện gì, lại còn lo lắng về con ngựa kia: “Ngựa chạy mất rồi… làm sao đây?”.
Tử Hân không dám rơi nước mắt, lo cô bé sợ hãi nhưng không sao nhịn được tiếng nghẹn ngào.
“Muội buồn ngủ rồi, mai lại dạy huynh…”
Tiểu Mi khép đôi mắt lại.
Bắt đầu ở nghĩa địa, kết thúc ở nghĩa địa, nó quen biết cô bé tổng cộng được năm ngày.
Lần sau cùng gặp Tiểu Mi, cô bé đã biến thành một ngôi mộ nho nhỏ.
/24
|