Andrew đã trải qua một đêm tồi tệ. Bay phía trên bia mộ của mình ngắm nhìn xa lộ, lòng rối bời, cho đến tận khi Valérie tới thăm anh và khi rốt cuộc anh cũng choàng tỉnh, người vã mồ hôi, chẳng có gì thú vị.
Điều khiến anh bối rối, đó là anh đã thuộc lòng diễn biến cơn ác mộng đó, nhưng lần nào cũng để mặc lòng mình sửng sốt, khi anh nhìn thấy cô bước xuống từ chiếc break và tiến lại phía anh.
Tại sao cái đầu óc gàn dở của anh lại để mặc anh không nhận ra điều đó ngay, còn khi thức dậy anh lại bị ám ảnh bởi cái điều cô đã đến làm trên nấm mồ anh?
Lò xo dưới xô pha khiến anh đau lưng muốn chết và rốt cuộc anh phải thừa nhận rằng có lẽ đã đến lúc trở về nhà.
Khi cho Suzie Baker mượn phòng ngủ, anh đã hy vọng chuyến lưu lại ngắn ngày của cô sẽ làm đảo lộn ký ức về nơi đó, rằng mùi hương của cô sẽ thấm lại đó, đồng thời xóa hết một mùi hương khác. Có lẽ không thể nào diễn tả chính xác điều anh nghĩ trong đầu, nhưng nó đại khái là như vậy.
Anh nghe tiếng Simon ngáy đều đều phía bên kia tường phòng. Anh lặng lẽ đứng dậy và lấy một chai Fernet mà anh giấu trong một bình hoa. Cánh cửa tủ lạnh kêu cót két rõ thành tiếng, vậy nên anh từ bỏ việc lấy Coca, và tu từng ngụm lớn. Món đồ uống này có vẻ đắng hơn, nhưng chất cồn khiến anh thấy dễ chịu.
Anh tới ngồi trên thành cửa sổ và suy nghĩ. Có gì đó khiến anh bất an.
Cuốn sổ của anh đang nằm trên bàn làm việc của Simon. Anh mở hé cửa phòng và chờ cho mắt mình quen với bóng tối.
Simon nói mớ trong lúc ngủ. Andrew rón rén bước khẽ như mèo. Trong lúc tiến lại gần chiếc bàn, anh nghe tiếng cậu bạn lẩm bẩm rõ thành tiếng: “Anh sẽ mãi yêu em, Kathy Steinbeck”.
Và Andrew đành cắn chặt lưỡi để khỏi phì cười.
Anh mò mẫm tìm cuốn sổ, nhón lấy nó bằng đầu ngón tay rồi lại len lén đi ra hệt như lúc bước vào.
Trở lại phòng khách, anh chăm chú đọc lại các ghi chép của mình và rốt cuộc đã hiểu điều mà anh bỏ sót. Chiếc máy bay Suzie Baker đã nói với anh là chiếc nào và làm sao kiếm cho ra bản danh sách hành khách đi chuyến đó?
Biết là không thể ngủ lại được nữa, anh thay đồ, viết lời nhắn cho Simon và để nó trên bàn bếp rồi ra khỏi nhà.
Gió Đông Bắc đang thôi vào thành phố, cuốn theo trong từng luồng lạnh buốt những cuộn hơi nước thoát ra từ các miệng cống. Andrew dựng cổ áo lên và bắt đầu bước đi trong màn đêm giá buốt. Anh vẫy một chiếc taxi trên đường Hudson và xuống xe trước tòa soạn.
Cuộc họp chốt cho ấn bản đầu tiên của buổi sáng đã kết thúc từ lâu, để lại phòng biên tập trống trải. Andrew chìa thẻ của anh cho người gác đêm và lên tầng. Anh đang bước về phía bàn làm việc của mình thì nhìn thấy thẻ phóng viên của Freddy Olson, bị kẹt dưới bánh lăn của chiếc ghế xoay. Chắc là nó bị rơi ra từ túi quần sau. Andrew nhặt nó lên và thẻ ngay vào máy hủy tài liệu. Anh ấn nút và nhìn chiếc thẻ biến mất dần trong khe máy cùng tiếng lạo xạo của giấy rách khiến anh thấy vui tai. Rồi anh ngồi xuống trước màn hình máy tính.
Andrew nhanh chóng tìm được lại lịch của hai chiếc máy bay đã tan xác trên ngọn núi kia và sự trùng hợp của hai vụ tai nạn khiến anh đặt câu hỏi. Suzie đã tâm sự với anh là cô đi leo núi vào tháng Giêng, đúng một dịp kỷ niệm. Andrew viết vào sổ tay tên chiếc Kanchenjunga và điểm đến cuối cùng mà nó không bao giờ tới được. Rồi anh viết một thư yêu cầu theo đúng mẫu tới công ty hàng không để xin danh sách phi hành đoàn.
Lúc này là 5h sáng tại New York, 15h 30 phút tại New Delhi. Ít phút sau, anh nhận được phúc đáp với yêu cầu anh chuyển cho họ bản copy thẻ phóng viên và lý do cho lời thỉnh cầu, anh đã làm theo ngay lập tức. Andrew chờ trước màn hình máy tính, nhưng người liên lạc với anh hẳn đã đi xin chỉ thị từ cấp trên. Anh nhìn đồng hồ, do dự và rốt cuộc đã nhấc điện thoại lên.
Dolorès Salazar dường như không còn bất ngờ với chuyện bị dựng dậy khi trời còn chưa sáng vì một cuộc gọi từ Andrew.
- Filofax thế nào?
- Anh gọi điện cho tôi lúc 5h rưỡi sáng để hỏi tin tức về con mèo của tôi sao, Stilman? Tôi có thể làm gì cho anh? Dolorès Salazar trả lời, miệng ngáp ngắn ngáp dài.
- Cái việc cô làm giỏi hơn tất thảy mọi người.
- Anh trở lại làm việc rồi đấy à?
- Có thể, điều đó sẽ phụ thuộc vào thứ cô tìm thấy giúp tôi.
- Hãy bắt đầu luôn bằng việc nói cho tôi biết thứ anh đang tìm.
- Một danh sách hành khách.
- Tôi có một đầu mối ở Cục hàng không dân dụng, lúc nào tôi cũng có thể hỏi thử. Số hiệu chuyến bay và ngày khởi hành?
- Air India 101, 24 tháng Giêng 1966, Delhi-Luân Đôn, máy bay bị tan xác trên lãnh thổ Pháp trước khi hạ cánh được xuống sân bay trung chuyển tại Genève. Tôi muốn tìm xem có người nào mang họ Baker lên máy bay không.
- Nhân tiện anh không muốn tôi tìm luôn tên của bếp trưởng tàu Titanic giúp anh sao?
- Như thế nghĩ là cô đồng ý giúp tôi?
Dolorès đã gác máy. Andrew khóa máy tính rồi đi xuống quán cà phê.
*
Dolorès Salazar gọi lại cho Andrew ba tiếng sau đó, mời anh tới văn phòng cô để nói chuyện.
- Cô có nó rồi chứ?
- Tôi từng làm anh thất vọng sao, Stilman? Cô vừa nói vừa chìa cho anh một tập hồ sơ.
- Làm sao cô có được nó trong khoảng thời gian ngắn như vậy?
- Các báo cáo của Văn phòng điều tra tai nạn để chế độ công khai, báo cáo liên quan đến chiếc máy bay anh tìm đã được đăng trên Công báo của Pháp ra ngày 8 tháng Ba 1968. Có thể truy cập vào đó từ bất kỳ máy tính nào. Lẽ ra anh đã có thể tự mình tìm được nó nếu như mắt anh vẫn còn tròng.
- Tôi không biết phải cảm ơn cô thế nào, Dolorès, Andrew vừa đáp vừa bắt đầu xem xét danh sách toàn họ tên.
- Không phải mất công làm gì, tôi đã soi kỹ danh sách đó rồi, không có ai là Baker đi chuyến đó.
- Thế thì tôi đâm vào ngõ cụt rồi, Andrew thở dài.
- Giá mà anh nói cho tôi biết thứ anh đang tìm kiếm thật sự thay vì chưng cái mặt dài thượt này ra.
- Tìm hiểu danh tính thật sự của một người.
- Tôi muốn biết tại sao?
Andrew tiếp tục đọc lướt các trang của tập tài liệu.
