Xong việc linh đan, tiếp theo Thành Đạt giải quyết nốt việc đi học thêm về chiến tướng. Trung tâm đào tạo chiến tướng mà Thành Đạt quyết định theo học là một trung tâm nhỏ, mới mở cửa khai trương. Từ kinh nghiệm lăn lộn nơi đầu đường góc phố của Thành Đạt thì chính những trung tâm như vậy mới hay có những bài giảng hay, hấp dẫn, giảng viên có thể không có chất lượng, nhưng lại chịu khó, nỗ lực, giảng dạy những kiến thức cơ bản cho đám học sinh rỗng ruột như gã nhất. Những trung tâm lâu năm và có chút danh tiếng thì việc các giảng viên chỉ giảng dạy những kiến thức ‘trên trời’ hay coi đám lính mới to toe vào nghề như Thành Đạt như một lũ ‘thiểu năng’, ngu ngốc... có thể coi như một phần đặc trưng và là đồ trang sức cho danh vọng, địa vị của họ. Thành Đạt có ngồi nghe những lời giảng như vậy cả đời cũng không thể hiểu nổi mấy lão già lẩn thẩn trên kia nói cái gì chứ đừng mong có khả năng trở thành một chiến tướng tài ba chỉ sau một vài khóa học.
Số học viên trong trung tâm hay có thể nói chính xác hơn là số học viên có mặt trong căn phòng giảng dạy này chỉ có hơn mười người. Giảng viên của trung tâm này là một gã tu sĩ Luyện Khí kỳ còn rất trẻ, chỉ khoảng trên dưới hai mươi tuổi, tên là Trần Dư Thừa. Tướng mạo gã bình thường nhưng mồm miệng rất lưu loát, có thể coi là có tài ăn nói. Gã giảng viên mở đầu buổi giảng bằng một màn khoe khoang ‘gia thế’của gã, mối liên hệ của gã với mấy vị giảng viên chiến thuật nổi tiếng thường được xuất hiện trên radio, và lớn giọng đảm bảo về cái gọi là tương lai của đám học viên sau khi hoàn thành khóa học của gã ta. Tiếp đó là màn tiếp thị sách giáo khoa, sách tài liệu tham khảo, sách... do gã giảng viên sưu tầm được hay do một vị ‘chiến thuật gia danh tiếng’ nào đó viết ra, những quyển sách mà Trần Dư Thừa lớn tiếng hô hào là sách gối đầu giường của các chiến tướng lừng danh. Sau hơn nửa thời gian loanh qua loanh quanh mấy cái vấn đề ngoài lề đó, gã giảng viên có tài ăn nói kia mới chịu bắt đầu giảng dạy. Phán đoán của Thành Đạt đã đúng. Gã Trần Dư Thừa này hoàn toàn lệ thuộc vào sách vở. Hầu hết bài giảng của gã đều đi theo một mô tip duy nhất. Hễ là kiến thức cơ sở, đơn giản, gã liền chú tâm giảng dạy cực kỳ kỹ lưỡng. Có khi chỉ là một nguyên lý đơn giản nhất, gã cũng giảng đi giảng lại đến nửa ngày, thậm chí còn đưa cả những dẫn chứng là sự kiện có thật nào đó trong lịch sử (có trời mới biết có thật hay không), một vị danh tướng nào đó (không ai biết là ông nào) đã đánh một trận nào đó, như thế này, thế kia dựa trên nguyên lý này như thế này... như thế này... hay những thứ tương tự như vậy. Ngược lại, nếu gặp phải những vấn đề phức tạp thì gã hoặc là một câu lướt qua hoặc là chuyển sang ‘kể chuyện lịch sử’, những câu chuyện vô thưởng vô phạt, cực kỳ chung chung đại khái, ai muốn suy diễn thế nào cũng được, có khi vô lại hơn, gã đốp một câu như “Các em về nhà hãy tìm hiểu vấn đề này. Những tài liệu cần thiết để tra cứu là... Lần sau nên lớp thầy sẽ kiểm tra. (thực chất học sinh có chờ dài cổ đến vài trăm năm đi nữa thì Trần Dư Thưa cũng chẳng bao giờ nhắc lại những vấn đề đó)”.
