Lý Kim Lai run rẩy hồi lâu trên thuyền, còn người phụ nữ kia cũng hoảng sợ lo lắng một hồi. Nhưng hiển nhiên, nàng cũng không biết phải giải quyết thế nào cho đúng. Mãi cho đến khi một chiếc thuyền khác đến gần, rốt cuộc thì nhà đò bên kia mới đi sang hỗ trợ bằng một phương pháp chính xác.
Gã cởi quần áo ướt đẫm của người bị té sông ra, dùng khăn bông lau người, sau đó quấn trang phục sạch sẽ lên. Tiếp theo là ấn vào huyệt Nhân trung để ọc ra phần nước đọng giữa mũi và miệng, kế đó là đút vào hai thìa canh gừng, cuối cùng đã có thể giúp Lý Kim Lai thở hắt ra một hơi.
Đây vốn dĩ là một đêm đầy mong đợi, nhưng cũng là một đêm bạt vía hồn kinh. Lý Kim Lai biết ơn nhà đò đã đến cứu mình ngàn vạn lần, cũng đưa gã nửa quan tiền xem như một sự đáp tạ. Gã biết rõ, đây chính là một cái ơn cứu mạng.
Nhà đò nhận được tiền nên dĩ nhiên là tâm tình rất vui vẻ. Thế là, gã gọi các huynh đệ khác trên thuyền của mình sang, giúp Lý Kim Lai chèo thuyền trở lại bờ. Trong tình trạng hiện tại của Lý Kim Lai, chắc chắn khó mà chèo thuyền được rồi.
Thuyền hoa của Lý Kim Lai cập bờ, còn nhà đò giúp đỡ kia cũng vui vẻ rời đi. Dù sao đi nữa, cơ bản là gã cũng không hề phải xuống nước cứu người, đối phương chỉ tự mình trèo lên, sau đó là kiệt sức và lạnh. Giúp chút chuyện như thế mà được đến nửa quan tiền, vậy là quá hời rồi.
Lý Kim Lai quấn lấy hai chiếc chăn mềm nằm trên phảng thuyền, người phụ nữ kia ngồi bên cạnh chăm sóc gã. Hiện tại, cả hai đều đã bình tĩnh trở lại, không còn hoảng loạn và thực hiện hành vi hoang đường như ban nãy nữa rồi.
Bến tàu của Xuân Huệ phủ lúc này tương đối yên tĩnh, hầu hết các thuyền hoa, lâu thuyền, thuyền nhỏ trang trí lộng lẫy... đều đã nhanh chóng rời khỏi khu bờ bên cạnh,
Chờ nhà đò kia vừa rời đi, vốn dĩ Lý Kim Lai đang trong trạng thái uể oải tinh thần, cả người run rẩy nay lại lập tức mừng rõ, ưu tiên quan sát xung quanh một lượt rồi nhìn sang người bên cạnh.
“Tiểu Ngọc, gã nọ nói ta tự mình leo lên thuyền, có đúng không?”
Nàng kia đáp mà lòng vẫn còn sợ hãi:
“Muội, muội nói với gã đó rằng, lúc đó muội quá sợ hãi và cứ nghĩ chàng sắp chết đuối. Nhưng khi vừa nhìn lại, chàng đã ở trên thuyền.”
Lời của người phụ nữ nói hoàn toàn là sự thật, nhưng Lý Kim Lai chợt vỗ tay ngay lập tức khi nghe xong.
“Nói hay lắm! Chính là như thế!”
Lý Kim Lai tự biết tình cảnh của mình, bèn vươn tay sờ trán; vị trí bị chân ghế đập trúng đang sưng đỏ, vừa chạm vào là đau nhức vô cùng.
“Hít hà...”
Thấy vậy, người phụ nữ kia cũng không dám nhìn gã.
“Lý công tử, muội không cố ý…”
“Này này, không quan trọng, không thành vấn đề! Nếu không nhờ một cú thả trúng của nàng, có lẽ chuyện đã không thành!”
Lý Kim Lai xua tay, tỏ vẻ hưng phấn ra mặt, cũng không nói lời trách cứ nào. Gã nới lỏng tấm chăn đang ôm chặt, lấy túi gấm đỏ vẫn đeo quanh cổ ra, sau đó cẩn thận tháo dây, để lộ lá bùa chú bên trong.
Khi người phụ nữ tò mò quan sát, Lý Kim Lai sử dụng lá bùa, tiếp theo là một vầng sáng xanh nhạt yếu ớt tỏa ra.
“Xong rồi! Ha ha ha ha...”