- Câu hỏi ngớ ngẩn…, Dolorès vừa càu nhàu vừa nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. Anh đang mất thời gian đấy, tám mươi tám trang không còn một chỗ nào chưa được động tới. Tôi đã đọc trên tàu điện và đọc lại trên đường tới đây. Không có gì lại thường. Nếu anh quan tâm đến học thuyết âm mưu bao phủ quanh tấn thảm kịch này, tôi cũng đã nghiên cứu vấn đề giúp anh, nhưng tôi thấy dường như đó là điểm mù mờ duy nhất.
- Học thuyết gì?
- Trong số hành khách có một người phụ trách chương trình hạt nhân của Ấn Độ. Có nguồn tin nhắc đến chuyện tên lửa bắn ra từ núi, và cả sự nguyền rủa nữa, vì một chiếc máy bay khác của hãng này cũng đã chịu chung số phận mười sáu năm trước đó, và tại chính địa điểm đó.
- Đúng, tôi đã đọc được chuyện đó. Phải nói là sự trùng hợp của hai vụ rơi máy bay khiến ta phải bối rối.
- Quy luật thống kê đôi khi là như vậy đấy. Như một gã nào đó trúng số hai lần và các vụ cá cược sẽ được dàn xếp, tuy nhiên tỷ lệ may mắn của hắn luôn ngang bằng với người khác ở mỗi lần quay số, không phải sao? Liên quan đến chuyến bay Air India 101, tất cả những giả thiết trước đó đều không đứng vững. Thời tiết khi đó rất xấu, nếu người ta muốn thủ tiêu nhân vật kỹ sư hạt nhân đó thì lại đơn giản hơn nhiều so với việc tiêu diệt một chiếc máy bay giữa cơn bão tuyết.
- Còn có hành khách nào đáng quan tâm trên chuyến bay này không?
- Anh định nghĩa giúp tôi cái mà anh gọi là đáng quan tâm?
- Tôi không biết nữa.
- Không có người Mỹ nào. Vài người Ấn, người Anh, một nhà ngoại giao, một số người như anh, như tôi đã không bao giờ tới được nơi cần đến. Thôi được rồi, anh Stilman, giờ anh nói cho tôi biết cái người mang họ Baker đó là ai hoặc là anh hãy để tôi giúp các phóng viên đồng nghiệp của anh đang có những việc nghiêm túc giao cho tôi? Anh chàng Olson bạn anh chẳng hạn, anh ta đang cần tôi giúp.
- Cô nói điều đó chỉ để chọc tức tôi hả, Dolorès?
- Có thể.
- Suzie Baker.
- Cô ta từng đi chuyến đó à?
- Không, nhưng ai đó trong gia đình cô ta hẳn đã có mặt trên chuyến bay đó.
- Cô ta đẹp chứ, cô Suzie Baker ấy?
- Tôi không biết, có thể.
- Không ư, tôi đang mơ sao! Anh đang đóng vai chàng Robin Hood tốt bụng, nhưng anh đây lại không biết. Nếu cô ta nhan sắc tầm tôi, anh hẳn vẫn sẽ dựng một cô đồng nghiệp dậy vào lúc tờ mờ sáng chứ?
- Không do dự chút nào, với lại cô vô cùng quyến rũ mà, Dolorès.
- Tôi xấu xí, và tôi mặc xác chuyện đó, tôi còn nhiều thế mạnh khác trong đời. Công việc của tôi, ví dụ thế. Tôi là một trong những nhân viên tư liệu giỏi nhất nước này. Anh không kéo tôi ra khỏi giường vào sáng sớm để mang bánh sừng bò cho tôi, phải không? Những phụ nữ như tôi không phải kiểu anh thích.
- Thôi nào Dolorès, hãy thôi nói với tôi những điều vô nghĩa đó, cô đẹp lắm.
- Đúng, như món mì spaghetti xốt bò bằm Bolognese. Anh biết tại sao tôi rất quý mến anh không, Stilman? Vì anh không biết nói dối và tôi thấy điều đó đáng quý. Giờ thì anh biến đi, tôi còn nhiều việc phải làm. À, điều cuối cùng này nữa, vừa rồi anh đã hỏi tôi là anh có thể cảm ơn tôi bằng cách nào?
- Mọi điều khiến cô vui.
- Hãy tham gia trở lại các cuộc họp trên phố Perry, anh cần chúng, lá gan của anh cũng vậy.
- Cô vẫn tới đó sao?
- Mỗi tuần một lần. Ba tháng nay tôi không động tới một giọt rượu nào.
- Đừng nói với tôi là cô đã có lời thề nguyện sống điều độ bên giường bệnh của tôi đấy nhé.
- Ý tưởng kỳ cục gì vậy! tôi vui khi thấy anh đã ra viện, Stilman, và còn vui hơn khi có thể làm việc trở lại cùng anh, dù có hơi ngắn ngủi. Tôi nóng lòng muốn thấy anh lao vào một đề tài thật sự. Vậy hẹn anh thứ Bảy, phố Perry nhé?
Andrew lấy tài liệu và đóng cửa phòng làm việc của Dolorès Salazar mà không nói thêm lời nào.
*
Một tiếng sau, một nhân viên tiệm cà phê đặt một giỏ bánh Vienne lên bàn của Dolorès Salazar. Không có lời nhắn nào kèm theo, nhưng cô nhân viên phòng tư liệu không mảy may nghi ngờ nguồn gốc món quà.
*
Cuối buổi sáng, Andrew nhận được một tin nhắn trên điện thoại di động.
“Tôi không gặp anh ở thư viện cả hôm qua lẫn sáng nay. Anh vẫn trong thành phố chứ? Nếu còn, hẹn 12 rưỡi trưa nay tại quán Frankie’s, tôi đang cầm chìa khóa nhà anh”.
Và Andrew trả lời “13h, quán Mary’s”, thuần túy vì thói thích chống đối.
*
Andrew treo áo khoác lên giá. Suzie đang chờ anh ở quầy bar. Người phục vụ dẫn họ tới tận bàn đã đặt. Andrew đặt chình ình lên bàn tập tài liệu mà Dolorès đã giao cho anh.
- Xin lỗi vì đã làm cô phải đợi, anh nói trong lúc ngồi xuống.
- Tôi vừa đến thôi, anh tới đây thường xuyên à?
- Đây là căng tin của tôi.
- Anh là người của những thói quen, điều này khá kỳ lạ đối với dân làm báo.
- Khi không đi công cán, tôi cần sự ổn định.
- Tôi nghi ngờ điều đó đấy, nhưng khá thú vị. Vậy thì, chắc hẳn có hai Stilman, một chuột nhà và một chuột đồng?
- Cảm ơn vì hình ảnh so sánh. Cô muốn gặp tôi là để nói chuyện về thói quen ăn uống của tôi sao?
- Tôi muốn gặp anh là vì niềm hân hạnh được đi cùng anh, để cảm ơn anh vì lòng hào hiệp và để trả chìa khóa nhà cho anh. Nhưng không có gì ép buộc chúng ta cùng ăn trưa, tôi thấy anh có vẻ không được thoải mái.
- Tôi kém ngủ.
- Thêm một lý do để anh trở về nhà, cô vừa nói vừa đưa chìa khóa cho anh.
- Giường nhà tôi êm ái đến thế sao?
- Tôi không biết, tôi ngủ dưới đất.
- Cô sợ chấy rận à?
- Tôi ngủ dưới đất từ khi còn là một cô bé, tôi vẫn luôn ác cảm với giường. Điều đó khiến mẹ tôi phát khùng. Nhưng đến điều trị trên xô pha của bác sĩ tâm lý thì lại quá đắt, rốt cuộc bà ấy cũng phải nhắm mắt làm ngơ.
- Sao lại có chứng sợ giường như thế này?
- Tôi cảm thấy an toàn hơn khi ngủ bên dưới cửa sổ.
- Cô là một con người kỳ lạ, cô Baker ạ. Thế còn thầy hướng dẫn của cô, anh ta cũng ngủ với cô dưới đất sao?
Suzie nhìn Andrew và cam chịu đòn tấn công mà không phản ứng lại.
- Với Shamir thì mọi chuyện lại khác, tôi không thấy sợ nữa, cô đáp, mắt nhìn xuống.