Nếu là một vị học sinh đã từng theo học một lớp cơ bản về chiến tướng hay đơn giản chỉ là một người có chút kinh nghiệm về chiến tranh bất kỳ là thực chiến hay nghiên cứu sách vở, khi nghe bài giảng của Trần Dư Thừa thì sẽ lập tức cười khảy, khinh bỉ. Bài giảng này cơ bản là một nồi lẩu thập cẩm do một tay đầu bếp hạng bét chuẩn bị. Người bình thường cứ thế ăn vào không đau bụng, tiêu chảy cũng có thể coi là một thành công lớn. Nhưng những kẻ như Thành Đạt thì lại cảm thấy nội dung giảng dạy này rất bổ ích, tỉ mỉ và phong phú. Kiến thức căn bản của Thành Đạt quá kém, thiếu thốn về mọi mặt. Đến cả các phương pháp tìm kiếm, tra cứu những nội dung trong sách vở gã cũng không biết. Nhiều từ chuyên môn, thuật ngữ cơ bản trong nghề hay những cái đơn giản như phương pháp xem bản đồ, sa bàn, đọc trận pháp đồ, quy định về ngôn ngữ chiến thuật, mối liên hệ giữa chiến thuật, pháp bảo, pháp khí, công pháp tu luyện và địa hình... Thành Đạt đều hoàn toàn mù tịt. Do đó, việc Trần Dư Thừa giảng kỹ lý thuyết cơ bản lại rất hợp ý gã. Nhiều ‘dẫn chứng’ giời ơi của gã giảng viên kia đưa ra cũng được Thành Đạt ghi nhớ và coi như tư liệu cơ bản để thỉnh thoảng gặm nhấm dần. Những thứ này có lẽ chẳng thể nào ứng dụng được vào thực tiễn. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là mẹo vặt chúng không thể trở thành những gợi ý quan trọng, giúp đỡ Thành Đạt trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó.
Vấn đề cuối cùng trong huấn luyện một chiến tướng là kinh nghiệm thực chiến. Trần Dư Thừa giải quyết vấn đề này một cách rất kỳ diệu. Gã ta lôi ra một đống cờ người (một loại cờ có bàn là một địa hình nào đó và quân cờ là những con rối có nhiều đặc điểm giống với đám lính và vũ khí trong thế giới tu giả) rồi cho các học sinh thoải mái vui vẻ với nhau. Thành Đạt từ những ván cờ đó cũng học ra được rất nhiều điều về chiến thuật chiến tranh.
Từ đó về sau, Thành Đạt không hề bỏ lỡ khóa đào tạo nào của Trần Dư Thừa, đồng thời không ngừng tự nghiền ngẫm mày mò học hỏi thêm từ các tài liệu khác. Đối chiếu so sánh giữa những gì tự giác ngộ ra với những gì thầy dạy, gã tiến bộ rất nhanh. Đồng thời với những tiến bộ trong việc học tập để trở thành chiến tướng và Huyết Luyện Ma Pháp, công lực của Thành Đạt cũng bạo tăng mạnh mẽ. Có linh lương ăn mỗi ngày lại thêm các loại linh đan, diệu dược thi thoảng phục dùng giúp cho gã tiết kiệm được không ít thời gian và công sức tu luyện. Nhưng Ngũ Hành Nông Thuật của gã thì lại không có chút tiến bộ nào. Tất cả đều dừng lại ở cảnh giới của hai năm trước. Điều này cũng khó trách được gã. Tu luyện tiên thuật cũng giống như sáng tác nghệ thuật vậy. Không phải cứ chịu khó cày sâu cuốc bẫm là sẽ thành công. Thiên tài được tạo nên, 99% là nhờ vào sự nỗ lực không ngừng, 1% là do tư chất trời sinh. Nhưng nếu không có 1% kia thì dù có đủ 99% nỗ lực cũng không thể tạo ra một thiên tài. Bản tính của Thành Đạt không thích hợp với những pháp thuật thuần hậu, vô hại như Ngũ Hành Nông Thuật. Có cưỡng cầu cũng không thể đạt được thành công.
Hôm ấy, Thành Đạt đang kiểm tra khu linh điền của mình. Nhìn những cây linh lương xanh tươi, tràn ngập sức sống với những bông lúa trĩu nặng uốn cong, gã không khỏi cảm thấy hưng phấn. Một vụ thu hoạch nữa lại sắp đến. Năm nay, chắc chắn gã sẽ lại được thêm một vụ bội thu nữa. Nếu như vậy, việc gã có thể nhanh chóng đột phá lên tầng thứ tám của Luyện Khí kỳ sẽ không còn là việc xa vời nữa. Gã cong môi, nở nụ cười đầy đắc ý.