Lý Kim Lai cười một lúc rồi đột nhiên im bặt. Sau đó, gã đưa mắt nhìn quanh cửa sổ thuyền hoa, cảm giác mình không nên quá đắc ý khi ở đây. Ít ra, gã nên về nhà trước mới hợp lý. Thế là, Lý Kim Lai vừa hứng chí, vừa vội vàng cất lá bùa vào túi lại, nhưng nét vui mừng trên khuôn mặt gã thì không thể nào che giấu được.
“Ha ha, Tiểu Ngọc, nàng đã giúp ta một việc rất lớn vào đêm nay. Hai ngày nữa, ta sẽ chuộc thân cho nàng, cưới nàng về nhà làm tiểu thiếp.”
Người phụ nữ vô cùng vui mừng; trông những người như nàng có vẻ thanh lịch và duyên dáng, nhưng cuối cùng cũng chỉ là hàng nữ tử chốn câu lan*. Việc có thể sớm thoát khỏi thân phận hèn hạ là một giấc mộng mà mỗi một người đều luôn hằng mong ước.
“Thật sao?”
“Đương nhiên là thật! Ta nói dối nàng bao giờ!”
Lý Kim Lai xoa nhẹ bàn tay nhỏ bé của người phụ nữ kia, dù ngoài miệng cười vui hớn hở nhưng trong lòng lại nghĩ đến một chuyện tốt khác.
Tại chiếc thuyền hoa nhỏ nơi Kế Duyên và Bạch Tề đang ngồi, Đại Thanh Ngư đã quay trở lại đó, còn khuấy động một vài gợn sóng dưới mũi thuyền.
“Đại Thanh Ngư, ngươi thật lợi hại! Vừa cứu thêm được một người nha!”
Hồ Vân duỗi móng vuốt xuống nghịch nước, cả ánh mắt và khóe miệng đều đầy ấp một vẻ ngợi khen. Mặc dù Hồ Vân có đôi khi cũng ghét bỏ con người, hoặc là ghét bỏ một số người nào đó, nhưng vì được Kế Duyên ảnh hưởng trong một thời gian khá dài nên hiểu rất rõ chuyện thị phi đúng sai - quả thật Đại Thanh Ngư vừa làm một việc tốt đấy.
“Bõm bõm bõm...”
Đại Thanh Ngư trong nước đáp lại bằng một tràng đập nước đầy khí thế, lắc lư thân mình và vây cá trong lòng nước, tựa như bảo rằng đây chỉ là một chuyện nhỏ.
“Tiên sinh thấy thế nào?”
Bạch Tề không nghĩ rằng người đàn ông rơi xuống nước có gì đặc biệt; thay vào đó, y cảm thấy thích thú với “hành vi thần kỳ” của người phụ nữ đằng kia. Nhưng khi Đại Thanh Ngư cứu nạn nhân rơi xuống nước lên bờ, y chợt nhìn thấy một vầng pháp quang mờ nhạt lóe lên trên cơ thể của gã đàn ông hôn mê kia, hiển nhiên là có chuẩn bị từ trước.
Kế Duyên nhìn Bạch Tề, nói:
“Bạch tiên sinh là chính thần của Xuân Mộc giang. Đương nhiên, chuyện xảy ra trên sông dĩ nhiên là do ngươi làm chủ rồi.”
...
Sáng hôm sau, Lý Kim Lai mang theo túi gấm kia, hào hứng len lỏi qua các con phố trong Xuân Huệ phủ, tiến về nơi mà vị pháp sư kia đang cư ngụ.
Chẳng bao lâu, gã đã đến ngõ Liễu Diệp hẻo lánh, tìm đến một tòa nhà lớn khang trang. Ngôi nhà này có phần cổng khác hẳn với cổng của những hộ gia đình khác, khác ở đây không phải là khác màu sơn này hay màu sơn kia, mà hiện diện trên cánh cổng này là một bức tranh rất đơn giản. Một bên vẽ một loài động vật cổ quái với hàm răng nanh, bên còn lại là hình ảnh một loài chim nào đó với nét vẽ một đường cong đơn giản
“Cốc cốc cốc cốc...”
Lý Kim Lai gõ cửa, đợi một hồi thì nghe thấy tiếng bước chân tiến đến. Sau đó, gã lập tức nghe thấy tiếng chốt cửa được mở ra. Kẻ mở cửa cho gã là một đứa trẻ to con khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, mặc một chiếc áo lụa màu xanh với ống tay áo thêu hình những khóm mây, đội một chiếc mũ nhỏ đi kèm với chiếc trâm ngọc thượng hạng. Đứa bé này môi đỏ, răng trắng, trông vô cùng thoát tục.
“Ồ, đa tạ tiểu sư phụ đã mở cửa, Lý mỗ lại tới làm phiền!”
Lý Kim Lai không dám vô lễ, vội vàng cúi đầu chào cậu bé.