- Điều gì kiến cô khiếp sợ với ý nghĩ ngủ phía trên mặt đất? Tuy nhiên, nếu nghĩ cho kỹ, tôi mà kể cho cô nghe những ác mộng của tôi…
- Còn anh, điều gì khiến anh khiếp sợ đến mức luôn kè kè hàng nóng theo người?
- Người ta đã đâm tôi không khác gì chọc tiết lợn. Sau vụ đó, tôi đã mất đi một quả thận, và cuộc hôn nhân của mình. Cả hai nỗi mất mát đó đều cùng vì một kẻ.
- Kẻ sát hại anh vẫn chạy nhảy ngoài kia?
- Tôi không chết, như cô có thể thấy. Đúng, cái kẻ đã gây ra chuyện đó vẫn được tự do, trong khi chờ đợi một cuộc dẫn độ sẽ không bao giờ xảy ra. Không đủ bằng chứng, tôi là nhân chứng duy nhất có thể vạch mặt kẻ đó. Và nếu có kiện cáo gì, bất cứ luật sư nào cũng sẽ đặt nghi vấn lời nói của tôi và sẽ quy kết tôi hãm hại kẻ đó.
- Động cơ của kẻ đó là gì?
- Tôi đã truy lùng cha của người đó, ông ta sẽ sống nốt những ngày còn lại trong tù, và tôi đã hủy hoại tên tuổi của ông ta.
- Vậy thì, tôi có thể thông cảm cho người đó, danh dự của một gia đình, đó là điều thiêng liêng. Ngay cả khi Ortiz là loại người rác rưởi thì với cô con gái, người cha cũng là điều thiêng liêng.
- Theo tôi biết thì tôi chưa cho cô biết tên ông ta.
- Một người xa lạ cho tôi mượn chìa khóa nhà anh ta, anh không trách cứ tôi vì đã google về anh chứ? Tôi đã đọc bài báo của anh và chuyện xảy đến với anh, chuyện đó đã khiến tôi lạnh hết cả sống lưng.
- Khả năng ứng phó của cô nhanh nhạy đến kinh ngạc đấy. Vậy thì những câu hỏi đó còn ích lợi gì nếu cô đã biết tất cả? - Để nghe câu chuyện từ tận gốc. Đó không phải là việc mà các nhà báo làm hay sao?
- Vì chúng ta đương lúc tâm sự riêng tư, Andrew vừa nói vừa đẩy một tập hồ sơ đến trước mặt Suzie, vị hành khách mà cô tưởng niệm trên độ cao 4.677 mét vào giữa tháng Giêng là ai vậy?
Suzie mở trang bìa và bắt đầu lướt nhìn danh sách hành khách đi chuyến bay đó, không bộc lộ chút ngạc nhiên nào.
- Tôi cho một phụ nữ xa lạ mượn nhà mình, cô sẽ không trách cứ tôi vì đã thực hiện vài tìm kiếm chứ?
- Thế là hòa, cô mỉm cười thừa nhận.
- Cô chưa trả lời câu hỏi của tôi, Andrew nài nỉ, đó là hành khách nào?
- Người này, Suzie vừa đáp vừa trỏ vào tên của nhà ngoại giao Ấn Độ.
- Vậy thì, cuộc hành hương tưởng niệm đó, chính bạn cô là người khởi xướng sao?
- Ý nghĩ này không phải mới lướt qua tâm trí anh đúng không?
- Chính cô đã nói với tôi rằng đó là một dấu mốc kỷ niệm.
- Rất khó để chính miệng Shamir nói với anh chuyện đó, không phải sao?
- Tôi thật sự lấy làm tiếc, Andrew thở dài.
- Với Shamir hay là với linh cảm yếu kém của anh?
- Cả hai, và hãy tin rằng tôi rất chân thành khi nói điều đó. Ít nhất thì anh ấy cũng đã tưởng niệm được người đó trước khi…
- …cắt dây? Đúng, theo một cách nào đó. Khi đặt chân lên ngọn núi đang nguyền rủa ấy, việc tưởng niệm đó đã hoàn thành.
- Còn cô, cô đi theo anh ấy vì tình yêu?
- Anh Stilman, tôi vô cùng biết ơn anh, đây là chìa khóa nhà anh, chúng ta dừng tại đây thôi.
- Cô đã đổi tên sao, cô Baker?
Suzie dường như cứng họng vì câu hỏi của Andrew.
- Chúng ta làm theo kiểu khác đi, Andrew nói tiếp, nếu tôi hỏi cô học trung học ở đâu, đại học ở đâu, hoặc chỉ cần hỏi nơi cô nhận bằng lái xe, cô sẽ có câu trả lời dành cho tôi chứ?
- Trường trung học Emarson ở Boston, rồi trường Fort Kent, bang Maine, trí tò mò của anh được thỏa mãn rồi chứ?
- Ngành gì?
- Anh là cảnh sát hay nhà báo vậy? Suzie nói với giọng mỉa mai lạnh lùng. Tôi học ngành tội phạm học. Và đó hoàn toàn không phải điều anh đang tưởng tượng đâu. Không có cảnh sát siêu hạng, không có thanh tra mặc áo trắng trong các phòng thí nghiệm công nghệ cao. Tội phạm học là chuyên ngành hoàn toàn khác.
- Điều gì thôi thúc cô chọn con đường đó?
- Một niềm hứng thú hình thành từ khi còn nhỏ đối với việc nghiên cứu hành vi của tội phạm, mong muốn được biết hệ thống tư pháp và các bánh xe liên kết luật pháp, cảnh sát và các cơ quan của chính phủ. Tất cả những thứ đó ở nước ta tạo thành một mớ bòng bong khổng lồ, rất phức tạp để hiểu được ai làm gì.
- Vậy là một sáng đẹp trời cô tỉnh dậy và tự nhủ “Này nhé, mình thật sự muốn biết các mối liên hệ giữa Cơ quan tình báo quốc gia, Cơ quan an ninh quốc gia, Cục điều tra liên bang và đồn cảnh sát khu phố nhà mình”?
- Cũng đại khái là như vậy, đúng thế.
- Chương trình học của cô có cả môn mật mã học sao? Anh vừa hỏi vừa chìa cho Suzie cuốn sổ rơi ra từ cuốn sách mà hôm trước cô đã để quên trên bàn đọc ở thư viện.
Suzie chộp lấy cuốn sổ rồi cất vào túi mình.
- Tại sao tôi chẳng tìm được bất cứ thông tin gì liên quan tới những chuyện đó trên Internet? Andrew hỏi tiếp.
- Thế tại sao anh lục lọi quá khứ của tôi trên Internet?
- Bởi vì cô xấu!
- Xin lỗi, anh nói gì?
- Bởi vì cô khiến tôi thấy tò mò.
- Và giờ tôi đã trả lời anh rồi, tôi không còn khiến anh thấy tò mò nữa?
- Học xong cô có hành nghề tội phạm học không?
- Chúa ơi, anh ta không biết mệt mỏi gì cả! Suzie thở dài.
- Cứ để Chúa ở yên chỗ của ngài ấy đi.
- Vì mục đích riêng tư, thuần túy.
- Một vụ đặc biệt à?
- Chuyện gia đình và chỉ liên quan đến gia đình tôi thôi.
- Thôi được, tôi không quấy rầy cô nữa. Tôi đã nhầm, Dolorès nói đúng, đã đến lúc tôi phải để tâm đến bản thân rồi.
- Buồn cười thật, nhìn ảnh cô ấy trên lò sưởi nhà anh, tôi không hình dung được cô ấy lại tên là Dolorès.
- Cô đoán trật lất, Andrew đập lại và bật cười sảng khoái.
- Dù sao thì anh cũng có thể về nhà được rồi, tôi đã cho cô ấy úp mặt vào tường, cô ấy sẽ không nhìn anh nữa. Và tôi cũng mạn phép mua cho anh một bộ chăn ga mới, tôi đã tranh thủ tân trang cho giường nhà anh.
- Cô thật tốt bụng, nhưng không cần thiết đâu.
- Tôi muốn cảm ơn anh vì lòng hiếu khách.
Và trong khi Suzie đang nói, Andrew hình dung cảnh cô đang trong một cửa tiệm để chọn lựa cho anh một bộ chăn ga; và hình ảnh đó, anh không sao lý giải nổi, khiến anh cảm động.
- Mai cô có đến thư viện không?
