Tôi và Mặt dày nhớ lại lúc đi qua động Ngư Khốc, chúng tôi có nhắc tới Hồng Quân lão tổ là một con giun đất thành tinh, như vậy cho thấy chưa hiện nguyên hình thì là tiên, hiện nguyên hình rồi là yêu quái, tất cả đều do cách nhìn của mình mà thôi. Thần tiên trong thôn Thiên Cổ Dị Đế này liệu có chân không? Thân hình thật của cô ấy là gì?
Mặt dày nói: Cô ta dẫn chúng ta tới đây chắc chẳng có ý tốt gì đâu, chờ tới được nơi tế lễ sẽ hiện nguyên hình, rồi ăn thịt người!
Tôi nói, Điền Mộ Thanh cũng không có ý giấu chúng tôi, tôi chỉ nghĩ không ra làm sao mà cô ấy có thể thoát ra khỏi thôn, tại sao trông cô lại giống như người bình thường, cô về lại nơi này là để đưa thôn làng về nơi Đất quỷ sao?
Tôi muốn trong lúc mình còn sống phải hỏi cho rõ ràng, nhưng Điền Mộ Thanh đi quá nhanh, chớp mắt đã đi khuất trong đám sương mù, những bức tượng đá hai bên thần đạo vẫn nối tiếp không dứt mà bóng Điền Mộ Thanh thì đã không thấy đâu.
Mặt dày hỏi: Cậu vẫn còn đi thèo à? Nếu cô ta đúng là ma quỷ thì lúc đó phải tính sao?
Tôi nói: Mấy lời nói lúc trong sơn động tuy là không sai, nhưng sau đó tôi có nghĩ lại, Hồng Quân lão tổ là một con giun đất thì đã sao? Đừng quên con người cũng là do khỉ biến thành, trong chuyện này thì chẳng có ai có tư cách nói ai cả.
Mặt dày nói: Nghe cũng có lý, cậu xem cô ta như vậy là có ý gì?
Tôi nói: Tôi thấy cô ấy định đưa cả thôn này về nơi Đất quỷ, nếu như vậy thì chẳng ai có thể sống được, phải bắt cô ấy ghìm cương trước vực.
Chúng tôi cố gắng đi tiếp, nhưng toàn thân đã mệt mỏi rã rời, còn phải thay nhau cõng Điếu bát, hai chân nặng như đeo chì, thần đạo tuy không dài nhưng cỏ dại mọc um tùm, đường gập ghềnh khó đi, muốn đi nhanh cũng không được. Chúng tôi đi thêm một lúc nữa, thì phía trước xuất hiện một gian điện Di Lặc được dựng lên trên một mô đất. Trước đây, người ta hay gọi những cung điện xây trên mô đất là điện Di Lặc, nhưng trong Na giáo thì không có phong tục này, tôi gọi là điện Di Lặc chỉ do hình dáng giống như điện Di Lặc, phía trước rộng tầm chín gian. Thời xưa, khi nói tới diện tích nhà cửa thường hình dung bằng cách so sánh nó rộng bằng mấy gian nhà, theo phong tục, điện đường thường rộng chín gian. Một gian rộng một trượng[1], chín gian là chín trượng, quy mô rất lớn.
[1] 1 trượng: tương đương 3,45 mét.
Ngôi đại điện này bốn bên đều là đất sét hỗn hợp được quét vôi, mái hiên to, ngói đen, ẩn hiện trong đám sương mù. Xung quanh bên ngoài là ba tầng cầu thang, tầng trên là bảy mươi hai tấm đá, tầng giữa là một trăm linh tám tấm đá, tầng cuối là một trăm tám mươi tấm. Lúc ở thôn Phi Tiên tôi đã được nghe ông cụ Chu nói tới bố cục này, nó phù hợp với số ngày. Khi tới gần, thấy hai cánh cửa đã được mở, bên trong tối đen tối mù, sặc mùi mốc và phân hủy như mùi đất nghĩa địa.
Tôi giơ cao bó đuốc đi vào bên trong điện Di Lặc trước. Mặt dày cõng Điếu bát theo sau. Cột bên trong điện đều sát tường, chính giữa là một hố đất vuông vắn, bốn phía đều có khảm thờ lõm vào bên trong, các xác chết đeo mặt nạ vỏ cây nằm ngổn ngang trong khám thờ, chồng chất như núi, bậc thang bằng đá vừa dài vừa hẹp được dựng trên những cột gỗ đi men theo bờ tường xuống tận phía đáy hố tế lễ. Khi mở cửa điện, sương khói bên ngoài theo vào mập mờ dưới ánh đuốc, khiến những hình ảnh kỳ quái trên các bức bích họa giống như đang đằng vân giá vũ, cảm giác như đang đứng ở cửu thiên bảo điện.
Khắp nơi trong điện đều có để đèn đồng, nến bên trong mới chỉ thắp được một nửa, chúng tôi tiện tay thắp lên vài ngọn nến. Gian điện vừa sáng lên, tôi thấy một bên nóc điện đã sập thủng một lỗ to, cả hai chúng tôi đều kinh ngạc, quay sang hỏi đối phương: Vật gì có thể xuyên thủng mái điện như vậy, hơn nữa lại là từ trên xuống.
Ý nghĩ này vừa thoáng qua, tôi bất giác nhìn xuống hố tế lễ, dưới ánh đuốc chập chờn, tôi nhìn thấy bóng mờ ảo của Điền Mộ Thanh đang đi thẳng xuống đáy hố tế. Tôi chẳng nghĩ nhiều, vội vàng đuổi theo. Cột chống cầu thang đã mục nát, mỗi bước đi đều chao đảo phát ra tiếng kêu cọt kẹt, có nhiều đoạn đã sập. Hố tế lễ có đường kính khoảng ba mươi mét, sâu chừng hơn mười mét, xuống tới nơi không còn nhìn rõ ánh sáng trên cao nữa, dưới hố vừa thâm u vừa tối tăm lạnh lẽo, nó không ngừng hút hết thân nhiệt của con người, có một cột đá thò ngang ra, lơ lửng giữa hố, phía đầu thanh xà ngang bằng đá là chiếc bàn đá hình đầu thú đang ngẩng cao đầu trong không trung, trông rất nguy hiểm, dọc đường khắp nơi đều nhìn thấy xác chết của dân làng năm xưa, có những xác chết đã bị bong mặt nạ, phần mặt nạ khô đét, dường như đã bị hố tế lễ hút hết sinh khí, trên chiếc xà ngang bằng đá nhô ra lơ lửng trong không trung, có một số cột gỗ đóng vòng sắt bên trên, không biết chúng đã được sử dụng bao nhiêu lần, trên mặt bàn đá là những vết máu đã đen kịt lại, hiển nhiên đây chính là bàn mổ tế lễ.
Chúng tôi bước lên bàn mổ, trông Điền Mộ Thanh như người mất hồn, cánh tay cầm đuốc không chút động đậy, cô đang nhìn xuống dưới, tôi lôi vội lấy cô, Điền Mộ Thanh rùng mình quay lại nhìn chúng tôi.
Tôi hỏi Điền Mộ Thanh: Những chuyện xảy ra trong thôn cô đều nhớ lại cả rồi à?
Điền Mộ Thanh lúc này đã trở lại bình thường, cô không gật đầu cũng không lắc đầu, hình như đã mặc định lời tôi hỏi. Vẻ mặt cũng đã bớt phần kỳ quái.
Tôi lại hỏi cô: Cô định chết cho xong chuyện chắc?
Mặt dày nhắc tôi: Cậu đừng có tiến lại gần quá, cẩn thận cô ta hiện nguyên hình ăn thịt người đấy!
Điền Mộ Thanh hỏi: Hiện nguyên hình? Các anh... thế là ý gì?
Tôi nói: Nếu cô không phải là thần quái trong Na miếu thì sao có thể nhớ lại chuyện hàng nghìn năm trước?
Điền Mộ Thanh nói: Na giáo từ xưa đã thờ thần, là những vị thần có da có thịt đàng hoàng.
2
Việc này tôi và Mặt dày đã nghĩ tới, nhưng khi nghe Điền Mộ Thanh đích thân nói ra, chúng tôi vẫn không khỏi sởn gai ốc.
Điền Mộ Thanh chọn lọc những nội dung quan trọng trong những ký ức mà mình nhớ lại để kể cho chúng tôi nghe. Tổ tiên người dân tộc Na một lần vào trong núi sâu đã nhặt được bốn chiếc mặt nạ quỷ bằng đồng, dựa vào những hoa văn khắc trên chiếc mặt nạ đồng đó để chiêu thần khiển quỷ, khai lập ra Na giáo sơ khai. Sau đó, trong một lần tế lễ đã làm hỏng mặt nạ đồng, từ đó Na giáo dùng mặt nạ bằng vỏ cây để thay thế rồi lưu truyền lại cho đời sau. Ngoài thôn Thiên Cổ Dị Đế ra thì mặt nạ của thầy cúng Na thường làm bằng gỗ cây long não.
Từ thời Hán, thôn làng dưới chân núi Thảo Hài Lĩnh vẫn duy trì được huyết mạch chính thống của Na thần, Na vương đứng đầu Na giáo, nhưng trên Na vương còn có Na thần, mỗi đời Na thần đều là những cô gái trẻ trung xinh đẹp. Trong thôn có tứ đại gia tộc đều thuộc một tông hệ, bốn vị tộc trưởng của bốn gia tộc đều là trưởng lão của Na giáo, mỗi đời Na thần đều được chọn từ bốn gia tộc này. Cứ cách mười mấy hai chục năm, trong thôn lại tổ chức nghi lễ tế động, tương truyền, Đất quỷ là một vương quốc cổ, bốn chiếc mặt nạ đồng là vật dụng tế lễ của họ, vì ngôn ngữ, văn tự, lễ tiết của Đất quỷ khác với hậu thế nên chỉ dựa vào hoa văn trên mặt nạ hình mặt quỷ để gọi đó là Đất quỷ, cũng giống những quốc gia cổ thời Hạ, Thương như Hổ Phương, Xà Phương v.v... đều căn cứ vào thần vật của họ để đặt tên nước. Tương truyền hơn nghìn năm trước, vương quốc Đất quỷ xảy ra đại loạn, mười người chết đến bảy tám người, những người may mắn sống sót trốn chạy tới vùng sa mạc phía Bắc, từ đó không còn trở lại trung nguyên. Sau đó, Chu thiên tử xuất binh đi chinh phục, Đất quỷ chính thức bị diệt vong.
Nghe nói, trên chiếc gương đồng có hồn phách của thầy phù thủy của Đất quỷ, còn hố tế lễ dưới thôn theo truyền thuyết Na giáo lại có thể thông với Đất quỷ, vì lúc đó người dân tin rằng Đất quỷ đã biến mất từ lâu. Thực tình, tổ tiên Na giáo chỉ biết những điều đó qua chiếc mặt nạ có được từ Đất quỷ, vì vậy mới có nơi tế lễ như thế này. Mỗi năm khi thiên cẩu ăn mặt trăng, trong thôn lại tiến hành nghi lễ tế máu, đem những ác quỷ không thể độ hóa được nữa tống khứ tới Đất quỷ.
Địa vị của Na thần tại thôn Thiên Cổ Dị Đế tuy cao hơn Na vương, nhưng thực chất chỉ là vật phẩm cúng tế mà thôi. Một đời Na thần chết đi thì trong tứ đại gia tộc sẽ xuất hiện một vị thần khác, chỉ cần được lựa chọn, ngay lập tức đón vào ở trong Na miếu, không được tiếp xúc với người dân, khi Na thần chết đi thân xác chỉ là cái vỏ, sau lễ tế thì Na thần tiếp tục chuyển thế, tứ đại gia tộc chọn ra một vỏ thân xác chuẩn bị cho lần tế lễ sau, cứ luân hồi như vậy.
