Mộ Dung Phong nghe những lời đó, trong lòng dường như có sóng động, một lát sau bỗng mỉm cười: “Doãn tiểu thư từ xa đến, cũng phải để tôi hết lòng tiếp đãi, ngày mai tôi muốn mời Doãn tiểu thư đến nhà tôi ăn bữa cơm, không biết Doãn tiểu thư có vui lòng đến dự không?”.
Tĩnh Uyển từ chối hai câu rồi cũng nhận lời. Mộ Dung Phong lại hỏi: “Không biết Doãn tiểu thư hiện giờ ở đâu, ngày mai tôi phái người đến đón”. Tĩnh Uyên liền nói cho anh biết tên nhà trọ, anh hơi chau mày, lập tức cười nói: “Thừa Châu là nơi hẻo lánh, không thể so được với cố đô Càn Bình phồn hoa, quán trọ đó e rằng sẽ làm khổ tiểu thư rồi, chị Ba và Doãn tiểu thư rất có duyên, chị ấy cũng rất hiếu khách. Nếu Doãn tiểu thư không chê, có thể chuyển về đây ở không?”
Tĩnh Uyển nghe anh mời mình về ở trong Đào phủ, trong lòng đương nhiên thấy kỳ lạ, do dự một lát thấy ánh mắt ánh sáng ngời, nhìn thẳng vào mình, đôi mắt đó giống như bầu trời đêm sâu thăm thẳm. Cô nhất thời liền quyết định, nói: “E rằng làm phiền chị ba anh, vậy ngại lắm”.
Môi anh hé nụ cười, nói: “Chị ấy là người rất hiếu khách, Doãn tiểu thư yên tâm”. Anh vừa nói vừa ấn chuông gọi người, vì biết anh ở đây cho nên không phải là người hầu của Đào gia mà là tùy tùng của anh đi vào đợi lệnh, anh liền nói cho tùy tùng địa chỉ quán trọ, dặn dò: “Đi lấy hành lý của Doãn tiểu thư”, lại nói: “Nói với chị ba tôi một tiếng, bảo là tôi có việc mời chị ấy đến”.
Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, sau khi Mộ Dung Thần qua đời, Mộ Dung Phong là người đứng đầu thực chất, Tam tiểu thư tuy nhiều tuổi hơn anh, nhưng nghe anh phái người tìm mình một lát sau liền đến ngay. Mộ Dung Phong nói với cô: “Chị ba, em thay chị mời Doãn tiểu thư ở lại đây”. Tam tiểu thư cảm thấy hơi bất ngờ, nhưng lập tức cười nói: “Chị đương nhiên là tán thành rồi, Doãn tiểu thư chịu vui lòng đến thì tốt quá”. Cô nồng nhiệt nắm lấy tay Tĩnh Uyển: “Chị chỉ sợ Doãn tiểu thư chê chỗ chị buồn chán”, lại nói tiếp: “Nếu Doãn tiểu thư không chê, ở căn nhà phía Tây có được không?”. Tuy chỗ đó hơi nhỏ, nhưng lầu trên lầu dưới, xung quanh đều là hoa viên, rất yên tĩnh, hơn nữa phía trước có một cổng, nếu có việc ra vào, ví dụ như lên phố, cũng không cần đi quá xa cổng chính”.
Đào gia vốn là khu biệt viện kín cổng cao tưởng, phòng trống rất nhiều, Tam tiểu thư tự mình đưa Tĩnh Uyển đi xem phòng, sự niềm nở ấy khác hắn vừa lúc mới gặp. Căn nhà đó tuy để trống, nhưng hàng ngày đều có người quét dọn sạch sẽ, không một chút bụi. Dưới lầu là phòng khách và hai phòng nhỏ, thêm một căn bếp, trên lầu có mấy phòng ngủ, một trong số đó rất rộng rãi, thiết kế kiểu phương Tây, Tam tiểu thư dặn dò Lan Cầm, một nha hoàn làm việc ở nhà trên đến dọn chăn đệm mới tinh, trải trên chiếc giường lò xo kiểu Tây, nói: “Tất cả đều sạch sẽ, Doãn tiểu thư cứ yên tâm”. Cô lại chỉ Lan Cầm nói: “Con bé này cũng khá ngoan ngoãn, Doãn tiểu thư không đem theo người đến, để nó đến hầu hạ Doãn tiểu thư đi”.
Tĩnh Uyển đương nhiên luôn miệng cảm ơn, phòng ngủ đó có ô cửa sổ dài sát đất kiểu Tây, đầy cửa là đi ra ban công. Bầu trời đầy sao lấp lánh, những ánh sao lẻ loi chiếu vào nơi tối nhất của bóng cây. Gió thổi qua, lá cây lay động, cô nhìn về con phố bên ngoài tường không xa, đối diện lại là bờ tường đá granite, nhìn trông âm u tĩnh mịch, lờ mờ có thể thấy các căn nhà nối tiếp không ngừng, không có những chóp nhà cao cao, có vẻ đó là một tòa nhà rất lớn với lớp lớp các căn nhà.
Con đường được chiếu sáng nhờ những ngọn đèn hơi ga, soi rõ lưới điện mắc trên bờ tường đối diện, trên lưới điện buộc rất nhiều dây thép gai, trên tường cắm đầy những mảnh thủy tinh vỡ. Chỗ góc rẽ có một ngọn đèn đường, bên dưới là một trạm gác cảnh sát, dưới bờ tường cách không xa lại có một vệ binh vác súng đi đi lại lại, rõ ràng bên trong bờ tường ấy là một nơi rất quan trọng. Cô không kìm được hỏi: “Đó là chỗ nào thế?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Đó là hành dinh đốc quân”. Tĩnh Uyển bất giác “ồ” lên một tiếng, hóa ra đó chính là hành dinh đốc quân tuần duyệt sứ chính tỉnh mà người ta gọi là “Đại soái phủ”, hóa ra căn nhà này và soái phủ chỉ cách nhau một con phố, chẳng trách Tam tiểu thư lại sắp xếp như vậy.
Trưa ngày hôm sau Mộ Dung Phong sai người đến đón cô. Người đến đón tuy mặc quân phục nhưng thái độ rất nhã nhặn ôn hòa, thấy Tĩnh Uyển thì lịch sự giới thiệu: “Chào Doãn tiểu thư, tôi là Thẩm Gia Bình, đội trưởng vệ quân của Cậu Sáu, Cậu Sáu phái tôi đến đón Doãn tiểu thư”.
Tuy cô đã có sự chuẩn bị nhưng trong lòng ít nhiều vẫn thấp thỏm bất an, cô kiêu ngạo gan dạ hơn người, ngồi trên xe cuối cùng cũng trấn tỉnh lại. Đào phủ và soái phủ vốn không xa nhau, đi một lát đã đến, ô tô đi thẳng vào trong, đi thêm một đoạn rất xa rồi mới dừng lại. Đã có người hầu đợi sẵn đi lên mở cửa giúp cô, hóa ra ô tô dừng lại ở trước một tòa nhà gạch xanh rất lớn, trước lầu là vườn hoa kiểu Tây, giữa mùa xuân cành lá sum sê tươi tốt, vô cùng đẹp đẽ. Người làm dẫn cô vào bên trong, trên đường đi xuyên qua một phòng khách như cung điện, đi qua hành lang là một phòng khách thiết kế theo kiểu Tây, nền trải một tấm thảm, giẫm lên mềm mại không phát ra tiếng động, trên thảm là hình hai đóa hoa phù dung rất lớn, bộ ghế sofa giống như nhụy hoa ở giữa. Cô vừa ngồi xuống liền có người bưng trà lên.