- Có thể, Suzie đáp.
- Vậy thì, có lẽ hẹn cô này mai, Andrew đứng dậy chào.
*
Khi ra khỏi nhà hàng, Andrew thấy điện thoại di động của anh vừa nhận được thư mới.
Chào anh,
Mặc dù anh không tỏ ra đáng mến với tôi cho lắm, nhưng lòng ái quốc trong tôi bị những lời nói của anh kích động ghê ghớm đã thôi thúc tôi chứng minh cho anh thấy rằng chúng tôi đang sống bên bờ này của Đại Tây Dương, cùng một thế kỷ với anh, và thậm chí có đôi ba lĩnh vực cùng độ tiến bộ. Nền y học mà chúng tôi đang thực hành ở Pháp, cũng như hệ thống y tế của chúng tôi, là một bằng chứng hoàn hảo cho điều tôi đã nói, có thể sẽ gợi cảm hứng cho một bài báo nào đó của anh. Vấn đề an ninh trong bệnh viện chúng tôi không có gì là kém cạnh so với phía các anh, chắc chắn anh sẽ thừa nhận điều này bởi tôi có đính kèm ở thư đây một số bức ảnh do hệ thống camera giám sát bên ngoài bệnh viện chúng tôi chụp lại. Những bức ảnh này chụp vào buổi sáng khi cô bệnh nhân mà anh quan tâm xuất viện. Chắc chắn anh sẽ ưng ý với độ nét của các bức ảnh và một điều là chúng tôi đã lưu giữ chúng cả một năm qua.
Thân mến.
Tiến sĩ Hardouin.
Andrew mở các tệp đính kèm và chờ cho chúng hiển thị.
Anh nhận ra Suzie nằm dài trên một băng ca được ai đó đẩy vào trong một xe cứu thương. Anh zoom vào bức ảnh vì cũng nhận ra luôn gương mặt của người đàn ông mà hôm trước anh đã nhìn thấy ra khỏi quán Ali.
Andrew mỉm cười với ý nghĩ Suzie có đầu óc ranh mãnh ít nhất cũng ngang tầm với anh, và anh chắc chắn ngày mai cô sẽ có mặt tại thư viện.
*
Anh vẫy taxi, gọi cho Dolorès trên đường đi rồi xuống xe trước cửa tòa soạn.
Cô đồng nghiệp đang đợi anh trong phòng làm việc và đã bắt đầu nghiên cứu những bức ảnh mà Andrew gửi chuyển tiếp cho cô.
- Anh sẽ nói cho tôi biết đây là chuyện quái gì chứ, Stilman, hoặc giả tôi sắp chết vì ngu?
- Cô rút ra được điều gì từ chúng chưa?
- Biển số xe và tên công ty sở hữu xe cứu thương hoàn toàn có thể nhìn thấy rõ nét.
- Cô đã liên lạc với bên đó chưa?
- Thật là ngớ ngẩn nếu sau chừng ấy năm anh vẫn hỏi tôi mấy câu kiểu đó.
Andrew đã quen với thái độ mà Dolorès thể hiện khi cô đã nắm được ít nhiều thông tin và khi cô tỏ vẻ thích thú điên cuồng được ngâm giấm nó.
- Một công ty của Na Uy đã đặt hàng họ vận chuyển ca này. Người chủ mà tôi trò chuyện đã xác nhận vụ chuyên chở này, ông ta còn nhớ rất rõ hai khách hàng đó. Không phải ngày nào ông ta cũng đưa một nữ bệnh nhân người Mỹ ra sân bay Genève. Cô gái đó thật sự rất đẹp, ông ta thổ lộ với tôi thế. Ít ra đây cũng là một người không cần phải đi đo kính, đâu phải ai cũng được như thế! Cái gã hộ tống cô nàng Lọ Lem của anh tên là Arnold, ít nhất thì đó cũng là tên mà cô ta xưng với gã đó. Nhưng cô ta chưa bao giờ nhắc đến họ của gã.
Andrew cúi nhìn màn hình máy tính, bức ảnh xem được ở kích thước lớn hơn trên điện thoại di động của anh, giúp anh nhìn rõ hơn từng chi tiết trên khuôn mặt của người đàn ông đó. Không chỉ các đường nét của ông ta khiến anh cảm thấy quen quen, mà cái tên của ông ta cũng không hề xa lạ.
Đột nhiên, Andrew nhận ra ông hàng xóm cùng nghĩa địa.
- Anh trưng ra cái mặt quái quỷ gì đấy, cứ như vừa trông thấy ma ấy.
- Cô không ngờ được mình đoán trúng phóc thế nào đâu, Arnold Knopf!
- Anh quen gã à?
- Tôi không thể nói cho cô biết tại sao, nhưng khả năng lớn là vì đêm nào ông ta cũng xuất hiện trong những cơn ác mộng của tôi.
- Vậy thì, đó là một gã bợm rượu mà anh tỉ thí hằng đêm!
- Không, mà cô cũng thôi chuyện đó đi, Dolorès!
- Chưa, chừng nào anh còn chưa quay lại hội họp với Hội đệ từ Lưu Linh vô danh.
- Không đến mức vô danh đâu, vì chúng ta gặp nhau ở đó mà.
- Nhưng không ai trong tòa soạn biết chuyện, thế nên anh chẳng còn lý do thoái thác nào đâu. Động não đi xem nào, nhất định anh đã gặp gã ở đâu đó.
- Cô đã làm rất tốt. Làm sao cô tìm được cách moi thông tin từ lão chủ của công ty trợ giúp y tế đó?
- Tôi cũng hỏi anh về cách thức anh viết báo nhé? Tôi tự biến mình thành cô ả nhân viên tội nghiệp của một công ty bảo hiểm lỡ đánh mất một tập hồ sơ và cũng sắp sửa mất việc luôn nếu không lập lại được hồ sơ đó trước khi ông giám đốc biết chuyện. Tôi khóc lóc trên điện thoại, nức nở kể với ông ta rằng tôi sẽ lại mất thêm một đêm thức trắng. Người Pháp vốn rất nhạy cảm, anh biết đấy… không, anh chẳng biết gì về chuyện đó đâu.
Andrew khẽ nâng cổ tay Dolorès lên và hôn tay cô.
- Cô biết tôi hơi ít rồi, anh nói.
Andrew lấy mấy bức ảnh mà Dolorès đã in ra rồi quay bước.
- Anh thật sự đang bấn loạn đấy, anh bạn tội nghiệp, Dolorès gọi với theo anh.
- Tôi vẫn còn việc gì để làm à?
- Thế anh nghĩ đến Genève xong là đám nhân viên cấp cứu ném cô ta, cái cô Suzie Baker của anh ấy, vào sọt rác luôn à?
- Không, nhưng tôi biết đoạn sau rồi, cô ta đã được hồi hương về nước.
- Bằng hãng hàng không nào, về thành phố nào và bệnh viện nơi cô ta được điều trị? Anh biết tất cả chuyện đó sao, anh nhà báo?
Andrew kéo chiếc ghế tựa duy nhất trong phòng của Dolorès và ngồi xuống đó.
- Máy bay riêng, và chưa hết đâu, bay thẳng Genève- Boston.
- Với người luôn vờ vĩnh là không có tiền tự sắm cho mình cái đệm mới thì cô ta cũng có điều kiện đấy chứ, Andrew xuýt xoa.
- Anh đã làm gì với đệm nhà cô ta?
- Chẳng làm gì đâu, Dolorès.
- Mà suy cho cùng, chuyện đó chẳng can hệ gì với tôi. Tiền bạc với cô ta hẳn cũng không quan trọng đâu, máy bay đó là của CIA. Tại sao cô ta lại đi du hý bằng máy bay do một cơ quan chính phủ thuê? Tôi vẫn chưa tìm được nguyên nhân và chuyện đó vượt quá khả năng của tôi. Tôi cũng đã liên hệ với tất cả các bệnh viện ở Boston và ngoại vi Boston, tuyệt không đâu viết về cô Suzie Baker trong số các hồ sơ bệnh án. Giờ là đất diễn của anh đấy, anh bạn. Mà nếu có muốn soi đường chỉ lối cho tôi thì đừng có nhìn, công tắc ở cửa phòng tôi đấy.