Ai được Na thần chọn làm thân xác để trú ngụ thì trên trán sẽ xuất hiện vết chàm màu đỏ hình mặt trăng. Nghe nói, năm xưa khi xuất hiện đại dịch, Na giáo đã dùng mặt nạ đồng để trừ tà đuổi bệnh dịch, kết quả bốn chiếc mặt nạ đồng đều bị hỏng, Na thần vĩnh viễn ở lại trên thân xác của bốn người đó, không thoát được ra nữa, và họ chính là tổ tiên của tứ đại gia tộc thần sống trong thôn.
Tôi thấy trên trán Điền Mộ Thanh cũng có một vết chàm màu đỏ rất mờ rất nhỏ, không để ý sẽ không thấy, nhưng không phải ai cũng có. Chắc chắn là thi thể nữ trong chiếc quan tài bằng gỗ trầm hương cũng là thần sống của thôn, bọn Hoàng phật gia đều biết mặt Điền Mộ Thanh, khi chúng mở nắp quan tài thì nét mặt cả bọn đều toát lên vẻ kinh ngạc chắc là vì nhìn thấy vết chàm trên trán thi thể cũng giống như của Điền Mộ Thanh. Khi tôi và Điếu bát gặp thi thể trong đường hầm thì đã bắt đầu phân hủy, mặt đã khô đét nên không còn nhìn thấy vết chàm nữa.
Điền Mộ Thanh nói với chúng tôi, đại Đường Thiên Bảo năm thứ nhất, Na bà xúi giục người dân nổi loạn, những người muốn tôn thờ rồng đất làm thần, họ âm mưu cản trở việc đưa rồng đất về Đất quỷ nên đã trốn vào Na miếu dùng vải da bịt chết Na thần, tuy sau đó chúng đều bị bắt và giết, nhưng khi cánh cửa thông với Đất quỷ đã được mở ra, trong thôn không dâng được Na thần lên, Na vương đành dùng phương thức vẫn dùng trước đó, đặt thi thể của Na thần vào trong quan tài, phía đầu quan tài để một cánh cửa nhỏ cho linh hồn có thể ra vào, đó cũng là chuẩn bị sẵn cho Na thần, chờ khi đã chọn được vị Na thần kế tiếp sẽ đưa quan tài vào an táng tại địa cung. Na vương sắp xếp cho tứ đại gia tộc thoát ra bên ngoài để đảm bảo huyết mạch thần tộc cổ xưa để lại, những người dân khác trong làng đều đeo mặt nạ vỏ cây tiếp tục cầu khấn tiến hành nghi lễ động Na, toàn bộ ngôi làng rơi vào cảnh hỗn độn, cuối cùng Na vương quyết định dùng chính ngôi làng này để lấp cánh cửa thông với Đất quỷ.
Tứ đại gia tộc sau khi trốn thoát ra ngoài đã không ngừng tìm cách đưa Na thần về làng, mong sẽ kết thúc được buổi tế lễ đẫm máu đó và khiến cánh cửa thông với Đất quỷ có thể đóng lại hoàn toàn và biến mất. Nào ngờ, Na bà và những oan hồn chết thảm đã biến thành một khối thịt lảng vảng trong thôn, không quên nhiệm vụ bảo vệ thi thể của rồng đất, những người đi vào trong thôn theo hướng thần đạo đều bị con quái vật này ăn thịt.
Vì niên đại quá lâu, qua nhiều lần luân chuyển, người thuộc tứ đại gia tộc ngày càng ít đi, chuyện xảy ra trong thôn cũng không còn nhớ nữa. Điền Mộ Thanh trước đó hoàn toàn không biết gì, cho tới khi đến đây mới dần nhớ lại, cô là thần sống đời thứ năm mươi ba của thôn. Những người trước đều không hoàn thành được nghi lễ. Kể cũng may mắn, lúc ở điện Na vương, Điền Mộ Thanh đã vô tình chặt được đầu của Na bà, nếu không chúng tôi đã chết tại điện Na vương mà không biết vì sao mình chết. Nếu cô ấy hoàn thành nghi thức tế lễ thì cả thôn này sẽ rơi hẳn vào trong Đất quỷ. Nói tới đây, thần sắc cô ta trở nên kỳ lạ.
3
Nét mặt Điền Mộ Thanh cổ quái đến khó hiểu, cô tiến từng bước lên bàn tế, dường như Na thần trong cô đang hồi sinh, chuẩn bị hoàn thành nghi lễ từ cổ xưa đang còn dang dở.
Tôi chợt rùng mình sợ hãi, không thể giương mắt lên nhìn Điền Mộ Thanh đi vào chỗ chết, tôi xông lên giật lấy thanh kiếm đồng trong tay Điền Mộ Thanh.
Đang định vứt thanh kiếm xuống dưới thì Điền Mộ Thanh chợt quay lại giành thanh kiếm, hai người tranh qua tranh lại khiến thanh kiếm rơi xuống đáy hố tế lễ, Điền Mộ Thanh loạng choạng lùi về sau mấy bước, trông cô như người mất hồn.
Tôi vội đỡ lấy Điền Mộ Thanh, dìu cô dựa vào chiếc cột, hai mắt cô vẫn đờ dẫn, toàn thân không ngừng run lên bần bật, không nói được lời nào.
Mặt dày hỏi tôi tình hình Điền Mộ Thanh lúc này thế nào?
Tôi giải thích: Cô ấy bị ma nhập, con ma đó muốn cô ấy nhảy xuống hố tế.
Mặt dày lại hỏi: Có cứu được cô ấy không?
Tôi trả lời: Không cứu được cũng phải cứu, theo tôi hiểu, Đất quỷ chính là âm ti, nói chung là chỗ ở của con người sau khi chết. Ngôi làng đã chắn cánh cửa thông với âm ti, nếu nghi lễ tế máu được hoàn tất thì cả thôn làng này sẽ thành âm phủ. Tuy người dân ở đây đã chết từ lâu, nhưng bọn mình vẫn chưa thoát ra được.
Mặt dày hiểu ra vấn đề, nói: Vậy thì không thể để cho cô ấy chết được, nếu không bọn mình thành người tùy táng rồi.
Tôi nói: Không làm vật tùy táng thì cũng không thể thấy chết mà không cứu. Cô ấy là người bằng da bằng thịt, nếu chết đi thì không có cách gì mà sống lại được.
Mặt dày nói: Nói thì nói vậy, như tình cảnh này của cậu, tôi và Điếu bát đều giống như tượng đất qua sông, mình còn chưa cứu được mình nữa là cứu ai.
Tôi nói: Bây giờ mà tuyệt vọng thì vẫn hơi sớm. Ngôi làng này vẫn chưa hoàn toàn biến mất, nếu không thì bọn mình đã không vào được đây, nếu có đường vào thì thể nào cũng có đường ra.
Điền Mộ Thanh lên tiếng: Các anh... mặc kệ tôi, tôi không chết ở đây thì lời nguyền hủy diệt thôn năm xưa không thể nào hóa giải được...
Mặt dày sốt ruột hỏi: Trong thôn không có đường nào thông ra ngoài, bọn mình phải đi theo hướng nào đây?
Tôi nhìn Điền Mộ Thanh, thần sắc cổ quái đã biến mất, cô đã trở về với vẻ bình thường, tôi liền hỏi: Cô thấy đỡ hơn chưa?
Điền Mộ Thanh nói: Không hiểu sao cảm giác nghẹt thở như lúc ở điện Na vương lại quay lại, tôi bỗng thấy sợ vô cùng, nhưng giờ đã tỉnh táo hơn rồi.
Mặt dày nói: Có gì đó không ổn, chỗ này hình như khác với lúc nãy, tôi ngửi thấy mùi gì đó.
Tôi hít hít vài lần, trong hố tế âm u lạnh lẽo này có mùi máu tanh, nhưng xung quanh tối đen không nhìn thấy gì cả. Trên bàn mổ còn mấy ngọn nến cỡ lớn, chúng tôi liền thắp sáng lên thì thấy trong hố tế đầy sương mù bằng máu. Khi chém đứt đầu Na bà, oan khí đã biến thành sương máu, lúc đó chúng tôi đã sợ đến sởn tóc gáy, nhưng không ngờ chúng đã theo đến tận đây.
Tôi nghĩ bụng trong điện có sương máu xuất hiện thì e là lành ít dữ nhiều, nhất định phải có đường ra khỏi đây, chỉ có điều chúng tôi vẫn chưa tìm ra lối thoát. Nếu bị chết ở nơi này thì còn hi vọng gì nữa.
Tôi vừa nghĩ vậy thì chân đã bị ai đó túm chặt, bàn tay đó vừa lạnh vừa cứng, móng tay cứng như vuốt sắt, cổ chân đau buốt, tôi cúi đầu xuống nhìn thì thấy một xác chết người dân trên bàn mổ đang tóm lấy chân tôi, mặt nạ của người đó đã bị rơi từ lâu, khuôn mặt khô đét như củi, miệng há to phát ra tiếng kêu chát chúa như tiếng chim ăn đêm, nghe giống xác chết nữ mà chúng tôi gặp trong hầm mộ.
Tôi luống cuống sợ hãi, cầm xẻng phang vào cánh tay khô, người dân đó chết trong hố tế đã lâu, thi thể khô rốc, cánh tay bị chém đứt làm đôi nhưng phần tay gãy vẫn túm lấy tôi không thả ra, tôi vội lắc mạnh rảy cánh tay đó ra, cổ chân đã bị thây ma đó túm sứt mảng da, máu chảy đầm đìa.
Xác chết gãy tay đó vẫn không ngừng phát ra tiếng kêu the thé, tay còn lại giơ ra định tiếp tục tóm lấy tôi, may mà Mặt dày bên cạnh ra tay nhanh, cầm báng súng phang thẳng vào đầu xác chết, chỉ nghe thấy bụp một tiếng, cái đầu đã vỡ ra nát bét, không có cảnh da thịt hỗn độn mà chỉ thấy một làn khói đỏ như máu bay ra nhập vào một xác chết khác bên cạnh, chỉ thấy xác chết đó động đậy vài cái rồi đứng bật dậy.
Mặt dày chưa đợi xác chết đó đứng dậy hẳn đã bắn một phát đạn trúng đầu.
Xác chết loạng choạng rồi đổ ập xuống đất, làn sương khói màu đỏ đó lại tiếp tục nhập vào một xác chết khác.
Mặt dày đâm ra luống cuống, lập cập bắn phát súng thứ hai trúng vào ngực xác chết đó.
Xác chết lại ngã bật ra phía sau, nhưng như kiểu không có chút cảm giác gì, lại bò dậy giơ hai tay ra chực bắt người.
Mặt dày sờ vào túi quần thấy trống không mới sực nhớ ra là đã hết đạn, đành phải vứt khẩu súng xuống, rút cuốc chim ra, định bổ một lỗ thủng đầu vào xác chết, không ngờ xác chết giơ tay nắm vào cán cuốc, Mặt dày không bổ tiếp được mà giằng lại cũng không xong.
Thấy hai người giằng co không phân thắng bại, tôi tiến gần dí bó đuốc vào mặt xác chết.
Mặt dày tranh thủ giằng lại chiếc cuốc chim bổ một nhát trúng đầu chiếc xác chết, cả người và cuốc chim ngã ngửa ra phía sau. Đám sương bằng máu kia lại bay ra, lởn vởn trong không trung mãi không tan, lượn lờ như một con rắn biết bay, bỗng chúng tản ra thành nhiều đám nhỏ, nhập vào những xác chết trên mặt đất.
