Giấc mơ của tôi diễn ra với ba màu: đen, trắng và xám nhạt.
Đó là một đêm lạnh lẽo. Tôi đứng với đôi chân trần trên con đường bẩn thỉu, bùn và mưa nhanh chóng lấp đầy những ổ gà lỗ chỗ trên mặt đường. Đây đó nhú lên vài nhánh cỏ, đá sỏi nằm lăn lóc. Bóng tối nuốt chửng cả miền quê, chỉ còn lại duy nhất một điểm sáng: Cách con đường vài trăm thước là một quán rượu xây bằng đá và gỗ. Ánh nến lập lòe bên các khung cửa sổ, tôi đang định đi thẳng đến đó để trú chân thì nghe thấy tiếng chuông kêu lanh lảnh phía xa xa.
Khi tiếng chuông vang lên to hơn, tôi đứng tránh sang một bên với khoảng cách an toàn. Một cỗ xe ngựa ầm ầm hiện ra từ trong bóng tối và dừng lại ở chỗ tôi vừa đứng. Ngay khi cỗ xe dừng lại, người đánh xe nhảy xuống, bùn bắn lên quá nửa đôi ủng dài của ông ta. Ông ta mở cửa và lùi lại.
Một dáng hình tối sẫm bước ra. Ông ta khoác một cái áo choàng không tay, phấp phới trong gió, nhưng cái mũ trùm đầu lại được đội sùm sụp che hết khuôn mặt.
“Chờ ở đây,” ông ta bảo người đánh xe.
“Thưa ông, mưa to quá...”
Người đàn ông mặc áo choàng không tay hất đầu về phía quán rượu. “Tôi có công chuyện cần làm. Tôi sẽ không đi lâu đâu. Hãy để lũ ngựa sẵn sàng.”
Người đánh xe nhìn về phía quán rượu. “Nhưng thưa ông... trong đó toàn bọn đầu trộm đuôi cướp và lũ ma cà bông. Và tối nay tôi có cảm giác rất bất an.” Ông ta xoa mạnh lên hai cánh tay, như muốn giũ bỏ cái lạnh. “Ông chủ nên mau mau về nhà với bà chủ và các cô cậu chủ.”
“Đừng nói gì với vợ tôi.” Người đàn ông mặc áo choàng không tay nắm và mở hai bàn tay đeo găng trong khi vẫn nhìn chằm chằm vào quán rượu. “Cô ấy đã có nhiều thứ để lo lắng rồi,” ông ta lẩm bẩm.
Tôi quay sang nhìn quán rượu, ánh nến quái dị lập lòe trong những ô cửa sổ nhỏ xiêu vẹo. Mái nhà cũng bị lệch, hơi nghiêng về phía bên phải, như thể những công cụ dùng để xây dựng quán rượu này chẳng chính xác chút nào. Cỏ dại đã mọc kín ở mặt ngoài của tòa nhà, thi thoảng một tiếng thét chói tai hay tiếng kính vỡ lại vọng ra bên ngoài.
Người đánh xe kéo cổ áo lên sát mũi. “Chưa đầy hai năm trước, con trai tôi đã chết vì bệnh dịch hạch. Một điều thật khủng khiếp, giờ thì ông bà cũng đang phải đối mặt với nó.”
Tiếp theo là một sự im lặng nặng nề, lũ ngựa sốt ruột giậm chân, lông chúng đang tỏa hơi. Những làn hơi băng giá mỏng mảnh phun ra từ lỗ mũi chúng. Hình ảnh đó quá chân thực, đột nhiên nó khiến tôi thấy sợ. Tôi chưa bao giờ gặp một giấc mơ nào đem lại cảm giác thật như thế này.
Người đàn ông mặc áo choàng không tay bắt đầu bước qua lối đi rải sỏi dẫn đến quán rượu. Những gì nằm ở rìa của giấc mơ biến mất, và sau một thoáng do dự, tôi cũng bắt đầu đi theo, sợ rằng tôi cũng sẽ biến mất nếu không bám sát ông ta. Tôi theo ông ta bước qua cửa quán rượu.
Một cái lò khổng lồ với ống khói bằng gạch choán hết nửa dưới của bức tường hậu. Hai bên hông lò treo những cái bát gỗ, tách thiếc và các đồ dùng nhà bếp khác, chúng được móc trên những cái đinh lớn. Ba thùng rượu đã được lăn vào trong góc.
Một con chó ghẻ lở đang nằm cuộn tròn trước chúng. Những cái ghế đổ, đĩa và ca bẩn nằm chỏng chơ trên cái sàn trông chẳng giống sàn nhà chút nào. Nó bẩn thỉu, được đầm phẳng và rải một lớp trông như mùn cưa, ngay khi tôi bước lên sàn, lớp bùn đóng thành bánh ở gót giày của tôi đã hút hết đám bụi bặm. Đang ước ao giá mà lúc này mình được tắm nước nóng thì diện mạo của khoảng mười khách hàng đang ngồi ở các bàn khác nhau quanh quán rượu đập vào mắt tôi.
Hầu hết những người đàn ông ở đó đều để tóc dài đến vai với những bộ râu nhọn hoắt, kỳ quặc. Quần của họ rộng lùng thùng và được nhét vào trong những đôi ủng cao, tay áo của họ bồng lên. Họ đội những chiếc mũ rộng vành, gợi tôi nhớ đến những tín đồ Thanh giáo Anh đến Mỹ hồi đầu thế kỷ mười bảy.
Chắc chắn là tôi đang mơ về một thời nào đó xa lơ xa lắc, và vì những chi tiết trong giấc mơ quá rõ ràng, đáng lẽ tôi phải biết mình đang ở thời kỳ nào. Nhưng tôi thấy lúng túng. Có vẻ là nước Anh, trong khoảng thế kỷ mười lăm đến thế kỷ mười tám. Năm nay tôi đạt điểm A môn Lịch sử thế giới, nhưng chẳng có bài kiểm tra nào hỏi đến trang phục của các thời kỳ cả. Nhất là những thứ trong cái cảnh đang bày ra trước mắt tôi đây.
“Tôi đang tìm một người,” người đàn ông mặc áo choàng không tay nói với tay phục vụ rượu, người đang đứng sau một cái bàn cao đến eo mà tôi nghĩ là được dùng làm quầy bar. “Tôi được dặn là đến gặp anh ta ở đây tối nay, nhưng tôi e là tôi không biết tên anh ta.”
Tay phục vụ rượu, một gã đàn ông thấp, hói, chỉ có một nhúm tóc mỏng lơ thơ trên đỉnh đầu, nhìn người đàn ông mặc áo choàng không tay. “Ông uống gì?” Gã hỏi, mở miệng cười để lộ những cái chân răng đen sì lởm chởm.
Tôi nén lại cơn buồn nôn đang dâng lên trong bụng trước cảnh hàm răng của gã và lùi lại.
Người đàn ông mặc áo choàng không tay không tỏ ra khiếp sợ giống tôi. Ông ta chỉ lắc đầu. “Tôi cần tìm ra người đàn ông này càng sớm càng tốt. Tôi đã được bảo rằng ông có thể giúp tôi.”
Nụ cười gớm guốc của gã phục vụ rượu biến mất. “Ai dà, tôi có thể giúp ông tìm anh ta, thưa ông. Nhưng hãy tin tưởng một người đàn ông già cả và uống một, hai ly trước đã. Để làm ông ấm người trong một đêm lạnh giá thế này.” Gã đẩy một cốc rượu nhỏ về phía người đàn ông mặc áo choàng không tay.
Người đàn ông đội mũ trùm đầu sùm sụp lại lắc đầu. “Tôi e là tôi đang vội. Hãy nói cho tôi biết tôi có thể tìm anh ta ở đâu.” Ông ta đẩy vài đồng xu méo mó qua mặt bàn.
Tay phục vụ rượu cho những đồng xu vào túi. Gã hất đầu về phía cửa sau và nói, “Người đó ở trong khu rừng đằng kia. Nhưng thưa ông? Hãy cẩn thận. Vài người nói khu rừng đó bị ma ám. Ai đi vào đó sẽ không bao giờ trở về.”
Người đàn ông mặc áo choàng không tay dựa hẳn người vào cái bàn ngăn cách hai người và hạ thấp giọng. “Tôi muốn hỏi một câu riêng tư. Tháng Cheshvan của người Do Thái có ý nghĩa gì với ông không?”
“Tôi không phải người Do Thái,” tay phục vụ rượu nói thẳng thừng
, nhưng có gì đó trong mắt gã mách bảo tôi rằng đây không phải lần đầu gã nghe người khác hỏi câu ấy.