Andrew rối bời trong lòng sau cuộc trò chuyện với Dolorès. Anh sang phòng làm việc của mình và hoãn buổi dọn về nhà vào ngày hôm sau. Quan trọng gì đâu, anh có thể qua đêm tại văn phòng.
Điều khiến anh bối rối, đó là anh đã thuộc lòng diễn biến cơn ác mộng đó, nhưng lần nào cũng để mặc lòng mình sửng sốt, khi anh nhìn thấy cô bước xuống từ chiếc break và tiến lại phía anh.
Tại sao cái đầu óc gàn dở của anh lại để mặc anh không nhận ra điều đó ngay, còn khi thức dậy anh lại bị ám ảnh bởi cái điều cô đã đến làm trên nấm mồ anh?
Lò xo dưới xô pha khiến anh đau lưng muốn chết và rốt cuộc anh phải thừa nhận rằng có lẽ đã đến lúc trở về nhà.
Khi cho Suzie Baker mượn phòng ngủ, anh đã hy vọng chuyến lưu lại ngắn ngày của cô sẽ làm đảo lộn ký ức về nơi đó, rằng mùi hương của cô sẽ thấm lại đó, đồng thời xóa hết một mùi hương khác. Có lẽ không thể nào diễn tả chính xác điều anh nghĩ trong đầu, nhưng nó đại khái là như vậy.
Anh nghe tiếng Simon ngáy đều đều phía bên kia tường phòng. Anh lặng lẽ đứng dậy và lấy một chai Fernet mà anh giấu trong một bình hoa. Cánh cửa tủ lạnh kêu cót két rõ thành tiếng, vậy nên anh từ bỏ việc lấy Coca, và tu từng ngụm lớn. Món đồ uống này có vẻ đắng hơn, nhưng chất cồn khiến anh thấy dễ chịu.
Anh tới ngồi trên thành cửa sổ và suy nghĩ. Có gì đó khiến anh bất an.
Cuốn sổ của anh đang nằm trên bàn làm việc của Simon. Anh mở hé cửa phòng và chờ cho mắt mình quen với bóng tối.
Simon nói mớ trong lúc ngủ. Andrew rón rén bước khẽ như mèo. Trong lúc tiến lại gần chiếc bàn, anh nghe tiếng cậu bạn lẩm bẩm rõ thành tiếng: “Anh sẽ mãi yêu em, Kathy Steinbeck”.
Và Andrew đành cắn chặt lưỡi để khỏi phì cười.
Anh mò mẫm tìm cuốn sổ, nhón lấy nó bằng đầu ngón tay rồi lại len lén đi ra hệt như lúc bước vào.
Trở lại phòng khách, anh chăm chú đọc lại các ghi chép của mình và rốt cuộc đã hiểu điều mà anh bỏ sót. Chiếc máy bay Suzie Baker đã nói với anh là chiếc nào và làm sao kiếm cho ra bản danh sách hành khách đi chuyến đó?
Biết là không thể ngủ lại được nữa, anh thay đồ, viết lời nhắn cho Simon và để nó trên bàn bếp rồi ra khỏi nhà.
Gió Đông Bắc đang thôi vào thành phố, cuốn theo trong từng luồng lạnh buốt những cuộn hơi nước thoát ra từ các miệng cống. Andrew dựng cổ áo lên và bắt đầu bước đi trong màn đêm giá buốt. Anh vẫy một chiếc taxi trên đường Hudson và xuống xe trước tòa soạn.
Cuộc họp chốt cho ấn bản đầu tiên của buổi sáng đã kết thúc từ lâu, để lại phòng biên tập trống trải. Andrew chìa thẻ của anh cho người gác đêm và lên tầng. Anh đang bước về phía bàn làm việc của mình thì nhìn thấy thẻ phóng viên của Freddy Olson, bị kẹt dưới bánh lăn của chiếc ghế xoay. Chắc là nó bị rơi ra từ túi quần sau. Andrew nhặt nó lên và thẻ ngay vào máy hủy tài liệu. Anh ấn nút và nhìn chiếc thẻ biến mất dần trong khe máy cùng tiếng lạo xạo của giấy rách khiến anh thấy vui tai. Rồi anh ngồi xuống trước màn hình máy tính.
Andrew nhanh chóng tìm được lại lịch của hai chiếc máy bay đã tan xác trên ngọn núi kia và sự trùng hợp của hai vụ tai nạn khiến anh đặt câu hỏi. Suzie đã tâm sự với anh là cô đi leo núi vào tháng Giêng, đúng một dịp kỷ niệm. Andrew viết vào sổ tay tên chiếc Kanchenjunga và điểm đến cuối cùng mà nó không bao giờ tới được. Rồi anh viết một thư yêu cầu theo đúng mẫu tới công ty hàng không để xin danh sách phi hành đoàn.
Lúc này là 5h sáng tại New York, 15h 30 phút tại New Delhi. Ít phút sau, anh nhận được phúc đáp với yêu cầu anh chuyển cho họ bản copy thẻ phóng viên và lý do cho lời thỉnh cầu, anh đã làm theo ngay lập tức. Andrew chờ trước màn hình máy tính, nhưng người liên lạc với anh hẳn đã đi xin chỉ thị từ cấp trên. Anh nhìn đồng hồ, do dự và rốt cuộc đã nhấc điện thoại lên.
Dolorès Salazar dường như không còn bất ngờ với chuyện bị dựng dậy khi trời còn chưa sáng vì một cuộc gọi từ Andrew.
- Filofax thế nào?
- Anh gọi điện cho tôi lúc 5h rưỡi sáng để hỏi tin tức về con mèo của tôi sao, Stilman? Tôi có thể làm gì cho anh? Dolorès Salazar trả lời, miệng ngáp ngắn ngáp dài.
- Cái việc cô làm giỏi hơn tất thảy mọi người.
- Anh trở lại làm việc rồi đấy à?
- Có thể, điều đó sẽ phụ thuộc vào thứ cô tìm thấy giúp tôi.
- Hãy bắt đầu luôn bằng việc nói cho tôi biết thứ anh đang tìm.
- Một danh sách hành khách.
- Tôi có một đầu mối ở Cục hàng không dân dụng, lúc nào tôi cũng có thể hỏi thử. Số hiệu chuyến bay và ngày khởi hành?
- Air India 101, 24 tháng Giêng 1966, Delhi-Luân Đôn, máy bay bị tan xác trên lãnh thổ Pháp trước khi hạ cánh được xuống sân bay trung chuyển tại Genève. Tôi muốn tìm xem có người nào mang họ Baker lên máy bay không.
- Nhân tiện anh không muốn tôi tìm luôn tên của bếp trưởng tàu Titanic giúp anh sao?
- Như thế nghĩ là cô đồng ý giúp tôi?
Dolorès đã gác máy. Andrew khóa máy tính rồi đi xuống quán cà phê.
*
Dolorès Salazar gọi lại cho Andrew ba tiếng sau đó, mời anh tới văn phòng cô để nói chuyện.
- Cô có nó rồi chứ?
- Tôi từng làm anh thất vọng sao, Stilman? Cô vừa nói vừa chìa cho anh một tập hồ sơ.
- Làm sao cô có được nó trong khoảng thời gian ngắn như vậy?
- Các báo cáo của Văn phòng điều tra tai nạn để chế độ công khai, báo cáo liên quan đến chiếc máy bay anh tìm đã được đăng trên Công báo của Pháp ra ngày 8 tháng Ba 1968. Có thể truy cập vào đó từ bất kỳ máy tính nào. Lẽ ra anh đã có thể tự mình tìm được nó nếu như mắt anh vẫn còn tròng.
- Tôi không biết phải cảm ơn cô thế nào, Dolorès, Andrew vừa đáp vừa bắt đầu xem xét danh sách toàn họ tên.
- Không phải mất công làm gì, tôi đã soi kỹ danh sách đó rồi, không có ai là Baker đi chuyến đó.
- Thế thì tôi đâm vào ngõ cụt rồi, Andrew thở dài.
- Giá mà anh nói cho tôi biết thứ anh đang tìm kiếm thật sự thay vì chưng cái mặt dài thượt này ra.
- Tìm hiểu danh tính thật sự của một người.
- Tôi muốn biết tại sao?
Andrew tiếp tục đọc lướt các trang của tập tài liệu.