4
Những xác chết đó lần lượt đứng dậy, thi nhau đi ra phía thanh xà đá, tất cả đều nhắm vào Điền Mộ Thanh.
Tôi biết hồn ma của Na bà đã nhập vào những xác chết đó, mà những người dân chết trong hố tế này phải đến hàng trăm hàng nghìn người, chúng tôi bị kẹt trên bàn mổ bằng đá lơ lửng trong không trung thế này, làm sao mà chống cự nổi?
Chẳng đợi chúng tôi suy nghĩ, bọn xác chết lũ lượt kéo đến, may thanh đá cũng hẹp, chúng tôi dùng đuốc đánh trả, miễn cưỡng chặn được đám xác chết, nhưng giờ này ai cũng sức cùng lực kiệt, e chẳng chống đỡ được mấy nỗi, lùi lại thì chỉ có nước nhảy xuống hố tế, dưới đó đen ngòm, như một cái động không đáy.
Phải giải thích tại sao nó chỉ gọi là hố tế mà không phải là động tế thì chắc là vì bên dưới có đáy. Trong phong tục của Na giáo, thời khắc thiên cẩu ăn mặt trăng, hố tế sẽ biến thành cánh cửa thông với Đất quỷ, kể từ đêm đại họa diệt thôn đẫm máu đó, cánh cửa này chưa từng được đóng lại. Phía trên bàn mổ bằng đá có một cái đầu đang há to miệng, mặt hướng lên trên, máu tươi sẽ chảy xuống cái miệng này, rồi xuyên qua đó rơi xuống hố tế, nhưng không biết dưới đáy hố kia thông về đâu.
Tôi thấy những âm hồn nhập vào xác chết kia đều sợ lửa, hơn nữa xác chết đều khô đét nên di chuyển rất chậm, trong đầu nảy ra ý định tìm cơ hội chạy ra khỏi nơi này, tìm một căn nhà nào đó kiên cố một chút để lánh nạn, có thể sẽ tránh được đợt tấn công này.
Ý nghĩ đó vừa xuất hiện, bỗng thấy một xác chết nhả đám khói màu đỏ ra, thi thể ngay lập tức đổ ập xuống, tôi ngửi thấy mùi hôi tanh xộc lên, suýt chút nữa bó đuốc đã bị ngọn gió âm thổi tắt, tôi vội vàng né tránh nhưng đám khói đó cứ quây lấy tôi không tha, xem ra nó đang định nhập vào người sống. Tôi và Mặt dày thất kinh, tấm bàn mổ này lơ lửng trong không trung, trong lúc né tránh nếu không cẩn thận thì bị rơi xuống hố tế bên dưới như chơi, cho dù bên dưới là gì thì rơi xuống đó cũng đủ gãy xương mà chết, tình thế trước mắt không biết phải giải quyết thế nào.
Điền Mộ Thanh bỗng kêu lên: Mau đeo mặt nạ vỏ cây vào!
Tôi nghe vậy chững lại một lúc rồi lập tức nghĩ tới chiếc mặt nạ hình mặt quỷ, trên có vẽ hai màu đỏ và đen, hình thù ký quái, vốn dùng để trừ tà ma. Quả đúng như vậy, tôi thấy đám khói đỏ đó ngay lập tức nhập vào những xác chết không đeo mặt nạ, gặp phải những xác chết có mặt nạ chúng chỉ bay vòng qua rồi tránh đi. Ba chúng tôi vội vàng nhặt những chiếc mặt nạ đeo vào, dùng đuốc xua đuổi những xác chết kia.
Tôi tính dùng đuốc đẩy lùi các xác chết rồi theo đường cũ ra khỏi chỗ này, quay trở lại điện Na vương. Đó là kiến trúc kiên cố nhất trong làng, phía dưới còn có địa đạo, có thể rút lui. Còn tiếp theo phải làm thế nào thì giờ này cũng không thể tính được. sau khi quyết định như vậy, tôi vừa định cõng Điếu bát để rút lui thì thấy sau lưng mình phát ra tiếng kêu the thé.
Cả ba chúng tôi chỉ lấy mặt nạ đeo cho mình để đối phó với bọn xác chết, bất chợt nghe thấy tiếng kêu như vậy thì đồng loạt giật mình run bắn. Vì phía sau lưng chúng tôi không có xác chết người dân nhưng còn có Điếu bát, cả ba bận đối phó với xác chết mà quên mất đeo mặt nạ cho Điếu bát. Tôi quay đầu lại, thấy Điếu bát đã đứng dậy, miệng lẩm bẩm phát ra những âm thanh khó hiểu, nét mặt thâm u, ngũ quan đơ cứng, ánh mắt vô hồn như mắt người chết.
Điếu bát đã bị Na bà nhập vào người, bỗng há to miệng kêu lên những tiếng rất khó nghe, tay giơ ra hướng về phía Điền Mộ Thanh.
Tôi đơ cứng người tại chỗ, khi nghe thấy tiếng kêu thất thanh của Điền Mộ Thanh thì chợt tỉnh, vội giơ xẻng lên định đánh vào đầu Điếu bát, nhưng vừa giơ lên đã vội dừng lại. Tôi biết rõ cho dù đó là ai thì một khi đã bị hồn ma của Na bà nhập vào sẽ không còn ý thức nữa, chỉ biết tấn công người sống, không đánh vỡ đầu thì không thể đuổi được hồn ma đó đi.
Nhưng Điếu bát và tôi lại là huynh đệ thâm tình, tôi không đành xuống tay với anh, nhưng lại không thể giương mắt nhìn Điền Mộ Thanh bị giết. Bất đắc dĩ đành nhảy vào đè Điếu bát ngã xuống đất, đồng thời gạt mạnh tay, đẩy được hai cánh tay Điếu bát đang chuẩn bị bóp cổ tôi. Tôi cảm nhận được cánh tay đó cứng như thép, mùi máu tanh hôi không thể chịu đựng nổi.
Mặt dày thấy tôi gặp tình thế nguy hiểm chạy tới định giải nguy cho tôi, giơ bó đuốc dí vào mặt Điếu bát.
Tuy tôi biết rõ Điếu bát giờ chỉ như xác chết di động, nhưng cũng không nỡ lòng nào để anh ta bị đuốc đốt cháy mặt, vội ôm cả Điếu bát lộn mấy vòng để tránh.
Mặt dày bị hẫng, ngã chúi xuống đất. Lúc này đám người dân kia lại ồ ạt xông lên chỗ phiến đá bàn mổ. Mặt dày và Điền Mộ Thanh vội dùng đuốc chống đỡ, cũng chẳng còn tâm trí đâu mà quản việc phía sau lưng, Mặt dày kêu lớn: Điếu bát đã không còn nữa rồi, nếu cậu muốn sống thì phải mạnh tay lên mới được.
Tôi đã bị Điếu bát bóp cổ, lăn ra bên viền bàn mổ, cảm nhận được hai cánh tay đối phương siết càng ngày càng chặt hơn, mắt tôi hoa lên, trước mắt một màu tối đen không nhìn thấy gì, đã vào tình thế không thể gắng gượng thêm, nếu không đánh lại thì khó giữ toàn tính mệnh, nhưng vừa rồi trong lúc hỗn loạn, chiếc xẻng đã văng đi đâu không biết, đành phải một tay đánh trả một tay quờ quạng tìm xẻng, nhưng mò mãi vẫn không thấy.
5
Tôi bị Điếu bát bóp cứng nơi cổ họng, không thể giãy giụa được, trong lòng tuyệt vọng vô cùng, mơ màng thấy khuôn mặt quen thuộc của Điếu bát giờ trở nên lạnh lùng, méo mó biến dạng như những xác chết người dân kia. Trong phút chốc, tôi nhớ lại cảnh bọn Hoàng phật gia gặp phải thi biến trong hầm mộ, xác chết nữ trong quan tài gỗ mun, cũng là do âm hồn bất tán, bọn thổ phỉ tháo chiếc mặt nạ trên thi thể nữ xuống thì ngay lập tức ngồi dậy bắt người. Xem ra chiếc mặt nạ vỏ cây này không những đuổi được rắn rết côn trùng mà có thể trấn ma trừ tà.
Ý nghĩ này lóe lên trong đầu, như bầu trời gạn sạch được mây đen, tôi tháo chiếc mặt nạ của mình ra úp vào mặt Điếu bát.
Điếu bát kêu ré lên vội vàng lùi lại phía sau, từ trên bàn mổ lộn cổ xuống dưới hố đất, tôi không kịp với lấy anh, bên dưới đen ngòm, người rơi xuống dưới không nghe thấy chút âm thanh nào. Lòng tôi nặng trĩu, biết rõ đây không phải là lúc để buồn rầu nhưng vẫn không kìm nổi lòng mình, nước mắt lăn dài trên mặt. Tôi nghiến răng đứng dậy, nhặt chiếc mặt nạ khác đeo vào, tay cầm bó đuốc, gọi hai người kia đi lên phía trên.
Mặt dày thấy Điếu bát đã chết cũng phát điên lên, đẩy loạn xạ bọn xác chết xuống bên dưới. Xác chết người dân tuy nhiều, nhưng phân nửa đều đeo mặt nạ, phần còn lại đã khô đét, dù bị đám sương máu kia nhập vào nhưng di chuyển chậm chạp không linh hoạt, hành lang bên miệng hố tế lại chật hẹp nên bọn chúng không thể đổ dồn lên một lúc được.
Tôi thấy đã có cơ hội để thoát lên đại điện phía trên hố tế, trong lòng tăng thêm dũng khí, ba người vừa tiến lên thì đám dân bị ma nhập cũng ùa tới.
Mặt dày vội khua đuốc về phía chúng, một tên bị đánh trúng mặt kêu thét lên vội lùi lại phía sau. Mặt dày hăng tiết liên tục khua đuốc, đè cổ cáci xác bên miệng hố rồi đánh vỡ đầu, đám khói đỏ bay ra, xác chết cũng trở nên bất động. Nhưng Mặt dày ra tay quá đà, bó đuốc va vào bức tường đất phát ra tiếng kêu như gõ vào tường sắt, bó đuốc gãy làm đôi. Chúng tôi vừa thất kinh vừa thấy lạ. Hố tế rõ ràng là một chiếc hố bằng đất hình chữ nhật, xung quanh không phải đất hỗn hợp, tại sao lại có thể phát ra âm thanh đó?
Bàn mổ chính là thanh đá nhô ra trên miệng hố, một phần chôn trong tường. Chỗ tường bị cán đuốc va vào có một phần nhô ra khỏi tường, bên trên bị bụi đất che phủ. Lúc chúng tôi từ trên đại điện đi xuống, vì mải đuổi theo Điền Mộ Thanh nên không chú ý thấy những điều khác lạ bên dưới. Giờ mới phát hiện ra có một vật thể rất to lớn được dựng ở đó, hiển nhiên nó không phải là gạch, nhưng vì bị đất bụi che phủ nhiều năm nên không nhìn ra đó là vật gì. Chúng tôi còn chưa kịp định thần thì thấy phiến đá dưới chân mình rung lên, phát ra tiếng kêu rắc rắc như chuẩn bị gãy. Hóa ra vật thể kỳ lạ kia rất nặng, đè lên thanh đá gần như sắp sập. Một ngọn đuốc của Mặt dày đã làm đảo lộn tình thế, vật thể to lớn đó đang trượt về phía chúng tôi.