Một đạo kiếm khí hùng mạnh từ trên trời cao giáng xuống, hạ ngay sát bên Thành Đạt, khiến gã lạnh tim. Nhưng nhìn cảnh kiếm quang mạnh mẽ là vậy mà không hề gây ra bất kỳ hư tổn nào đến đám linh lương bên cạnh, Thành Đạt cũng hiểu được pháp lực và kiếm thuật của đối phương cao siêu đến mức độ nào và cũng lập tức biết rõ thân phận của đối phương, trong toàn bộ đám đệ tử cấp thấp của Thiên Linh Phái chỉ có Nguyễn Du Di, Di sư huynh là có được trình độ kiếm thuật cao siêu đến như vậy. Đáng chết. Thành Đạt dù nhận ra đối phương và không biết vì sao đối phương tìm đến bản thân nhưng cũng nhận ra được ý tứ đe dọa của đối phương thông qua thủ đoạn vừa rồi. Một cỗ sát khí khủng khiếp bùng lên trong lòng gã, vất vả lắm mới đè nén xuống được. ‘Phải nhịn! Phải nhịn! Hiện tại còn chưa đến lúc!’ Thành Đạt không ngừng thầm hô trong lòng, nhắc nhở bản thân. Đồng thời, gã cũng đưa luôn cái tên Du Di vào danh sách những kẻ phải giết sắp tới. Ài... Không trách được! Dù sao để luyện chế ma khí Huyết Trì, gã cần rất nhiều máu huyết nha! Đối phương lại tự mình đưa xác đến. Thành Đạt đâu thể lãng phí được cơ chứ!
“Ngươi là Thành Đạt?” Không đợi Thành Đạt có bất kỳ động tác hay hành động chào hỏi gì, đối phương hừ lạnh một tiếng rồi nói luôn “Đã tu luyện lên đến tầng thứ bảy rồi sao? Tốc độ tu luyện của ngươi không tệ đâu.”
Thành Đạt nghe ra ý châm chọc, muốn gây sự trong câu nói của Du Di liền im lặng. Bây giờ, thực lực gã còn nhỏ yếu, không thể không nhẫn nhịn trước lũ ‘công tử môn này’
Du Di thấy Thành Đạt như vậy thì cũng không có vẻ gì là bất mãn hay vừa ý. Gã ta là dù chỉ mới tu luyện đến tầng thứ tám của Luyện Khí kỳ nhưng lại là đệ tử có thực lực thâm hậu, mạnh mẽ nhất trong môn phái. Gã thiên tính lãnh đạm, tâm cao khí ngạo, luôn nhìn người khác không bằng nửa con mắt. Đối với gã, lũ sư đệ như Thành Đạt chẳng khác gì một con kiến hôi tầm thường làm bẩn chân gã. Bọn này bất kể là cúi đầu nịnh bợ hay cao giọng xách mé gã thì đều chỉ là những tiếng chó sủa ồn ào làm bẩn tai gã mà thôi. Cứ im lặng như Thành Đạt là hợp ý gã nhất. Gã lạnh lùng nói
“Bản môn có quy định, bất kỳ đệ tử nào một khi đã tu luyện đến tầng thứ sáu Luyện Khí Kỳ thì có thể làm nhiệm vụ cho môn phái, lấy điểm cống hiến để trừ vào số linh thạch phải nộp hàng năm. Hiện tại, bổn phái đang thiếu một chân quản lý giám sát việc khai thác quặng mỏ. Ngươi hãy tiếp lấy.”
Nói xong, không đợi Thành Đạt có chút phản ứng nào, gã liền ném cho Thành Đạt một cái ngọc bội rồi lạnh nhạt tiếp
“Đây là chứng thực để xuất nhập khu quặng mỏ, có cả vị trí của khu quặng và các quy tắc của khu mỏ trên đó. Bắt đầu từ hôm nay, việc này giao cho ngươi. Làm tốt tất được sư môn trọng thưởng. Làm không không tốt... hừ hừ...” Nói xong, gã lập tức ngự kiếm bay vụt đi. Tốc độ nhanh không thể tả, từ đầu đến cuối không hỏi lấy ý kiến của gã lấy một câu. Thành Đạt thấy vậy chỉ cười lạnh một tiếng, đưa ánh mắt như thể đang nhìn một xác chết nhìn theo hướng bay của gã sư huynh kia, trong đầu lập tức lên kế hoạch để biến tên sư huynh này thành máu huyết, luyện chế Huyết Trì.