- Câu hỏi ngớ ngẩn…, Dolorès vừa càu nhàu vừa nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. Anh đang mất thời gian đấy, tám mươi tám trang không còn một chỗ nào chưa được động tới. Tôi đã đọc trên tàu điện và đọc lại trên đường tới đây. Không có gì lại thường. Nếu anh quan tâm đến học thuyết âm mưu bao phủ quanh tấn thảm kịch này, tôi cũng đã nghiên cứu vấn đề giúp anh, nhưng tôi thấy dường như đó là điểm mù mờ duy nhất.
- Học thuyết gì?
- Trong số hành khách có một người phụ trách chương trình hạt nhân của Ấn Độ. Có nguồn tin nhắc đến chuyện tên lửa bắn ra từ núi, và cả sự nguyền rủa nữa, vì một chiếc máy bay khác của hãng này cũng đã chịu chung số phận mười sáu năm trước đó, và tại chính địa điểm đó.
- Đúng, tôi đã đọc được chuyện đó. Phải nói là sự trùng hợp của hai vụ rơi máy bay khiến ta phải bối rối.
- Quy luật thống kê đôi khi là như vậy đấy. Như một gã nào đó trúng số hai lần và các vụ cá cược sẽ được dàn xếp, tuy nhiên tỷ lệ may mắn của hắn luôn ngang bằng với người khác ở mỗi lần quay số, không phải sao? Liên quan đến chuyến bay Air India 101, tất cả những giả thiết trước đó đều không đứng vững. Thời tiết khi đó rất xấu, nếu người ta muốn thủ tiêu nhân vật kỹ sư hạt nhân đó thì lại đơn giản hơn nhiều so với việc tiêu diệt một chiếc máy bay giữa cơn bão tuyết.
- Còn có hành khách nào đáng quan tâm trên chuyến bay này không?
- Anh định nghĩa giúp tôi cái mà anh gọi là đáng quan tâm?
- Tôi không biết nữa.
- Không có người Mỹ nào. Vài người Ấn, người Anh, một nhà ngoại giao, một số người như anh, như tôi đã không bao giờ tới được nơi cần đến. Thôi được rồi, anh Stilman, giờ anh nói cho tôi biết cái người mang họ Baker đó là ai hoặc là anh hãy để tôi giúp các phóng viên đồng nghiệp của anh đang có những việc nghiêm túc giao cho tôi? Anh chàng Olson bạn anh chẳng hạn, anh ta đang cần tôi giúp.
- Cô nói điều đó chỉ để chọc tức tôi hả, Dolorès?
- Có thể.
- Suzie Baker.
- Cô ta từng đi chuyến đó à?
- Không, nhưng ai đó trong gia đình cô ta hẳn đã có mặt trên chuyến bay đó.
- Cô ta đẹp chứ, cô Suzie Baker ấy?
- Tôi không biết, có thể.
- Không ư, tôi đang mơ sao! Anh đang đóng vai chàng Robin Hood tốt bụng, nhưng anh đây lại không biết. Nếu cô ta nhan sắc tầm tôi, anh hẳn vẫn sẽ dựng một cô đồng nghiệp dậy vào lúc tờ mờ sáng chứ?
- Không do dự chút nào, với lại cô vô cùng quyến rũ mà, Dolorès.
- Tôi xấu xí, và tôi mặc xác chuyện đó, tôi còn nhiều thế mạnh khác trong đời. Công việc của tôi, ví dụ thế. Tôi là một trong những nhân viên tư liệu giỏi nhất nước này. Anh không kéo tôi ra khỏi giường vào sáng sớm để mang bánh sừng bò cho tôi, phải không? Những phụ nữ như tôi không phải kiểu anh thích.
- Thôi nào Dolorès, hãy thôi nói với tôi những điều vô nghĩa đó, cô đẹp lắm.
- Đúng, như món mì spaghetti xốt bò bằm Bolognese. Anh biết tại sao tôi rất quý mến anh không, Stilman? Vì anh không biết nói dối và tôi thấy điều đó đáng quý. Giờ thì anh biến đi, tôi còn nhiều việc phải làm. À, điều cuối cùng này nữa, vừa rồi anh đã hỏi tôi là anh có thể cảm ơn tôi bằng cách nào?
- Mọi điều khiến cô vui.
- Hãy tham gia trở lại các cuộc họp trên phố Perry, anh cần chúng, lá gan của anh cũng vậy.
- Cô vẫn tới đó sao?
- Mỗi tuần một lần. Ba tháng nay tôi không động tới một giọt rượu nào.
- Đừng nói với tôi là cô đã có lời thề nguyện sống điều độ bên giường bệnh của tôi đấy nhé.
- Ý tưởng kỳ cục gì vậy! tôi vui khi thấy anh đã ra viện, Stilman, và còn vui hơn khi có thể làm việc trở lại cùng anh, dù có hơi ngắn ngủi. Tôi nóng lòng muốn thấy anh lao vào một đề tài thật sự. Vậy hẹn anh thứ Bảy, phố Perry nhé?
Andrew lấy tài liệu và đóng cửa phòng làm việc của Dolorès Salazar mà không nói thêm lời nào.
*
Một tiếng sau, một nhân viên tiệm cà phê đặt một giỏ bánh Vienne lên bàn của Dolorès Salazar. Không có lời nhắn nào kèm theo, nhưng cô nhân viên phòng tư liệu không mảy may nghi ngờ nguồn gốc món quà.
*
Cuối buổi sáng, Andrew nhận được một tin nhắn trên điện thoại di động.
“Tôi không gặp anh ở thư viện cả hôm qua lẫn sáng nay. Anh vẫn trong thành phố chứ? Nếu còn, hẹn 12 rưỡi trưa nay tại quán Frankie’s, tôi đang cầm chìa khóa nhà anh”.
Và Andrew trả lời “13h, quán Mary’s”, thuần túy vì thói thích chống đối.
*
Andrew treo áo khoác lên giá. Suzie đang chờ anh ở quầy bar. Người phục vụ dẫn họ tới tận bàn đã đặt. Andrew đặt chình ình lên bàn tập tài liệu mà Dolorès đã giao cho anh.
- Xin lỗi vì đã làm cô phải đợi, anh nói trong lúc ngồi xuống.
- Tôi vừa đến thôi, anh tới đây thường xuyên à?
- Đây là căng tin của tôi.
- Anh là người của những thói quen, điều này khá kỳ lạ đối với dân làm báo.
- Khi không đi công cán, tôi cần sự ổn định.
- Tôi nghi ngờ điều đó đấy, nhưng khá thú vị. Vậy thì, chắc hẳn có hai Stilman, một chuột nhà và một chuột đồng?
- Cảm ơn vì hình ảnh so sánh. Cô muốn gặp tôi là để nói chuyện về thói quen ăn uống của tôi sao?
- Tôi muốn gặp anh là vì niềm hân hạnh được đi cùng anh, để cảm ơn anh vì lòng hào hiệp và để trả chìa khóa nhà cho anh. Nhưng không có gì ép buộc chúng ta cùng ăn trưa, tôi thấy anh có vẻ không được thoải mái.
- Tôi kém ngủ.
- Thêm một lý do để anh trở về nhà, cô vừa nói vừa đưa chìa khóa cho anh.
- Giường nhà tôi êm ái đến thế sao?
- Tôi không biết, tôi ngủ dưới đất.
- Cô sợ chấy rận à?
- Tôi ngủ dưới đất từ khi còn là một cô bé, tôi vẫn luôn ác cảm với giường. Điều đó khiến mẹ tôi phát khùng. Nhưng đến điều trị trên xô pha của bác sĩ tâm lý thì lại quá đắt, rốt cuộc bà ấy cũng phải nhắm mắt làm ngơ.
- Sao lại có chứng sợ giường như thế này?
- Tôi cảm thấy an toàn hơn khi ngủ bên dưới cửa sổ.
- Cô là một con người kỳ lạ, cô Baker ạ. Thế còn thầy hướng dẫn của cô, anh ta cũng ngủ với cô dưới đất sao?
Suzie nhìn Andrew và cam chịu đòn tấn công mà không phản ứng lại.
- Với Shamir thì mọi chuyện lại khác, tôi không thấy sợ nữa, cô đáp, mắt nhìn xuống.
- Điều gì kiến cô khiếp sợ với ý nghĩ ngủ phía trên mặt đất? Tuy nhiên, nếu nghĩ cho kỹ, tôi mà kể cho cô nghe những ác mộng của tôi…
- Còn anh, điều gì khiến anh khiếp sợ đến mức luôn kè kè hàng nóng theo người?