“Người đàn ông mà tôi đến gặp tối nay bảo tôi đến gặp anh ta ở đây vào đêm đầu tiên của tháng Cheshvan. Anh ta nói anh ta cần tôi giúp một việc, trong khoảng hai tuần.”
Tay phục vụ rượu xoa cằm. “Hai tuần là một khoảng thời gian dài.”
“Quá dài. Tôi không định đến đây đâu, nhưng tôi sợ những gì người đó sẽ làm nếu tôi không làm theo lời anh ta. Anh ta đã nhắc đến tên các thành viên trong gia đình tôi. Anh ta biết họ. Tôi có một người vợ xinh đẹp và bốn cậu con trai. Tôi không muốn họ bị hãm hại.”
Tay phục vụ hạ giọng, như thể chia sẻ một mẩu chuyện ngồi lê đôi mách đầy tai tiếng. “Người mà ông đến gặp...” Gã ngừng lại, cảnh giác nhìn quanh quán rượu.
“Anh ta rất mạnh,” người đàn ông mặc áo choàng không tay nói. “Tôi từng chứng kiến sức mạnh của anh ta, và anh ta quả thực rất mạnh. Tôi đến để thương lượng với anh ta. Anh ta không thể hy vọng tôi từ bỏ phận sự và gia đình tôi trong một khoảng thời gian dài như thế được. Anh ta phải thông cảm.”
“Tôi chả thấy hắn ta biết thông cảm bao giờ cả,” tay phục vụ rượu nói.
“Con trai út của tôi vừa mắc bệnh dịch hạch,” người đàn ông mặc áo choàng không tay giải thích, giọng nhuốm vẻ tuyệt vọng. “Các thầy thuốc cho rằng nó sẽ không còn sống được bao lâu nữa. Gia đình tôi cần tôi. Con trai tôi cần tôi.”
“Uống một cốc đi,” tay phục vụ rượu khẽ nói. Gã lại đẩy ly rượu về phía trước.
Người đàn ông mặc áo choàng không tay đột ngột quay người và bước về phía cửa sau. Tôi đi theo ông ta.
Bên ngoài, tôi bì bõm bước qua đám bùn giá lạnh. Trời vẫn mưa, và tôi phải bước cẩn thận để không bị trượt chân. Tôi chùi mắt và thấy cái áo choàng của người đàn ông biến mất vào hàng cây ở bìa rừng.
Tôi loạng choạng đi theo ông ta, do dự trước hàng cây. Tôi vuốt lại mái tóc ướt, nhìn chăm chăm vào bóng tối thăm thẳm trước mặt.
Có bóng người chuyển động và đột nhiên người đàn ông mặc áo choàng không tay chạy trở lại phía tôi. Ông ta vấp ngã, rồi lồm cồm bò dậy. Cái áo choàng của ông ta bị vướng vào những cành cây; trong cơn hoảng loạn, ông ta cố gắng cởi cái áo choàng ra. Ông ta hét lên thất thanh. Cánh tay ông ta đập loạn xạ, thân mình vặn vẹo và co giật dữ dội.
Tôi chạy xộc về phía ông ta, những nhành cây quệt vào cánh tay tôi, những viên đá đâm vào bàn chân trần của tôi. Tôi quỳ xuống bên cạnh ông ta. Cái mũ trùm đầu của ông ta vẫn che kín mặt, nhưng tôi có thể thấy miệng ông ta hé mở, như vẫn đang la hét.
“Lật người lại!” tôi nói, giật mảnh vải bị kẹt lại bên dưới ông ta.
Nhưng ông ta không nghe thấy tôi. Lần đầu tiên, giấc mơ có nét gì đó quen thuộc. Giống như tất cả những cơn ác mộng khác tôi từng mắc vào, càng cố gắng bao nhiêu, điều tôi muốn càng vuột ra ngoài tầm tay bấy nhiêu.
Tôi nắm lấy vai ông ta và lắc lắc. “Lật người lại! Tôi có thể giúp ông ra khỏi đây, nhưng ông phải giúp tôi.”
“Tôi là Barnabas Underwood,” ông ta lắp bắp. “Cô có biết đường đến quán rượu không? Cô thật tốt bụng,” ông ta nói, vỗ vỗ vào không khí như thể ông ta đang vỗ má của một nhân vật tưởng tượng.
Tôi cứng đờ người. Ông ta không thấy tôi. Ông ta đang tưởng tượng ra một cô gái khác. Hẳn là thế. Làm sao ông ta có thể trông thấy tôi nếu ông ta không nghe thấy tôi?
“Hãy chạy trở lại đó và nói với chủ quán rượu cho người đến giúp,” ông ta tiếp tục. “Hãy nói với ông ta rằng chẳng có người đàn ông nào cả. Hãy nói với ông ta rằng đó là một con quỷ sứ, hắn đến để chiếm hữu cơ thể tôi và vứt bỏ linh hồn tôi. Hãy bảo ông ta tìm kiếm một mục sư, nước thánh và những bông hồng.”
Nghe đến từ “quỷ sứ”, lông tay tôi dựng đứng lên.
Ông ta ngoái đầu nhìn về phía khu rừng, nghển cổ lên. “Gã thiên thần đó!” Ông ta hốt hoảng lẩm bẩm. “Gã thiên thần đó đang đến!”
Miệng ông ta mím lại méo mó, như thể ông ta đang chống chọi để kiểm soát cơ thể mình. Ông ta bật ngửa người ra sau, và cái mũ trùm đầu của ông ta bị hất văng ra.
Tôi vẫn đang siết chặt cái áo choàng, nhưng tôi cảm thấy nắm tay của tôi lỏng dần. Tôi nhìn chằm chằm vào người đàn ông ấy, há hốc miệng. Ông ta không phải Barnabas Underwood.
Ông ta là Hank Millar.
Bố của Marcie.
Tôi choàng tỉnh.
Những tia sáng rọi qua cửa sổ vào phòng ngủ của tôi. Cửa mở he hé, và một cơn gió nhẹ đem theo hơi thở sớm mai lùa vào mơn man trên da tôi. Tim tôi vẫn đập thình thịch vì cơn ác mộng, nhưng tôi hít vào một hơi thật sâu và tự trấn an mình rằng nó không phải là thật. Thành thực mà nói, dù đã trở lại với thế giới thực, tôi vẫn còn cảm thấy bối rối hơn bao giờ hết vì đã mơ về cha của Marcie. Vì muốn quên nó ngay lập tức, tôi gạt giấc mơ sang một bên.
Tôi lôi điện thoại từ dưới gối ra và kiểm tra tin nhắn. Patch không gọi điện. Tôi kéo cái gối vào mình, ôm lấy nó và cố quên đi cảm giác trống rỗng trong lòng. Patch bỏ về bao lâu rồi nhỉ? Mười hai tiếng. Còn bao lâu nữa tôi mới được gặp lại anh? Tôi không biết. Đó là điều khiến tôi lo lắng. Thời gian càng trôi qua, tôi cảm thấy bức tường đá giữa chúng tôi càng thêm dày.
Hãy cố gắng trải qua ngày hôm nay, tôi tự nhủ, nuốt ực viên sỏi tưởng tượng đang mắc trong cổ họng xuống. Sự xa cách lạ lùng giữa chúng tôi không thể tiếp diễn mãi mãi. Sẽ chẳng có gì được giải quyết nếu tôi trốn trên giường suốt cả ngày. Tôi sẽ gặp lại Patch. Thậm chí có thể anh sẽ ghé qua sau khi tan học. Hoặc tôi có thể gọi điện cho anh. Tôi cứ miên man với những suy nghĩ kỳ cục ấy, không cho phép bản thân nhớ đến các tổng lãnh thiên thần.
Đến địa ngục. Đến nỗi lo sợ của tôi về việc Patch và tôi đang đối mặt với một vấn đề mà cả hai chúng tôi đều không đủ mạnh mẽ để giải quyết.
Tôi ra khỏi giường và thấy một mẩu giấy nhắn màu vàng được đính vào chiếc gương trong phòng tắm.
Tin tốt là: Mẹ đã thuyết phục được cô Lynn không bảo Scott ghé qua đón con sáng nay. Tin xấu là: cô Lynn nhất quyết muốn con dẫn Scott đi thăm thú thị trấn. Đến nước này thì mẹ không chắc là lời từ chối sẽ có tác dụng. Con đưa cậu ta đi chơi sau khi tan học được không? Đi một lát thôi. Đừng lâu quá. Mẹ để số điện thoại của cậu ta trên kệ bếp ấy.
Hôn con!
Mẹ
Tái bút. Tối nay mẹ sẽ gọi điện cho con từ khách sạn.