Thành Đạt khẽ liếm môi. Gã không biết được việc gã bị ép phải đi phụ trách đám nô lệ khai thác quặng mỏ có phải là một âm mưu chống lại gã và buộc gã phải nhường công việc tạo Linh Vũ thuê cho đám sư huynh sư đệ khác trong môn phái cho Văn Khúc sư huynh hay không nhưng gã cũng không hề buồn phiền vì điều này. Vui nữa là khác! Huyết Luyện Ma Pháp cần rất nhiều máu huyết và oán khí. Trên thế giới này không có một sinh vật nào có oán khí nặng nề hơn những nô lệ và cũng không có một sinh vật nào dù bị tàn sát bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không gây ra chút chú ý nào từ những kẻ thống trị như nô lệ. Nhất là những nô lệ làm việc tại các khu mỏ khai thác quặng. Mạng sống của những sinh linh khốn khổ này còn thấp kém hơn cả tính mạng một con vật. Nói ra thì có vẻ độc ác, vô văn hóa nhưng sự thực đúng là như vậy. Cứ nhìn vào thông tin trong ngọc bội mà gã sư huynh Du Di lưu lại cho Thành Đạt là gã có quyền chém giết đám nô lệ bất kỳ lúc nào gã thích, môn phái sẽ bù đắp cho gã số lượng thiếu hụt để đảm bảo năng suất khai thác, là rõ thân phận những con người này thấp kém đến mức độ nào.
Thiên Linh Phái chỉ là một tiểu môn phái nhỏ đến mức không thể nhỏ hơn nên chỉ có đủ khả năng cai quản một khu khai thác mỏ duy nhất, nằm ở hậu sơn của Thiên Linh Sơn, tại một hẻm núi có tên gọi là Lãnh Vụ Cốc. Lãnh Vụ Cốc nằm giữa hai hẻm núi, quanh năm mây mù che phủ, khí lạnh bao trùm, nhiệt độ thường xuyên thấp hơn hẳn những nơi khác trong núi. Hai trăm năm trước, khi sư tổ khai môn của Thiên Linh Phái đến vùng núi này khai sơn lập phái thì nơi này đã như vậy rồi. Chân nhân tự thân tiến hành thám hiểm kỹ càng nơi này và phát hiện ra nơi đây có một mỏ quẳng Hàn Thiết Thạch cực kỳ quý giá. Hàn Thiết Thạch này tuy có giá trị liên thành, là nguồn thu nhập chính của Thiên Linh Phái, nhưng cũng vô cùng độc hại. Đám nô lệ làm việc ở nơi đây ngày nào cũng chết đến hàng chục người. Thảm không sao kể xiết! Ngay cả các tu sĩ Trúc cơ kỳ trong bổn phái khi đến đây thu nhận sản phẩm cũng không dám lưu lại nơi này lâu chứ đừng nói đến việc nguyện ý cam tâm tình nguyện ở lại nơi này một thời gian dài để làm nhiệm vụ đốc công. Một công việc như vậy lại rơi xuống đầu Thành Đạt, từ đó có thể thấy quan hệ của gã với các vị đồng môn sư huynh đệ có chức có quyền trong môn phái, tồi tệ đến mức độ nào. Nhưng gã cũng chẳng thèm để ý đến điều đó. Nếu trong mắt những gã sư huynh sư đệ đó, gã là một kẻ nổi loạn, thách thức quyền lực địa vị của chúng thì trong mắt Thành Đạt, bọn người đó chẳng qua chỉ là một lũ người máu, sống phây phây ra đó chỉ để bảo quản lượng máu huyết quý giá cho gã, chờ gã có đủ thực lực thì sẽ đến lấy.
Ven đường đi cổ thụ rậm rạp, cây cỏ đầy đất, thỉnh thoảng những con thú nhỏ như chuột, thỏ, bươm bướm hiện ra rồi biến mất rất nhanh. Không khí êm đềm và đầy sinh cơ khác hẳn với hung danh của một trong những ‘lò mổ’ kinh khiếp nhất Thiên Linh Phái. Nhưng Thành Đạt không có chút lòng dạ nào để thưởng thức, cảm thán khung cảnh thiên nhiên. Gã đã nhận ra tất cả những thứ đó đều chỉ là ảo ảnh do cấm chế, trận pháp bảo vệ nơi này tạo ra. Khắp nơi, trên con đường này phủ đầy cấm chế hoặc minh hoặc ám, vô cùng đáng sợ. Một vài cấm chế cường đại phóng thích uy áp kinh khủng đến mức khiến gã gần như ngạt thở. Ngay cả một kẻ gan to mật lớn, lòng dạ hung ngoan như Thành Đạt cũng không thể không thực lòng hoảng sợ, mặt cắt không còn một giọt máu nào. Trước từng đó sức mạnh của trận pháp, thực lực Luyện Khí kỳ tầng thứ bảy của Thành Đạt thật sự yếu ớt đến mức không cần nhắc đến. Bà mẹ nó!