“Ừm, vào đi! Sư phụ đang ở bên trong!”
Cậu bé gật đầu với Lý Kim Lai, sau đó để cửa mở, khi gã bước vào thì nó đóng cửa lại.
Trong sân này tuy không có đình đài lầu các, nhưng lại có sân trước và sân sau cùng vài căn phòng. Đến khi vào sân sau, gã chợt ngửi thấy một mùi đàn hương thoang thoảng bay đến.
Trong một căn phòng ở sân sau, một lão giả tiên phong đạo cốt trong bộ áo dài đang ngồi nhắm mắt trên bồ đoàn; trước mặt lão nhân có bày một chiếc bàn nhỏ, trên bàn có lư hương, ấm trà và chén nhỏ. Trong lư hương có một cây đàn hương đang cháy dở. Nhìn chung, khung cảnh trông rất tự nhiên, thoát tục, không vướng bụi hồng trần.
Vừa nhìn thấy hình ảnh thế này, Lý Kim Lai lập tức cảm thấy có chút hưng phấn. Gã muốn tranh thủ bước nhanh hơn, thế nhưng rốt cuộc vẫn phải đi theo thằng bé với tốc độ không nhanh không chậm, chẳng dám vượt qua mặt nó.
Chẳng mấy chốc, cả hai lần lượt đến trước cửa phòng. Thằng nhóc đứng bên ngoài, cung kính nói vọng vào trong:
“Sư phụ, Lý tiên sinh đến rồi.”
“Ừ!”
Lão nhân nọ từ từ mở mắt nhìn Lý Kim Lai, kẻ đang mang một vẻ mặt vui mừng.
“Xem ra, Lý tiên sinh đã đạt được thứ gì đó rồi à?”
Lý Kim Lai không kìm được vui mừng nữa, trên mặt nở nụ cười.
“Đa tạ đại sư đã ban pháp chú cho ta! Đêm qua, ta giả vờ làm kẻ đuối nước trên dòng Xuân Mộc giang, suýt nữa là biến giả thành thật. Nhưng cuối cùng, quả thật đã khiến cá thần đến cứu ta lên thuyền, còn đây là lá bùa kia.
Nói xong, Lý Kim Lai rút túi gấm đang treo bằng dây đỏ bên người ra, tiến lại gần lão nhân kia vài bước rồi dùng hai tay dâng lên.
Trên mặt nở một nụ cười, lão ta duỗi tay cầm lấy túi gấm, sau đó mở ra kiểm tra lá bùa. Khi trông thấy thực sự có một vầng sáng xanh mờ nhạt lướt qua, lão nhân này cũng kinh ngạc.
‘Thực sự có cá thần cứu người ư?’
Nhưng sự ngạc nhiên trong mắt ông ta chỉ là thoáng qua, và vì đang cúi đầu nhìn xuống phù chú nên Lý Kim Lai không thể nhìn thấy biểu cảm này.
“Ừm, quả nhiên đã nhuốm lấy linh quang. Nếu tìm được nghệ nhân lành nghề để tạc tượng cá, sau đó giấu bùa chú này vào bụng cá, tôn kính lễ bái nhiều lần thì vị cá thần kia sẽ có thể cảm nhận được.”
Nói xong, lão giả cầm lá bùa trả lại Lý Kim Lai. Gã công tử kia cũng nhận lấy rồi liên tục chắp tay cúi chào.
“Đa tạ, đa tạ đại sư chỉ giáo! Đa tạ đại sư! Đây là chút lòng thành, dù không bày tỏ hết kính ý nhưng cũng xin ngài nhận cho!”
Lý Kim Lai lấy một tờ ngân phiếu bản địa của Đại Thông tiền trang từ trong túi áo ra; tờ ngân phiếu này có mệnh giá là mười lượng bạc trắng.
“Ừm, đồ nhi.”
Lão giả nhắc nhở một tiếng, đứa trẻ bên cạnh vội vàng đi tới, thay mặt nhận lấy tờ ngân phiếu rồi cất vào một cái rương nhỏ bên cạnh. Sau đó, nó dẫn Lý Kim Lai, kẻ đang háo hức về nhà để đi tìm thợ tạc tượng, ra về.
Ngay khi hai người rời đi, lão nhân trông vô cùng tiên phong đạo cốt kia lập tức đứng dậy khỏi tấm bồ đoàn, lúc đứng dậy còn chạm vào chiếc bàn khiến ấm trà và chén nhỏ xao động vài tiếng “lách cách.”
Bước đến chiếc rương nhỏ và mở ra, lão ta lấy cầm tờ ngân phiếu lên xem xét cẩn thận, kiểm tra kỹ con dấu màu đỏ và phần lạc khoản* cũng như một số hoa văn tinh tế trên tờ ngân phiếu, nhằm xác nhận đây là thật hay giả.