Tôi rên rỉ và gục trán xuống kệ bếp. Tôi không muốn ở bên Scott dù chỉ là mười phút, huống hồ là tận vài giờ đồng hồ.
Bốn mươi phút sau tôi đã tắm xong, mặc quần áo và ăn hết một bát cháo bột yến mạch dâu tây. Có tiếng gõ cửa, tôi mở cửa và thấy Vee đang tươi cười. “Đã sẵn sàng cho một ngày đầy ắp niềm vui trong lớp học hè chưa?” nó hỏi.
Tôi túm lấy cái ba lô đang treo trên móc ở tủ treo áo khoác. “Hãy cố mà chịu đựng cho qua ngày hôm nay, được chứ?”
“Woa. Ai khiến cậu bực mình vậy?”
“Scott Parnell.” Patch.
“Hẳn là bệnh tè dầm của cậu ta không biến mất theo thời gian.”
“Mình phải dẫn cậu ta đi dạo quanh thị trấn sau khi tan học.”
“Đi chơi riêng với một anh chàng. Có gì mà phải bực mình chứ?”
“Đáng lẽ tối qua cậu phải có mặt ở đây. Bữa tối thật kỳ quặc. Mẹ của Scott bắt đầu kể với mẹ con mình về quá khứ rắc rối của cậu ta, nhưng Scott đã ngắt ngang. Không chỉ thế, có vẻ như cậu ta còn đe dọa cô ấy. Sau đó cậu ta xin phép vào phòng tắm, nhưng cuối cùng lại đứng ở hành lang để nghe trộm mọi người trò chuyện.” Và rồi nói chuyện bằng ý nghĩ với mẹ cậu ta. Có lẽ thế.
“Có vẻ cậu ta đang cố giữ bí mật cuộc sống của cậu ta. Có vẻ chúng ta phải làm một việc gì đấy để thay đổi điều đó.”
Tôi đi trước Vee hai bước, dẫn đường ra ngoài, và đột nhiên dừng lại. Trong đầu tôi vừa lóe lên một ý tưởng. “Mình có ý này,” tôi nói, quay người lại. “Tại sao cậu không đưa Scott đi chơi nhỉ? Không, mình nói thật đấy, Vee ạ. Cậu sẽ thích cậu ta. Cậu ta có vẻ bất hảo, bất cần, liều lĩnh. Thậm chí cậu ta còn hỏi nhà mình có bia không – thật khiếm nhã, đúng không? Mình nghĩ cậu ta chính là hình mẫu lý tưởng của cậu đấy.”
“Không được. Mình đã hẹn đi ăn trưa với Rixon rồi.”
Tôi cảm thấy tim mình đau nhói. Patch và tôi cũng đã hẹn ăn trưa vào ngày hôm nay, nhưng không hiểu sao tôi linh cảm rằng buổi hẹn đó sẽ không xảy ra. Tôi đã làm gì vậy? Tôi phải gọi điện cho anh. Tôi phải tìm cách nói chuyện với anh. Tôi sẽ không để tất cả mọi thứ kết thúc như thế này. Thật kỳ cục. Nhưng một giọng nói nhỏ xíu mà tôi coi thường chất vấn rằng tại sao anh không gọi điện cho tôi trước. Anh cũng có nhiều điều phải xin lỗi tôi cơ mà.
“Mình sẽ trả cậu tám đô-la ba mươi hai xu để đưa Scott đi chơi, giá chót đấy,” tôi nói.
“Hấp dẫn thật, nhưng không được đâu. Và thêm một điều nữa này. Có lẽ Patch sẽ không vui nếu cậu và Scott cứ liên tục đi chơi riêng với nhau như thế này. Đừng hiểu lầm mình. Mình chẳng quan tâm Patch nghĩ gì, và nếu cậu muốn chọc tức cậu ta, thì cậu cứ việc làm thế. Mình nghĩ mình đã nói rõ ý kiến của mình rồi đấy.”
Tôi đang xuống dở chừng bậc thềm, và bị trượt chân khi nghe nhắc đến Patch. Tôi đã định kể với Vee rằng tôi đã chấm dứt với Patch, nhưng tôi không thể thốt điều đó ra miệng. Tôi cảm thấy điện thoại của tôi, với ảnh Patch được lưu trong đó, bỏng giãy trong túi. Một phần trong tôi muốn quăng cái điện thoại sang phía rừng cây bên kia đường. Một phần tôi không thể mất anh nhanh đến thế được. Thêm nữa, nếu tôi kể với Vee, chắc chắn nó sẽ chỉ ra rằng một cuộc chia tay là cơ hội giúp chúng tôi tự do hẹn hò với những người khác. Đó là một kết luận sai lầm. Tôi không nghĩ đến người khác, và Patch cũng thế. Tôi hy vọng như vậy. Đây chỉ là một trục trặc bất ngờ. Cuộc cãi cọ thực sự đầu tiên của chúng tôi. Lần chia tay này không phải là vĩnh viễn. Vì quá tức giận nên chúng tôi đã nói những điều chúng tôi không định nói.
“Nếu mình là cậu, mình sẽ thoái thác,” Vee nói, đôi giày cao chục phân của nó giẫm cồm cộp trên những bậc thềm sau tôi. “Đó là điều mình làm mỗi khi mình lâm vào tình huống khó xử. Hãy gọi cho Scott và bảo với cậu ta rằng con mèo nhà cậu đang bị nghẹn sau khi ăn thịt chuột, và cậu phải đưa nó đến bác sĩ thú y sau khi tan học.”
“Cậu ta đã đến nhà mình tối qua. Cậu ta biết mình không nuôi mèo.”
“Vậy thì trừ phi não cậu ta nhũn như món spaghetti bị nhừ, cậu ta sẽ đoán được là cậu không hứng thú gì với chuyện này.”
Tôi cân nhắc. Nếu tôi không phải đưa Scott đi dạo quanh thị trấn, tôi có thể mượn xe của Vee và đi theo cậu ta. Dù đã cố gắng hợp lý hóa những gì tôi nghe thấy tối qua, tôi không thể gạt bỏ sự nghi ngờ rằng Scott đã nói chuyện với mẹ cậu ta bằng ý nghĩ. Nếu là một năm trước, tôi đã coi chuyện đó là vớ vẩn. Nhưng giờ mọi thứ đã thay đổi. Patch đã nói chuyện với tôi qua ý nghĩ vô số lần. Chauncey (hay Jules), một gã Nephil từng xuất hiện trong quá khứ của tôi, cũng thế. Vì các thiên thần sa ngã không già đi, và tôi biết Scott từ khi cậu ta mới năm tuổi, tôi đã bác bỏ chuyện cậu ta là thiên thần sa ngã. Nhưng cho dù Scott không phải là một thiên thần sa ngã, cậu ta vẫn có thể là Nephilim.
Nhưng nếu cậu ta là Nephilim, cậu ta đang làm gì ở Coldwater? Cậu ta sống cuộc đời của một thiếu niên bình thường làm gì? Cậu ta có biết mình là Nephilim không? Cô Lynn có biết không? Scott đã thề trung thành với một thiên thần sa ngã nào chưa? Nếu chưa, tôi có phải cảnh báo cho cậu ta về những gì sắp xảy đến với cậu ta không? Tôi chẳng thân thiết gì với Scott, nhưng thế không có nghĩa là tôi nghĩ cậu ta đáng bị chiếm đoạt cơ thể hai tuần mỗi năm.
Dĩ nhiên, có lẽ cậu ta cũng chẳng phải là Nephilim gì cả. Có lẽ tôi chỉ đang tưởng tượng ra mọi chuyện.
Sau giờ học hóa, tôi đến bên tủ để đồ, cất sách vở, lấy ba lô và điện thoại của tôi, rồi bước tới cửa phụ để nhìn bãi đỗ xe của học sinh cho rõ hơn. Scott đang ngồi trên mui chiếc Mustang màu xanh bạc. Cậu ta vẫn đang đội cái mũ Hawaii, và tôi chợt nhận ra rằng nếu cậu ta cứ duy trì thói quen này, tôi sẽ không nhận ra cậu ta khi cậu ta không đội cái mũ ấy. Chẳng hạn như việc tôi thậm chí còn không biết màu tóc của cậu ta. Tôi lôi tờ giấy nhắc mà mẹ tôi để lại ra khỏi túi và bấm số của cậu ta.
“Nora Grey phải không?” Cậu ta trả lời. “Mình hy vọng cậu không bỏ rơi mình đấy chứ?”