- Người ta đã đâm tôi không khác gì chọc tiết lợn. Sau vụ đó, tôi đã mất đi một quả thận, và cuộc hôn nhân của mình. Cả hai nỗi mất mát đó đều cùng vì một kẻ.
- Kẻ sát hại anh vẫn chạy nhảy ngoài kia?
- Tôi không chết, như cô có thể thấy. Đúng, cái kẻ đã gây ra chuyện đó vẫn được tự do, trong khi chờ đợi một cuộc dẫn độ sẽ không bao giờ xảy ra. Không đủ bằng chứng, tôi là nhân chứng duy nhất có thể vạch mặt kẻ đó. Và nếu có kiện cáo gì, bất cứ luật sư nào cũng sẽ đặt nghi vấn lời nói của tôi và sẽ quy kết tôi hãm hại kẻ đó.
- Động cơ của kẻ đó là gì?
- Tôi đã truy lùng cha của người đó, ông ta sẽ sống nốt những ngày còn lại trong tù, và tôi đã hủy hoại tên tuổi của ông ta.
- Vậy thì, tôi có thể thông cảm cho người đó, danh dự của một gia đình, đó là điều thiêng liêng. Ngay cả khi Ortiz là loại người rác rưởi thì với cô con gái, người cha cũng là điều thiêng liêng.
- Theo tôi biết thì tôi chưa cho cô biết tên ông ta.
- Một người xa lạ cho tôi mượn chìa khóa nhà anh ta, anh không trách cứ tôi vì đã google về anh chứ? Tôi đã đọc bài báo của anh và chuyện xảy đến với anh, chuyện đó đã khiến tôi lạnh hết cả sống lưng.
- Khả năng ứng phó của cô nhanh nhạy đến kinh ngạc đấy. Vậy thì những câu hỏi đó còn ích lợi gì nếu cô đã biết tất cả? - Để nghe câu chuyện từ tận gốc. Đó không phải là việc mà các nhà báo làm hay sao?
- Vì chúng ta đương lúc tâm sự riêng tư, Andrew vừa nói vừa đẩy một tập hồ sơ đến trước mặt Suzie, vị hành khách mà cô tưởng niệm trên độ cao 4.677 mét vào giữa tháng Giêng là ai vậy?
Suzie mở trang bìa và bắt đầu lướt nhìn danh sách hành khách đi chuyến bay đó, không bộc lộ chút ngạc nhiên nào.
- Tôi cho một phụ nữ xa lạ mượn nhà mình, cô sẽ không trách cứ tôi vì đã thực hiện vài tìm kiếm chứ?
- Thế là hòa, cô mỉm cười thừa nhận.
- Cô chưa trả lời câu hỏi của tôi, Andrew nài nỉ, đó là hành khách nào?
- Người này, Suzie vừa đáp vừa trỏ vào tên của nhà ngoại giao Ấn Độ.
- Vậy thì, cuộc hành hương tưởng niệm đó, chính bạn cô là người khởi xướng sao?
- Ý nghĩ này không phải mới lướt qua tâm trí anh đúng không?
- Chính cô đã nói với tôi rằng đó là một dấu mốc kỷ niệm.
- Rất khó để chính miệng Shamir nói với anh chuyện đó, không phải sao?
- Tôi thật sự lấy làm tiếc, Andrew thở dài.
- Với Shamir hay là với linh cảm yếu kém của anh?
- Cả hai, và hãy tin rằng tôi rất chân thành khi nói điều đó. Ít nhất thì anh ấy cũng đã tưởng niệm được người đó trước khi…
- …cắt dây? Đúng, theo một cách nào đó. Khi đặt chân lên ngọn núi đang nguyền rủa ấy, việc tưởng niệm đó đã hoàn thành.
- Còn cô, cô đi theo anh ấy vì tình yêu?
- Anh Stilman, tôi vô cùng biết ơn anh, đây là chìa khóa nhà anh, chúng ta dừng tại đây thôi.
- Cô đã đổi tên sao, cô Baker?
Suzie dường như cứng họng vì câu hỏi của Andrew.
- Chúng ta làm theo kiểu khác đi, Andrew nói tiếp, nếu tôi hỏi cô học trung học ở đâu, đại học ở đâu, hoặc chỉ cần hỏi nơi cô nhận bằng lái xe, cô sẽ có câu trả lời dành cho tôi chứ?
- Trường trung học Emarson ở Boston, rồi trường Fort Kent, bang Maine, trí tò mò của anh được thỏa mãn rồi chứ?
- Ngành gì?
- Anh là cảnh sát hay nhà báo vậy? Suzie nói với giọng mỉa mai lạnh lùng. Tôi học ngành tội phạm học. Và đó hoàn toàn không phải điều anh đang tưởng tượng đâu. Không có cảnh sát siêu hạng, không có thanh tra mặc áo trắng trong các phòng thí nghiệm công nghệ cao. Tội phạm học là chuyên ngành hoàn toàn khác.
- Điều gì thôi thúc cô chọn con đường đó?
- Một niềm hứng thú hình thành từ khi còn nhỏ đối với việc nghiên cứu hành vi của tội phạm, mong muốn được biết hệ thống tư pháp và các bánh xe liên kết luật pháp, cảnh sát và các cơ quan của chính phủ. Tất cả những thứ đó ở nước ta tạo thành một mớ bòng bong khổng lồ, rất phức tạp để hiểu được ai làm gì.
- Vậy là một sáng đẹp trời cô tỉnh dậy và tự nhủ “Này nhé, mình thật sự muốn biết các mối liên hệ giữa Cơ quan tình báo quốc gia, Cơ quan an ninh quốc gia, Cục điều tra liên bang và đồn cảnh sát khu phố nhà mình”?
- Cũng đại khái là như vậy, đúng thế.
- Chương trình học của cô có cả môn mật mã học sao? Anh vừa hỏi vừa chìa cho Suzie cuốn sổ rơi ra từ cuốn sách mà hôm trước cô đã để quên trên bàn đọc ở thư viện.
Suzie chộp lấy cuốn sổ rồi cất vào túi mình.
- Tại sao tôi chẳng tìm được bất cứ thông tin gì liên quan tới những chuyện đó trên Internet? Andrew hỏi tiếp.
- Thế tại sao anh lục lọi quá khứ của tôi trên Internet?
- Bởi vì cô xấu!
- Xin lỗi, anh nói gì?
- Bởi vì cô khiến tôi thấy tò mò.
- Và giờ tôi đã trả lời anh rồi, tôi không còn khiến anh thấy tò mò nữa?
- Học xong cô có hành nghề tội phạm học không?
- Chúa ơi, anh ta không biết mệt mỏi gì cả! Suzie thở dài.
- Cứ để Chúa ở yên chỗ của ngài ấy đi.
- Vì mục đích riêng tư, thuần túy.
- Một vụ đặc biệt à?
- Chuyện gia đình và chỉ liên quan đến gia đình tôi thôi.
- Thôi được, tôi không quấy rầy cô nữa. Tôi đã nhầm, Dolorès nói đúng, đã đến lúc tôi phải để tâm đến bản thân rồi.
- Buồn cười thật, nhìn ảnh cô ấy trên lò sưởi nhà anh, tôi không hình dung được cô ấy lại tên là Dolorès.
- Cô đoán trật lất, Andrew đập lại và bật cười sảng khoái.
- Dù sao thì anh cũng có thể về nhà được rồi, tôi đã cho cô ấy úp mặt vào tường, cô ấy sẽ không nhìn anh nữa. Và tôi cũng mạn phép mua cho anh một bộ chăn ga mới, tôi đã tranh thủ tân trang cho giường nhà anh.
- Cô thật tốt bụng, nhưng không cần thiết đâu.
- Tôi muốn cảm ơn anh vì lòng hiếu khách.
Và trong khi Suzie đang nói, Andrew hình dung cảnh cô đang trong một cửa tiệm để chọn lựa cho anh một bộ chăn ga; và hình ảnh đó, anh không sao lý giải nổi, khiến anh cảm động.
- Mai cô có đến thư viện không?
- Có thể, Suzie đáp.
- Vậy thì, có lẽ hẹn cô này mai, Andrew đứng dậy chào.