(*Lạc khoản: phần đề chữ và ghi tên lên một bức vẽ hoặc văn bản)
Mặc dù rất vui mừng khi nhận ra đây là ngân phiếu thật, nhưng chẳng hiểu sao trong lòng ông ta lại có chút chua xót.
‘Ôi chao... Nếu không phải do khó mà trụ nổi ở kinh thành nữa, ta nào để mắt đến mười lượng bạc này!’
“Phù phù......”
Vì cõi lòng đăm chiêu, lão nhân thờ một hơi thật dài.
“Ha ha, vị đại sư này, ngươi vừa nhận được một khoản ngân lượng xa xỉ, cớ sao lại thở dài như vậy?”
Chợt nghe thấy một giọng nói xa lạ vang lên, lão nhân đột ngột run nhẹ trong vô thức, sau đó lập tức khôi phục sự bình tĩnh trong thoáng chốc. Ông ta quay người với vẻ thờ ơ và có chút tức giận, nhưng lúc này lại trông thấy một nho sĩ trung niên mặc cẩm bào đang đứng ngoài phòng
“Ta thở dài vì thế nhân, sao vẫn còn tham lam vàng bạc đến như vậy? Ngày hôm nay chịu bỏ ra vàng bạc cũng là để thu lại nhiều hơn trong tương lai mà thôi... Ôi chao...”
Trong lúc lắc đầu thở dài, lão nhân này cũng chăm chú dò xét người vừa đến, sau đó dò hỏi:
“Các hạ là ai? Tuy Đỗ mỗ đã sớm biết ngươi vào khu vực sân sau này, nhưng nếu đến đây trong âm thầm như thế... có phải là quá vô lễ hay không?”
Người đàn ông ngoài phòng gật đầu, cười nói:
“Đúng là vô lễ thật. Ta tên là Bạch Tề, là Chính thần của dòng Xuân Mộc giang nơi đây. Không biết cao tính đại danh của các hạ là gì?”
Bạch Tề đã nhìn ra kẻ này có đạo hạnh rất nông cạn từ sớm. Không những thế, bằng vào thái độ của ông ta với vàng bạc, vậy chắc chắn không phải cao nhân gì rồi.
“A ha ha ha ha ha ... Chính thần của Xuân Mộc giang ư? Ha ha ha ha... Người trẻ tuổi, đừng chọc cười lão phu mà!”
Lão già ôm bụng mà cười, sau đó mới đứng thẳng dậy. Có thể thấy rõ, người đàn ông trung niên mặc cẩm bào trước mặt đây là một phàm nhân, cao lắm thì chỉ là một cao thủ võ lâm mà thôi, thế mà dám giả dạng Giang chính thần à?
Bạch Tề nửa cười nửa nghiêm nghị nhìn lão nhân, chờ ông ta nói tiếp.
Trên thực tế, lời chỉ điểm của lão giả này cho Lý Kim Lai nghe vừa rồi cũng không có hại gì đối với Thanh Thanh, thậm chí còn có lợi ích nhất định. Tuy rằng bởi vì lòng tham nên điều lợi ích kia cũng bị hạn chế, nhưng vẫn là có đấy. Tuy nhiên, Lý Kim Lai sẽ chẳng thể đạt được bất cứ thu hoạch nào, à thì, có lẽ là được an ủi tâm lý một chút, hoặc gã ấy sẽ dần táo bạo hơn. Vì vậy, Bạch Tề cũng không cần gấp gáp làm gì, chờ lão nhân này mở lời.
Nhìn Bạch Tề thế này, lão giả đoán y là một vị cao thủ tự mãn là bản thân có võ công rất cao, thế nên định bụng hù dọa đối phương một lần.
“Hừm, lão phu học đạo từ một vị Tiên tôn nơi trần thế, gọi là Kế Duyên. Còn ta chính là Đỗ Trường Sinh, là Thiên sư từng được Tiên đế của Đại Trinh sắc phong đấy!”
Nói xong, lão nhân gia rất hài lòng với sự thay đổi trong biểu cảm của người đàn ông trước mặt. Vốn còn định xuất ra một vài “tuyệt chiêu” nữa, phòng hờ kẻ này không hề sợ hãi.
Mà lúc này, Bạch Tề cũng giật thót cả mình, thét to lên:
“Sư phụ ... Sư phụ ngươi là Kế tiên sinh ư?”
(Chú thích: Tác giả dùng đúng từ “câu lan”, nghĩa là chốn vui chơi liên quan đến ca hát. Có thể nàng Tiểu Ngọc này là một nàng ca kỹ, kiểu bán nghệ mà không bán thân. Tuy nhiên, tác giả lại gán ghép nàng tự nhận là thân phận hèn hạ, do đó có thể tưởng tượng ra, nàng là ca kỹ của những thanh lâu chứ không phải trong những nhóm, hội chuyên hát biểu diễn.)