“Tin xấu đây. Con mèo nhà mình bị ốm. Mình có hẹn với bác sĩ thú y lúc mười hai rưỡi. Chuyến đi tham quan đành để lúc khác vậy. Xin lỗi nhé,” tôi nói xong, không ngờ lại thấy áy náy đến thế. Xét cho cùng, đây chỉ là một lời nói dối nho nhỏ. Và tôi cũng không thực sự tin rằng Scott muốn đi dạo quanh Coldwater. Ít nhất thì đó là những gì tôi đang tự nhủ để khiến lương tâm thanh thản hơn.
“Được thôi,” Scott nói và ngắt máy.
Tôi vừa dập máy thì Vee tiến lại sau tôi. “Từ chối cậu ta dễ dàng quá nhỉ, đúng là cô gái của tôi.”
“Cậu cho mình mượn chiếc Neon chiều nay nhé?” Tôi hỏi, nhìn Scott tuột xuống khỏi chiếc Mustang và gọi một cú điện thoại.
“Để làm gì?”
“Mình muốn theo dõi Scott.”
“Để làm gì? Rõ ràng sáng nay cậu ám chỉ cậu ta là một kẻ cặn bã cơ mà.”
“Ở cậu ta có gì đó... kỳ quặc.”
“Ừ, thứ kỳ quặc chính là cặp kính của cậu ta đấy. Trông giống Hulk Hogan, đúng không nhỉ? Dù gì thì cũng không được. Mình đã hẹn ăn trưa với Rixon rồi.”
“Ừ, nhưng Rixon có thể đón cậu, vì thế mình có thể mượn chiếc Neon,” tôi nói, liếc qua cửa sổ để chắc chắn rằng Scott chưa nhảy vào trong xe của cậu ta. Tôi không muốn cậu ta rời đi trước khi tôi thuyết phục được Vee đưa tôi chìa khóa của chiếc Neon.
“Dĩ nhiên là cậu ấy có thể đón mình. Nhưng thế thì mình sẽ có vẻ nghèo túng, phụ thuộc. Ngày nay tụi con trai muốn một người phụ nữ độc lập, mạnh mẽ cơ.”
“Nếu cậu cho mình mượn xe, mình sẽ đổ đầy bình xăng.”
Vẻ mặt Vee dịu đi một chút. “Cả đi cả về chứ?”
“Cả đi cả về.” Tương đương với tám đô-la ba mươi hai xu.
Vee cắn môi. “Thôi được,” nó chậm rãi nói. “Nhưng có lẽ mình nên đi cùng cậu, để đảm bảo là không có chuyện gì xấu xảy ra.”
“Thế còn Rixon thì sao?”
“Chỉ vì mình cưa được một “hot boy” không có nghĩa là mình sẽ bỏ mặc cô bạn thân nhất của mình. Hơn nữa, mình có linh cảm rằng cậu cần mình giúp đỡ.”
“Sẽ chẳng có chuyện gì tồi tệ xảy ra cả. Mình chỉ theo dõi cậu ta thôi. Cậu ta sẽ không biết đâu.” Nhưng tôi cũng đánh giá cao lời đề nghị của nó. Vài tháng qua đã thay đổi tôi. Tôi không còn ngây thơ và lơ là như trước đây nữa, và ý tưởng dẫn Vee đi cùng vẫn hấp dẫn tôi. Đặc biệt nếu Scott là Nephilim. Trước đây tôi chỉ biết một tên Nephil, và hắn đã cố giết tôi.
Sau khi Vee gọi điện và hủy cuộc hẹn với Rixon, chúng tôi đợi cho đến khi Scott chui vào trong xe và lùi ra khỏi chỗ đỗ xe của cậu ta rồi mới ra khỏi tòa nhà. Cậu ta rẽ trái ra khỏi bãi đỗ xe, Vee và tôi chạy nhanh đến chiếc Dodge Neon 1995 màu tía của nó. “Cậu lái,” Vee nói, ném cho tôi chìa khóa. Vài phút sau, chúng tôi đuổi kịp chiếc Mustang, và tôi giữ khoảng cách với cậu ta qua ba chiếc xe. Scott rẽ lên đường cao tốc, đi về phía đông hướng ra biển, và tôi theo sau.
Nửa tiếng sau, Scott đi vào bến tàu và lái xe vào một bãi đỗ xe ở rìa của dãy cửa hàng dẫn ra biển. Tôi giảm tốc độ, chờ cậu ta khóa cửa xe và bước đi, rồi mới đỗ xe cách cậu ta hai hàng.
“Có vẻ Scotty Tè Dầm đang đi mua sắm,” Vee nói. “Nhắc đến mua sắm, cậu không phiền gì nếu mình đi xem mấy món đồ một tí trong khi cậu thực hiện cái trò điều tra nghiệp dư này được chứ? Rixon nói cậu ấy thích con gái quàng khăn, mà tủ quần áo của mình chả có cái khăn nào.”
“Đi đi.”
Đi cách Scott nửa dãy nhà, tôi thấy cậu ta bước vào một cửa hàng thời trang và chưa đầy mười lăm phút sau đã đi ra với một cái túi mua hàng. Cậu ta vào một cửa hàng khác và mười phút sau lại bước ra. Chẳng có gì bất thường, và chẳng có gì khiến tôi nghĩ rằng cậu ta có thể là Nephilim. Sau khi ra khỏi cửa hàng thứ ba, Scott hướng sự chú ý đến một nhóm nữ sinh đại học đang ăn trưa bên kia đường. Họ ngồi ở một cái bàn có che ô ở hiên của một nhà hàng, mặc quần soóc và áo bikini. Scott lôi điện thoại có gắn camera ra và chụp trộm vài bức ảnh.
Tôi nhăn mặt quay sang ô cửa sổ gắn kính dày của tiệm cà phê bên cạnh tôi, và đó là lúc tôi thấy ông đang ngồi ở một bàn bên trong. Ông mặc quần kaki, một cái áo sơ mi màu xanh và một cái áo khoác vải lanh màu ngà. Mái tóc vàng dợn sóng của ông lúc này đã dài thêm, được buộc kiểu đuôi ngựa. Ông đang đọc báo.
Bố tôi.
Ông gấp tờ báo lại và đi về phía cuối tiệm.
Tôi chạy trên vỉa hè đến cửa tiệm cà phê và nhào vào trong. Bố tôi đã biến mất trong đám đông. Tôi đi về phía cuối tiệm, điên cuồng nhìn quanh. Hành lang lát gạch trắng và đen kết thúc với phòng vệ sinh nam bên trái và phòng vệ sinh nữ bên phải. Không có lối ra nào khác, có nghĩa là bố tôi hẳn đang ở trong nhà vệ sinh nam.
“Cậu đang làm gì thế?” Scott hỏi qua vai tôi.
Tôi quay ngoắt lại. “Làm thế nào... cậu... cậu đang làm gì ở đây?”
“Mình cũng đang định hỏi cậu câu ấy đấy. Mình biết cậu theo dõi mình. Đừng tỏ ra ngạc nhiên như thế. Nhờ có gương chiếu hậu đấy. Cậu có theo dõi mình vì lý do gì đặc biệt không thế?”
Tâm trí tôi đang xáo trộn đến mức chẳng còn quan tâm đến những lời cậu ta nói. “Làm ơn vào nhà vệ sinh nam và xem hộ mình xem có người đàn ông nào mặc áo sơ mi xanh dương trong đó không.”
Scott gõ vào trán tôi. “Ma túy? Rối loạn hành vi? Cậu đang cư xử rất kỳ cục đấy.”
“Hãy làm thế đi.”
Scott đá cửa nhà vệ sinh nam, khiến nó mở tung. Tôi nghe tiếng cánh cửa của các buồng vệ sinh mở ra, và một lát sau cậu ta quay lại.
“Chẳng có gì.”
“Mình đã thấy một người đàn ông mặc áo sơ mi màu xanh dương bước vào đó mà. Làm gì còn lối ra nào khác chứ.” Tôi nhìn sang cánh cửa bên kia hành lang – cánh cửa khác duy nhất. Tôi bước vào phòng vệ sinh nữ và lần lượt mở từng ngăn, tim đập thình thịch. Cả ba ngăn đều trống không.
Tôi nhận ra tôi đang nín thở, và trút ra một hơi. Những cảm xúc trở nên hỗn loạn trong lòng tôi, trên hết là sự thất vọng và sợ hãi. Tôi đã nghĩ tôi trông thấy bố tôi vẫn còn sống. Nhưng hóa ra đó chỉ là một trò đùa độc ác của trí óc. Bố tôi đã mất. Ông không bao giờ quay lại, và tôi cần tìm ra cách để chấp nhận sự thật đó. Tôi ngồi thụp xuống, dựa lưng vào tường và cảm thấy toàn thân rung lên vì những giọt nước mắt.
