Gian điện rộng lớn lúc này chìm trong sự tĩnh lặng và lạnh lẽo, dường như gốc mai bên dưới hành lang phía xa vừa nở hoa, mùi hương tao nhã hòa vào với gió mưa lạnh lẽo dường như lại khiến vẻ diễm lệ tăng thêm mấy phần.
Đang lúc sững sờ, chợt một tiếng “két” thật dài vang lên, cửa điện chậm rãi bị đẩy ra, tiếng cây gậy chống đầu rồng gõ xuống đất thật chẳng khác gì tiếng sấm rền. Thái hậu mang theo làn hương hoa lạnh lẽo kia chống gậy chậm rãi đi vào trong điện.
Thái hậu tới đây giữa đêm khuya, trên người chỉ mặc một chiếc áo dài màu xanh sẫm kiểu dáng bình thường, đồ trang sức cũng đơn giản không có gì đặc biệt, thế nhưng toàn thân lại toát ra một thứ khí thế của người ngồi ở ngôi cao khiến người ta không rét mà run.
Huyền Lăng thấy Thái hậu đích thân tới đây thì vội vàng đứng dậy nghênh đón, tôi và Hồ Uẩn Dung cũng không dám chậm trễ, lập tức khom người cất tiếng thỉnh an.
Thái hậu bám vào tay Huyền Lăng bước tới ngồi xuống chiếc ghế ở chính giữa, sau khi khẽ ho hai tiếng mới chậm rãi cất tiếng hỏi: “Chiếu thư phế hậu đã ban xuống chưa?”
Huyền Lăng thoáng ngẩn ra, đoạn cung kính đáp: “Chỉ còn thiếu việc đóng dấu nữa thôi.”
Thái hậu “ừm” một tiếng, nói: “Ai gia dạo này mắt không được tốt, Uẩn Dung, hãy đọc cho ai gia nghe đi!”
Hồ Uẩn Dung bất giác lộ ra mấy tia sợ hãi, đưa mắt thoáng nhìn qua phía tôi, rốt cuộc đành cầm chiếu thư lên đọc một lượt.
Thái hậu nhìn nàng ta, nói: “Giọng nói dễ nghe lắm, đọc cũng rất rõ ràng, có điều chớ nên run rẩy như vậy.” Rồi Thái hậu lại ngoảnh đầu qua nhìn tôi. “Lời ít mà ý nhiều, chắc đây là thủ bút của Thục phi rồi.”
Tôi cúi đầu khẽ thưa: “Dạ.”
Thái hậu tỏ ra vô cùng đau đớn, khi nhìn qua phía Hoàng hậu, trong mắt khó mà giấu được vẻ chán ghét và xót xa. “Thục phi xét ra không hề nói quá tội lỗi của ngươi chút nào!” Dứt lời, bà ta liền vung cây gậy chống lên định đánh xuống người Hoàng hậu.
Cây gậy chống đó có phần cán đầu rồng được đúc bằng vàng ròng, thân thì làm bằng gỗ lim, cứng rắn mười phần, nhát gậy này mà đánh xuống người Hoàng hậu thì dù không chết cũng sẽ trở thành người tàn phế.
Biến cố này xảy ra quá đột ngột, Hồ Uẩn Dung kinh hãi đến nỗi thiếu chút nữa đánh rơi tờ chiếu thư trong tay. Hoàng hậu thì mặt mày tái nhợt, vậy nhưng lại không né tránh, còn ưỡn thẳng lưng lên đón lấy nhát gậy ấy.
Sau đó, cây gậy rốt cuộc đã dừng giữa không trung, rồi Thái hậu dùng sức chống mạnh nó xuống đất, chỉ nghe thấy “rầm” một tiếng, âm thanh vang vọng mãi không ngừng, bên trong như mang đầy nỗi phẫn nộ và đau đớn của Thái hậu. Thái hậu không nhìn nàng ta nữa, chỉ lạnh lùng nói: “Năm xưa đưa ngươi vào cung, xem ra ai gia đã sai rồi.”
Hoàng hậu chậm rãi ngẩng đầu, hơi thở dần dần trở nên nặng nề và dồn dập, âm thanh đó nghe hệt như những tiếng trống không ngừng nối tiếp nhau gõ vào tai người ta, chứa đầy nỗi tuyệt vọng khó mà dùng lời miêu tả. “Cái sai của mẫu hậu không phải là ở chỗ đón con vào cung, mà là đồng ý đón tỷ tỷ vào cung. Mẫu hậu vốn thông minh tột bậc, cái đạo lý một núi không thể có hai hổ lẽ nào lại không hiểu ư?”