Gã cởi quần áo ướt đẫm của người bị té sông ra, dùng khăn bông lau người, sau đó quấn trang phục sạch sẽ lên. Tiếp theo là ấn vào huyệt Nhân trung để ọc ra phần nước đọng giữa mũi và miệng, kế đó là đút vào hai thìa canh gừng, cuối cùng đã có thể giúp Lý Kim Lai thở hắt ra một hơi.
Đây vốn dĩ là một đêm đầy mong đợi, nhưng cũng là một đêm bạt vía hồn kinh. Lý Kim Lai biết ơn nhà đò đã đến cứu mình ngàn vạn lần, cũng đưa gã nửa quan tiền xem như một sự đáp tạ. Gã biết rõ, đây chính là một cái ơn cứu mạng.
Nhà đò nhận được tiền nên dĩ nhiên là tâm tình rất vui vẻ. Thế là, gã gọi các huynh đệ khác trên thuyền của mình sang, giúp Lý Kim Lai chèo thuyền trở lại bờ. Trong tình trạng hiện tại của Lý Kim Lai, chắc chắn khó mà chèo thuyền được rồi.
Thuyền hoa của Lý Kim Lai cập bờ, còn nhà đò giúp đỡ kia cũng vui vẻ rời đi. Dù sao đi nữa, cơ bản là gã cũng không hề phải xuống nước cứu người, đối phương chỉ tự mình trèo lên, sau đó là kiệt sức và lạnh. Giúp chút chuyện như thế mà được đến nửa quan tiền, vậy là quá hời rồi.
Lý Kim Lai quấn lấy hai chiếc chăn mềm nằm trên phảng thuyền, người phụ nữ kia ngồi bên cạnh chăm sóc gã. Hiện tại, cả hai đều đã bình tĩnh trở lại, không còn hoảng loạn và thực hiện hành vi hoang đường như ban nãy nữa rồi.
Bến tàu của Xuân Huệ phủ lúc này tương đối yên tĩnh, hầu hết các thuyền hoa, lâu thuyền, thuyền nhỏ trang trí lộng lẫy... đều đã nhanh chóng rời khỏi khu bờ bên cạnh,
Chờ nhà đò kia vừa rời đi, vốn dĩ Lý Kim Lai đang trong trạng thái uể oải tinh thần, cả người run rẩy nay lại lập tức mừng rõ, ưu tiên quan sát xung quanh một lượt rồi nhìn sang người bên cạnh.
“Tiểu Ngọc, gã nọ nói ta tự mình leo lên thuyền, có đúng không?”
Nàng kia đáp mà lòng vẫn còn sợ hãi:
“Muội, muội nói với gã đó rằng, lúc đó muội quá sợ hãi và cứ nghĩ chàng sắp chết đuối. Nhưng khi vừa nhìn lại, chàng đã ở trên thuyền.”
Lời của người phụ nữ nói hoàn toàn là sự thật, nhưng Lý Kim Lai chợt vỗ tay ngay lập tức khi nghe xong.
“Nói hay lắm! Chính là như thế!”
Lý Kim Lai tự biết tình cảnh của mình, bèn vươn tay sờ trán; vị trí bị chân ghế đập trúng đang sưng đỏ, vừa chạm vào là đau nhức vô cùng.
“Hít hà...”
Thấy vậy, người phụ nữ kia cũng không dám nhìn gã.
“Lý công tử, muội không cố ý…”
“Này này, không quan trọng, không thành vấn đề! Nếu không nhờ một cú thả trúng của nàng, có lẽ chuyện đã không thành!”
Lý Kim Lai xua tay, tỏ vẻ hưng phấn ra mặt, cũng không nói lời trách cứ nào. Gã nới lỏng tấm chăn đang ôm chặt, lấy túi gấm đỏ vẫn đeo quanh cổ ra, sau đó cẩn thận tháo dây, để lộ lá bùa chú bên trong.
Khi người phụ nữ tò mò quan sát, Lý Kim Lai sử dụng lá bùa, tiếp theo là một vầng sáng xanh nhạt yếu ớt tỏa ra.
“Xong rồi! Ha ha ha ha...”
Lý Kim Lai cười một lúc rồi đột nhiên im bặt. Sau đó, gã đưa mắt nhìn quanh cửa sổ thuyền hoa, cảm giác mình không nên quá đắc ý khi ở đây. Ít ra, gã nên về nhà trước mới hợp lý. Thế là, Lý Kim Lai vừa hứng chí, vừa vội vàng cất lá bùa vào túi lại, nhưng nét vui mừng trên khuôn mặt gã thì không thể nào che giấu được.