Đó là một đêm lạnh lẽo. Tôi đứng với đôi chân trần trên con đường bẩn thỉu, bùn và mưa nhanh chóng lấp đầy những ổ gà lỗ chỗ trên mặt đường. Đây đó nhú lên vài nhánh cỏ, đá sỏi nằm lăn lóc. Bóng tối nuốt chửng cả miền quê, chỉ còn lại duy nhất một điểm sáng: Cách con đường vài trăm thước là một quán rượu xây bằng đá và gỗ. Ánh nến lập lòe bên các khung cửa sổ, tôi đang định đi thẳng đến đó để trú chân thì nghe thấy tiếng chuông kêu lanh lảnh phía xa xa.
Khi tiếng chuông vang lên to hơn, tôi đứng tránh sang một bên với khoảng cách an toàn. Một cỗ xe ngựa ầm ầm hiện ra từ trong bóng tối và dừng lại ở chỗ tôi vừa đứng. Ngay khi cỗ xe dừng lại, người đánh xe nhảy xuống, bùn bắn lên quá nửa đôi ủng dài của ông ta. Ông ta mở cửa và lùi lại.
Một dáng hình tối sẫm bước ra. Ông ta khoác một cái áo choàng không tay, phấp phới trong gió, nhưng cái mũ trùm đầu lại được đội sùm sụp che hết khuôn mặt.
“Chờ ở đây,” ông ta bảo người đánh xe.
“Thưa ông, mưa to quá...”
Người đàn ông mặc áo choàng không tay hất đầu về phía quán rượu. “Tôi có công chuyện cần làm. Tôi sẽ không đi lâu đâu. Hãy để lũ ngựa sẵn sàng.”
Người đánh xe nhìn về phía quán rượu. “Nhưng thưa ông... trong đó toàn bọn đầu trộm đuôi cướp và lũ ma cà bông. Và tối nay tôi có cảm giác rất bất an.” Ông ta xoa mạnh lên hai cánh tay, như muốn giũ bỏ cái lạnh. “Ông chủ nên mau mau về nhà với bà chủ và các cô cậu chủ.”
“Đừng nói gì với vợ tôi.” Người đàn ông mặc áo choàng không tay nắm và mở hai bàn tay đeo găng trong khi vẫn nhìn chằm chằm vào quán rượu. “Cô ấy đã có nhiều thứ để lo lắng rồi,” ông ta lẩm bẩm.
Tôi quay sang nhìn quán rượu, ánh nến quái dị lập lòe trong những ô cửa sổ nhỏ xiêu vẹo. Mái nhà cũng bị lệch, hơi nghiêng về phía bên phải, như thể những công cụ dùng để xây dựng quán rượu này chẳng chính xác chút nào. Cỏ dại đã mọc kín ở mặt ngoài của tòa nhà, thi thoảng một tiếng thét chói tai hay tiếng kính vỡ lại vọng ra bên ngoài.
Người đánh xe kéo cổ áo lên sát mũi. “Chưa đầy hai năm trước, con trai tôi đã chết vì bệnh dịch hạch. Một điều thật khủng khiếp, giờ thì ông bà cũng đang phải đối mặt với nó.”
Tiếp theo là một sự im lặng nặng nề, lũ ngựa sốt ruột giậm chân, lông chúng đang tỏa hơi. Những làn hơi băng giá mỏng mảnh phun ra từ lỗ mũi chúng. Hình ảnh đó quá chân thực, đột nhiên nó khiến tôi thấy sợ. Tôi chưa bao giờ gặp một giấc mơ nào đem lại cảm giác thật như thế này.
Người đàn ông mặc áo choàng không tay bắt đầu bước qua lối đi rải sỏi dẫn đến quán rượu. Những gì nằm ở rìa của giấc mơ biến mất, và sau một thoáng do dự, tôi cũng bắt đầu đi theo, sợ rằng tôi cũng sẽ biến mất nếu không bám sát ông ta. Tôi theo ông ta bước qua cửa quán rượu.
Một cái lò khổng lồ với ống khói bằng gạch choán hết nửa dưới của bức tường hậu. Hai bên hông lò treo những cái bát gỗ, tách thiếc và các đồ dùng nhà bếp khác, chúng được móc trên những cái đinh lớn. Ba thùng rượu đã được lăn vào trong góc.
Một con chó ghẻ lở đang nằm cuộn tròn trước chúng. Những cái ghế đổ, đĩa và ca bẩn nằm chỏng chơ trên cái sàn trông chẳng giống sàn nhà chút nào. Nó bẩn thỉu, được đầm phẳng và rải một lớp trông như mùn cưa, ngay khi tôi bước lên sàn, lớp bùn đóng thành bánh ở gót giày của tôi đã hút hết đám bụi bặm. Đang ước ao giá mà lúc này mình được tắm nước nóng thì diện mạo của khoảng mười khách hàng đang ngồi ở các bàn khác nhau quanh quán rượu đập vào mắt tôi.
Hầu hết những người đàn ông ở đó đều để tóc dài đến vai với những bộ râu nhọn hoắt, kỳ quặc. Quần của họ rộng lùng thùng và được nhét vào trong những đôi ủng cao, tay áo của họ bồng lên. Họ đội những chiếc mũ rộng vành, gợi tôi nhớ đến những tín đồ Thanh giáo Anh đến Mỹ hồi đầu thế kỷ mười bảy.
Chắc chắn là tôi đang mơ về một thời nào đó xa lơ xa lắc, và vì những chi tiết trong giấc mơ quá rõ ràng, đáng lẽ tôi phải biết mình đang ở thời kỳ nào. Nhưng tôi thấy lúng túng. Có vẻ là nước Anh, trong khoảng thế kỷ mười lăm đến thế kỷ mười tám. Năm nay tôi đạt điểm A môn Lịch sử thế giới, nhưng chẳng có bài kiểm tra nào hỏi đến trang phục của các thời kỳ cả. Nhất là những thứ trong cái cảnh đang bày ra trước mắt tôi đây.
“Tôi đang tìm một người,” người đàn ông mặc áo choàng không tay nói với tay phục vụ rượu, người đang đứng sau một cái bàn cao đến eo mà tôi nghĩ là được dùng làm quầy bar. “Tôi được dặn là đến gặp anh ta ở đây tối nay, nhưng tôi e là tôi không biết tên anh ta.”
Tay phục vụ rượu, một gã đàn ông thấp, hói, chỉ có một nhúm tóc mỏng lơ thơ trên đỉnh đầu, nhìn người đàn ông mặc áo choàng không tay. “Ông uống gì?” Gã hỏi, mở miệng cười để lộ những cái chân răng đen sì lởm chởm.
Tôi nén lại cơn buồn nôn đang dâng lên trong bụng trước cảnh hàm răng của gã và lùi lại.
Người đàn ông mặc áo choàng không tay không tỏ ra khiếp sợ giống tôi. Ông ta chỉ lắc đầu. “Tôi cần tìm ra người đàn ông này càng sớm càng tốt. Tôi đã được bảo rằng ông có thể giúp tôi.”
Nụ cười gớm guốc của gã phục vụ rượu biến mất. “Ai dà, tôi có thể giúp ông tìm anh ta, thưa ông. Nhưng hãy tin tưởng một người đàn ông già cả và uống một, hai ly trước đã. Để làm ông ấm người trong một đêm lạnh giá thế này.” Gã đẩy một cốc rượu nhỏ về phía người đàn ông mặc áo choàng không tay.
Người đàn ông đội mũ trùm đầu sùm sụp lại lắc đầu. “Tôi e là tôi đang vội. Hãy nói cho tôi biết tôi có thể tìm anh ta ở đâu.” Ông ta đẩy vài đồng xu méo mó qua mặt bàn.
Tay phục vụ rượu cho những đồng xu vào túi. Gã hất đầu về phía cửa sau và nói, “Người đó ở trong khu rừng đằng kia. Nhưng thưa ông? Hãy cẩn thận. Vài người nói khu rừng đó bị ma ám. Ai đi vào đó sẽ không bao giờ trở về.”
Người đàn ông mặc áo choàng không tay dựa hẳn người vào cái bàn ngăn cách hai người và hạ thấp giọng. “Tôi muốn hỏi một câu riêng tư. Tháng Cheshvan của người Do Thái có ý nghĩa gì với ông không?”
“Tôi không phải người Do Thái,” tay phục vụ rượu nói thẳng thừng
, nhưng có gì đó trong mắt gã mách bảo tôi rằng đây không phải lần đầu gã nghe người khác hỏi câu ấy.