Cô vừa uống trà vừa đợi một lát, bỗng nghe thấy bên ngoài bức bình phong có người vừa nói chuyện vừa đi vào: “Thật xin lỗi, để Doãn tiểu thư đợi lâu”. Chính là Mộ Dung Phong, ở nhà anh mặc áo sơ mi dài, khí thái anh hùng lại thêm vài phần nho nhã. Cô thướt tha đứng dậy, anh thấy cô hôm nay mặc váy dài kiểu phương Tây, càng trở nên duyên dáng, thấy cô thoải mái đưa tay ra, anh vội vàng bắt tay với cô: “Vốn định tự mình đi đón Doãn tiểu thư, nhưng buổi sáng có chút việc đột xuất cho nên đến muộn, mong Doãn tiểu thư thông cảm”.
Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu là quản lý quân sự chính trị của chín tỉnh, trăm công nghìn việc, tôi mới là người đến làm phiền, vô cùng có lỗi”. Mộ Dung Phong ngồi xuống nói chút chuyện phong cảnh Thừa Châu, không lâu sau liền có người làm đến báo: “Nhà bếp xin ý kiến Cậu Sáu, đã chuẩn bị xong hết rồi ạ”. Mộ Dung Phong nói: “Vậy ăn cơm trước đi”. Anh đứng dậy, đột nhiên nói: “Doãn tiểu thư cứ ngồi đó, tôi đi một lát rồi quay lại”. Không lâu sau, Mộ Dung Phong liền thay một bộ Tây phục đến, cười nói: “Hôm nay mời Doãn tiểu thư thử tài nghệ nấu đồ Tây của nhà chúng tôi”. Tĩnh Uyển thấy anh thay Âu phục, càng trở nên phóng khoáng phong lưu, nhưng dẫu sao trẻ tuổi, cũng thích thời thượng giống các công tử phong lưu bình thường. Lại nghe anh nói là ăn đồ Tây, cô liền đáp: “Cậu Sáu khách sáo quá rồi”.
Nhà bếp của Mộ Dung phủ đương nhiên không hề tầm thường, nấu ăn cũng rất đúng kiểu. Tuy chỉ có hai người ăn cơm, nhưng có một đống người hầu hạ rất niềm nở. Vừa mới đưa lên món chính thứ hai, bỗng một người hầu đến báo cáo: “Cậu Sáu, sư đoàn trưởng Thường xin gặp”.
Mộ Dung Phong nói: “Mời ông ấy vào đi”.
Một lát sau, người hầu liền dẫn vị sư đoàn trưởng Thường đó vào, Tĩnh Uyển thấy người này khoảng trên dưới năm mươi tuổi, dáng vẻ oai phong vừa mở miệng là tiếng vang như chuông đồng, ông ta gọi một tiếng: “Cậu Sáu”. Sự đoàn trưởng Thường nhìn thấy Tĩnh Uyển, thầm ngạc nhiên, đôi mắt chỉ lo dò xét. Vì ông ta là thuộc cấp cũ của Mộ Dung Thần nên xưa nay Mộ Dung Phong gọi là “chú Thường”, anh hỏi: “Chú Thường chắc vẫn chưa ăn cơm, ngồi xuống ăn chút nhé”. Vị sư đoàn trưởng Thường đó giận dữ đùng đùng đi đến, vì có mặt người ngoài nên một bụng tức giận mà cố kìm nén không xả ra, khó chịu nói: “Cảm ơn Cậu Sáu, tôi ăn rồi. Cậu Sáu có thể nói chuyện riêng với tôi vài câu được không?”.
Mộ Dung Phong nói: “Có gì chú cứ nói đi, Doãn tiểu thư không phải người ngoài”. Vì anh chưa kết hôn hên xưa nay không tiếp nữ giới ở nhà, sư đoàn trưởng Thường ngẫm nghĩ, cảm thấy vị Doãn tiểu thư này nhất định là người đặc biệt, ông là thuộc cấp cũ theo Mộ Dung Thần chinh chiến nhiều năm, nhiều lúc xin chỉ thị quân sự trước trưởng kỷ của Mộ Dung Thần, tứ phu nhân được Mô Dung Thần yêu chiều nhất trong những năm cuối đời luôn ở bên cạnh châm thuốc giúp ông, họ coi như không thấy bà – bây giờ cũng coi như không thấy Tĩnh Uyển, liền mở miệng nói: “Quân lương Cậu Sáu đồng ý điều động, đến bây giờ vẫn chưa tới Thượng Hả”. Mộ Dung Phong đáp: “Trước mắt quân lương thiếu hụt, chú cũng biết đấy”. Sư đoàn trưởng Thường hỏi: “Vậy tại sao Cậu Sáu lại phát hơn một ngàn bột mì cho Lưu Tử Sơn?”. Mộ Dung Phong nói: “ Lưu Tử Sơn dẫn quân trấn giữ Thượng Hải, đối đầu với Dĩnh quân, đương nhiên phải ổn định lòng quân tiền tuyến”.
Sư đoàn trưởng Thường hỏi lại: “Chẳng lẽ Thường Đức Quý tôi không phải đang dẫn quân đối đầu với Dĩnh quân sao? Tại sao Cậu Sáu điều quân lương cho Thượng Hải, lại không chịu cho Thượng Hà chúng tôi?”. Mộ Dung Phong cũng không tức giận, mỉm cười nói: “Chú Thường đừng nóng, đợi đợt quân lương này đến, cháu lập tức điều động đến cho chú”. Thường Đức Quý hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu nhất bên trọng nhất bên khinh như vậy, thiên vị Lưu Tử Sơn, thật khiến huynh đệ già chúng tôi đau lòng”. Mộ Dung Phong lạnh nhạt nói: “Chú Thường đa nghi quá, đều là đồng bào một quân, sao cháu lại nhất bên trọng nhất bên khinh chứ?”. Thường Đức Quý lại hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu từ nước ngài về, thích chơi mấy thứ đồ Tây, Lưu Tử Sơn biết chút ít về phương Tây, Cậu Sáu liền nhìn hắn ta bằng con mắt khác. Đồ của người Tây hoa hòe hoa sói, chỉ nhìn đẹp mắt. Đánh trận vẫn nên một súng một đạn, là thật nỗ lực mới có thể thắng được. Cậu Sáu chỉ nghe họ xúi bẩy lung tung, sớm muốn có ngày hối hận không kịp!”.
Mộ Dung Phong nói: “Chú Thường hà tất phải nổi nóng, chú cần quân lương, cháu chuyển đến cho chú là được rồi”. Thường Đức Quý vẫn “hừ” mộ tiếng nói: “Vậy tôi sẽ đợi”. Nói xong câu này, ông ta lại tiếp: “Cậu Sáu ăn ngon miệng, tôi xin cáo từ”.
Sau khi ông ta đi, Tĩnh Uyển nghe tiếng dao ăn quẹt trên đĩa bạc của Mộ Dung Phong, âm thanh rất rõ ràng, anh đặt dao dĩa xuống. Anh thấy cô nhìn mình liền cười cười nói: “Họ đều là người thô lỗ cầm quân đánh trận, bình thường nói chuyện đều như thế, khiến Doãn tiểu thư chê cười rồi”.Tĩnh Uyển nhẹ nhàng đáp: “Cậu Sáu đã coi tôi là bạn, hà tất phải khách sáo thế?”. Mộ Dung Phong nói: “Chung quy vẫn rất thất lễ, vốn là muốn giúp Doãn tiểu thư tẩy trần, ai ngờ lại mất hứng thế này”. Anh lại nói tiếp: “Buổi tối đại kịch viện Quốc Quang có vở Võ Gia Pha của ông chủ Ngụy, không biết Doãn tiểu thư có chịu nể mặt tôi không, coi như tôi mượn hoa dâng Phật, mượn kịch hay của ông chủ Ngụy để tạ lỗi với tiểu thư”.