Ảo ảnh trong cấm chế bỗng biến đổi. Từ cảnh quan một khu rừng tuyệt đẹp chuyển sang cảnh tượng một biển mây mù trắng xóa, bao phủ cả một vùng. Chiếc ngọc bội trên tay Thành Đạt léo sáng. Đám mây mù liền nhẹ nhàng tách ra thành một con đường nhỏ hướng về một phương xa. Đi theo con đường nhỏ này một hồi, Thành Đạt đã đứng trước một miệng hang nhỏ, sâu hun hút, không thấy đáy. Gã do dự một chút nhưng rồi không còn con đường nào khác liền mạnh mẽ bước vào trong.
Số học viên trong trung tâm hay có thể nói chính xác hơn là số học viên có mặt trong căn phòng giảng dạy này chỉ có hơn mười người. Giảng viên của trung tâm này là một gã tu sĩ Luyện Khí kỳ còn rất trẻ, chỉ khoảng trên dưới hai mươi tuổi, tên là Trần Dư Thừa. Tướng mạo gã bình thường nhưng mồm miệng rất lưu loát, có thể coi là có tài ăn nói. Gã giảng viên mở đầu buổi giảng bằng một màn khoe khoang ‘gia thế’của gã, mối liên hệ của gã với mấy vị giảng viên chiến thuật nổi tiếng thường được xuất hiện trên radio, và lớn giọng đảm bảo về cái gọi là tương lai của đám học viên sau khi hoàn thành khóa học của gã ta. Tiếp đó là màn tiếp thị sách giáo khoa, sách tài liệu tham khảo, sách... do gã giảng viên sưu tầm được hay do một vị ‘chiến thuật gia danh tiếng’ nào đó viết ra, những quyển sách mà Trần Dư Thừa lớn tiếng hô hào là sách gối đầu giường của các chiến tướng lừng danh. Sau hơn nửa thời gian loanh qua loanh quanh mấy cái vấn đề ngoài lề đó, gã giảng viên có tài ăn nói kia mới chịu bắt đầu giảng dạy. Phán đoán của Thành Đạt đã đúng. Gã Trần Dư Thừa này hoàn toàn lệ thuộc vào sách vở. Hầu hết bài giảng của gã đều đi theo một mô tip duy nhất. Hễ là kiến thức cơ sở, đơn giản, gã liền chú tâm giảng dạy cực kỳ kỹ lưỡng. Có khi chỉ là một nguyên lý đơn giản nhất, gã cũng giảng đi giảng lại đến nửa ngày, thậm chí còn đưa cả những dẫn chứng là sự kiện có thật nào đó trong lịch sử (có trời mới biết có thật hay không), một vị danh tướng nào đó (không ai biết là ông nào) đã đánh một trận nào đó, như thế này, thế kia dựa trên nguyên lý này như thế này... như thế này... hay những thứ tương tự như vậy. Ngược lại, nếu gặp phải những vấn đề phức tạp thì gã hoặc là một câu lướt qua hoặc là chuyển sang ‘kể chuyện lịch sử’, những câu chuyện vô thưởng vô phạt, cực kỳ chung chung đại khái, ai muốn suy diễn thế nào cũng được, có khi vô lại hơn, gã đốp một câu như “Các em về nhà hãy tìm hiểu vấn đề này. Những tài liệu cần thiết để tra cứu là... Lần sau nên lớp thầy sẽ kiểm tra. (thực chất học sinh có chờ dài cổ đến vài trăm năm đi nữa thì Trần Dư Thưa cũng chẳng bao giờ nhắc lại những vấn đề đó)”.
Nếu là một vị học sinh đã từng theo học một lớp cơ bản về chiến tướng hay đơn giản chỉ là một người có chút kinh nghiệm về chiến tranh bất kỳ là thực chiến hay nghiên cứu sách vở, khi nghe bài giảng của Trần Dư Thừa thì sẽ lập tức cười khảy, khinh bỉ. Bài giảng này cơ bản là một nồi lẩu thập cẩm do một tay đầu bếp hạng bét chuẩn bị. Người bình thường cứ thế ăn vào không đau bụng, tiêu chảy cũng có thể coi là một thành công lớn. Nhưng những kẻ như Thành Đạt thì lại cảm thấy nội dung giảng dạy này rất bổ ích, tỉ mỉ và phong phú. Kiến thức căn bản của Thành Đạt quá kém, thiếu thốn về mọi mặt. Đến cả các phương pháp tìm kiếm, tra cứu những nội dung trong sách vở gã cũng không biết. Nhiều từ chuyên môn, thuật ngữ cơ bản trong nghề hay những cái đơn giản như phương pháp xem bản đồ, sa bàn, đọc trận pháp đồ, quy định về ngôn ngữ chiến thuật, mối liên hệ giữa chiến thuật, pháp bảo, pháp khí, công pháp tu luyện và địa hình... Thành Đạt đều hoàn toàn mù tịt. Do đó, việc Trần Dư Thừa giảng kỹ lý thuyết cơ bản lại rất hợp ý gã. Nhiều ‘dẫn chứng’ giời ơi của gã giảng viên kia đưa ra cũng được Thành Đạt ghi nhớ và coi như tư liệu cơ bản để thỉnh thoảng gặm nhấm dần. Những thứ này có lẽ chẳng thể nào ứng dụng được vào thực tiễn. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là mẹo vặt chúng không thể trở thành những gợi ý quan trọng, giúp đỡ Thành Đạt trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó.