Có lẽ vì đại điện quá rộng lớn, hơi thở của Thái hậu dường như mang đầy vẻ lạnh lẽo và trống trải. “Là tại ai gia đã quá xem trọng cái tình tỷ muội của các ngươi.”
“Tình tỷ muội?” Hoàng hậu khẽ cười lạnh một tiếng, âm thanh như vọng ra từ sâu trong lồng ngực, chất chứa đầy nỗi thê lương trầm uất. “Ngay đến người từng mặn nồng ân ái còn có thể ra tay hạ sát, tình tỷ muội thì có đáng gì! Huống chi xét về thủ đoạn đối đãi với tỷ muội, con thực sự khâm phục mẫu hậu vô cùng!”
Khuôn mặt vốn già nua của Thái hậu tức thì trở nên tái nhợt như những bông hoa đã úa tàn trên hồ Thái Dịch, Huyền Lăng thấy thế liền gằn giọng quát: “Sao nàng lại có thể ăn nói càn rỡ với mẫu hậu như thế được?”
Hoàng hậu khẽ nở một nụ cười mỉm với Huyền Lăng, trong đôi mắt đen láy đã chẳng còn ánh hào quang rực rỡ của ngày nào, chỉ còn lại một sự trống trải và tuyệt vọng vô cùng vô tận, rồi nàng ta lẩm bẩm nói: “Càn là trời, khôn là đất, càn khôn phải hòa hợp thì thế sự mới được yên vui. Cổ nhân cũng từng nói cần tề gia trước rồi mới nên trị quốc, gia hòa vạn sự hưng, vậy mà giờ đây hậu cung lại lâu ngày thiếu người cầm trịch, thực chẳng phải là điều hay. Ngẫm thấy Nhàn Quý phi Chu thị xuất thân danh môn, đức hạnh kiêm đủ, lại từng hầu hạ trẫm nhiều năm, biết kính cẩn với bề trên, khoan hòa với kẻ dưới, chính là tấm gương cho tất thảy phi tần noi theo, nay vâng theo mệnh lệnh của Hoàng thái hậu, ban cho kim sách, kim bảo để cai quản hậu cung, chính thức lập làm hoàng hậu. Ơn này trời bể, thực là to lớn chẳng kể gì bằng, nhớ nên trân trọng. Khâm thử!”
Đây chính là chiếu thư lập hậu của nàng ta năm xưa, từng câu từng chữ đều được đổi bằng máu tươi và tính mạng, do đó đến giờ nàng ta vẫn thuộc làu, chẳng quên nửa chữ.
Thái hậu coi như không nghe thấy, chỉ bình thản nhìn qua phía Huyền Lăng. “Hoàng thượng, vẫn còn thiếu một con dấu nữa, vậy tức là vẫn chưa phế hậu rồi.”
Huyền Lăng bất giác trầm mặt. “Mẫu hậu, tội của Chu thị quyết không thể tha, nhi thần không thể không phế bỏ ngôi hậu của nàng ta để an ủi vong linh Uyển Uyển nơi chín suối. Mong mẫu hậu đừng nên ngăn cản.”
Thái hậu khẽ mỉm cười. “Không ngờ con lại biết rào trước đón sau như thế đấy. Được rồi, con muốn ai gia không ngăn cản thì ai gia sẽ không ngăn cản, ai gia tới đây giữa đêm khuya thế này chỉ bởi vì đột ngột nhớ lại chuyện năm xưa, do đó muốn nói cho con biết thôi.”
Huyền Lăng lộ rõ vẻ nghiêm túc. “Dạ.”
Thái hậu đưa tay vuốt ve bờ vai Huyền Lăng vẻ hiền từ. “Tấm lòng của con với A Nhu ai gia biết rất rõ, lời mà nó từng nói chắc hẳn con vẫn chưa quên, do đó, ai gia chỉ muốn nhắc nhở con một chút thôi.” Thái hậu khẽ ho một tiếng, cất giọng trầm thấp: “Trước khi từ trần, A Nhu đã từng cầu xin con một việc, con có còn nhớ không?”
Huyền Lăng toàn thân chấn động, vừa kinh hãi vừa ngẩn ngơ, nhưng rất nhanh sau đó sắc mặt đã dần bình tĩnh trở lại, hờ hững nói: “Nhi thần không ngày nào dám quên, nhưng tội ác của Chu thị quả thực không thể tha thứ được.”
Một làn gió lạnh chợt nhè nhẹ thổi vào qua ô cửa sổ, mang theo mùi ẩm mốc của cỏ cây đã bị ngấm nước mưa lâu ngày, nhanh chóng luồn lách khắp nơi. Ngọn nến trên chiếc đế đồng cháy đã lâu rồi, tim nến trở nên cong queo đen đúa, ngay đến ánh sáng tỏa ra cũng yếu hẳn đi, không ngừng nhảy nhót trong chiếc chụp đèn. Giữa làn ánh sáng lờ mờ yếu ớt ấy, quang cảnh trong điện trở nên hết sức mơ hồ, gần như chẳng thứ gì có thể nhìn thấy rõ.