“Ha ha, Tiểu Ngọc, nàng đã giúp ta một việc rất lớn vào đêm nay. Hai ngày nữa, ta sẽ chuộc thân cho nàng, cưới nàng về nhà làm tiểu thiếp.”
Người phụ nữ vô cùng vui mừng; trông những người như nàng có vẻ thanh lịch và duyên dáng, nhưng cuối cùng cũng chỉ là hàng nữ tử chốn câu lan*. Việc có thể sớm thoát khỏi thân phận hèn hạ là một giấc mộng mà mỗi một người đều luôn hằng mong ước.
“Thật sao?”
“Đương nhiên là thật! Ta nói dối nàng bao giờ!”
Lý Kim Lai xoa nhẹ bàn tay nhỏ bé của người phụ nữ kia, dù ngoài miệng cười vui hớn hở nhưng trong lòng lại nghĩ đến một chuyện tốt khác.
Tại chiếc thuyền hoa nhỏ nơi Kế Duyên và Bạch Tề đang ngồi, Đại Thanh Ngư đã quay trở lại đó, còn khuấy động một vài gợn sóng dưới mũi thuyền.
“Đại Thanh Ngư, ngươi thật lợi hại! Vừa cứu thêm được một người nha!”
Hồ Vân duỗi móng vuốt xuống nghịch nước, cả ánh mắt và khóe miệng đều đầy ấp một vẻ ngợi khen. Mặc dù Hồ Vân có đôi khi cũng ghét bỏ con người, hoặc là ghét bỏ một số người nào đó, nhưng vì được Kế Duyên ảnh hưởng trong một thời gian khá dài nên hiểu rất rõ chuyện thị phi đúng sai - quả thật Đại Thanh Ngư vừa làm một việc tốt đấy.
“Bõm bõm bõm...”
Đại Thanh Ngư trong nước đáp lại bằng một tràng đập nước đầy khí thế, lắc lư thân mình và vây cá trong lòng nước, tựa như bảo rằng đây chỉ là một chuyện nhỏ.
“Tiên sinh thấy thế nào?”
Bạch Tề không nghĩ rằng người đàn ông rơi xuống nước có gì đặc biệt; thay vào đó, y cảm thấy thích thú với “hành vi thần kỳ” của người phụ nữ đằng kia. Nhưng khi Đại Thanh Ngư cứu nạn nhân rơi xuống nước lên bờ, y chợt nhìn thấy một vầng pháp quang mờ nhạt lóe lên trên cơ thể của gã đàn ông hôn mê kia, hiển nhiên là có chuẩn bị từ trước.
Kế Duyên nhìn Bạch Tề, nói:
“Bạch tiên sinh là chính thần của Xuân Mộc giang. Đương nhiên, chuyện xảy ra trên sông dĩ nhiên là do ngươi làm chủ rồi.”
...
Sáng hôm sau, Lý Kim Lai mang theo túi gấm kia, hào hứng len lỏi qua các con phố trong Xuân Huệ phủ, tiến về nơi mà vị pháp sư kia đang cư ngụ.
Chẳng bao lâu, gã đã đến ngõ Liễu Diệp hẻo lánh, tìm đến một tòa nhà lớn khang trang. Ngôi nhà này có phần cổng khác hẳn với cổng của những hộ gia đình khác, khác ở đây không phải là khác màu sơn này hay màu sơn kia, mà hiện diện trên cánh cổng này là một bức tranh rất đơn giản. Một bên vẽ một loài động vật cổ quái với hàm răng nanh, bên còn lại là hình ảnh một loài chim nào đó với nét vẽ một đường cong đơn giản
“Cốc cốc cốc cốc...”
Lý Kim Lai gõ cửa, đợi một hồi thì nghe thấy tiếng bước chân tiến đến. Sau đó, gã lập tức nghe thấy tiếng chốt cửa được mở ra. Kẻ mở cửa cho gã là một đứa trẻ to con khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, mặc một chiếc áo lụa màu xanh với ống tay áo thêu hình những khóm mây, đội một chiếc mũ nhỏ đi kèm với chiếc trâm ngọc thượng hạng. Đứa bé này môi đỏ, răng trắng, trông vô cùng thoát tục.
“Ồ, đa tạ tiểu sư phụ đã mở cửa, Lý mỗ lại tới làm phiền!”
Lý Kim Lai không dám vô lễ, vội vàng cúi đầu chào cậu bé.
“Ừm, vào đi! Sư phụ đang ở bên trong!”
Cậu bé gật đầu với Lý Kim Lai, sau đó để cửa mở, khi gã bước vào thì nó đóng cửa lại.