Vấn đề cuối cùng trong huấn luyện một chiến tướng là kinh nghiệm thực chiến. Trần Dư Thừa giải quyết vấn đề này một cách rất kỳ diệu. Gã ta lôi ra một đống cờ người (một loại cờ có bàn là một địa hình nào đó và quân cờ là những con rối có nhiều đặc điểm giống với đám lính và vũ khí trong thế giới tu giả) rồi cho các học sinh thoải mái vui vẻ với nhau. Thành Đạt từ những ván cờ đó cũng học ra được rất nhiều điều về chiến thuật chiến tranh.
Từ đó về sau, Thành Đạt không hề bỏ lỡ khóa đào tạo nào của Trần Dư Thừa, đồng thời không ngừng tự nghiền ngẫm mày mò học hỏi thêm từ các tài liệu khác. Đối chiếu so sánh giữa những gì tự giác ngộ ra với những gì thầy dạy, gã tiến bộ rất nhanh. Đồng thời với những tiến bộ trong việc học tập để trở thành chiến tướng và Huyết Luyện Ma Pháp, công lực của Thành Đạt cũng bạo tăng mạnh mẽ. Có linh lương ăn mỗi ngày lại thêm các loại linh đan, diệu dược thi thoảng phục dùng giúp cho gã tiết kiệm được không ít thời gian và công sức tu luyện. Nhưng Ngũ Hành Nông Thuật của gã thì lại không có chút tiến bộ nào. Tất cả đều dừng lại ở cảnh giới của hai năm trước. Điều này cũng khó trách được gã. Tu luyện tiên thuật cũng giống như sáng tác nghệ thuật vậy. Không phải cứ chịu khó cày sâu cuốc bẫm là sẽ thành công. Thiên tài được tạo nên, 99% là nhờ vào sự nỗ lực không ngừng, 1% là do tư chất trời sinh. Nhưng nếu không có 1% kia thì dù có đủ 99% nỗ lực cũng không thể tạo ra một thiên tài. Bản tính của Thành Đạt không thích hợp với những pháp thuật thuần hậu, vô hại như Ngũ Hành Nông Thuật. Có cưỡng cầu cũng không thể đạt được thành công.
Hôm ấy, Thành Đạt đang kiểm tra khu linh điền của mình. Nhìn những cây linh lương xanh tươi, tràn ngập sức sống với những bông lúa trĩu nặng uốn cong, gã không khỏi cảm thấy hưng phấn. Một vụ thu hoạch nữa lại sắp đến. Năm nay, chắc chắn gã sẽ lại được thêm một vụ bội thu nữa. Nếu như vậy, việc gã có thể nhanh chóng đột phá lên tầng thứ tám của Luyện Khí kỳ sẽ không còn là việc xa vời nữa. Gã cong môi, nở nụ cười đầy đắc ý.
Một đạo kiếm khí hùng mạnh từ trên trời cao giáng xuống, hạ ngay sát bên Thành Đạt, khiến gã lạnh tim. Nhưng nhìn cảnh kiếm quang mạnh mẽ là vậy mà không hề gây ra bất kỳ hư tổn nào đến đám linh lương bên cạnh, Thành Đạt cũng hiểu được pháp lực và kiếm thuật của đối phương cao siêu đến mức độ nào và cũng lập tức biết rõ thân phận của đối phương, trong toàn bộ đám đệ tử cấp thấp của Thiên Linh Phái chỉ có Nguyễn Du Di, Di sư huynh là có được trình độ kiếm thuật cao siêu đến như vậy. Đáng chết. Thành Đạt dù nhận ra đối phương và không biết vì sao đối phương tìm đến bản thân nhưng cũng nhận ra được ý tứ đe dọa của đối phương thông qua thủ đoạn vừa rồi. Một cỗ sát khí khủng khiếp bùng lên trong lòng gã, vất vả lắm mới đè nén xuống được. ‘Phải nhịn! Phải nhịn! Hiện tại còn chưa đến lúc!’ Thành Đạt không ngừng thầm hô trong lòng, nhắc nhở bản thân. Đồng thời, gã cũng đưa luôn cái tên Du Di vào danh sách những kẻ phải giết sắp tới. Ài... Không trách được! Dù sao để luyện chế ma khí Huyết Trì, gã cần rất nhiều máu huyết nha! Đối phương lại tự mình đưa xác đến. Thành Đạt đâu thể lãng phí được cơ chứ!