*
Khi ra khỏi nhà hàng, Andrew thấy điện thoại di động của anh vừa nhận được thư mới.
Chào anh,
Mặc dù anh không tỏ ra đáng mến với tôi cho lắm, nhưng lòng ái quốc trong tôi bị những lời nói của anh kích động ghê ghớm đã thôi thúc tôi chứng minh cho anh thấy rằng chúng tôi đang sống bên bờ này của Đại Tây Dương, cùng một thế kỷ với anh, và thậm chí có đôi ba lĩnh vực cùng độ tiến bộ. Nền y học mà chúng tôi đang thực hành ở Pháp, cũng như hệ thống y tế của chúng tôi, là một bằng chứng hoàn hảo cho điều tôi đã nói, có thể sẽ gợi cảm hứng cho một bài báo nào đó của anh. Vấn đề an ninh trong bệnh viện chúng tôi không có gì là kém cạnh so với phía các anh, chắc chắn anh sẽ thừa nhận điều này bởi tôi có đính kèm ở thư đây một số bức ảnh do hệ thống camera giám sát bên ngoài bệnh viện chúng tôi chụp lại. Những bức ảnh này chụp vào buổi sáng khi cô bệnh nhân mà anh quan tâm xuất viện. Chắc chắn anh sẽ ưng ý với độ nét của các bức ảnh và một điều là chúng tôi đã lưu giữ chúng cả một năm qua.
Thân mến.
Tiến sĩ Hardouin.
Andrew mở các tệp đính kèm và chờ cho chúng hiển thị.
Anh nhận ra Suzie nằm dài trên một băng ca được ai đó đẩy vào trong một xe cứu thương. Anh zoom vào bức ảnh vì cũng nhận ra luôn gương mặt của người đàn ông mà hôm trước anh đã nhìn thấy ra khỏi quán Ali.
Andrew mỉm cười với ý nghĩ Suzie có đầu óc ranh mãnh ít nhất cũng ngang tầm với anh, và anh chắc chắn ngày mai cô sẽ có mặt tại thư viện.
*
Anh vẫy taxi, gọi cho Dolorès trên đường đi rồi xuống xe trước cửa tòa soạn.
Cô đồng nghiệp đang đợi anh trong phòng làm việc và đã bắt đầu nghiên cứu những bức ảnh mà Andrew gửi chuyển tiếp cho cô.
- Anh sẽ nói cho tôi biết đây là chuyện quái gì chứ, Stilman, hoặc giả tôi sắp chết vì ngu?
- Cô rút ra được điều gì từ chúng chưa?
- Biển số xe và tên công ty sở hữu xe cứu thương hoàn toàn có thể nhìn thấy rõ nét.
- Cô đã liên lạc với bên đó chưa?
- Thật là ngớ ngẩn nếu sau chừng ấy năm anh vẫn hỏi tôi mấy câu kiểu đó.
Andrew đã quen với thái độ mà Dolorès thể hiện khi cô đã nắm được ít nhiều thông tin và khi cô tỏ vẻ thích thú điên cuồng được ngâm giấm nó.
- Một công ty của Na Uy đã đặt hàng họ vận chuyển ca này. Người chủ mà tôi trò chuyện đã xác nhận vụ chuyên chở này, ông ta còn nhớ rất rõ hai khách hàng đó. Không phải ngày nào ông ta cũng đưa một nữ bệnh nhân người Mỹ ra sân bay Genève. Cô gái đó thật sự rất đẹp, ông ta thổ lộ với tôi thế. Ít ra đây cũng là một người không cần phải đi đo kính, đâu phải ai cũng được như thế! Cái gã hộ tống cô nàng Lọ Lem của anh tên là Arnold, ít nhất thì đó cũng là tên mà cô ta xưng với gã đó. Nhưng cô ta chưa bao giờ nhắc đến họ của gã.
Andrew cúi nhìn màn hình máy tính, bức ảnh xem được ở kích thước lớn hơn trên điện thoại di động của anh, giúp anh nhìn rõ hơn từng chi tiết trên khuôn mặt của người đàn ông đó. Không chỉ các đường nét của ông ta khiến anh cảm thấy quen quen, mà cái tên của ông ta cũng không hề xa lạ.
Đột nhiên, Andrew nhận ra ông hàng xóm cùng nghĩa địa.
- Anh trưng ra cái mặt quái quỷ gì đấy, cứ như vừa trông thấy ma ấy.
- Cô không ngờ được mình đoán trúng phóc thế nào đâu, Arnold Knopf!
- Anh quen gã à?
- Tôi không thể nói cho cô biết tại sao, nhưng khả năng lớn là vì đêm nào ông ta cũng xuất hiện trong những cơn ác mộng của tôi.
- Vậy thì, đó là một gã bợm rượu mà anh tỉ thí hằng đêm!
- Không, mà cô cũng thôi chuyện đó đi, Dolorès!
- Chưa, chừng nào anh còn chưa quay lại hội họp với Hội đệ từ Lưu Linh vô danh.
- Không đến mức vô danh đâu, vì chúng ta gặp nhau ở đó mà.
- Nhưng không ai trong tòa soạn biết chuyện, thế nên anh chẳng còn lý do thoái thác nào đâu. Động não đi xem nào, nhất định anh đã gặp gã ở đâu đó.
- Cô đã làm rất tốt. Làm sao cô tìm được cách moi thông tin từ lão chủ của công ty trợ giúp y tế đó?
- Tôi cũng hỏi anh về cách thức anh viết báo nhé? Tôi tự biến mình thành cô ả nhân viên tội nghiệp của một công ty bảo hiểm lỡ đánh mất một tập hồ sơ và cũng sắp sửa mất việc luôn nếu không lập lại được hồ sơ đó trước khi ông giám đốc biết chuyện. Tôi khóc lóc trên điện thoại, nức nở kể với ông ta rằng tôi sẽ lại mất thêm một đêm thức trắng. Người Pháp vốn rất nhạy cảm, anh biết đấy… không, anh chẳng biết gì về chuyện đó đâu.
Andrew khẽ nâng cổ tay Dolorès lên và hôn tay cô.
- Cô biết tôi hơi ít rồi, anh nói.
Andrew lấy mấy bức ảnh mà Dolorès đã in ra rồi quay bước.
- Anh thật sự đang bấn loạn đấy, anh bạn tội nghiệp, Dolorès gọi với theo anh.
- Tôi vẫn còn việc gì để làm à?
- Thế anh nghĩ đến Genève xong là đám nhân viên cấp cứu ném cô ta, cái cô Suzie Baker của anh ấy, vào sọt rác luôn à?
- Không, nhưng tôi biết đoạn sau rồi, cô ta đã được hồi hương về nước.
- Bằng hãng hàng không nào, về thành phố nào và bệnh viện nơi cô ta được điều trị? Anh biết tất cả chuyện đó sao, anh nhà báo?
Andrew kéo chiếc ghế tựa duy nhất trong phòng của Dolorès và ngồi xuống đó.
- Máy bay riêng, và chưa hết đâu, bay thẳng Genève- Boston.
- Với người luôn vờ vĩnh là không có tiền tự sắm cho mình cái đệm mới thì cô ta cũng có điều kiện đấy chứ, Andrew xuýt xoa.
- Anh đã làm gì với đệm nhà cô ta?
- Chẳng làm gì đâu, Dolorès.
- Mà suy cho cùng, chuyện đó chẳng can hệ gì với tôi. Tiền bạc với cô ta hẳn cũng không quan trọng đâu, máy bay đó là của CIA. Tại sao cô ta lại đi du hý bằng máy bay do một cơ quan chính phủ thuê? Tôi vẫn chưa tìm được nguyên nhân và chuyện đó vượt quá khả năng của tôi. Tôi cũng đã liên hệ với tất cả các bệnh viện ở Boston và ngoại vi Boston, tuyệt không đâu viết về cô Suzie Baker trong số các hồ sơ bệnh án. Giờ là đất diễn của anh đấy, anh bạn. Mà nếu có muốn soi đường chỉ lối cho tôi thì đừng có nhìn, công tắc ở cửa phòng tôi đấy.
Andrew rối bời trong lòng sau cuộc trò chuyện với Dolorès. Anh sang phòng làm việc của mình và hoãn buổi dọn về nhà vào ngày hôm sau. Quan trọng gì đâu, anh có thể qua đêm tại văn phòng.
/17
|