Trong lúc di chuyển, đám bụi bặm bên trên đã bị bong ra, chúng tôi nhìn thấy đó là một quả bom, là loại bom chuyên dụng của máy bay thả bom, lớp vỏ đã hoen rỉ nặng, không còn nhận biết được các chi tiết nữa, xem ra đó là một loại bom phiên bản cũ. Tôi có nghe mọi người kể, núi Thông Mã trước đó là chiến trường, thời kháng chiến thống thất và thời nội chiến nơi đây chiến sự diễn ra rất khốc liệt, nhiều người dân đã nhặt được vỏ bom ở quanh vùng này. Chắc quả bom này rơi từ trên xuống nên đã làm thủng một lỗ trên nóc điện, đầu quả bom chúc xuống dưới, rơi trúng hố tế này. Trái bom này không phải của quân Nhật thì là của quân Mỹ. Khu vực hồ Tiên Đôn hay xuất hiện mây mù, thả nhầm tọa độ vào đây cũng không có gì là lạ. Quả bom này ít ra cũng phải bảy tám trăm cân, năm đó rơi xuống đây không bị nổ chắc do trục trặc kỹ thuật, nếu gặp lúc cái số nó phải chết thì có khi chỉ cần chạm vào nó cũng phát nổ.
Loại bom hàng không sau khi được thả xuống mấy chục năm sau vẫn có nguy cơ phát nổ. Nghe kể ở những lâm trường vùng Đông Bắc phát hiện thấy những quả bom do quân Nhật để lại, có người thu về để bán đồng nát, vì quả bom rất to không tiện di chuyển nên dùng búa để nện, tính chia thành mấy mảnh cho la kéo về, ai ngờ vừa nện một nhát búa thì quả bom đã phát nổ, cả người lẫn la đều nổ banh xác, còn gây ra một vụ cháy rừng.
Tôi biết vừa rồi bó đuốc của Mặt dày va vào quả bom không nhẹ chút nào, không may nó mà phát nổ thì cả ba chúng tôi đã tan tành xác pháo, tôi không khỏi toát mồ hôi trán, bỗng một ý nghĩ lóe lên. Quả bom này cũng có thể rơi xuống được đây, chúng tôi thì phát hiện ra nấm mồ của mộ cổ trước, đi vào từ một cửa mộ nhưng lúc ra thì không thấy hồ nước đâu nữa. Thôn Thiên Cổ Dị Đế rơi vào vòng xoáy hỗn độn nếu cửa ra không nằm xung quanh thôn thì nhất định là ở vị trí cao nhất của thôn, mà nơi đó không phải đâu khác chính là ngôi mộ cổ trong thôn.
Mặt dày trông thấy tôi cứ đứng đực mặt ra không động đậy, một quả bom mấy trăm cân đang trôi xuống mà chẳng chịu tránh, liền đẩy tôi và giục: Cậu chán sống rồi à? Mau tránh đi!
Tôi định thần lại, quả bom ở phía đầu bàn mổ đang trôi xuống, chúng tôi chen nhau trong khoảng không chật hẹp, không còn nơi để trốn, muốn đỡ quả bom kia thì cũng chẳng có sức mà đỡ, nếu bị nó đè phải thì chỉ có nát bét như thịt băm, chẳng còn sự lựa chọn nào khác, chúng tôi lùi ra phía đầu phiến đá bàn mổ, bên tai nghe văng vẳng tiếng đá nứt rầm rầm, quả bom rơi xuống, lối đi được chống trên những cột gỗ không đủ sức đỡ lập tức có hiện tượng sụt lở, thanh đá làm bàn mổ bị gãy, lập tức rơi xuống hố đất sâu vô tận.
6
Phiến đá rơi xuống dưới hố, chúng tôi không biết dưới hố đó sâu bao nhiêu, rơi xuống chỉ có chết, tôi cứ nghĩ vậy là đã chấm hết rồi, ai ngờ chiếc hố chỉ sâu chừng mười mấy mét, thanh đá rơi xuống nằm chéo dưới đáy hố, ba người chúng tôi trượt từ trên thanh đá đó xuống như trượt cầu trượt, nhưng cũng ngã cho hoa mắt hoa mũi, cảm giác lục phủ ngũ tạng dường như không phải là của mình nữa. Trong lòng kêu khổ, không biết cao thấp là gì.
Tương truyền hố tế là cánh cửa thông với Đất quỷ, nhưng bên dưới đất tơi xốp. Tôi lấy làm lạ, đang định xem xung quanh thế nào thì lại nghe thấy tiếng động ở phía trên đầu. Hóa ra, quả bom đang lăn từ trên thanh đá xuống, vỏ quả bom đã hoen rỉ, qua mấy lần va chạm mạnh mà không phát nổ, chắc là không nổ được nữa, nhưng trọng lượng thì không thay đổi, giống như chiếc cối đá khổng lồ lao từ trên cao xuống, nó mà rơi trúng thì cả đám cũng thành đám thịt bèo nhèo. Bên dưới hố đất lại tối đen, mấy ngọn nến trên bàn mổ đều bị tắt, chúng tôi nghe thấy tiếng động biết không ổn, cũng chẳng kịp trốn đi đâu, đành lùi vào bên thành hố để tránh. Quả bom nặng mấy trăm cân lao xuống quạt gió ầm ầm, tạo thành cái hố sâu hoắm, nó nằm ngang bên dưới không nhúc nhích động đậy.
Tôi nhặt đuốc lên thắp sáng, Mặt dày và Điền Mộ Thanh cũng đã tránh kịp, may mắn không bị quả bom đè phải. Ba người vẫn đeo mặt nạ, tôi không nhìn thấy nét mặt của họ nhưng cả bọn không ngừng thở gấp, rõ ràng là vẫn đang hoảng hốt chưa định thần lại.
Tôi nhặt chiếc xẻng lên, lấy trong ba lô ra hai bó đuốc đã dùng, một nửa đưa cho Mặt dày. Nhân lúc hai người họ đang châm lửa, tôi tranh thủ xem xét xung quanh. Phía tường chỗ thanh đá vừa rơi xuống có hình vẽ mặt người, mặt vuông dài, hai mắt và mũi là ba hình vuông nhỏ, trông vừa kỳ quái vừa thần bí. Khuôn mặt giống như mặt nạ của Na giáo, hình như đây là dấu tích của Đất quỷ để lại, cổ quốc đó được gọi là Đất quỷ có khi vì những hình vẽ mặt nạ kỳ quái này. Tổ tiên của Na giáo dựa vào những chiếc mặt nạ đồng đã tìm ra chiếc hố. Có thể nói, nơi đây chính là khởi nguồn của Na giáo. Chiếc hố được phát hiện từ hơn bốn nghìn năm trước, nó là tế đàn hay là huyệt mộ của người Đất quỷ đây?
Mặt dày và Điền Mộ Thanh đã châm được lửa, dưới hố sáng hơn rất nhiều, cả ba chúng tôi bất an quan sát xung quanh.
Tôi nhìn lên trên, có thể trèo lên từ thanh đá vừa rơi xuống, tôi nói: Những đồ không cần thiết thì vứt lại, lát nữa ra khỏi đây mọi người phải theo sát tôi, lối ra có thể là ngay trên đỉnh của ngôi mộ cổ trong thôn.
Mặt dày vội vàng lôi chiếc vương miện Lộc thủ bộ dao quan và các bảo bối khác cho hết vào túi da rắn buộc chắc, xác chết bị Mặt dày bổ cho nhát cuốc chim cũng bị lăn xuống hố, Mặt dày lấy lại chiếc cuốc, cầm sẵn trong tay thủ thế. Tôi nhớ tới Điếu bát cũng bị rơi xuống đây, tại sao lại không thấy đâu nhỉ?
Tôi băn khoăn: Điếu bát bị rơi xuống đây chắc lành ít dữ nhiều, chắc là cũng rơi nát người rồi. Nhưng tôi không thể bỏ mặc anh ta được.
Mặt dày cũng nói: Đã rơi xuống đây sao không thấy người đâu nhỉ? Hay là bị quả bom đè bẹp rồi?
Tôi không nhìn thấy quả bom đè bẹp phải ai, cái hố này không nhỏ, ba người chúng tôi thắp đuốc lên cũng chỉ soi sáng được bảy tám mét, lại bị quả bom chắn mất tầm nhìn, nên không thấy được gì phía trước cả. Dù thân nơi nguy hiểm, không lường trước được việc gì sẽ xảy ra, nhưng cái hố này không phải hố không đáy, giờ chúng tôi đang đứng an toàn trên nền đất, lại không phát hiện có gì khác thường nên tôi và Mặt dày cũng mạnh dạn hơn, đang định đi tìm Điếu bát, sống thì phải tìm thấy người mà chết thì phải tìm thấy xác.
Điền Mộ Thanh can: Điếu bát đã bị hồn ma của Na bà nhập vào, các anh cũng biết đấy, nếu không chặt được đầu thì đám oan khí đó không thể nào tan được, không ai có thể cứu được anh ta. Nếu có thể ra được bên ngoài thì các anh phải nhanh chóng thoát thân, đừng có để mất mạng ở đây.
Tôi nghĩ cũng phải, nhưng vẫn chưa cam tâm, hơn nữa qua cách nói của cô ấy thì dường như cô không có ý ra khỏi nơi này. Tôi đang định hỏi cho rõ ràng thì thấy thấp thoáng bóng người di chuyển trong lớp sương mù, những người dân kia đã đuổi theo xuống tới nơi. Dưới hố này không thể so với trên thanh đá được, ở trên thì có thể cố gắng cầm cự, dưới này tứ bề là tường, nếu bị vây đánh thì chỉ còn nước chết không có đất chôn.
Chúng tôi biết rõ địa thế nơi đây bất lợi cho mình, không thể chống lại những xác chết bị ma nhập kia, nên đành phải nấp vào phía kia của quả bom, nín thở quan sát tình hình phía trước.
Vỏ ngoài của quả bom đã hoen rỉ nặng, cao khoảng tới ngực người bình thường, bị rơi xuống hố nhưng không nổ, chắc là chỉ còn là đống sắt vụn.
Tôi nói với Mặt dày và Điền Mộ Thanh: Đợi những người dân kia tới gần, bọn mình đẩy quả bom này ra đè bẹp bọn nó.
Mặt dày nói: Cũng là một cách, cậu nghĩ kỹ chưa, tiếp theo thì làm thế nào?
Tôi nói: Mẹ nó còn có tiếp theo... còn chưa nói xong thì một người dân thét lên tiếng kêu chói tai rồi lao tới trong đám sương mù.
Mặt dày kêu lên: Bọn người chết sống lại kia xông tới rồi kia, hai người đừng nhìn nữa, mau đẩy quả bom đi.
Ba người chúng tôi đứng tấn kê vai và tay vào quả bom đẩy về phía trước, nào ngờ phía dưới hố đất không bằng phẳng, quả bom lại nặng, đẩy mấy lần không những không nhích lên trước được chút nào, thậm chí còn lăn ngược về phía chúng tôi.
Một xác chết phi lên trước, giơ tay định tóm lấy Điền Mộ Thanh, Mặt dày bổ một nhát cuốc vào đầu hắn, đám khói đỏ bay lên lởn vởn trong không trung mãi không chịu tan đi.
Tôi thấy trong tay Điền Mộ Thanh chỉ có bó đuốc liền lôi cô ấy lùi lại phía sau, bỗng nghe thấy tiếng kêu the thé sau lưng, quay lại thì thấy chính là Điếu bát, chiếc mặt nạ bị tôi đeo lên trước đó đã rơi xuống, khuôn mặt tối sầm, hai mắt đen sì vô hồn.
Trước đó tôi còn hơi do dự, như dùng thân cây gai mà đánh sói, kiểu gì cũng sợ, nhưng lúc này tình thế bắt buộc đành phải nhẫn tâm giơ xẻng lên phạt vào đầu Điếu bát mất một nửa, tận mắt nhìn thấy anh ta ngã trước mặt, tay tôi run lên bần bật, tim nhói đau, nhát xẻng đó như đánh vào chính mình, nhưng vừa quay lại thì tôi thấy ánh đuốc soi sáng tới nửa bên kia của chiếc hố.