Anh nói khách sáo như vậy, Tịnh Uyển không dám từ chối, nói: “Chỉ là tôi có một yêu cầu quá đáng, mong Cậu Sáu đồng ý. Tôi muốn đi thăm Hứa Kiến Chương một lát”. Mộ Dung Phong đáp: “Đây là lẽ thường tình của con người, sao nói là yêu cầu quá đáng chứ, việc này tôi có thể sắp xếp”. Anh lập tức gọi người đem giấy mực đến, vội vã viết lệnh trên bàn ăn, lại gọi người chuẩn bị xe, dặn dò: “Đưa Doãn tiểu thư đến nhà tù Đông Thành”.
Nhà tù Đông Thành ở ngoại thành, ngồi trong xe nhìn cây cối hai bên đường không ngừng lùi lại phía sau, cô cảm thấy con đường như thế đi mãi không đến đích. Bây giờ đang là mùa xuân hai bên đường bằng phẳng tĩnh mịch, xanh tươi như dệt, nhưng cô không có tâm trạng nào mà ngắm cảnh. Khó khăn lắm mới thấy bức tường cao của nhà tù, trong lòng càng trở nên buồn bã.
Trưởng nhà tù nhìn thấy bức lệnh của Mộ Dung Phong, đương nhiên vô cùng cung kính, đưa cô vào căn phòng làm việc của mình, lại đích thân pha trà xong mới dặn dò người đi đưa Hứa Kiến Chương đến. Tĩnh Uyển làm gì có tâm trạng uống trà, cô vừa nghe thấy tiếng bước chân vẳng lại từ hành lang, trong lòng đã rối bời bời. Chỉ nghe thấy tiếng lạch cạch mở cửa, hai lính canh dẫn Hứa Kiến Chương vào, quần áo trên người cũng coi như gọn gàng, chỉ là không cạo râu, gương mặt tiều tụy đến mức vàng vọt, hai xương gò má nhô lên rất cao. Không ngờ mấy ngày không gặp, một công tử phong độ đã thành tù nhân, Tĩnh Uyển đi lên một bước nắm tay anh, muốn nói chuyện, khóe miệng hơi run, chưa nói nổi một tiếng nào, nước mắt đã lã chã lăn xuống.
Trưởng nhà tù thấy tình cảnh này, liền cùng hai lính canh lui ra. Tĩnh Uyển chỉ cảm thấy tủi thân, khó nói thành lời, làm sao cũng không ngăn được nước mắt, Hứa Kiên Chương cũng rất buôn, một lát sau mới gượng nói: “Em đừng khóc”. Tĩnh Uyển giờ mới dần thôi khóc, lấy khăn tay ra lau khóe mắt nói: “Anh tạm thời chịu đựng thêm mấy ngày nữa, em đang cố gắng nghĩ cách. Vừa nãy em đã xin trưởng tù đổi giúp anh một căn phòng tốt hơn, quan tâm tới anh hơn một chút”. Hứa Kiến Chương giờ mới hỏi: “Sao em lại đến”. Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng, nói: “Cha đến tìm đường giúp, em cứ nằng nặc đòi theo cha”. Hứa Kiến Chương nghe cô nói cha đi cùng mới hơi yên tâm. Tĩnh Uyển lại đưa quần áo mình đem đến cho anh, ngoài ra có một tùi tiền nặng, nói: “Anh ở đây chắc chắn cần dùng rất nhiều tiền, nếu không đủ thì bảo người đưa thư, em lại đem đến cho anh”.
Hứa Kiến Chương nói: “Làm khó em rồi”. Anh sợ cô lo lắng, cố gắng cươi tươi nói: “Thật ra người ở đây cũng quan tâm đến anh, ăn uống cũng không quá tệ. Em đừng quá lo lắng, xem em kìa, gầy quá rồi”. Tĩnh Uyển vốn đã hơi an lòng, nghe anh nói thế, mắt lại hoe đỏ: “Anh yên tâm, em nhất định nghị cách cứu anh ra”. Hai người họ bỗng nhiên gặp mặt, có quá nhiều điều không biết phải nói từ đâu, Tĩnh Uyển thấy bên ngoài cửa lính canh và người theo hầu đưa mình đến thỉnh thoảng ngó vào trong phòng, rất nhiều lời không tiện nói, lại sợ Hứa Kiến Chương lo lắng, lung tung, chỉ nói đã tìm được người giúp đỡ, có hy vong được thả, để Hứa Kiến Chương yên tâm.
Cô ra khỏi nhà tù, lúc quay lại soái phủ, trời đã xế chiều, xe vẫn đi thẳng vào bên trong mới dừng lại. Cô xuống xe, xung quanh là cây cối rậm rạp um tùm, trời dần dần xầm tối, ánh chiều tà hắt trên lá cây, khiến người ta càng có cảm giác u buồn. Người hầu của soái phủ biết cô là khách quý của Mộ Dung Phong, làm gì có ai không nịnh bợ, họ niềm nở cười nói: “Doãn tiểu thư đến vườn hoa ngồi một lát được không? Cậu Sáu đang họp lát sau sẽ đến ngay”.
Cô ngồi uống trà ở hoa viên, vừa ngồi được một lúc,đột nhiên bên ngoài cửa có một giọng nói yểu điểu của con gái gọi: “Anh”. Cô quay đầu lại nhìn, là một cô gái khoảng hai mươi tuổi, tướng mạo tuy không phải rất đẹp, nhưng thanh tú, vừa nhìn đã biết là một tiểu thư rất thông minh. Cô này thấy trong hoa viên có người lạ liền dừng bước, Tĩnh Uyển không biết thân phận cô, cũng không tiện xưng hô, đành cười cười, chào hỏi qua loa. Đang trong lúc do dự thì nghe tiếng giày da ngoài hành lang, chính là Mộ Dung Phong đang đến.
Cô gái đó vừa nhìn thấy anh, liền gọi một tiếng: “Anh Sáu”. Tĩnh Uyển thấy làm lạ, chưa từng nghe nói anh còn có một cô em gái như thế này. Mộ Dung Phong giới thiệu hai người cho nhau, hóa ra cô gái này chính là Triệu Thù Ngưng – em họ của Mộ Dung Phong, cậu Mộ Dung Phong qua đời từ sớm. Mộ Dung phu nhân đem cô cháu gái này về nuôi ở Mộ Dung gia, sau khi Mộ Dung phu nhận qua đời, Mộ Dung Phong nhớ thương mẹ, coi cô em họ này như em ruột, cho nên Triệu Thù Ngưng lớn lên trong Mộ Dung phủ.
Lúc này Mộ Dung Phong hỏi: “Thù Ngưng, buổi tối anh mời Doãn tiểu thư đi nghe kịch, em có đi không?”. Thù Ngưng cười nói: “Xem ra, anh Sáu muốn mời khách rồi, tối em hẹn bạn đi xem phim, không thể đi được”. Lúc nói chuyện, mắt cô không nhịn được nhìn Tĩnh Uyển dò xét, Mộ Dung Phong hỏi: “ Là phim gì thế, ngay cả Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà em cũng không nghe mà lại muốn đi xem phim đó?”. Thù Ngưng đáp: “Là một bộ phim tình yêu của nước ngoài, tên là Sai đến cùng, nghe nói rất hay đấy”. Mộ Dung Phong bật cười: “Cái tên này kỳ quái thật, hình như đã từng nghe tên rồi”.
Cô ấy không đi nghe kịch, sau bữa cơm Mộ Dung Phong và Tĩnh Uyển ngồi xe ô tô đến Quốc Quang. Đại kịch viện Quốc Quang là kịch viện sang trong nhất phía Bắc, không hề thua kém với đại kịch viện Càn Trung của Càn Bình. Vì hôm nay là lần đầu Ngụy Sương Hà lên sân khấu biểu diễn tại Thừa Châu, nên những người mê kịch, diễn viên nghiệp dư, cùng với quan to, người giàu thích nghe kịch đã đợi ở trong kịch viện từ lâu, khắp lầu trên lầu dưới đã ngồi kín ghế, toàn là đầu người đen kịt.