“Người đàn ông mà tôi đến gặp tối nay bảo tôi đến gặp anh ta ở đây vào đêm đầu tiên của tháng Cheshvan. Anh ta nói anh ta cần tôi giúp một việc, trong khoảng hai tuần.”
Tay phục vụ rượu xoa cằm. “Hai tuần là một khoảng thời gian dài.”
“Quá dài. Tôi không định đến đây đâu, nhưng tôi sợ những gì người đó sẽ làm nếu tôi không làm theo lời anh ta. Anh ta đã nhắc đến tên các thành viên trong gia đình tôi. Anh ta biết họ. Tôi có một người vợ xinh đẹp và bốn cậu con trai. Tôi không muốn họ bị hãm hại.”
Tay phục vụ hạ giọng, như thể chia sẻ một mẩu chuyện ngồi lê đôi mách đầy tai tiếng. “Người mà ông đến gặp...” Gã ngừng lại, cảnh giác nhìn quanh quán rượu.
“Anh ta rất mạnh,” người đàn ông mặc áo choàng không tay nói. “Tôi từng chứng kiến sức mạnh của anh ta, và anh ta quả thực rất mạnh. Tôi đến để thương lượng với anh ta. Anh ta không thể hy vọng tôi từ bỏ phận sự và gia đình tôi trong một khoảng thời gian dài như thế được. Anh ta phải thông cảm.”
“Tôi chả thấy hắn ta biết thông cảm bao giờ cả,” tay phục vụ rượu nói.
“Con trai út của tôi vừa mắc bệnh dịch hạch,” người đàn ông mặc áo choàng không tay giải thích, giọng nhuốm vẻ tuyệt vọng. “Các thầy thuốc cho rằng nó sẽ không còn sống được bao lâu nữa. Gia đình tôi cần tôi. Con trai tôi cần tôi.”
“Uống một cốc đi,” tay phục vụ rượu khẽ nói. Gã lại đẩy ly rượu về phía trước.
Người đàn ông mặc áo choàng không tay đột ngột quay người và bước về phía cửa sau. Tôi đi theo ông ta.
Bên ngoài, tôi bì bõm bước qua đám bùn giá lạnh. Trời vẫn mưa, và tôi phải bước cẩn thận để không bị trượt chân. Tôi chùi mắt và thấy cái áo choàng của người đàn ông biến mất vào hàng cây ở bìa rừng.
Tôi loạng choạng đi theo ông ta, do dự trước hàng cây. Tôi vuốt lại mái tóc ướt, nhìn chăm chăm vào bóng tối thăm thẳm trước mặt.
Có bóng người chuyển động và đột nhiên người đàn ông mặc áo choàng không tay chạy trở lại phía tôi. Ông ta vấp ngã, rồi lồm cồm bò dậy. Cái áo choàng của ông ta bị vướng vào những cành cây; trong cơn hoảng loạn, ông ta cố gắng cởi cái áo choàng ra. Ông ta hét lên thất thanh. Cánh tay ông ta đập loạn xạ, thân mình vặn vẹo và co giật dữ dội.
Tôi chạy xộc về phía ông ta, những nhành cây quệt vào cánh tay tôi, những viên đá đâm vào bàn chân trần của tôi. Tôi quỳ xuống bên cạnh ông ta. Cái mũ trùm đầu của ông ta vẫn che kín mặt, nhưng tôi có thể thấy miệng ông ta hé mở, như vẫn đang la hét.
“Lật người lại!” tôi nói, giật mảnh vải bị kẹt lại bên dưới ông ta.
Nhưng ông ta không nghe thấy tôi. Lần đầu tiên, giấc mơ có nét gì đó quen thuộc. Giống như tất cả những cơn ác mộng khác tôi từng mắc vào, càng cố gắng bao nhiêu, điều tôi muốn càng vuột ra ngoài tầm tay bấy nhiêu.
Tôi nắm lấy vai ông ta và lắc lắc. “Lật người lại! Tôi có thể giúp ông ra khỏi đây, nhưng ông phải giúp tôi.”
“Tôi là Barnabas Underwood,” ông ta lắp bắp. “Cô có biết đường đến quán rượu không? Cô thật tốt bụng,” ông ta nói, vỗ vỗ vào không khí như thể ông ta đang vỗ má của một nhân vật tưởng tượng.
Tôi cứng đờ người. Ông ta không thấy tôi. Ông ta đang tưởng tượng ra một cô gái khác. Hẳn là thế. Làm sao ông ta có thể trông thấy tôi nếu ông ta không nghe thấy tôi?
“Hãy chạy trở lại đó và nói với chủ quán rượu cho người đến giúp,” ông ta tiếp tục. “Hãy nói với ông ta rằng chẳng có người đàn ông nào cả. Hãy nói với ông ta rằng đó là một con quỷ sứ, hắn đến để chiếm hữu cơ thể tôi và vứt bỏ linh hồn tôi. Hãy bảo ông ta tìm kiếm một mục sư, nước thánh và những bông hồng.”
Nghe đến từ “quỷ sứ”, lông tay tôi dựng đứng lên.
Ông ta ngoái đầu nhìn về phía khu rừng, nghển cổ lên. “Gã thiên thần đó!” Ông ta hốt hoảng lẩm bẩm. “Gã thiên thần đó đang đến!”
Miệng ông ta mím lại méo mó, như thể ông ta đang chống chọi để kiểm soát cơ thể mình. Ông ta bật ngửa người ra sau, và cái mũ trùm đầu của ông ta bị hất văng ra.
Tôi vẫn đang siết chặt cái áo choàng, nhưng tôi cảm thấy nắm tay của tôi lỏng dần. Tôi nhìn chằm chằm vào người đàn ông ấy, há hốc miệng. Ông ta không phải Barnabas Underwood.
Ông ta là Hank Millar.
Bố của Marcie.
Tôi choàng tỉnh.
Những tia sáng rọi qua cửa sổ vào phòng ngủ của tôi. Cửa mở he hé, và một cơn gió nhẹ đem theo hơi thở sớm mai lùa vào mơn man trên da tôi. Tim tôi vẫn đập thình thịch vì cơn ác mộng, nhưng tôi hít vào một hơi thật sâu và tự trấn an mình rằng nó không phải là thật. Thành thực mà nói, dù đã trở lại với thế giới thực, tôi vẫn còn cảm thấy bối rối hơn bao giờ hết vì đã mơ về cha của Marcie. Vì muốn quên nó ngay lập tức, tôi gạt giấc mơ sang một bên.
Tôi lôi điện thoại từ dưới gối ra và kiểm tra tin nhắn. Patch không gọi điện. Tôi kéo cái gối vào mình, ôm lấy nó và cố quên đi cảm giác trống rỗng trong lòng. Patch bỏ về bao lâu rồi nhỉ? Mười hai tiếng. Còn bao lâu nữa tôi mới được gặp lại anh? Tôi không biết. Đó là điều khiến tôi lo lắng. Thời gian càng trôi qua, tôi cảm thấy bức tường đá giữa chúng tôi càng thêm dày.
Hãy cố gắng trải qua ngày hôm nay, tôi tự nhủ, nuốt ực viên sỏi tưởng tượng đang mắc trong cổ họng xuống. Sự xa cách lạ lùng giữa chúng tôi không thể tiếp diễn mãi mãi. Sẽ chẳng có gì được giải quyết nếu tôi trốn trên giường suốt cả ngày. Tôi sẽ gặp lại Patch. Thậm chí có thể anh sẽ ghé qua sau khi tan học. Hoặc tôi có thể gọi điện cho anh. Tôi cứ miên man với những suy nghĩ kỳ cục ấy, không cho phép bản thân nhớ đến các tổng lãnh thiên thần.
Đến địa ngục. Đến nỗi lo sợ của tôi về việc Patch và tôi đang đối mặt với một vấn đề mà cả hai chúng tôi đều không đủ mạnh mẽ để giải quyết.
Tôi ra khỏi giường và thấy một mẩu giấy nhắn màu vàng được đính vào chiếc gương trong phòng tắm.
Tin tốt là: Mẹ đã thuyết phục được cô Lynn không bảo Scott ghé qua đón con sáng nay. Tin xấu là: cô Lynn nhất quyết muốn con dẫn Scott đi thăm thú thị trấn. Đến nước này thì mẹ không chắc là lời từ chối sẽ có tác dụng. Con đưa cậu ta đi chơi sau khi tan học được không? Đi một lát thôi. Đừng lâu quá. Mẹ để số điện thoại của cậu ta trên kệ bếp ấy.
Hôn con!
Mẹ
Tái bút. Tối nay mẹ sẽ gọi điện cho con từ khách sạn.