Mặt dày nói: Cô ta dẫn chúng ta tới đây chắc chẳng có ý tốt gì đâu, chờ tới được nơi tế lễ sẽ hiện nguyên hình, rồi ăn thịt người!
Tôi nói, Điền Mộ Thanh cũng không có ý giấu chúng tôi, tôi chỉ nghĩ không ra làm sao mà cô ấy có thể thoát ra khỏi thôn, tại sao trông cô lại giống như người bình thường, cô về lại nơi này là để đưa thôn làng về nơi Đất quỷ sao?
Tôi muốn trong lúc mình còn sống phải hỏi cho rõ ràng, nhưng Điền Mộ Thanh đi quá nhanh, chớp mắt đã đi khuất trong đám sương mù, những bức tượng đá hai bên thần đạo vẫn nối tiếp không dứt mà bóng Điền Mộ Thanh thì đã không thấy đâu.
Mặt dày hỏi: Cậu vẫn còn đi thèo à? Nếu cô ta đúng là ma quỷ thì lúc đó phải tính sao?
Tôi nói: Mấy lời nói lúc trong sơn động tuy là không sai, nhưng sau đó tôi có nghĩ lại, Hồng Quân lão tổ là một con giun đất thì đã sao? Đừng quên con người cũng là do khỉ biến thành, trong chuyện này thì chẳng có ai có tư cách nói ai cả.
Mặt dày nói: Nghe cũng có lý, cậu xem cô ta như vậy là có ý gì?
Tôi nói: Tôi thấy cô ấy định đưa cả thôn này về nơi Đất quỷ, nếu như vậy thì chẳng ai có thể sống được, phải bắt cô ấy ghìm cương trước vực.
Chúng tôi cố gắng đi tiếp, nhưng toàn thân đã mệt mỏi rã rời, còn phải thay nhau cõng Điếu bát, hai chân nặng như đeo chì, thần đạo tuy không dài nhưng cỏ dại mọc um tùm, đường gập ghềnh khó đi, muốn đi nhanh cũng không được. Chúng tôi đi thêm một lúc nữa, thì phía trước xuất hiện một gian điện Di Lặc được dựng lên trên một mô đất. Trước đây, người ta hay gọi những cung điện xây trên mô đất là điện Di Lặc, nhưng trong Na giáo thì không có phong tục này, tôi gọi là điện Di Lặc chỉ do hình dáng giống như điện Di Lặc, phía trước rộng tầm chín gian. Thời xưa, khi nói tới diện tích nhà cửa thường hình dung bằng cách so sánh nó rộng bằng mấy gian nhà, theo phong tục, điện đường thường rộng chín gian. Một gian rộng một trượng[1], chín gian là chín trượng, quy mô rất lớn.
[1] 1 trượng: tương đương 3,45 mét.
Ngôi đại điện này bốn bên đều là đất sét hỗn hợp được quét vôi, mái hiên to, ngói đen, ẩn hiện trong đám sương mù. Xung quanh bên ngoài là ba tầng cầu thang, tầng trên là bảy mươi hai tấm đá, tầng giữa là một trăm linh tám tấm đá, tầng cuối là một trăm tám mươi tấm. Lúc ở thôn Phi Tiên tôi đã được nghe ông cụ Chu nói tới bố cục này, nó phù hợp với số ngày. Khi tới gần, thấy hai cánh cửa đã được mở, bên trong tối đen tối mù, sặc mùi mốc và phân hủy như mùi đất nghĩa địa.
Tôi giơ cao bó đuốc đi vào bên trong điện Di Lặc trước. Mặt dày cõng Điếu bát theo sau. Cột bên trong điện đều sát tường, chính giữa là một hố đất vuông vắn, bốn phía đều có khảm thờ lõm vào bên trong, các xác chết đeo mặt nạ vỏ cây nằm ngổn ngang trong khám thờ, chồng chất như núi, bậc thang bằng đá vừa dài vừa hẹp được dựng trên những cột gỗ đi men theo bờ tường xuống tận phía đáy hố tế lễ. Khi mở cửa điện, sương khói bên ngoài theo vào mập mờ dưới ánh đuốc, khiến những hình ảnh kỳ quái trên các bức bích họa giống như đang đằng vân giá vũ, cảm giác như đang đứng ở cửu thiên bảo điện.
Khắp nơi trong điện đều có để đèn đồng, nến bên trong mới chỉ thắp được một nửa, chúng tôi tiện tay thắp lên vài ngọn nến. Gian điện vừa sáng lên, tôi thấy một bên nóc điện đã sập thủng một lỗ to, cả hai chúng tôi đều kinh ngạc, quay sang hỏi đối phương: Vật gì có thể xuyên thủng mái điện như vậy, hơn nữa lại là từ trên xuống.
Ý nghĩ này vừa thoáng qua, tôi bất giác nhìn xuống hố tế lễ, dưới ánh đuốc chập chờn, tôi nhìn thấy bóng mờ ảo của Điền Mộ Thanh đang đi thẳng xuống đáy hố tế. Tôi chẳng nghĩ nhiều, vội vàng đuổi theo. Cột chống cầu thang đã mục nát, mỗi bước đi đều chao đảo phát ra tiếng kêu cọt kẹt, có nhiều đoạn đã sập. Hố tế lễ có đường kính khoảng ba mươi mét, sâu chừng hơn mười mét, xuống tới nơi không còn nhìn rõ ánh sáng trên cao nữa, dưới hố vừa thâm u vừa tối tăm lạnh lẽo, nó không ngừng hút hết thân nhiệt của con người, có một cột đá thò ngang ra, lơ lửng giữa hố, phía đầu thanh xà ngang bằng đá là chiếc bàn đá hình đầu thú đang ngẩng cao đầu trong không trung, trông rất nguy hiểm, dọc đường khắp nơi đều nhìn thấy xác chết của dân làng năm xưa, có những xác chết đã bị bong mặt nạ, phần mặt nạ khô đét, dường như đã bị hố tế lễ hút hết sinh khí, trên chiếc xà ngang bằng đá nhô ra lơ lửng trong không trung, có một số cột gỗ đóng vòng sắt bên trên, không biết chúng đã được sử dụng bao nhiêu lần, trên mặt bàn đá là những vết máu đã đen kịt lại, hiển nhiên đây chính là bàn mổ tế lễ.
Chúng tôi bước lên bàn mổ, trông Điền Mộ Thanh như người mất hồn, cánh tay cầm đuốc không chút động đậy, cô đang nhìn xuống dưới, tôi lôi vội lấy cô, Điền Mộ Thanh rùng mình quay lại nhìn chúng tôi.
Tôi hỏi Điền Mộ Thanh: Những chuyện xảy ra trong thôn cô đều nhớ lại cả rồi à?
Điền Mộ Thanh lúc này đã trở lại bình thường, cô không gật đầu cũng không lắc đầu, hình như đã mặc định lời tôi hỏi. Vẻ mặt cũng đã bớt phần kỳ quái.
Tôi lại hỏi cô: Cô định chết cho xong chuyện chắc?
Mặt dày nhắc tôi: Cậu đừng có tiến lại gần quá, cẩn thận cô ta hiện nguyên hình ăn thịt người đấy!
Điền Mộ Thanh hỏi: Hiện nguyên hình? Các anh... thế là ý gì?
Tôi nói: Nếu cô không phải là thần quái trong Na miếu thì sao có thể nhớ lại chuyện hàng nghìn năm trước?
Điền Mộ Thanh nói: Na giáo từ xưa đã thờ thần, là những vị thần có da có thịt đàng hoàng.
2
Việc này tôi và Mặt dày đã nghĩ tới, nhưng khi nghe Điền Mộ Thanh đích thân nói ra, chúng tôi vẫn không khỏi sởn gai ốc.
Điền Mộ Thanh chọn lọc những nội dung quan trọng trong những ký ức mà mình nhớ lại để kể cho chúng tôi nghe. Tổ tiên người dân tộc Na một lần vào trong núi sâu đã nhặt được bốn chiếc mặt nạ quỷ bằng đồng, dựa vào những hoa văn khắc trên chiếc mặt nạ đồng đó để chiêu thần khiển quỷ, khai lập ra Na giáo sơ khai. Sau đó, trong một lần tế lễ đã làm hỏng mặt nạ đồng, từ đó Na giáo dùng mặt nạ bằng vỏ cây để thay thế rồi lưu truyền lại cho đời sau. Ngoài thôn Thiên Cổ Dị Đế ra thì mặt nạ của thầy cúng Na thường làm bằng gỗ cây long não.
Từ thời Hán, thôn làng dưới chân núi Thảo Hài Lĩnh vẫn duy trì được huyết mạch chính thống của Na thần, Na vương đứng đầu Na giáo, nhưng trên Na vương còn có Na thần, mỗi đời Na thần đều là những cô gái trẻ trung xinh đẹp. Trong thôn có tứ đại gia tộc đều thuộc một tông hệ, bốn vị tộc trưởng của bốn gia tộc đều là trưởng lão của Na giáo, mỗi đời Na thần đều được chọn từ bốn gia tộc này. Cứ cách mười mấy hai chục năm, trong thôn lại tổ chức nghi lễ tế động, tương truyền, Đất quỷ là một vương quốc cổ, bốn chiếc mặt nạ đồng là vật dụng tế lễ của họ, vì ngôn ngữ, văn tự, lễ tiết của Đất quỷ khác với hậu thế nên chỉ dựa vào hoa văn trên mặt nạ hình mặt quỷ để gọi đó là Đất quỷ, cũng giống những quốc gia cổ thời Hạ, Thương như Hổ Phương, Xà Phương v.v... đều căn cứ vào thần vật của họ để đặt tên nước. Tương truyền hơn nghìn năm trước, vương quốc Đất quỷ xảy ra đại loạn, mười người chết đến bảy tám người, những người may mắn sống sót trốn chạy tới vùng sa mạc phía Bắc, từ đó không còn trở lại trung nguyên. Sau đó, Chu thiên tử xuất binh đi chinh phục, Đất quỷ chính thức bị diệt vong.
Nghe nói, trên chiếc gương đồng có hồn phách của thầy phù thủy của Đất quỷ, còn hố tế lễ dưới thôn theo truyền thuyết Na giáo lại có thể thông với Đất quỷ, vì lúc đó người dân tin rằng Đất quỷ đã biến mất từ lâu. Thực tình, tổ tiên Na giáo chỉ biết những điều đó qua chiếc mặt nạ có được từ Đất quỷ, vì vậy mới có nơi tế lễ như thế này. Mỗi năm khi thiên cẩu ăn mặt trăng, trong thôn lại tiến hành nghi lễ tế máu, đem những ác quỷ không thể độ hóa được nữa tống khứ tới Đất quỷ.
Địa vị của Na thần tại thôn Thiên Cổ Dị Đế tuy cao hơn Na vương, nhưng thực chất chỉ là vật phẩm cúng tế mà thôi. Một đời Na thần chết đi thì trong tứ đại gia tộc sẽ xuất hiện một vị thần khác, chỉ cần được lựa chọn, ngay lập tức đón vào ở trong Na miếu, không được tiếp xúc với người dân, khi Na thần chết đi thân xác chỉ là cái vỏ, sau lễ tế thì Na thần tiếp tục chuyển thế, tứ đại gia tộc chọn ra một vỏ thân xác chuẩn bị cho lần tế lễ sau, cứ luân hồi như vậy.