Mộ Dung Phong đương nhiên có phòng bao ở đại kịch viên, cận vệ đã bố trí canh gác đâu vào đấy, anh khoác tay Tĩnh Uyển lên lâu, tất cả cảnh vệ đứng nghiêm vác súng hành lễ, âm thanh đồng loạt âm vang như tiếng sấm rền, ngay cả nền nhà cũng hơi rung rung, hai phòng bên vốn dĩ có không ít thuộc cấp trong quân đội, thấy anh đi vào, tất cả hô một tiếng đứng dậy, lần lượt hành lễ. Tĩnh Uyển chỉ thấy trên lầu dưới lầu, mấy trăm con mắt đều nhìn vào mình, cô tuy thoải mái phóng khoáng những cũng cảm thấy khó chịu, trong lòng hơi hối hận, không ngờ trong kịch viện này có nhiều tướng lĩnh Thừa quân đến thế.
Họ ngồi xuống, mấy nhân vật quan trọng trong Thừa quân đến chào Mộ Dung Phong, tuy họ đều mặc thường phục nhưng vẫn theo lễ nghi quân đội, Mộ Dung Phong cười nói: “Được rồi, quay về nghe kịch hết đi, tôi khó khăn lắm mới đến nghe kịch một lần, mấy người cứ bày trò như thế có để ông chủ Ngụy hát không?”. Tiếng chiêng trống trên sân khấu dần dần nổi lên, Tĩnh Uyển tuy nghe nói vở Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà nổi tiếng thiên hạ, nhưng cô có bao chuyện phải lo nghĩ, làm sao nghe nổi chứ? Mắt nhìn lên sân khấu, tâm hồn sớm đã không biết bay về phương nào.
Đang trong lúc thất thần, Lan Cầm đã gọt xong một quả táo, đưa cho Tĩnh Uyển trước, Tĩnh Uyển liền nhường cho Mộ Dung Phong cười nói: “Doãn tiểu thư không cần khách sáo, đồ lạnh như vậy, buổi tối tôi không dám ăn”. Mộ Dung Phong nghe xong câu này mới nhận lấy, tiện tay lại đưa cho Thẩm Gia Bình đứng đằng sau lưng.
Trên sân khấu, Ngụy Sương Hà đang hát đến câu: “Tay cầm cung vàng đạn bạc, bắn rơi chiếc áo lụa đẫm máu. Mở áo lụa ra xem, mới biết chị ba bị giày vò. Vội vã trở về không quản ngày đêm, vì sự đoàn viên của hai vợ chồng họ”.
Mộ Dung Phong liền nói: “Tên Tiết Bình Quý này cò có chút lương tâm, qua mười tám năm vẫn chưa quên Vương Bảo Xuyến”. Tĩnh Uyển liền nói: “Loại lương tâm này không cần cũng được. Hắn ở Tây Lương lấy công chúa Đại Chiến, mười tám năm vinh hoa phú quý, bỏ lại người vợ đã kết tóc se tơ, không thèm màng đến. Đến bây giờ nghĩ ra, cảm thấy nên quay về thăm, hắn ta coi phụ nữ trên thế giới này là cái gì chứ?”. Mộ Dung Phong nói: “Phụ nữ thời xưa cũng có điều khó xử của họ, mười tám năm đợi chờ, trinh tiết đó khiến người ta khâm phục, cho nên mới có kết thúc viên mãn làm hoàng hậu”. Tĩnh Uyển cười một tiếng, nói: “Loại đàn ông vong ân bội nghĩa như Tiết Bình Quý, vì giang sơn hoàng vị mà bỏ rơi cô ấy, cuối cùng cò vờ vĩnh cho cô ấy làm hoàng hậu, đấy mới là sự giả tạo thật sự. Đây cũng là sự thảm thương của phụ nữ thời xưa, nếu đổi là phụ nữ bây giờ, chắc chắn sẽ ném áo vàng mũ phượng vào người hắn, hiên ngang ra đi”.
Mộ Dung Phong đang định nói, vừa hay khúc: “Tây Bì nước chảy” hát xong, lầu trên lầu dưới hoan hô như sấm. Hai người cũng vỗ tay theo, Ngụy Sương Hà nhìn về phía căn phòng bao, đương nhiên vô cùng nỗ lực. Họ tiếp tục nghe kịch, trên lan can của căn phòng bao đặt đầy hạy dưa, đậu phộng, mứt hoa quả, mứt kẹo, trà, điểm tâm… Mộ Dung Phong vô cùng khách sáo, tự mình bưng tách trà đến nói: “Doãn tiểu thư, mời dùng trà”. Tĩnh Uyển vội vàng nhận lấy, luôn miệng cảm ơn. Đúng lúc đó, bỗng đằng sau lưng có người phì cười: “Hai người này, thật là khách sáo đến mức giả tạo. Trong kịch nói nâng khay ngang mày, tôn trọng nhau như khách, có lẽ chính là như thế này đây”.
Mộ Dung Phong quay đầu lại nhìn, cười vì gọi một tiếng “Dì”, hỏi “Dì tư đến lúc nào thế?”. Tĩnh Uyển đã đứng dậy, thấy quý phu nhân đó khoảng hơn ba mươi tuổi, dung mạo rất xinh đẹp, đôi mắt thanh tú dưới hàng lông mày đen, dường như có thể câu hồn đoạt phách, chưa nói đã tươi cười. Tĩnh Uyển nghe thấy cách xưng hô của Mộ Dung Phong, cô đoán là Hàn thị tứ phu nhân được yêu chiều nhất lúc Mộ Dung Thần còn sống, mọi việc Mộ Dung gia đều do bà chủ trì, phân nữa thân phận là bà chủ gia đình, vì thế Mộ Dung Phong rất tôn trọng bà. Lúc bà nắm lấy tay Tĩnh Uyển, cẩn thận dò xét cô một lượt, mới trả lời câu hỏi của Mộ Dung Phong: “Dì đến từ lúc nào hả? Chính là lúc hai người nâng khay ngang mày, làm bộ làm tịch đó”.
Mộ Dung Phong biết rõ bà hiểu nhầm, nhung không hiểu vì sao trong lòng rất hài lòng, chỉ cười ầm ờ: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân đáp: “Dì đang định về nhà, đi ngang qua đây, từ xa đã thấy cảnh vệ đứng từ cửa kịch viện đến tận phố, dì biết ngay cậu ở đây,cho nên đến xem xem”. Vì bà là trưởng bối cho nên Tĩnh Uyển rất khách sáo, đích thân bưng chiếc ghế bên cạnh đến nói: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân “ôi chao” một tiếng, cứ cười đến mức đôi mắt như ánh trăng đang chảy, luôn miệng nói: “Không dám, không dám”. Tĩnh Uyển giờ mới phát giác ra mình lỡ lời, ngại đến mức chỉ muốn độn thổ. Mộ Dung Phong thấy tính cảnh này, liền nói chen vào: “Kịch đang hay, dì nghe hết rồi về cùng chúng con nhé”. Tứ phu nhân là một người rất nghịch ngợm, thấy thế thuận miệng đáp: “Đúng thế, kịch đang hay, hai người từ từ nghe đi, dì đánh mạt chược cả ngày rồi muốn về nghỉ ngơi, không ở đây để người ta ghét đâu”. Tĩnh Uyển nghe từng câu chữ mang hai nghĩa đó của bà, bản thân lại nói sai một câu, chỉ yên lặng không nói. Mộ Dung Phong thấy mặt cô ửng đỏ, xinh đẹp rung động lòng người, tron lòng không nỡ để cô khó xử, cười nói: “Dì không chịu tha cho chúng con phải không? Kịch trên sâu khấu hay như vậy, dì cũng không chịu nghe mà muốn giễu cợt con?”