Tôi rên rỉ và gục trán xuống kệ bếp. Tôi không muốn ở bên Scott dù chỉ là mười phút, huống hồ là tận vài giờ đồng hồ.
Bốn mươi phút sau tôi đã tắm xong, mặc quần áo và ăn hết một bát cháo bột yến mạch dâu tây. Có tiếng gõ cửa, tôi mở cửa và thấy Vee đang tươi cười. “Đã sẵn sàng cho một ngày đầy ắp niềm vui trong lớp học hè chưa?” nó hỏi.
Tôi túm lấy cái ba lô đang treo trên móc ở tủ treo áo khoác. “Hãy cố mà chịu đựng cho qua ngày hôm nay, được chứ?”
“Woa. Ai khiến cậu bực mình vậy?”
“Scott Parnell.” Patch.
“Hẳn là bệnh tè dầm của cậu ta không biến mất theo thời gian.”
“Mình phải dẫn cậu ta đi dạo quanh thị trấn sau khi tan học.”
“Đi chơi riêng với một anh chàng. Có gì mà phải bực mình chứ?”
“Đáng lẽ tối qua cậu phải có mặt ở đây. Bữa tối thật kỳ quặc. Mẹ của Scott bắt đầu kể với mẹ con mình về quá khứ rắc rối của cậu ta, nhưng Scott đã ngắt ngang. Không chỉ thế, có vẻ như cậu ta còn đe dọa cô ấy. Sau đó cậu ta xin phép vào phòng tắm, nhưng cuối cùng lại đứng ở hành lang để nghe trộm mọi người trò chuyện.” Và rồi nói chuyện bằng ý nghĩ với mẹ cậu ta. Có lẽ thế.
“Có vẻ cậu ta đang cố giữ bí mật cuộc sống của cậu ta. Có vẻ chúng ta phải làm một việc gì đấy để thay đổi điều đó.”
Tôi đi trước Vee hai bước, dẫn đường ra ngoài, và đột nhiên dừng lại. Trong đầu tôi vừa lóe lên một ý tưởng. “Mình có ý này,” tôi nói, quay người lại. “Tại sao cậu không đưa Scott đi chơi nhỉ? Không, mình nói thật đấy, Vee ạ. Cậu sẽ thích cậu ta. Cậu ta có vẻ bất hảo, bất cần, liều lĩnh. Thậm chí cậu ta còn hỏi nhà mình có bia không – thật khiếm nhã, đúng không? Mình nghĩ cậu ta chính là hình mẫu lý tưởng của cậu đấy.”
“Không được. Mình đã hẹn đi ăn trưa với Rixon rồi.”
Tôi cảm thấy tim mình đau nhói. Patch và tôi cũng đã hẹn ăn trưa vào ngày hôm nay, nhưng không hiểu sao tôi linh cảm rằng buổi hẹn đó sẽ không xảy ra. Tôi đã làm gì vậy? Tôi phải gọi điện cho anh. Tôi phải tìm cách nói chuyện với anh. Tôi sẽ không để tất cả mọi thứ kết thúc như thế này. Thật kỳ cục. Nhưng một giọng nói nhỏ xíu mà tôi coi thường chất vấn rằng tại sao anh không gọi điện cho tôi trước. Anh cũng có nhiều điều phải xin lỗi tôi cơ mà.
“Mình sẽ trả cậu tám đô-la ba mươi hai xu để đưa Scott đi chơi, giá chót đấy,” tôi nói.
“Hấp dẫn thật, nhưng không được đâu. Và thêm một điều nữa này. Có lẽ Patch sẽ không vui nếu cậu và Scott cứ liên tục đi chơi riêng với nhau như thế này. Đừng hiểu lầm mình. Mình chẳng quan tâm Patch nghĩ gì, và nếu cậu muốn chọc tức cậu ta, thì cậu cứ việc làm thế. Mình nghĩ mình đã nói rõ ý kiến của mình rồi đấy.”
Tôi đang xuống dở chừng bậc thềm, và bị trượt chân khi nghe nhắc đến Patch. Tôi đã định kể với Vee rằng tôi đã chấm dứt với Patch, nhưng tôi không thể thốt điều đó ra miệng. Tôi cảm thấy điện thoại của tôi, với ảnh Patch được lưu trong đó, bỏng giãy trong túi. Một phần trong tôi muốn quăng cái điện thoại sang phía rừng cây bên kia đường. Một phần tôi không thể mất anh nhanh đến thế được. Thêm nữa, nếu tôi kể với Vee, chắc chắn nó sẽ chỉ ra rằng một cuộc chia tay là cơ hội giúp chúng tôi tự do hẹn hò với những người khác. Đó là một kết luận sai lầm. Tôi không nghĩ đến người khác, và Patch cũng thế. Tôi hy vọng như vậy. Đây chỉ là một trục trặc bất ngờ. Cuộc cãi cọ thực sự đầu tiên của chúng tôi. Lần chia tay này không phải là vĩnh viễn. Vì quá tức giận nên chúng tôi đã nói những điều chúng tôi không định nói.
“Nếu mình là cậu, mình sẽ thoái thác,” Vee nói, đôi giày cao chục phân của nó giẫm cồm cộp trên những bậc thềm sau tôi. “Đó là điều mình làm mỗi khi mình lâm vào tình huống khó xử. Hãy gọi cho Scott và bảo với cậu ta rằng con mèo nhà cậu đang bị nghẹn sau khi ăn thịt chuột, và cậu phải đưa nó đến bác sĩ thú y sau khi tan học.”
“Cậu ta đã đến nhà mình tối qua. Cậu ta biết mình không nuôi mèo.”
“Vậy thì trừ phi não cậu ta nhũn như món spaghetti bị nhừ, cậu ta sẽ đoán được là cậu không hứng thú gì với chuyện này.”
Tôi cân nhắc. Nếu tôi không phải đưa Scott đi dạo quanh thị trấn, tôi có thể mượn xe của Vee và đi theo cậu ta. Dù đã cố gắng hợp lý hóa những gì tôi nghe thấy tối qua, tôi không thể gạt bỏ sự nghi ngờ rằng Scott đã nói chuyện với mẹ cậu ta bằng ý nghĩ. Nếu là một năm trước, tôi đã coi chuyện đó là vớ vẩn. Nhưng giờ mọi thứ đã thay đổi. Patch đã nói chuyện với tôi qua ý nghĩ vô số lần. Chauncey (hay Jules), một gã Nephil từng xuất hiện trong quá khứ của tôi, cũng thế. Vì các thiên thần sa ngã không già đi, và tôi biết Scott từ khi cậu ta mới năm tuổi, tôi đã bác bỏ chuyện cậu ta là thiên thần sa ngã. Nhưng cho dù Scott không phải là một thiên thần sa ngã, cậu ta vẫn có thể là Nephilim.
Nhưng nếu cậu ta là Nephilim, cậu ta đang làm gì ở Coldwater? Cậu ta sống cuộc đời của một thiếu niên bình thường làm gì? Cậu ta có biết mình là Nephilim không? Cô Lynn có biết không? Scott đã thề trung thành với một thiên thần sa ngã nào chưa? Nếu chưa, tôi có phải cảnh báo cho cậu ta về những gì sắp xảy đến với cậu ta không? Tôi chẳng thân thiết gì với Scott, nhưng thế không có nghĩa là tôi nghĩ cậu ta đáng bị chiếm đoạt cơ thể hai tuần mỗi năm.
Dĩ nhiên, có lẽ cậu ta cũng chẳng phải là Nephilim gì cả. Có lẽ tôi chỉ đang tưởng tượng ra mọi chuyện.
Sau giờ học hóa, tôi đến bên tủ để đồ, cất sách vở, lấy ba lô và điện thoại của tôi, rồi bước tới cửa phụ để nhìn bãi đỗ xe của học sinh cho rõ hơn. Scott đang ngồi trên mui chiếc Mustang màu xanh bạc. Cậu ta vẫn đang đội cái mũ Hawaii, và tôi chợt nhận ra rằng nếu cậu ta cứ duy trì thói quen này, tôi sẽ không nhận ra cậu ta khi cậu ta không đội cái mũ ấy. Chẳng hạn như việc tôi thậm chí còn không biết màu tóc của cậu ta. Tôi lôi tờ giấy nhắc mà mẹ tôi để lại ra khỏi túi và bấm số của cậu ta.
“Nora Grey phải không?” Cậu ta trả lời. “Mình hy vọng cậu không bỏ rơi mình đấy chứ?”