“Ngươi là Thành Đạt?” Không đợi Thành Đạt có bất kỳ động tác hay hành động chào hỏi gì, đối phương hừ lạnh một tiếng rồi nói luôn “Đã tu luyện lên đến tầng thứ bảy rồi sao? Tốc độ tu luyện của ngươi không tệ đâu.”
Thành Đạt nghe ra ý châm chọc, muốn gây sự trong câu nói của Du Di liền im lặng. Bây giờ, thực lực gã còn nhỏ yếu, không thể không nhẫn nhịn trước lũ ‘công tử môn này’
Du Di thấy Thành Đạt như vậy thì cũng không có vẻ gì là bất mãn hay vừa ý. Gã ta là dù chỉ mới tu luyện đến tầng thứ tám của Luyện Khí kỳ nhưng lại là đệ tử có thực lực thâm hậu, mạnh mẽ nhất trong môn phái. Gã thiên tính lãnh đạm, tâm cao khí ngạo, luôn nhìn người khác không bằng nửa con mắt. Đối với gã, lũ sư đệ như Thành Đạt chẳng khác gì một con kiến hôi tầm thường làm bẩn chân gã. Bọn này bất kể là cúi đầu nịnh bợ hay cao giọng xách mé gã thì đều chỉ là những tiếng chó sủa ồn ào làm bẩn tai gã mà thôi. Cứ im lặng như Thành Đạt là hợp ý gã nhất. Gã lạnh lùng nói
“Bản môn có quy định, bất kỳ đệ tử nào một khi đã tu luyện đến tầng thứ sáu Luyện Khí Kỳ thì có thể làm nhiệm vụ cho môn phái, lấy điểm cống hiến để trừ vào số linh thạch phải nộp hàng năm. Hiện tại, bổn phái đang thiếu một chân quản lý giám sát việc khai thác quặng mỏ. Ngươi hãy tiếp lấy.”
Nói xong, không đợi Thành Đạt có chút phản ứng nào, gã liền ném cho Thành Đạt một cái ngọc bội rồi lạnh nhạt tiếp
“Đây là chứng thực để xuất nhập khu quặng mỏ, có cả vị trí của khu quặng và các quy tắc của khu mỏ trên đó. Bắt đầu từ hôm nay, việc này giao cho ngươi. Làm tốt tất được sư môn trọng thưởng. Làm không không tốt... hừ hừ...” Nói xong, gã lập tức ngự kiếm bay vụt đi. Tốc độ nhanh không thể tả, từ đầu đến cuối không hỏi lấy ý kiến của gã lấy một câu. Thành Đạt thấy vậy chỉ cười lạnh một tiếng, đưa ánh mắt như thể đang nhìn một xác chết nhìn theo hướng bay của gã sư huynh kia, trong đầu lập tức lên kế hoạch để biến tên sư huynh này thành máu huyết, luyện chế Huyết Trì.
Thành Đạt khẽ liếm môi. Gã không biết được việc gã bị ép phải đi phụ trách đám nô lệ khai thác quặng mỏ có phải là một âm mưu chống lại gã và buộc gã phải nhường công việc tạo Linh Vũ thuê cho đám sư huynh sư đệ khác trong môn phái cho Văn Khúc sư huynh hay không nhưng gã cũng không hề buồn phiền vì điều này. Vui nữa là khác! Huyết Luyện Ma Pháp cần rất nhiều máu huyết và oán khí. Trên thế giới này không có một sinh vật nào có oán khí nặng nề hơn những nô lệ và cũng không có một sinh vật nào dù bị tàn sát bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không gây ra chút chú ý nào từ những kẻ thống trị như nô lệ. Nhất là những nô lệ làm việc tại các khu mỏ khai thác quặng. Mạng sống của những sinh linh khốn khổ này còn thấp kém hơn cả tính mạng một con vật. Nói ra thì có vẻ độc ác, vô văn hóa nhưng sự thực đúng là như vậy. Cứ nhìn vào thông tin trong ngọc bội mà gã sư huynh Du Di lưu lại cho Thành Đạt là gã có quyền chém giết đám nô lệ bất kỳ lúc nào gã thích, môn phái sẽ bù đắp cho gã số lượng thiếu hụt để đảm bảo năng suất khai thác, là rõ thân phận những con người này thấp kém đến mức độ nào.