Tứ phu nhân nhoẻn miệng cười, nói: “Dì đi, dì đi ngay đây”. Đi đến cửa phòng, bà lại quay lại nhìn, cười nói: “Hai đứa từ từ nghe kịch đi”.
Tĩnh Uyển từ chối hai câu rồi cũng nhận lời. Mộ Dung Phong lại hỏi: “Không biết Doãn tiểu thư hiện giờ ở đâu, ngày mai tôi phái người đến đón”. Tĩnh Uyên liền nói cho anh biết tên nhà trọ, anh hơi chau mày, lập tức cười nói: “Thừa Châu là nơi hẻo lánh, không thể so được với cố đô Càn Bình phồn hoa, quán trọ đó e rằng sẽ làm khổ tiểu thư rồi, chị Ba và Doãn tiểu thư rất có duyên, chị ấy cũng rất hiếu khách. Nếu Doãn tiểu thư không chê, có thể chuyển về đây ở không?”
Tĩnh Uyển nghe anh mời mình về ở trong Đào phủ, trong lòng đương nhiên thấy kỳ lạ, do dự một lát thấy ánh mắt ánh sáng ngời, nhìn thẳng vào mình, đôi mắt đó giống như bầu trời đêm sâu thăm thẳm. Cô nhất thời liền quyết định, nói: “E rằng làm phiền chị ba anh, vậy ngại lắm”.
Môi anh hé nụ cười, nói: “Chị ấy là người rất hiếu khách, Doãn tiểu thư yên tâm”. Anh vừa nói vừa ấn chuông gọi người, vì biết anh ở đây cho nên không phải là người hầu của Đào gia mà là tùy tùng của anh đi vào đợi lệnh, anh liền nói cho tùy tùng địa chỉ quán trọ, dặn dò: “Đi lấy hành lý của Doãn tiểu thư”, lại nói: “Nói với chị ba tôi một tiếng, bảo là tôi có việc mời chị ấy đến”.
Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, sau khi Mộ Dung Thần qua đời, Mộ Dung Phong là người đứng đầu thực chất, Tam tiểu thư tuy nhiều tuổi hơn anh, nhưng nghe anh phái người tìm mình một lát sau liền đến ngay. Mộ Dung Phong nói với cô: “Chị ba, em thay chị mời Doãn tiểu thư ở lại đây”. Tam tiểu thư cảm thấy hơi bất ngờ, nhưng lập tức cười nói: “Chị đương nhiên là tán thành rồi, Doãn tiểu thư chịu vui lòng đến thì tốt quá”. Cô nồng nhiệt nắm lấy tay Tĩnh Uyển: “Chị chỉ sợ Doãn tiểu thư chê chỗ chị buồn chán”, lại nói tiếp: “Nếu Doãn tiểu thư không chê, ở căn nhà phía Tây có được không?”. Tuy chỗ đó hơi nhỏ, nhưng lầu trên lầu dưới, xung quanh đều là hoa viên, rất yên tĩnh, hơn nữa phía trước có một cổng, nếu có việc ra vào, ví dụ như lên phố, cũng không cần đi quá xa cổng chính”.
Đào gia vốn là khu biệt viện kín cổng cao tưởng, phòng trống rất nhiều, Tam tiểu thư tự mình đưa Tĩnh Uyển đi xem phòng, sự niềm nở ấy khác hắn vừa lúc mới gặp. Căn nhà đó tuy để trống, nhưng hàng ngày đều có người quét dọn sạch sẽ, không một chút bụi. Dưới lầu là phòng khách và hai phòng nhỏ, thêm một căn bếp, trên lầu có mấy phòng ngủ, một trong số đó rất rộng rãi, thiết kế kiểu phương Tây, Tam tiểu thư dặn dò Lan Cầm, một nha hoàn làm việc ở nhà trên đến dọn chăn đệm mới tinh, trải trên chiếc giường lò xo kiểu Tây, nói: “Tất cả đều sạch sẽ, Doãn tiểu thư cứ yên tâm”. Cô lại chỉ Lan Cầm nói: “Con bé này cũng khá ngoan ngoãn, Doãn tiểu thư không đem theo người đến, để nó đến hầu hạ Doãn tiểu thư đi”.
Tĩnh Uyển đương nhiên luôn miệng cảm ơn, phòng ngủ đó có ô cửa sổ dài sát đất kiểu Tây, đầy cửa là đi ra ban công. Bầu trời đầy sao lấp lánh, những ánh sao lẻ loi chiếu vào nơi tối nhất của bóng cây. Gió thổi qua, lá cây lay động, cô nhìn về con phố bên ngoài tường không xa, đối diện lại là bờ tường đá granite, nhìn trông âm u tĩnh mịch, lờ mờ có thể thấy các căn nhà nối tiếp không ngừng, không có những chóp nhà cao cao, có vẻ đó là một tòa nhà rất lớn với lớp lớp các căn nhà.
Con đường được chiếu sáng nhờ những ngọn đèn hơi ga, soi rõ lưới điện mắc trên bờ tường đối diện, trên lưới điện buộc rất nhiều dây thép gai, trên tường cắm đầy những mảnh thủy tinh vỡ. Chỗ góc rẽ có một ngọn đèn đường, bên dưới là một trạm gác cảnh sát, dưới bờ tường cách không xa lại có một vệ binh vác súng đi đi lại lại, rõ ràng bên trong bờ tường ấy là một nơi rất quan trọng. Cô không kìm được hỏi: “Đó là chỗ nào thế?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Đó là hành dinh đốc quân”. Tĩnh Uyển bất giác “ồ” lên một tiếng, hóa ra đó chính là hành dinh đốc quân tuần duyệt sứ chính tỉnh mà người ta gọi là “Đại soái phủ”, hóa ra căn nhà này và soái phủ chỉ cách nhau một con phố, chẳng trách Tam tiểu thư lại sắp xếp như vậy.
Trưa ngày hôm sau Mộ Dung Phong sai người đến đón cô. Người đến đón tuy mặc quân phục nhưng thái độ rất nhã nhặn ôn hòa, thấy Tĩnh Uyển thì lịch sự giới thiệu: “Chào Doãn tiểu thư, tôi là Thẩm Gia Bình, đội trưởng vệ quân của Cậu Sáu, Cậu Sáu phái tôi đến đón Doãn tiểu thư”.
Tuy cô đã có sự chuẩn bị nhưng trong lòng ít nhiều vẫn thấp thỏm bất an, cô kiêu ngạo gan dạ hơn người, ngồi trên xe cuối cùng cũng trấn tỉnh lại. Đào phủ và soái phủ vốn không xa nhau, đi một lát đã đến, ô tô đi thẳng vào trong, đi thêm một đoạn rất xa rồi mới dừng lại. Đã có người hầu đợi sẵn đi lên mở cửa giúp cô, hóa ra ô tô dừng lại ở trước một tòa nhà gạch xanh rất lớn, trước lầu là vườn hoa kiểu Tây, giữa mùa xuân cành lá sum sê tươi tốt, vô cùng đẹp đẽ. Người làm dẫn cô vào bên trong, trên đường đi xuyên qua một phòng khách như cung điện, đi qua hành lang là một phòng khách thiết kế theo kiểu Tây, nền trải một tấm thảm, giẫm lên mềm mại không phát ra tiếng động, trên thảm là hình hai đóa hoa phù dung rất lớn, bộ ghế sofa giống như nhụy hoa ở giữa. Cô vừa ngồi xuống liền có người bưng trà lên.
Cô vừa uống trà vừa đợi một lát, bỗng nghe thấy bên ngoài bức bình phong có người vừa nói chuyện vừa đi vào: “Thật xin lỗi, để Doãn tiểu thư đợi lâu”. Chính là Mộ Dung Phong, ở nhà anh mặc áo sơ mi dài, khí thái anh hùng lại thêm vài phần nho nhã. Cô thướt tha đứng dậy, anh thấy cô hôm nay mặc váy dài kiểu phương Tây, càng trở nên duyên dáng, thấy cô thoải mái đưa tay ra, anh vội vàng bắt tay với cô: “Vốn định tự mình đi đón Doãn tiểu thư, nhưng buổi sáng có chút việc đột xuất cho nên đến muộn, mong Doãn tiểu thư thông cảm”.
Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu là quản lý quân sự chính trị của chín tỉnh, trăm công nghìn việc, tôi mới là người đến làm phiền, vô cùng có lỗi”. Mộ Dung Phong ngồi xuống nói chút chuyện phong cảnh Thừa Châu, không lâu sau liền có người làm đến báo: “Nhà bếp xin ý kiến Cậu Sáu, đã chuẩn bị xong hết rồi ạ”. Mộ Dung Phong nói: “Vậy ăn cơm trước đi”. Anh đứng dậy, đột nhiên nói: “Doãn tiểu thư cứ ngồi đó, tôi đi một lát rồi quay lại”. Không lâu sau, Mộ Dung Phong liền thay một bộ Tây phục đến, cười nói: “Hôm nay mời Doãn tiểu thư thử tài nghệ nấu đồ Tây của nhà chúng tôi”. Tĩnh Uyển thấy anh thay Âu phục, càng trở nên phóng khoáng phong lưu, nhưng dẫu sao trẻ tuổi, cũng thích thời thượng giống các công tử phong lưu bình thường. Lại nghe anh nói là ăn đồ Tây, cô liền đáp: “Cậu Sáu khách sáo quá rồi”.
Nhà bếp của Mộ Dung phủ đương nhiên không hề tầm thường, nấu ăn cũng rất đúng kiểu. Tuy chỉ có hai người ăn cơm, nhưng có một đống người hầu hạ rất niềm nở. Vừa mới đưa lên món chính thứ hai, bỗng một người hầu đến báo cáo: “Cậu Sáu, sư đoàn trưởng Thường xin gặp”.
Mộ Dung Phong nói: “Mời ông ấy vào đi”.
Một lát sau, người hầu liền dẫn vị sư đoàn trưởng Thường đó vào, Tĩnh Uyển thấy người này khoảng trên dưới năm mươi tuổi, dáng vẻ oai phong vừa mở miệng là tiếng vang như chuông đồng, ông ta gọi một tiếng: “Cậu Sáu”. Sự đoàn trưởng Thường nhìn thấy Tĩnh Uyển, thầm ngạc nhiên, đôi mắt chỉ lo dò xét. Vì ông ta là thuộc cấp cũ của Mộ Dung Thần nên xưa nay Mộ Dung Phong gọi là “chú Thường”, anh hỏi: “Chú Thường chắc vẫn chưa ăn cơm, ngồi xuống ăn chút nhé”. Vị sư đoàn trưởng Thường đó giận dữ đùng đùng đi đến, vì có mặt người ngoài nên một bụng tức giận mà cố kìm nén không xả ra, khó chịu nói: “Cảm ơn Cậu Sáu, tôi ăn rồi. Cậu Sáu có thể nói chuyện riêng với tôi vài câu được không?”.
Mộ Dung Phong nói: “Có gì chú cứ nói đi, Doãn tiểu thư không phải người ngoài”. Vì anh chưa kết hôn hên xưa nay không tiếp nữ giới ở nhà, sư đoàn trưởng Thường ngẫm nghĩ, cảm thấy vị Doãn tiểu thư này nhất định là người đặc biệt, ông là thuộc cấp cũ theo Mộ Dung Thần chinh chiến nhiều năm, nhiều lúc xin chỉ thị quân sự trước trưởng kỷ của Mộ Dung Thần, tứ phu nhân được Mô Dung Thần yêu chiều nhất trong những năm cuối đời luôn ở bên cạnh châm thuốc giúp ông, họ coi như không thấy bà – bây giờ cũng coi như không thấy Tĩnh Uyển, liền mở miệng nói: “Quân lương Cậu Sáu đồng ý điều động, đến bây giờ vẫn chưa tới Thượng Hả”. Mộ Dung Phong đáp: “Trước mắt quân lương thiếu hụt, chú cũng biết đấy”. Sư đoàn trưởng Thường hỏi: “Vậy tại sao Cậu Sáu lại phát hơn một ngàn bột mì cho Lưu Tử Sơn?”. Mộ Dung Phong nói: “ Lưu Tử Sơn dẫn quân trấn giữ Thượng Hải, đối đầu với Dĩnh quân, đương nhiên phải ổn định lòng quân tiền tuyến”.
Sư đoàn trưởng Thường hỏi lại: “Chẳng lẽ Thường Đức Quý tôi không phải đang dẫn quân đối đầu với Dĩnh quân sao? Tại sao Cậu Sáu điều quân lương cho Thượng Hải, lại không chịu cho Thượng Hà chúng tôi?”. Mộ Dung Phong cũng không tức giận, mỉm cười nói: “Chú Thường đừng nóng, đợi đợt quân lương này đến, cháu lập tức điều động đến cho chú”. Thường Đức Quý hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu nhất bên trọng nhất bên khinh như vậy, thiên vị Lưu Tử Sơn, thật khiến huynh đệ già chúng tôi đau lòng”. Mộ Dung Phong lạnh nhạt nói: “Chú Thường đa nghi quá, đều là đồng bào một quân, sao cháu lại nhất bên trọng nhất bên khinh chứ?”. Thường Đức Quý lại hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu từ nước ngài về, thích chơi mấy thứ đồ Tây, Lưu Tử Sơn biết chút ít về phương Tây, Cậu Sáu liền nhìn hắn ta bằng con mắt khác. Đồ của người Tây hoa hòe hoa sói, chỉ nhìn đẹp mắt. Đánh trận vẫn nên một súng một đạn, là thật nỗ lực mới có thể thắng được. Cậu Sáu chỉ nghe họ xúi bẩy lung tung, sớm muốn có ngày hối hận không kịp!”.
Mộ Dung Phong nói: “Chú Thường hà tất phải nổi nóng, chú cần quân lương, cháu chuyển đến cho chú là được rồi”. Thường Đức Quý vẫn “hừ” mộ tiếng nói: “Vậy tôi sẽ đợi”. Nói xong câu này, ông ta lại tiếp: “Cậu Sáu ăn ngon miệng, tôi xin cáo từ”.
Sau khi ông ta đi, Tĩnh Uyển nghe tiếng dao ăn quẹt trên đĩa bạc của Mộ Dung Phong, âm thanh rất rõ ràng, anh đặt dao dĩa xuống. Anh thấy cô nhìn mình liền cười cười nói: “Họ đều là người thô lỗ cầm quân đánh trận, bình thường nói chuyện đều như thế, khiến Doãn tiểu thư chê cười rồi”.Tĩnh Uyển nhẹ nhàng đáp: “Cậu Sáu đã coi tôi là bạn, hà tất phải khách sáo thế?”. Mộ Dung Phong nói: “Chung quy vẫn rất thất lễ, vốn là muốn giúp Doãn tiểu thư tẩy trần, ai ngờ lại mất hứng thế này”. Anh lại nói tiếp: “Buổi tối đại kịch viện Quốc Quang có vở Võ Gia Pha của ông chủ Ngụy, không biết Doãn tiểu thư có chịu nể mặt tôi không, coi như tôi mượn hoa dâng Phật, mượn kịch hay của ông chủ Ngụy để tạ lỗi với tiểu thư”.
Anh nói khách sáo như vậy, Tịnh Uyển không dám từ chối, nói: “Chỉ là tôi có một yêu cầu quá đáng, mong Cậu Sáu đồng ý. Tôi muốn đi thăm Hứa Kiến Chương một lát”. Mộ Dung Phong đáp: “Đây là lẽ thường tình của con người, sao nói là yêu cầu quá đáng chứ, việc này tôi có thể sắp xếp”. Anh lập tức gọi người đem giấy mực đến, vội vã viết lệnh trên bàn ăn, lại gọi người chuẩn bị xe, dặn dò: “Đưa Doãn tiểu thư đến nhà tù Đông Thành”.