“Tin xấu đây. Con mèo nhà mình bị ốm. Mình có hẹn với bác sĩ thú y lúc mười hai rưỡi. Chuyến đi tham quan đành để lúc khác vậy. Xin lỗi nhé,” tôi nói xong, không ngờ lại thấy áy náy đến thế. Xét cho cùng, đây chỉ là một lời nói dối nho nhỏ. Và tôi cũng không thực sự tin rằng Scott muốn đi dạo quanh Coldwater. Ít nhất thì đó là những gì tôi đang tự nhủ để khiến lương tâm thanh thản hơn.
“Được thôi,” Scott nói và ngắt máy.
Tôi vừa dập máy thì Vee tiến lại sau tôi. “Từ chối cậu ta dễ dàng quá nhỉ, đúng là cô gái của tôi.”
“Cậu cho mình mượn chiếc Neon chiều nay nhé?” Tôi hỏi, nhìn Scott tuột xuống khỏi chiếc Mustang và gọi một cú điện thoại.
“Để làm gì?”
“Mình muốn theo dõi Scott.”
“Để làm gì? Rõ ràng sáng nay cậu ám chỉ cậu ta là một kẻ cặn bã cơ mà.”
“Ở cậu ta có gì đó... kỳ quặc.”
“Ừ, thứ kỳ quặc chính là cặp kính của cậu ta đấy. Trông giống Hulk Hogan, đúng không nhỉ? Dù gì thì cũng không được. Mình đã hẹn ăn trưa với Rixon rồi.”
“Ừ, nhưng Rixon có thể đón cậu, vì thế mình có thể mượn chiếc Neon,” tôi nói, liếc qua cửa sổ để chắc chắn rằng Scott chưa nhảy vào trong xe của cậu ta. Tôi không muốn cậu ta rời đi trước khi tôi thuyết phục được Vee đưa tôi chìa khóa của chiếc Neon.
“Dĩ nhiên là cậu ấy có thể đón mình. Nhưng thế thì mình sẽ có vẻ nghèo túng, phụ thuộc. Ngày nay tụi con trai muốn một người phụ nữ độc lập, mạnh mẽ cơ.”
“Nếu cậu cho mình mượn xe, mình sẽ đổ đầy bình xăng.”
Vẻ mặt Vee dịu đi một chút. “Cả đi cả về chứ?”
“Cả đi cả về.” Tương đương với tám đô-la ba mươi hai xu.
Vee cắn môi. “Thôi được,” nó chậm rãi nói. “Nhưng có lẽ mình nên đi cùng cậu, để đảm bảo là không có chuyện gì xấu xảy ra.”
“Thế còn Rixon thì sao?”
“Chỉ vì mình cưa được một “hot boy” không có nghĩa là mình sẽ bỏ mặc cô bạn thân nhất của mình. Hơn nữa, mình có linh cảm rằng cậu cần mình giúp đỡ.”
“Sẽ chẳng có chuyện gì tồi tệ xảy ra cả. Mình chỉ theo dõi cậu ta thôi. Cậu ta sẽ không biết đâu.” Nhưng tôi cũng đánh giá cao lời đề nghị của nó. Vài tháng qua đã thay đổi tôi. Tôi không còn ngây thơ và lơ là như trước đây nữa, và ý tưởng dẫn Vee đi cùng vẫn hấp dẫn tôi. Đặc biệt nếu Scott là Nephilim. Trước đây tôi chỉ biết một tên Nephil, và hắn đã cố giết tôi.
Sau khi Vee gọi điện và hủy cuộc hẹn với Rixon, chúng tôi đợi cho đến khi Scott chui vào trong xe và lùi ra khỏi chỗ đỗ xe của cậu ta rồi mới ra khỏi tòa nhà. Cậu ta rẽ trái ra khỏi bãi đỗ xe, Vee và tôi chạy nhanh đến chiếc Dodge Neon 1995 màu tía của nó. “Cậu lái,” Vee nói, ném cho tôi chìa khóa. Vài phút sau, chúng tôi đuổi kịp chiếc Mustang, và tôi giữ khoảng cách với cậu ta qua ba chiếc xe. Scott rẽ lên đường cao tốc, đi về phía đông hướng ra biển, và tôi theo sau.
Nửa tiếng sau, Scott đi vào bến tàu và lái xe vào một bãi đỗ xe ở rìa của dãy cửa hàng dẫn ra biển. Tôi giảm tốc độ, chờ cậu ta khóa cửa xe và bước đi, rồi mới đỗ xe cách cậu ta hai hàng.
“Có vẻ Scotty Tè Dầm đang đi mua sắm,” Vee nói. “Nhắc đến mua sắm, cậu không phiền gì nếu mình đi xem mấy món đồ một tí trong khi cậu thực hiện cái trò điều tra nghiệp dư này được chứ? Rixon nói cậu ấy thích con gái quàng khăn, mà tủ quần áo của mình chả có cái khăn nào.”
“Đi đi.”
Đi cách Scott nửa dãy nhà, tôi thấy cậu ta bước vào một cửa hàng thời trang và chưa đầy mười lăm phút sau đã đi ra với một cái túi mua hàng. Cậu ta vào một cửa hàng khác và mười phút sau lại bước ra. Chẳng có gì bất thường, và chẳng có gì khiến tôi nghĩ rằng cậu ta có thể là Nephilim. Sau khi ra khỏi cửa hàng thứ ba, Scott hướng sự chú ý đến một nhóm nữ sinh đại học đang ăn trưa bên kia đường. Họ ngồi ở một cái bàn có che ô ở hiên của một nhà hàng, mặc quần soóc và áo bikini. Scott lôi điện thoại có gắn camera ra và chụp trộm vài bức ảnh.
Tôi nhăn mặt quay sang ô cửa sổ gắn kính dày của tiệm cà phê bên cạnh tôi, và đó là lúc tôi thấy ông đang ngồi ở một bàn bên trong. Ông mặc quần kaki, một cái áo sơ mi màu xanh và một cái áo khoác vải lanh màu ngà. Mái tóc vàng dợn sóng của ông lúc này đã dài thêm, được buộc kiểu đuôi ngựa. Ông đang đọc báo.
Bố tôi.
Ông gấp tờ báo lại và đi về phía cuối tiệm.
Tôi chạy trên vỉa hè đến cửa tiệm cà phê và nhào vào trong. Bố tôi đã biến mất trong đám đông. Tôi đi về phía cuối tiệm, điên cuồng nhìn quanh. Hành lang lát gạch trắng và đen kết thúc với phòng vệ sinh nam bên trái và phòng vệ sinh nữ bên phải. Không có lối ra nào khác, có nghĩa là bố tôi hẳn đang ở trong nhà vệ sinh nam.
“Cậu đang làm gì thế?” Scott hỏi qua vai tôi.
Tôi quay ngoắt lại. “Làm thế nào... cậu... cậu đang làm gì ở đây?”
“Mình cũng đang định hỏi cậu câu ấy đấy. Mình biết cậu theo dõi mình. Đừng tỏ ra ngạc nhiên như thế. Nhờ có gương chiếu hậu đấy. Cậu có theo dõi mình vì lý do gì đặc biệt không thế?”
Tâm trí tôi đang xáo trộn đến mức chẳng còn quan tâm đến những lời cậu ta nói. “Làm ơn vào nhà vệ sinh nam và xem hộ mình xem có người đàn ông nào mặc áo sơ mi xanh dương trong đó không.”
Scott gõ vào trán tôi. “Ma túy? Rối loạn hành vi? Cậu đang cư xử rất kỳ cục đấy.”
“Hãy làm thế đi.”
Scott đá cửa nhà vệ sinh nam, khiến nó mở tung. Tôi nghe tiếng cánh cửa của các buồng vệ sinh mở ra, và một lát sau cậu ta quay lại.
“Chẳng có gì.”
“Mình đã thấy một người đàn ông mặc áo sơ mi màu xanh dương bước vào đó mà. Làm gì còn lối ra nào khác chứ.” Tôi nhìn sang cánh cửa bên kia hành lang – cánh cửa khác duy nhất. Tôi bước vào phòng vệ sinh nữ và lần lượt mở từng ngăn, tim đập thình thịch. Cả ba ngăn đều trống không.
Tôi nhận ra tôi đang nín thở, và trút ra một hơi. Những cảm xúc trở nên hỗn loạn trong lòng tôi, trên hết là sự thất vọng và sợ hãi. Tôi đã nghĩ tôi trông thấy bố tôi vẫn còn sống. Nhưng hóa ra đó chỉ là một trò đùa độc ác của trí óc. Bố tôi đã mất. Ông không bao giờ quay lại, và tôi cần tìm ra cách để chấp nhận sự thật đó. Tôi ngồi thụp xuống, dựa lưng vào tường và cảm thấy toàn thân rung lên vì những giọt nước mắt.
/25
|