Trong sân này tuy không có đình đài lầu các, nhưng lại có sân trước và sân sau cùng vài căn phòng. Đến khi vào sân sau, gã chợt ngửi thấy một mùi đàn hương thoang thoảng bay đến.
Trong một căn phòng ở sân sau, một lão giả tiên phong đạo cốt trong bộ áo dài đang ngồi nhắm mắt trên bồ đoàn; trước mặt lão nhân có bày một chiếc bàn nhỏ, trên bàn có lư hương, ấm trà và chén nhỏ. Trong lư hương có một cây đàn hương đang cháy dở. Nhìn chung, khung cảnh trông rất tự nhiên, thoát tục, không vướng bụi hồng trần.
Vừa nhìn thấy hình ảnh thế này, Lý Kim Lai lập tức cảm thấy có chút hưng phấn. Gã muốn tranh thủ bước nhanh hơn, thế nhưng rốt cuộc vẫn phải đi theo thằng bé với tốc độ không nhanh không chậm, chẳng dám vượt qua mặt nó.
Chẳng mấy chốc, cả hai lần lượt đến trước cửa phòng. Thằng nhóc đứng bên ngoài, cung kính nói vọng vào trong:
“Sư phụ, Lý tiên sinh đến rồi.”
“Ừ!”
Lão nhân nọ từ từ mở mắt nhìn Lý Kim Lai, kẻ đang mang một vẻ mặt vui mừng.
“Xem ra, Lý tiên sinh đã đạt được thứ gì đó rồi à?”
Lý Kim Lai không kìm được vui mừng nữa, trên mặt nở nụ cười.
“Đa tạ đại sư đã ban pháp chú cho ta! Đêm qua, ta giả vờ làm kẻ đuối nước trên dòng Xuân Mộc giang, suýt nữa là biến giả thành thật. Nhưng cuối cùng, quả thật đã khiến cá thần đến cứu ta lên thuyền, còn đây là lá bùa kia.
Nói xong, Lý Kim Lai rút túi gấm đang treo bằng dây đỏ bên người ra, tiến lại gần lão nhân kia vài bước rồi dùng hai tay dâng lên.
Trên mặt nở một nụ cười, lão ta duỗi tay cầm lấy túi gấm, sau đó mở ra kiểm tra lá bùa. Khi trông thấy thực sự có một vầng sáng xanh mờ nhạt lướt qua, lão nhân này cũng kinh ngạc.
‘Thực sự có cá thần cứu người ư?’
Nhưng sự ngạc nhiên trong mắt ông ta chỉ là thoáng qua, và vì đang cúi đầu nhìn xuống phù chú nên Lý Kim Lai không thể nhìn thấy biểu cảm này.
“Ừm, quả nhiên đã nhuốm lấy linh quang. Nếu tìm được nghệ nhân lành nghề để tạc tượng cá, sau đó giấu bùa chú này vào bụng cá, tôn kính lễ bái nhiều lần thì vị cá thần kia sẽ có thể cảm nhận được.”
Nói xong, lão giả cầm lá bùa trả lại Lý Kim Lai. Gã công tử kia cũng nhận lấy rồi liên tục chắp tay cúi chào.
“Đa tạ, đa tạ đại sư chỉ giáo! Đa tạ đại sư! Đây là chút lòng thành, dù không bày tỏ hết kính ý nhưng cũng xin ngài nhận cho!”
Lý Kim Lai lấy một tờ ngân phiếu bản địa của Đại Thông tiền trang từ trong túi áo ra; tờ ngân phiếu này có mệnh giá là mười lượng bạc trắng.
“Ừm, đồ nhi.”
Lão giả nhắc nhở một tiếng, đứa trẻ bên cạnh vội vàng đi tới, thay mặt nhận lấy tờ ngân phiếu rồi cất vào một cái rương nhỏ bên cạnh. Sau đó, nó dẫn Lý Kim Lai, kẻ đang háo hức về nhà để đi tìm thợ tạc tượng, ra về.
Ngay khi hai người rời đi, lão nhân trông vô cùng tiên phong đạo cốt kia lập tức đứng dậy khỏi tấm bồ đoàn, lúc đứng dậy còn chạm vào chiếc bàn khiến ấm trà và chén nhỏ xao động vài tiếng “lách cách.”
Bước đến chiếc rương nhỏ và mở ra, lão ta lấy cầm tờ ngân phiếu lên xem xét cẩn thận, kiểm tra kỹ con dấu màu đỏ và phần lạc khoản* cũng như một số hoa văn tinh tế trên tờ ngân phiếu, nhằm xác nhận đây là thật hay giả.
(*Lạc khoản: phần đề chữ và ghi tên lên một bức vẽ hoặc văn bản)
Mặc dù rất vui mừng khi nhận ra đây là ngân phiếu thật, nhưng chẳng hiểu sao trong lòng ông ta lại có chút chua xót.