Nhà tù Đông Thành ở ngoại thành, ngồi trong xe nhìn cây cối hai bên đường không ngừng lùi lại phía sau, cô cảm thấy con đường như thế đi mãi không đến đích. Bây giờ đang là mùa xuân hai bên đường bằng phẳng tĩnh mịch, xanh tươi như dệt, nhưng cô không có tâm trạng nào mà ngắm cảnh. Khó khăn lắm mới thấy bức tường cao của nhà tù, trong lòng càng trở nên buồn bã.
Trưởng nhà tù nhìn thấy bức lệnh của Mộ Dung Phong, đương nhiên vô cùng cung kính, đưa cô vào căn phòng làm việc của mình, lại đích thân pha trà xong mới dặn dò người đi đưa Hứa Kiến Chương đến. Tĩnh Uyển làm gì có tâm trạng uống trà, cô vừa nghe thấy tiếng bước chân vẳng lại từ hành lang, trong lòng đã rối bời bời. Chỉ nghe thấy tiếng lạch cạch mở cửa, hai lính canh dẫn Hứa Kiến Chương vào, quần áo trên người cũng coi như gọn gàng, chỉ là không cạo râu, gương mặt tiều tụy đến mức vàng vọt, hai xương gò má nhô lên rất cao. Không ngờ mấy ngày không gặp, một công tử phong độ đã thành tù nhân, Tĩnh Uyển đi lên một bước nắm tay anh, muốn nói chuyện, khóe miệng hơi run, chưa nói nổi một tiếng nào, nước mắt đã lã chã lăn xuống.
Trưởng nhà tù thấy tình cảnh này, liền cùng hai lính canh lui ra. Tĩnh Uyển chỉ cảm thấy tủi thân, khó nói thành lời, làm sao cũng không ngăn được nước mắt, Hứa Kiên Chương cũng rất buôn, một lát sau mới gượng nói: “Em đừng khóc”. Tĩnh Uyển giờ mới dần thôi khóc, lấy khăn tay ra lau khóe mắt nói: “Anh tạm thời chịu đựng thêm mấy ngày nữa, em đang cố gắng nghĩ cách. Vừa nãy em đã xin trưởng tù đổi giúp anh một căn phòng tốt hơn, quan tâm tới anh hơn một chút”. Hứa Kiến Chương giờ mới hỏi: “Sao em lại đến”. Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng, nói: “Cha đến tìm đường giúp, em cứ nằng nặc đòi theo cha”. Hứa Kiến Chương nghe cô nói cha đi cùng mới hơi yên tâm. Tĩnh Uyển lại đưa quần áo mình đem đến cho anh, ngoài ra có một tùi tiền nặng, nói: “Anh ở đây chắc chắn cần dùng rất nhiều tiền, nếu không đủ thì bảo người đưa thư, em lại đem đến cho anh”.
Hứa Kiến Chương nói: “Làm khó em rồi”. Anh sợ cô lo lắng, cố gắng cươi tươi nói: “Thật ra người ở đây cũng quan tâm đến anh, ăn uống cũng không quá tệ. Em đừng quá lo lắng, xem em kìa, gầy quá rồi”. Tĩnh Uyển vốn đã hơi an lòng, nghe anh nói thế, mắt lại hoe đỏ: “Anh yên tâm, em nhất định nghị cách cứu anh ra”. Hai người họ bỗng nhiên gặp mặt, có quá nhiều điều không biết phải nói từ đâu, Tĩnh Uyển thấy bên ngoài cửa lính canh và người theo hầu đưa mình đến thỉnh thoảng ngó vào trong phòng, rất nhiều lời không tiện nói, lại sợ Hứa Kiến Chương lo lắng, lung tung, chỉ nói đã tìm được người giúp đỡ, có hy vong được thả, để Hứa Kiến Chương yên tâm.
Cô ra khỏi nhà tù, lúc quay lại soái phủ, trời đã xế chiều, xe vẫn đi thẳng vào bên trong mới dừng lại. Cô xuống xe, xung quanh là cây cối rậm rạp um tùm, trời dần dần xầm tối, ánh chiều tà hắt trên lá cây, khiến người ta càng có cảm giác u buồn. Người hầu của soái phủ biết cô là khách quý của Mộ Dung Phong, làm gì có ai không nịnh bợ, họ niềm nở cười nói: “Doãn tiểu thư đến vườn hoa ngồi một lát được không? Cậu Sáu đang họp lát sau sẽ đến ngay”.
Cô ngồi uống trà ở hoa viên, vừa ngồi được một lúc,đột nhiên bên ngoài cửa có một giọng nói yểu điểu của con gái gọi: “Anh”. Cô quay đầu lại nhìn, là một cô gái khoảng hai mươi tuổi, tướng mạo tuy không phải rất đẹp, nhưng thanh tú, vừa nhìn đã biết là một tiểu thư rất thông minh. Cô này thấy trong hoa viên có người lạ liền dừng bước, Tĩnh Uyển không biết thân phận cô, cũng không tiện xưng hô, đành cười cười, chào hỏi qua loa. Đang trong lúc do dự thì nghe tiếng giày da ngoài hành lang, chính là Mộ Dung Phong đang đến.
Cô gái đó vừa nhìn thấy anh, liền gọi một tiếng: “Anh Sáu”. Tĩnh Uyển thấy làm lạ, chưa từng nghe nói anh còn có một cô em gái như thế này. Mộ Dung Phong giới thiệu hai người cho nhau, hóa ra cô gái này chính là Triệu Thù Ngưng – em họ của Mộ Dung Phong, cậu Mộ Dung Phong qua đời từ sớm. Mộ Dung phu nhân đem cô cháu gái này về nuôi ở Mộ Dung gia, sau khi Mộ Dung phu nhận qua đời, Mộ Dung Phong nhớ thương mẹ, coi cô em họ này như em ruột, cho nên Triệu Thù Ngưng lớn lên trong Mộ Dung phủ.
Lúc này Mộ Dung Phong hỏi: “Thù Ngưng, buổi tối anh mời Doãn tiểu thư đi nghe kịch, em có đi không?”. Thù Ngưng cười nói: “Xem ra, anh Sáu muốn mời khách rồi, tối em hẹn bạn đi xem phim, không thể đi được”. Lúc nói chuyện, mắt cô không nhịn được nhìn Tĩnh Uyển dò xét, Mộ Dung Phong hỏi: “ Là phim gì thế, ngay cả Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà em cũng không nghe mà lại muốn đi xem phim đó?”. Thù Ngưng đáp: “Là một bộ phim tình yêu của nước ngoài, tên là Sai đến cùng, nghe nói rất hay đấy”. Mộ Dung Phong bật cười: “Cái tên này kỳ quái thật, hình như đã từng nghe tên rồi”.
Cô ấy không đi nghe kịch, sau bữa cơm Mộ Dung Phong và Tĩnh Uyển ngồi xe ô tô đến Quốc Quang. Đại kịch viện Quốc Quang là kịch viện sang trong nhất phía Bắc, không hề thua kém với đại kịch viện Càn Trung của Càn Bình. Vì hôm nay là lần đầu Ngụy Sương Hà lên sân khấu biểu diễn tại Thừa Châu, nên những người mê kịch, diễn viên nghiệp dư, cùng với quan to, người giàu thích nghe kịch đã đợi ở trong kịch viện từ lâu, khắp lầu trên lầu dưới đã ngồi kín ghế, toàn là đầu người đen kịt.