Thiên Linh Phái chỉ là một tiểu môn phái nhỏ đến mức không thể nhỏ hơn nên chỉ có đủ khả năng cai quản một khu khai thác mỏ duy nhất, nằm ở hậu sơn của Thiên Linh Sơn, tại một hẻm núi có tên gọi là Lãnh Vụ Cốc. Lãnh Vụ Cốc nằm giữa hai hẻm núi, quanh năm mây mù che phủ, khí lạnh bao trùm, nhiệt độ thường xuyên thấp hơn hẳn những nơi khác trong núi. Hai trăm năm trước, khi sư tổ khai môn của Thiên Linh Phái đến vùng núi này khai sơn lập phái thì nơi này đã như vậy rồi. Chân nhân tự thân tiến hành thám hiểm kỹ càng nơi này và phát hiện ra nơi đây có một mỏ quẳng Hàn Thiết Thạch cực kỳ quý giá. Hàn Thiết Thạch này tuy có giá trị liên thành, là nguồn thu nhập chính của Thiên Linh Phái, nhưng cũng vô cùng độc hại. Đám nô lệ làm việc ở nơi đây ngày nào cũng chết đến hàng chục người. Thảm không sao kể xiết! Ngay cả các tu sĩ Trúc cơ kỳ trong bổn phái khi đến đây thu nhận sản phẩm cũng không dám lưu lại nơi này lâu chứ đừng nói đến việc nguyện ý cam tâm tình nguyện ở lại nơi này một thời gian dài để làm nhiệm vụ đốc công. Một công việc như vậy lại rơi xuống đầu Thành Đạt, từ đó có thể thấy quan hệ của gã với các vị đồng môn sư huynh đệ có chức có quyền trong môn phái, tồi tệ đến mức độ nào. Nhưng gã cũng chẳng thèm để ý đến điều đó. Nếu trong mắt những gã sư huynh sư đệ đó, gã là một kẻ nổi loạn, thách thức quyền lực địa vị của chúng thì trong mắt Thành Đạt, bọn người đó chẳng qua chỉ là một lũ người máu, sống phây phây ra đó chỉ để bảo quản lượng máu huyết quý giá cho gã, chờ gã có đủ thực lực thì sẽ đến lấy.
Ven đường đi cổ thụ rậm rạp, cây cỏ đầy đất, thỉnh thoảng những con thú nhỏ như chuột, thỏ, bươm bướm hiện ra rồi biến mất rất nhanh. Không khí êm đềm và đầy sinh cơ khác hẳn với hung danh của một trong những ‘lò mổ’ kinh khiếp nhất Thiên Linh Phái. Nhưng Thành Đạt không có chút lòng dạ nào để thưởng thức, cảm thán khung cảnh thiên nhiên. Gã đã nhận ra tất cả những thứ đó đều chỉ là ảo ảnh do cấm chế, trận pháp bảo vệ nơi này tạo ra. Khắp nơi, trên con đường này phủ đầy cấm chế hoặc minh hoặc ám, vô cùng đáng sợ. Một vài cấm chế cường đại phóng thích uy áp kinh khủng đến mức khiến gã gần như ngạt thở. Ngay cả một kẻ gan to mật lớn, lòng dạ hung ngoan như Thành Đạt cũng không thể không thực lòng hoảng sợ, mặt cắt không còn một giọt máu nào. Trước từng đó sức mạnh của trận pháp, thực lực Luyện Khí kỳ tầng thứ bảy của Thành Đạt thật sự yếu ớt đến mức không cần nhắc đến. Bà mẹ nó!
Ảo ảnh trong cấm chế bỗng biến đổi. Từ cảnh quan một khu rừng tuyệt đẹp chuyển sang cảnh tượng một biển mây mù trắng xóa, bao phủ cả một vùng. Chiếc ngọc bội trên tay Thành Đạt léo sáng. Đám mây mù liền nhẹ nhàng tách ra thành một con đường nhỏ hướng về một phương xa. Đi theo con đường nhỏ này một hồi, Thành Đạt đã đứng trước một miệng hang nhỏ, sâu hun hút, không thấy đáy. Gã do dự một chút nhưng rồi không còn con đường nào khác liền mạnh mẽ bước vào trong.
/53
|