Ai được Na thần chọn làm thân xác để trú ngụ thì trên trán sẽ xuất hiện vết chàm màu đỏ hình mặt trăng. Nghe nói, năm xưa khi xuất hiện đại dịch, Na giáo đã dùng mặt nạ đồng để trừ tà đuổi bệnh dịch, kết quả bốn chiếc mặt nạ đồng đều bị hỏng, Na thần vĩnh viễn ở lại trên thân xác của bốn người đó, không thoát được ra nữa, và họ chính là tổ tiên của tứ đại gia tộc thần sống trong thôn.
Tôi thấy trên trán Điền Mộ Thanh cũng có một vết chàm màu đỏ rất mờ rất nhỏ, không để ý sẽ không thấy, nhưng không phải ai cũng có. Chắc chắn là thi thể nữ trong chiếc quan tài bằng gỗ trầm hương cũng là thần sống của thôn, bọn Hoàng phật gia đều biết mặt Điền Mộ Thanh, khi chúng mở nắp quan tài thì nét mặt cả bọn đều toát lên vẻ kinh ngạc chắc là vì nhìn thấy vết chàm trên trán thi thể cũng giống như của Điền Mộ Thanh. Khi tôi và Điếu bát gặp thi thể trong đường hầm thì đã bắt đầu phân hủy, mặt đã khô đét nên không còn nhìn thấy vết chàm nữa.
Điền Mộ Thanh nói với chúng tôi, đại Đường Thiên Bảo năm thứ nhất, Na bà xúi giục người dân nổi loạn, những người muốn tôn thờ rồng đất làm thần, họ âm mưu cản trở việc đưa rồng đất về Đất quỷ nên đã trốn vào Na miếu dùng vải da bịt chết Na thần, tuy sau đó chúng đều bị bắt và giết, nhưng khi cánh cửa thông với Đất quỷ đã được mở ra, trong thôn không dâng được Na thần lên, Na vương đành dùng phương thức vẫn dùng trước đó, đặt thi thể của Na thần vào trong quan tài, phía đầu quan tài để một cánh cửa nhỏ cho linh hồn có thể ra vào, đó cũng là chuẩn bị sẵn cho Na thần, chờ khi đã chọn được vị Na thần kế tiếp sẽ đưa quan tài vào an táng tại địa cung. Na vương sắp xếp cho tứ đại gia tộc thoát ra bên ngoài để đảm bảo huyết mạch thần tộc cổ xưa để lại, những người dân khác trong làng đều đeo mặt nạ vỏ cây tiếp tục cầu khấn tiến hành nghi lễ động Na, toàn bộ ngôi làng rơi vào cảnh hỗn độn, cuối cùng Na vương quyết định dùng chính ngôi làng này để lấp cánh cửa thông với Đất quỷ.
Tứ đại gia tộc sau khi trốn thoát ra ngoài đã không ngừng tìm cách đưa Na thần về làng, mong sẽ kết thúc được buổi tế lễ đẫm máu đó và khiến cánh cửa thông với Đất quỷ có thể đóng lại hoàn toàn và biến mất. Nào ngờ, Na bà và những oan hồn chết thảm đã biến thành một khối thịt lảng vảng trong thôn, không quên nhiệm vụ bảo vệ thi thể của rồng đất, những người đi vào trong thôn theo hướng thần đạo đều bị con quái vật này ăn thịt.
Vì niên đại quá lâu, qua nhiều lần luân chuyển, người thuộc tứ đại gia tộc ngày càng ít đi, chuyện xảy ra trong thôn cũng không còn nhớ nữa. Điền Mộ Thanh trước đó hoàn toàn không biết gì, cho tới khi đến đây mới dần nhớ lại, cô là thần sống đời thứ năm mươi ba của thôn. Những người trước đều không hoàn thành được nghi lễ. Kể cũng may mắn, lúc ở điện Na vương, Điền Mộ Thanh đã vô tình chặt được đầu của Na bà, nếu không chúng tôi đã chết tại điện Na vương mà không biết vì sao mình chết. Nếu cô ấy hoàn thành nghi thức tế lễ thì cả thôn này sẽ rơi hẳn vào trong Đất quỷ. Nói tới đây, thần sắc cô ta trở nên kỳ lạ.
3
Nét mặt Điền Mộ Thanh cổ quái đến khó hiểu, cô tiến từng bước lên bàn tế, dường như Na thần trong cô đang hồi sinh, chuẩn bị hoàn thành nghi lễ từ cổ xưa đang còn dang dở.
Tôi chợt rùng mình sợ hãi, không thể giương mắt lên nhìn Điền Mộ Thanh đi vào chỗ chết, tôi xông lên giật lấy thanh kiếm đồng trong tay Điền Mộ Thanh.
Đang định vứt thanh kiếm xuống dưới thì Điền Mộ Thanh chợt quay lại giành thanh kiếm, hai người tranh qua tranh lại khiến thanh kiếm rơi xuống đáy hố tế lễ, Điền Mộ Thanh loạng choạng lùi về sau mấy bước, trông cô như người mất hồn.
Tôi vội đỡ lấy Điền Mộ Thanh, dìu cô dựa vào chiếc cột, hai mắt cô vẫn đờ dẫn, toàn thân không ngừng run lên bần bật, không nói được lời nào.
Mặt dày hỏi tôi tình hình Điền Mộ Thanh lúc này thế nào?
Tôi giải thích: Cô ấy bị ma nhập, con ma đó muốn cô ấy nhảy xuống hố tế.
Mặt dày lại hỏi: Có cứu được cô ấy không?
Tôi trả lời: Không cứu được cũng phải cứu, theo tôi hiểu, Đất quỷ chính là âm ti, nói chung là chỗ ở của con người sau khi chết. Ngôi làng đã chắn cánh cửa thông với âm ti, nếu nghi lễ tế máu được hoàn tất thì cả thôn làng này sẽ thành âm phủ. Tuy người dân ở đây đã chết từ lâu, nhưng bọn mình vẫn chưa thoát ra được.
Mặt dày hiểu ra vấn đề, nói: Vậy thì không thể để cho cô ấy chết được, nếu không bọn mình thành người tùy táng rồi.
Tôi nói: Không làm vật tùy táng thì cũng không thể thấy chết mà không cứu. Cô ấy là người bằng da bằng thịt, nếu chết đi thì không có cách gì mà sống lại được.
Mặt dày nói: Nói thì nói vậy, như tình cảnh này của cậu, tôi và Điếu bát đều giống như tượng đất qua sông, mình còn chưa cứu được mình nữa là cứu ai.
Tôi nói: Bây giờ mà tuyệt vọng thì vẫn hơi sớm. Ngôi làng này vẫn chưa hoàn toàn biến mất, nếu không thì bọn mình đã không vào được đây, nếu có đường vào thì thể nào cũng có đường ra.
Điền Mộ Thanh lên tiếng: Các anh... mặc kệ tôi, tôi không chết ở đây thì lời nguyền hủy diệt thôn năm xưa không thể nào hóa giải được...
Mặt dày sốt ruột hỏi: Trong thôn không có đường nào thông ra ngoài, bọn mình phải đi theo hướng nào đây?
Tôi nhìn Điền Mộ Thanh, thần sắc cổ quái đã biến mất, cô đã trở về với vẻ bình thường, tôi liền hỏi: Cô thấy đỡ hơn chưa?
Điền Mộ Thanh nói: Không hiểu sao cảm giác nghẹt thở như lúc ở điện Na vương lại quay lại, tôi bỗng thấy sợ vô cùng, nhưng giờ đã tỉnh táo hơn rồi.
Mặt dày nói: Có gì đó không ổn, chỗ này hình như khác với lúc nãy, tôi ngửi thấy mùi gì đó.
Tôi hít hít vài lần, trong hố tế âm u lạnh lẽo này có mùi máu tanh, nhưng xung quanh tối đen không nhìn thấy gì cả. Trên bàn mổ còn mấy ngọn nến cỡ lớn, chúng tôi liền thắp sáng lên thì thấy trong hố tế đầy sương mù bằng máu. Khi chém đứt đầu Na bà, oan khí đã biến thành sương máu, lúc đó chúng tôi đã sợ đến sởn tóc gáy, nhưng không ngờ chúng đã theo đến tận đây.
Tôi nghĩ bụng trong điện có sương máu xuất hiện thì e là lành ít dữ nhiều, nhất định phải có đường ra khỏi đây, chỉ có điều chúng tôi vẫn chưa tìm ra lối thoát. Nếu bị chết ở nơi này thì còn hi vọng gì nữa.
Tôi vừa nghĩ vậy thì chân đã bị ai đó túm chặt, bàn tay đó vừa lạnh vừa cứng, móng tay cứng như vuốt sắt, cổ chân đau buốt, tôi cúi đầu xuống nhìn thì thấy một xác chết người dân trên bàn mổ đang tóm lấy chân tôi, mặt nạ của người đó đã bị rơi từ lâu, khuôn mặt khô đét như củi, miệng há to phát ra tiếng kêu chát chúa như tiếng chim ăn đêm, nghe giống xác chết nữ mà chúng tôi gặp trong hầm mộ.
Tôi luống cuống sợ hãi, cầm xẻng phang vào cánh tay khô, người dân đó chết trong hố tế đã lâu, thi thể khô rốc, cánh tay bị chém đứt làm đôi nhưng phần tay gãy vẫn túm lấy tôi không thả ra, tôi vội lắc mạnh rảy cánh tay đó ra, cổ chân đã bị thây ma đó túm sứt mảng da, máu chảy đầm đìa.
Xác chết gãy tay đó vẫn không ngừng phát ra tiếng kêu the thé, tay còn lại giơ ra định tiếp tục tóm lấy tôi, may mà Mặt dày bên cạnh ra tay nhanh, cầm báng súng phang thẳng vào đầu xác chết, chỉ nghe thấy bụp một tiếng, cái đầu đã vỡ ra nát bét, không có cảnh da thịt hỗn độn mà chỉ thấy một làn khói đỏ như máu bay ra nhập vào một xác chết khác bên cạnh, chỉ thấy xác chết đó động đậy vài cái rồi đứng bật dậy.
Mặt dày chưa đợi xác chết đó đứng dậy hẳn đã bắn một phát đạn trúng đầu.
Xác chết loạng choạng rồi đổ ập xuống đất, làn sương khói màu đỏ đó lại tiếp tục nhập vào một xác chết khác.
Mặt dày đâm ra luống cuống, lập cập bắn phát súng thứ hai trúng vào ngực xác chết đó.
Xác chết lại ngã bật ra phía sau, nhưng như kiểu không có chút cảm giác gì, lại bò dậy giơ hai tay ra chực bắt người.
Mặt dày sờ vào túi quần thấy trống không mới sực nhớ ra là đã hết đạn, đành phải vứt khẩu súng xuống, rút cuốc chim ra, định bổ một lỗ thủng đầu vào xác chết, không ngờ xác chết giơ tay nắm vào cán cuốc, Mặt dày không bổ tiếp được mà giằng lại cũng không xong.
Thấy hai người giằng co không phân thắng bại, tôi tiến gần dí bó đuốc vào mặt xác chết.
Mặt dày tranh thủ giằng lại chiếc cuốc chim bổ một nhát trúng đầu chiếc xác chết, cả người và cuốc chim ngã ngửa ra phía sau. Đám sương bằng máu kia lại bay ra, lởn vởn trong không trung mãi không tan, lượn lờ như một con rắn biết bay, bỗng chúng tản ra thành nhiều đám nhỏ, nhập vào những xác chết trên mặt đất.
4
Những xác chết đó lần lượt đứng dậy, thi nhau đi ra phía thanh xà đá, tất cả đều nhắm vào Điền Mộ Thanh.