‘Ôi chao... Nếu không phải do khó mà trụ nổi ở kinh thành nữa, ta nào để mắt đến mười lượng bạc này!’
“Phù phù......”
Vì cõi lòng đăm chiêu, lão nhân thờ một hơi thật dài.
“Ha ha, vị đại sư này, ngươi vừa nhận được một khoản ngân lượng xa xỉ, cớ sao lại thở dài như vậy?”
Chợt nghe thấy một giọng nói xa lạ vang lên, lão nhân đột ngột run nhẹ trong vô thức, sau đó lập tức khôi phục sự bình tĩnh trong thoáng chốc. Ông ta quay người với vẻ thờ ơ và có chút tức giận, nhưng lúc này lại trông thấy một nho sĩ trung niên mặc cẩm bào đang đứng ngoài phòng
“Ta thở dài vì thế nhân, sao vẫn còn tham lam vàng bạc đến như vậy? Ngày hôm nay chịu bỏ ra vàng bạc cũng là để thu lại nhiều hơn trong tương lai mà thôi... Ôi chao...”
Trong lúc lắc đầu thở dài, lão nhân này cũng chăm chú dò xét người vừa đến, sau đó dò hỏi:
“Các hạ là ai? Tuy Đỗ mỗ đã sớm biết ngươi vào khu vực sân sau này, nhưng nếu đến đây trong âm thầm như thế... có phải là quá vô lễ hay không?”
Người đàn ông ngoài phòng gật đầu, cười nói:
“Đúng là vô lễ thật. Ta tên là Bạch Tề, là Chính thần của dòng Xuân Mộc giang nơi đây. Không biết cao tính đại danh của các hạ là gì?”
Bạch Tề đã nhìn ra kẻ này có đạo hạnh rất nông cạn từ sớm. Không những thế, bằng vào thái độ của ông ta với vàng bạc, vậy chắc chắn không phải cao nhân gì rồi.
“A ha ha ha ha ha ... Chính thần của Xuân Mộc giang ư? Ha ha ha ha... Người trẻ tuổi, đừng chọc cười lão phu mà!”
Lão già ôm bụng mà cười, sau đó mới đứng thẳng dậy. Có thể thấy rõ, người đàn ông trung niên mặc cẩm bào trước mặt đây là một phàm nhân, cao lắm thì chỉ là một cao thủ võ lâm mà thôi, thế mà dám giả dạng Giang chính thần à?
Bạch Tề nửa cười nửa nghiêm nghị nhìn lão nhân, chờ ông ta nói tiếp.
Trên thực tế, lời chỉ điểm của lão giả này cho Lý Kim Lai nghe vừa rồi cũng không có hại gì đối với Thanh Thanh, thậm chí còn có lợi ích nhất định. Tuy rằng bởi vì lòng tham nên điều lợi ích kia cũng bị hạn chế, nhưng vẫn là có đấy. Tuy nhiên, Lý Kim Lai sẽ chẳng thể đạt được bất cứ thu hoạch nào, à thì, có lẽ là được an ủi tâm lý một chút, hoặc gã ấy sẽ dần táo bạo hơn. Vì vậy, Bạch Tề cũng không cần gấp gáp làm gì, chờ lão nhân này mở lời.
Nhìn Bạch Tề thế này, lão giả đoán y là một vị cao thủ tự mãn là bản thân có võ công rất cao, thế nên định bụng hù dọa đối phương một lần.
“Hừm, lão phu học đạo từ một vị Tiên tôn nơi trần thế, gọi là Kế Duyên. Còn ta chính là Đỗ Trường Sinh, là Thiên sư từng được Tiên đế của Đại Trinh sắc phong đấy!”
Nói xong, lão nhân gia rất hài lòng với sự thay đổi trong biểu cảm của người đàn ông trước mặt. Vốn còn định xuất ra một vài “tuyệt chiêu” nữa, phòng hờ kẻ này không hề sợ hãi.
Mà lúc này, Bạch Tề cũng giật thót cả mình, thét to lên:
“Sư phụ ... Sư phụ ngươi là Kế tiên sinh ư?”
(Chú thích: Tác giả dùng đúng từ “câu lan”, nghĩa là chốn vui chơi liên quan đến ca hát. Có thể nàng Tiểu Ngọc này là một nàng ca kỹ, kiểu bán nghệ mà không bán thân. Tuy nhiên, tác giả lại gán ghép nàng tự nhận là thân phận hèn hạ, do đó có thể tưởng tượng ra, nàng là ca kỹ của những thanh lâu chứ không phải trong những nhóm, hội chuyên hát biểu diễn.)
/669
|