Mộ Dung Phong đương nhiên có phòng bao ở đại kịch viên, cận vệ đã bố trí canh gác đâu vào đấy, anh khoác tay Tĩnh Uyển lên lâu, tất cả cảnh vệ đứng nghiêm vác súng hành lễ, âm thanh đồng loạt âm vang như tiếng sấm rền, ngay cả nền nhà cũng hơi rung rung, hai phòng bên vốn dĩ có không ít thuộc cấp trong quân đội, thấy anh đi vào, tất cả hô một tiếng đứng dậy, lần lượt hành lễ. Tĩnh Uyển chỉ thấy trên lầu dưới lầu, mấy trăm con mắt đều nhìn vào mình, cô tuy thoải mái phóng khoáng những cũng cảm thấy khó chịu, trong lòng hơi hối hận, không ngờ trong kịch viện này có nhiều tướng lĩnh Thừa quân đến thế.
Họ ngồi xuống, mấy nhân vật quan trọng trong Thừa quân đến chào Mộ Dung Phong, tuy họ đều mặc thường phục nhưng vẫn theo lễ nghi quân đội, Mộ Dung Phong cười nói: “Được rồi, quay về nghe kịch hết đi, tôi khó khăn lắm mới đến nghe kịch một lần, mấy người cứ bày trò như thế có để ông chủ Ngụy hát không?”. Tiếng chiêng trống trên sân khấu dần dần nổi lên, Tĩnh Uyển tuy nghe nói vở Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà nổi tiếng thiên hạ, nhưng cô có bao chuyện phải lo nghĩ, làm sao nghe nổi chứ? Mắt nhìn lên sân khấu, tâm hồn sớm đã không biết bay về phương nào.
Đang trong lúc thất thần, Lan Cầm đã gọt xong một quả táo, đưa cho Tĩnh Uyển trước, Tĩnh Uyển liền nhường cho Mộ Dung Phong cười nói: “Doãn tiểu thư không cần khách sáo, đồ lạnh như vậy, buổi tối tôi không dám ăn”. Mộ Dung Phong nghe xong câu này mới nhận lấy, tiện tay lại đưa cho Thẩm Gia Bình đứng đằng sau lưng.
Trên sân khấu, Ngụy Sương Hà đang hát đến câu: “Tay cầm cung vàng đạn bạc, bắn rơi chiếc áo lụa đẫm máu. Mở áo lụa ra xem, mới biết chị ba bị giày vò. Vội vã trở về không quản ngày đêm, vì sự đoàn viên của hai vợ chồng họ”.
Mộ Dung Phong liền nói: “Tên Tiết Bình Quý này cò có chút lương tâm, qua mười tám năm vẫn chưa quên Vương Bảo Xuyến”. Tĩnh Uyển liền nói: “Loại lương tâm này không cần cũng được. Hắn ở Tây Lương lấy công chúa Đại Chiến, mười tám năm vinh hoa phú quý, bỏ lại người vợ đã kết tóc se tơ, không thèm màng đến. Đến bây giờ nghĩ ra, cảm thấy nên quay về thăm, hắn ta coi phụ nữ trên thế giới này là cái gì chứ?”. Mộ Dung Phong nói: “Phụ nữ thời xưa cũng có điều khó xử của họ, mười tám năm đợi chờ, trinh tiết đó khiến người ta khâm phục, cho nên mới có kết thúc viên mãn làm hoàng hậu”. Tĩnh Uyển cười một tiếng, nói: “Loại đàn ông vong ân bội nghĩa như Tiết Bình Quý, vì giang sơn hoàng vị mà bỏ rơi cô ấy, cuối cùng cò vờ vĩnh cho cô ấy làm hoàng hậu, đấy mới là sự giả tạo thật sự. Đây cũng là sự thảm thương của phụ nữ thời xưa, nếu đổi là phụ nữ bây giờ, chắc chắn sẽ ném áo vàng mũ phượng vào người hắn, hiên ngang ra đi”.
Mộ Dung Phong đang định nói, vừa hay khúc: “Tây Bì nước chảy” hát xong, lầu trên lầu dưới hoan hô như sấm. Hai người cũng vỗ tay theo, Ngụy Sương Hà nhìn về phía căn phòng bao, đương nhiên vô cùng nỗ lực. Họ tiếp tục nghe kịch, trên lan can của căn phòng bao đặt đầy hạy dưa, đậu phộng, mứt hoa quả, mứt kẹo, trà, điểm tâm… Mộ Dung Phong vô cùng khách sáo, tự mình bưng tách trà đến nói: “Doãn tiểu thư, mời dùng trà”. Tĩnh Uyển vội vàng nhận lấy, luôn miệng cảm ơn. Đúng lúc đó, bỗng đằng sau lưng có người phì cười: “Hai người này, thật là khách sáo đến mức giả tạo. Trong kịch nói nâng khay ngang mày, tôn trọng nhau như khách, có lẽ chính là như thế này đây”.
Mộ Dung Phong quay đầu lại nhìn, cười vì gọi một tiếng “Dì”, hỏi “Dì tư đến lúc nào thế?”. Tĩnh Uyển đã đứng dậy, thấy quý phu nhân đó khoảng hơn ba mươi tuổi, dung mạo rất xinh đẹp, đôi mắt thanh tú dưới hàng lông mày đen, dường như có thể câu hồn đoạt phách, chưa nói đã tươi cười. Tĩnh Uyển nghe thấy cách xưng hô của Mộ Dung Phong, cô đoán là Hàn thị tứ phu nhân được yêu chiều nhất lúc Mộ Dung Thần còn sống, mọi việc Mộ Dung gia đều do bà chủ trì, phân nữa thân phận là bà chủ gia đình, vì thế Mộ Dung Phong rất tôn trọng bà. Lúc bà nắm lấy tay Tĩnh Uyển, cẩn thận dò xét cô một lượt, mới trả lời câu hỏi của Mộ Dung Phong: “Dì đến từ lúc nào hả? Chính là lúc hai người nâng khay ngang mày, làm bộ làm tịch đó”.
Mộ Dung Phong biết rõ bà hiểu nhầm, nhung không hiểu vì sao trong lòng rất hài lòng, chỉ cười ầm ờ: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân đáp: “Dì đang định về nhà, đi ngang qua đây, từ xa đã thấy cảnh vệ đứng từ cửa kịch viện đến tận phố, dì biết ngay cậu ở đây,cho nên đến xem xem”. Vì bà là trưởng bối cho nên Tĩnh Uyển rất khách sáo, đích thân bưng chiếc ghế bên cạnh đến nói: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân “ôi chao” một tiếng, cứ cười đến mức đôi mắt như ánh trăng đang chảy, luôn miệng nói: “Không dám, không dám”. Tĩnh Uyển giờ mới phát giác ra mình lỡ lời, ngại đến mức chỉ muốn độn thổ. Mộ Dung Phong thấy tính cảnh này, liền nói chen vào: “Kịch đang hay, dì nghe hết rồi về cùng chúng con nhé”. Tứ phu nhân là một người rất nghịch ngợm, thấy thế thuận miệng đáp: “Đúng thế, kịch đang hay, hai người từ từ nghe đi, dì đánh mạt chược cả ngày rồi muốn về nghỉ ngơi, không ở đây để người ta ghét đâu”. Tĩnh Uyển nghe từng câu chữ mang hai nghĩa đó của bà, bản thân lại nói sai một câu, chỉ yên lặng không nói. Mộ Dung Phong thấy mặt cô ửng đỏ, xinh đẹp rung động lòng người, tron lòng không nỡ để cô khó xử, cười nói: “Dì không chịu tha cho chúng con phải không? Kịch trên sâu khấu hay như vậy, dì cũng không chịu nghe mà muốn giễu cợt con?”
Tứ phu nhân nhoẻn miệng cười, nói: “Dì đi, dì đi ngay đây”. Đi đến cửa phòng, bà lại quay lại nhìn, cười nói: “Hai đứa từ từ nghe kịch đi”.
/33
|