Tôi biết hồn ma của Na bà đã nhập vào những xác chết đó, mà những người dân chết trong hố tế này phải đến hàng trăm hàng nghìn người, chúng tôi bị kẹt trên bàn mổ bằng đá lơ lửng trong không trung thế này, làm sao mà chống cự nổi?
Chẳng đợi chúng tôi suy nghĩ, bọn xác chết lũ lượt kéo đến, may thanh đá cũng hẹp, chúng tôi dùng đuốc đánh trả, miễn cưỡng chặn được đám xác chết, nhưng giờ này ai cũng sức cùng lực kiệt, e chẳng chống đỡ được mấy nỗi, lùi lại thì chỉ có nước nhảy xuống hố tế, dưới đó đen ngòm, như một cái động không đáy.
Phải giải thích tại sao nó chỉ gọi là hố tế mà không phải là động tế thì chắc là vì bên dưới có đáy. Trong phong tục của Na giáo, thời khắc thiên cẩu ăn mặt trăng, hố tế sẽ biến thành cánh cửa thông với Đất quỷ, kể từ đêm đại họa diệt thôn đẫm máu đó, cánh cửa này chưa từng được đóng lại. Phía trên bàn mổ bằng đá có một cái đầu đang há to miệng, mặt hướng lên trên, máu tươi sẽ chảy xuống cái miệng này, rồi xuyên qua đó rơi xuống hố tế, nhưng không biết dưới đáy hố kia thông về đâu.
Tôi thấy những âm hồn nhập vào xác chết kia đều sợ lửa, hơn nữa xác chết đều khô đét nên di chuyển rất chậm, trong đầu nảy ra ý định tìm cơ hội chạy ra khỏi nơi này, tìm một căn nhà nào đó kiên cố một chút để lánh nạn, có thể sẽ tránh được đợt tấn công này.
Ý nghĩ đó vừa xuất hiện, bỗng thấy một xác chết nhả đám khói màu đỏ ra, thi thể ngay lập tức đổ ập xuống, tôi ngửi thấy mùi hôi tanh xộc lên, suýt chút nữa bó đuốc đã bị ngọn gió âm thổi tắt, tôi vội vàng né tránh nhưng đám khói đó cứ quây lấy tôi không tha, xem ra nó đang định nhập vào người sống. Tôi và Mặt dày thất kinh, tấm bàn mổ này lơ lửng trong không trung, trong lúc né tránh nếu không cẩn thận thì bị rơi xuống hố tế bên dưới như chơi, cho dù bên dưới là gì thì rơi xuống đó cũng đủ gãy xương mà chết, tình thế trước mắt không biết phải giải quyết thế nào.
Điền Mộ Thanh bỗng kêu lên: Mau đeo mặt nạ vỏ cây vào!
Tôi nghe vậy chững lại một lúc rồi lập tức nghĩ tới chiếc mặt nạ hình mặt quỷ, trên có vẽ hai màu đỏ và đen, hình thù ký quái, vốn dùng để trừ tà ma. Quả đúng như vậy, tôi thấy đám khói đỏ đó ngay lập tức nhập vào những xác chết không đeo mặt nạ, gặp phải những xác chết có mặt nạ chúng chỉ bay vòng qua rồi tránh đi. Ba chúng tôi vội vàng nhặt những chiếc mặt nạ đeo vào, dùng đuốc xua đuổi những xác chết kia.
Tôi tính dùng đuốc đẩy lùi các xác chết rồi theo đường cũ ra khỏi chỗ này, quay trở lại điện Na vương. Đó là kiến trúc kiên cố nhất trong làng, phía dưới còn có địa đạo, có thể rút lui. Còn tiếp theo phải làm thế nào thì giờ này cũng không thể tính được. sau khi quyết định như vậy, tôi vừa định cõng Điếu bát để rút lui thì thấy sau lưng mình phát ra tiếng kêu the thé.
Cả ba chúng tôi chỉ lấy mặt nạ đeo cho mình để đối phó với bọn xác chết, bất chợt nghe thấy tiếng kêu như vậy thì đồng loạt giật mình run bắn. Vì phía sau lưng chúng tôi không có xác chết người dân nhưng còn có Điếu bát, cả ba bận đối phó với xác chết mà quên mất đeo mặt nạ cho Điếu bát. Tôi quay đầu lại, thấy Điếu bát đã đứng dậy, miệng lẩm bẩm phát ra những âm thanh khó hiểu, nét mặt thâm u, ngũ quan đơ cứng, ánh mắt vô hồn như mắt người chết.
Điếu bát đã bị Na bà nhập vào người, bỗng há to miệng kêu lên những tiếng rất khó nghe, tay giơ ra hướng về phía Điền Mộ Thanh.
Tôi đơ cứng người tại chỗ, khi nghe thấy tiếng kêu thất thanh của Điền Mộ Thanh thì chợt tỉnh, vội giơ xẻng lên định đánh vào đầu Điếu bát, nhưng vừa giơ lên đã vội dừng lại. Tôi biết rõ cho dù đó là ai thì một khi đã bị hồn ma của Na bà nhập vào sẽ không còn ý thức nữa, chỉ biết tấn công người sống, không đánh vỡ đầu thì không thể đuổi được hồn ma đó đi.
Nhưng Điếu bát và tôi lại là huynh đệ thâm tình, tôi không đành xuống tay với anh, nhưng lại không thể giương mắt nhìn Điền Mộ Thanh bị giết. Bất đắc dĩ đành nhảy vào đè Điếu bát ngã xuống đất, đồng thời gạt mạnh tay, đẩy được hai cánh tay Điếu bát đang chuẩn bị bóp cổ tôi. Tôi cảm nhận được cánh tay đó cứng như thép, mùi máu tanh hôi không thể chịu đựng nổi.
Mặt dày thấy tôi gặp tình thế nguy hiểm chạy tới định giải nguy cho tôi, giơ bó đuốc dí vào mặt Điếu bát.
Tuy tôi biết rõ Điếu bát giờ chỉ như xác chết di động, nhưng cũng không nỡ lòng nào để anh ta bị đuốc đốt cháy mặt, vội ôm cả Điếu bát lộn mấy vòng để tránh.
Mặt dày bị hẫng, ngã chúi xuống đất. Lúc này đám người dân kia lại ồ ạt xông lên chỗ phiến đá bàn mổ. Mặt dày và Điền Mộ Thanh vội dùng đuốc chống đỡ, cũng chẳng còn tâm trí đâu mà quản việc phía sau lưng, Mặt dày kêu lớn: Điếu bát đã không còn nữa rồi, nếu cậu muốn sống thì phải mạnh tay lên mới được.
Tôi đã bị Điếu bát bóp cổ, lăn ra bên viền bàn mổ, cảm nhận được hai cánh tay đối phương siết càng ngày càng chặt hơn, mắt tôi hoa lên, trước mắt một màu tối đen không nhìn thấy gì, đã vào tình thế không thể gắng gượng thêm, nếu không đánh lại thì khó giữ toàn tính mệnh, nhưng vừa rồi trong lúc hỗn loạn, chiếc xẻng đã văng đi đâu không biết, đành phải một tay đánh trả một tay quờ quạng tìm xẻng, nhưng mò mãi vẫn không thấy.
5
Tôi bị Điếu bát bóp cứng nơi cổ họng, không thể giãy giụa được, trong lòng tuyệt vọng vô cùng, mơ màng thấy khuôn mặt quen thuộc của Điếu bát giờ trở nên lạnh lùng, méo mó biến dạng như những xác chết người dân kia. Trong phút chốc, tôi nhớ lại cảnh bọn Hoàng phật gia gặp phải thi biến trong hầm mộ, xác chết nữ trong quan tài gỗ mun, cũng là do âm hồn bất tán, bọn thổ phỉ tháo chiếc mặt nạ trên thi thể nữ xuống thì ngay lập tức ngồi dậy bắt người. Xem ra chiếc mặt nạ vỏ cây này không những đuổi được rắn rết côn trùng mà có thể trấn ma trừ tà.
Ý nghĩ này lóe lên trong đầu, như bầu trời gạn sạch được mây đen, tôi tháo chiếc mặt nạ của mình ra úp vào mặt Điếu bát.
Điếu bát kêu ré lên vội vàng lùi lại phía sau, từ trên bàn mổ lộn cổ xuống dưới hố đất, tôi không kịp với lấy anh, bên dưới đen ngòm, người rơi xuống dưới không nghe thấy chút âm thanh nào. Lòng tôi nặng trĩu, biết rõ đây không phải là lúc để buồn rầu nhưng vẫn không kìm nổi lòng mình, nước mắt lăn dài trên mặt. Tôi nghiến răng đứng dậy, nhặt chiếc mặt nạ khác đeo vào, tay cầm bó đuốc, gọi hai người kia đi lên phía trên.
Mặt dày thấy Điếu bát đã chết cũng phát điên lên, đẩy loạn xạ bọn xác chết xuống bên dưới. Xác chết người dân tuy nhiều, nhưng phân nửa đều đeo mặt nạ, phần còn lại đã khô đét, dù bị đám sương máu kia nhập vào nhưng di chuyển chậm chạp không linh hoạt, hành lang bên miệng hố tế lại chật hẹp nên bọn chúng không thể đổ dồn lên một lúc được.
Tôi thấy đã có cơ hội để thoát lên đại điện phía trên hố tế, trong lòng tăng thêm dũng khí, ba người vừa tiến lên thì đám dân bị ma nhập cũng ùa tới.
Mặt dày vội khua đuốc về phía chúng, một tên bị đánh trúng mặt kêu thét lên vội lùi lại phía sau. Mặt dày hăng tiết liên tục khua đuốc, đè cổ cáci xác bên miệng hố rồi đánh vỡ đầu, đám khói đỏ bay ra, xác chết cũng trở nên bất động. Nhưng Mặt dày ra tay quá đà, bó đuốc va vào bức tường đất phát ra tiếng kêu như gõ vào tường sắt, bó đuốc gãy làm đôi. Chúng tôi vừa thất kinh vừa thấy lạ. Hố tế rõ ràng là một chiếc hố bằng đất hình chữ nhật, xung quanh không phải đất hỗn hợp, tại sao lại có thể phát ra âm thanh đó?
Bàn mổ chính là thanh đá nhô ra trên miệng hố, một phần chôn trong tường. Chỗ tường bị cán đuốc va vào có một phần nhô ra khỏi tường, bên trên bị bụi đất che phủ. Lúc chúng tôi từ trên đại điện đi xuống, vì mải đuổi theo Điền Mộ Thanh nên không chú ý thấy những điều khác lạ bên dưới. Giờ mới phát hiện ra có một vật thể rất to lớn được dựng ở đó, hiển nhiên nó không phải là gạch, nhưng vì bị đất bụi che phủ nhiều năm nên không nhìn ra đó là vật gì. Chúng tôi còn chưa kịp định thần thì thấy phiến đá dưới chân mình rung lên, phát ra tiếng kêu rắc rắc như chuẩn bị gãy. Hóa ra vật thể kỳ lạ kia rất nặng, đè lên thanh đá gần như sắp sập. Một ngọn đuốc của Mặt dày đã làm đảo lộn tình thế, vật thể to lớn đó đang trượt về phía chúng tôi.
Trong lúc di chuyển, đám bụi bặm bên trên đã bị bong ra, chúng tôi nhìn thấy đó là một quả bom, là loại bom chuyên dụng của máy bay thả bom, lớp vỏ đã hoen rỉ nặng, không còn nhận biết được các chi tiết nữa, xem ra đó là một loại bom phiên bản cũ. Tôi có nghe mọi người kể, núi Thông Mã trước đó là chiến trường, thời kháng chiến thống thất và thời nội chiến nơi đây chiến sự diễn ra rất khốc liệt, nhiều người dân đã nhặt được vỏ bom ở quanh vùng này. Chắc quả bom này rơi từ trên xuống nên đã làm thủng một lỗ trên nóc điện, đầu quả bom chúc xuống dưới, rơi trúng hố tế này. Trái bom này không phải của quân Nhật thì là của quân Mỹ. Khu vực hồ Tiên Đôn hay xuất hiện mây mù, thả nhầm tọa độ vào đây cũng không có gì là lạ. Quả bom này ít ra cũng phải bảy tám trăm cân, năm đó rơi xuống đây không bị nổ chắc do trục trặc kỹ thuật, nếu gặp lúc cái số nó phải chết thì có khi chỉ cần chạm vào nó cũng phát nổ.
Loại bom hàng không sau khi được thả xuống mấy chục năm sau vẫn có nguy cơ phát nổ. Nghe kể ở những lâm trường vùng Đông Bắc phát hiện thấy những quả bom do quân Nhật để lại, có người thu về để bán đồng nát, vì quả bom rất to không tiện di chuyển nên dùng búa để nện, tính chia thành mấy mảnh cho la kéo về, ai ngờ vừa nện một nhát búa thì quả bom đã phát nổ, cả người lẫn la đều nổ banh xác, còn gây ra một vụ cháy rừng.
Tôi biết vừa rồi bó đuốc của Mặt dày va vào quả bom không nhẹ chút nào, không may nó mà phát nổ thì cả ba chúng tôi đã tan tành xác pháo, tôi không khỏi toát mồ hôi trán, bỗng một ý nghĩ lóe lên. Quả bom này cũng có thể rơi xuống được đây, chúng tôi thì phát hiện ra nấm mồ của mộ cổ trước, đi vào từ một cửa mộ nhưng lúc ra thì không thấy hồ nước đâu nữa. Thôn Thiên Cổ Dị Đế rơi vào vòng xoáy hỗn độn nếu cửa ra không nằm xung quanh thôn thì nhất định là ở vị trí cao nhất của thôn, mà nơi đó không phải đâu khác chính là ngôi mộ cổ trong thôn.
Mặt dày trông thấy tôi cứ đứng đực mặt ra không động đậy, một quả bom mấy trăm cân đang trôi xuống mà chẳng chịu tránh, liền đẩy tôi và giục: Cậu chán sống rồi à? Mau tránh đi!
Tôi định thần lại, quả bom ở phía đầu bàn mổ đang trôi xuống, chúng tôi chen nhau trong khoảng không chật hẹp, không còn nơi để trốn, muốn đỡ quả bom kia thì cũng chẳng có sức mà đỡ, nếu bị nó đè phải thì chỉ có nát bét như thịt băm, chẳng còn sự lựa chọn nào khác, chúng tôi lùi ra phía đầu phiến đá bàn mổ, bên tai nghe văng vẳng tiếng đá nứt rầm rầm, quả bom rơi xuống, lối đi được chống trên những cột gỗ không đủ sức đỡ lập tức có hiện tượng sụt lở, thanh đá làm bàn mổ bị gãy, lập tức rơi xuống hố đất sâu vô tận.
6
Phiến đá rơi xuống dưới hố, chúng tôi không biết dưới hố đó sâu bao nhiêu, rơi xuống chỉ có chết, tôi cứ nghĩ vậy là đã chấm hết rồi, ai ngờ chiếc hố chỉ sâu chừng mười mấy mét, thanh đá rơi xuống nằm chéo dưới đáy hố, ba người chúng tôi trượt từ trên thanh đá đó xuống như trượt cầu trượt, nhưng cũng ngã cho hoa mắt hoa mũi, cảm giác lục phủ ngũ tạng dường như không phải là của mình nữa. Trong lòng kêu khổ, không biết cao thấp là gì.
Tương truyền hố tế là cánh cửa thông với Đất quỷ, nhưng bên dưới đất tơi xốp. Tôi lấy làm lạ, đang định xem xung quanh thế nào thì lại nghe thấy tiếng động ở phía trên đầu. Hóa ra, quả bom đang lăn từ trên thanh đá xuống, vỏ quả bom đã hoen rỉ, qua mấy lần va chạm mạnh mà không phát nổ, chắc là không nổ được nữa, nhưng trọng lượng thì không thay đổi, giống như chiếc cối đá khổng lồ lao từ trên cao xuống, nó mà rơi trúng thì cả đám cũng thành đám thịt bèo nhèo. Bên dưới hố đất lại tối đen, mấy ngọn nến trên bàn mổ đều bị tắt, chúng tôi nghe thấy tiếng động biết không ổn, cũng chẳng kịp trốn đi đâu, đành lùi vào bên thành hố để tránh. Quả bom nặng mấy trăm cân lao xuống quạt gió ầm ầm, tạo thành cái hố sâu hoắm, nó nằm ngang bên dưới không nhúc nhích động đậy.
Tôi nhặt đuốc lên thắp sáng, Mặt dày và Điền Mộ Thanh cũng đã tránh kịp, may mắn không bị quả bom đè phải. Ba người vẫn đeo mặt nạ, tôi không nhìn thấy nét mặt của họ nhưng cả bọn không ngừng thở gấp, rõ ràng là vẫn đang hoảng hốt chưa định thần lại.
Tôi nhặt chiếc xẻng lên, lấy trong ba lô ra hai bó đuốc đã dùng, một nửa đưa cho Mặt dày. Nhân lúc hai người họ đang châm lửa, tôi tranh thủ xem xét xung quanh. Phía tường chỗ thanh đá vừa rơi xuống có hình vẽ mặt người, mặt vuông dài, hai mắt và mũi là ba hình vuông nhỏ, trông vừa kỳ quái vừa thần bí. Khuôn mặt giống như mặt nạ của Na giáo, hình như đây là dấu tích của Đất quỷ để lại, cổ quốc đó được gọi là Đất quỷ có khi vì những hình vẽ mặt nạ kỳ quái này. Tổ tiên của Na giáo dựa vào những chiếc mặt nạ đồng đã tìm ra chiếc hố. Có thể nói, nơi đây chính là khởi nguồn của Na giáo. Chiếc hố được phát hiện từ hơn bốn nghìn năm trước, nó là tế đàn hay là huyệt mộ của người Đất quỷ đây?
Mặt dày và Điền Mộ Thanh đã châm được lửa, dưới hố sáng hơn rất nhiều, cả ba chúng tôi bất an quan sát xung quanh.
Tôi nhìn lên trên, có thể trèo lên từ thanh đá vừa rơi xuống, tôi nói: Những đồ không cần thiết thì vứt lại, lát nữa ra khỏi đây mọi người phải theo sát tôi, lối ra có thể là ngay trên đỉnh của ngôi mộ cổ trong thôn.
Mặt dày vội vàng lôi chiếc vương miện Lộc thủ bộ dao quan và các bảo bối khác cho hết vào túi da rắn buộc chắc, xác chết bị Mặt dày bổ cho nhát cuốc chim cũng bị lăn xuống hố, Mặt dày lấy lại chiếc cuốc, cầm sẵn trong tay thủ thế. Tôi nhớ tới Điếu bát cũng bị rơi xuống đây, tại sao lại không thấy đâu nhỉ?
Tôi băn khoăn: Điếu bát bị rơi xuống đây chắc lành ít dữ nhiều, chắc là cũng rơi nát người rồi. Nhưng tôi không thể bỏ mặc anh ta được.
Mặt dày cũng nói: Đã rơi xuống đây sao không thấy người đâu nhỉ? Hay là bị quả bom đè bẹp rồi?
Tôi không nhìn thấy quả bom đè bẹp phải ai, cái hố này không nhỏ, ba người chúng tôi thắp đuốc lên cũng chỉ soi sáng được bảy tám mét, lại bị quả bom chắn mất tầm nhìn, nên không thấy được gì phía trước cả. Dù thân nơi nguy hiểm, không lường trước được việc gì sẽ xảy ra, nhưng cái hố này không phải hố không đáy, giờ chúng tôi đang đứng an toàn trên nền đất, lại không phát hiện có gì khác thường nên tôi và Mặt dày cũng mạnh dạn hơn, đang định đi tìm Điếu bát, sống thì phải tìm thấy người mà chết thì phải tìm thấy xác.
Điền Mộ Thanh can: Điếu bát đã bị hồn ma của Na bà nhập vào, các anh cũng biết đấy, nếu không chặt được đầu thì đám oan khí đó không thể nào tan được, không ai có thể cứu được anh ta. Nếu có thể ra được bên ngoài thì các anh phải nhanh chóng thoát thân, đừng có để mất mạng ở đây.
Tôi nghĩ cũng phải, nhưng vẫn chưa cam tâm, hơn nữa qua cách nói của cô ấy thì dường như cô không có ý ra khỏi nơi này. Tôi đang định hỏi cho rõ ràng thì thấy thấp thoáng bóng người di chuyển trong lớp sương mù, những người dân kia đã đuổi theo xuống tới nơi. Dưới hố này không thể so với trên thanh đá được, ở trên thì có thể cố gắng cầm cự, dưới này tứ bề là tường, nếu bị vây đánh thì chỉ còn nước chết không có đất chôn.
Chúng tôi biết rõ địa thế nơi đây bất lợi cho mình, không thể chống lại những xác chết bị ma nhập kia, nên đành phải nấp vào phía kia của quả bom, nín thở quan sát tình hình phía trước.
Vỏ ngoài của quả bom đã hoen rỉ nặng, cao khoảng tới ngực người bình thường, bị rơi xuống hố nhưng không nổ, chắc là chỉ còn là đống sắt vụn.
Tôi nói với Mặt dày và Điền Mộ Thanh: Đợi những người dân kia tới gần, bọn mình đẩy quả bom này ra đè bẹp bọn nó.
Mặt dày nói: Cũng là một cách, cậu nghĩ kỹ chưa, tiếp theo thì làm thế nào?
Tôi nói: Mẹ nó còn có tiếp theo... còn chưa nói xong thì một người dân thét lên tiếng kêu chói tai rồi lao tới trong đám sương mù.
Mặt dày kêu lên: Bọn người chết sống lại kia xông tới rồi kia, hai người đừng nhìn nữa, mau đẩy quả bom đi.
Ba người chúng tôi đứng tấn kê vai và tay vào quả bom đẩy về phía trước, nào ngờ phía dưới hố đất không bằng phẳng, quả bom lại nặng, đẩy mấy lần không những không nhích lên trước được chút nào, thậm chí còn lăn ngược về phía chúng tôi.
Một xác chết phi lên trước, giơ tay định tóm lấy Điền Mộ Thanh, Mặt dày bổ một nhát cuốc vào đầu hắn, đám khói đỏ bay lên lởn vởn trong không trung mãi không chịu tan đi.
Tôi thấy trong tay Điền Mộ Thanh chỉ có bó đuốc liền lôi cô ấy lùi lại phía sau, bỗng nghe thấy tiếng kêu the thé sau lưng, quay lại thì thấy chính là Điếu bát, chiếc mặt nạ bị tôi đeo lên trước đó đã rơi xuống, khuôn mặt tối sầm, hai mắt đen sì vô hồn.
Trước đó tôi còn hơi do dự, như dùng thân cây gai mà đánh sói, kiểu gì cũng sợ, nhưng lúc này tình thế bắt buộc đành phải nhẫn tâm giơ xẻng lên phạt vào đầu Điếu bát mất một nửa, tận mắt nhìn thấy anh ta ngã trước mặt, tay tôi run lên bần bật, tim nhói đau, nhát xẻng đó như đánh vào chính mình, nhưng vừa quay lại thì tôi thấy ánh đuốc soi sáng tới nửa bên kia của chiếc hố.
/20
|