Thái hậu hờ hững nói: “Ai gia chỉ hỏi con thôi.”
Huyền Lăng cố gắng kìm nén nỗi oán hận và giận dữ trong cổ họng, trầm giọng nói: “Khi đó Uyển Uyển chỉ còn thoi thóp một hơi thở, nàng ấy đã nắm lấy tay con mà cất lời thỉnh cầu.” Y nhắm hai mắt lại, nói ra rành rọt từng chữ một: “Thiếp mệnh bạc, không thể sống với tứ lang tới lúc đầu bạc răng long, ngay đến con của chúng ta cũng không giữ được. Thiếp chỉ có một người muội muội là Nghi Tu thôi, xin tứ lang sau này bất kể thế nào cũng phải đối tốt với muội ấy, đừng ghét bỏ muội ấy!”
Tứ lang! Tứ lang! Thì ra năm xưa nàng ta cũng từng âu yếm gọi y như thế!
Tiếng thở dài của Thái hậu như một nắm đấm nện vào trái tim tôi, bà ta hờ hững nói: “Con đã chính miệng đồng ý với A Nhu rồi, tuyệt đối không bao giờ ghét bỏ Nghi Tu!”
Huyền Lăng phẫn nộ kêu lên: “Mẫu hậu!”
“Hoàng thượng!” Thái hậu ngăn cơn giận dữ của Huyền Lăng lại. “Nếu con bất chấp lời hứa với A Nhu, ngay cả di ngôn của nó cũng chẳng chịu nghe theo, sau này xuống suối vàng, con còn mặt mũi nào để gặp lại nó nữa?”
Huyền Lăng tỏ ra vô cùng đau đớn không cách nào kìm nén được. Thái hậu nhìn y vẻ thương xót, thế nhưng giọng nói lại không hề nhân nhượng: “Con bây giờ ghét bỏ Nghi Tu, đến tên của nó cũng không chịu gọi, câu nào câu nấy đều gọi nó là Chu thị, nhưng con chớ quên A Nhu cũng là Chu thị, và mẫu hậu của con cũng là Chu thị đấy. Ai gia chỉ nói với con một câu này thôi, nhà họ Chu không thể xuất hiện phế hậu được.”
Rồi bà ta lạnh lùng đưa mắt liếc qua phía tôi và Hồ Uẩn Dung. “Hai người các ngươi tốt nhất cũng hãy nhớ lấy điều này.”
Tôi lẳng lặng cúi đầu, thản nhiên cất tiếng đáp: “Dạ!”
Thái hậu không để ý đến tôi nữa, dịu dàng khuyên nhủ Huyền Lăng: “A Nhu vốn thông minh rất mực, mà con người ta trước khi chết lòng thường sáng suốt vô cùng, những việc Nghi Tu đã làm nó chưa chắc đã không biết, cho nên mới phải khổ sở van nài con như vậy. Những việc Nghi Tu đã làm ai gia cũng không thể dung thứ được, lần này ai gia khuyên con chỉ là vì hy vọng sau này con còn có thể gặp lại A Nhu dưới suối vàng. Nhà họ Chu của Nghi Tu cũng là nhà họ Chu của A Nhu, mong con hãy hiểu cho một phen khổ tâm của nó!”
Huyền Lăng chỉ đáp lại bằng sự lặng im, Thái hậu lại chậm rãi nói tiếp: “Mẫu hậu là người sắp chết, lời của ta con hoàn toàn có thể không nghe. Nhưng con phải nhớ lấy, mẫu thân của con là người nhà họ Chu, vợ kết tóc của con là người nhà họ Chu, trên người con cũng chảy dòng máu của nhà họ Chu!” Kế đó bà ta liền bám vào tay Tôn cô cô, khẽ dặn dò: “Trúc Tức, đưa Hoàng hậu về đi.”
Đại điện lúc này tĩnh lặng tột cùng, ngay cả tiếng nổ lốp bốp của vụn trầm hương trong lò cũng có thể nghe thấy rõ, Thái hậu thì dường như chưa từng tới đây vậy. Hồ Uẩn Dung còn chưa cam tâm, nắm chặt góc áo Huyền Lăng mà cất tiếng van nài: “Hoàng thượng, Thái hậu bị ốm nên hồ đồ, nhưng người thì không thể hồ đồ được! Trong cung đã có biết bao nhiêu đứa bé phải chết oan rồi, chúng đều là con của người đấy!”
Huyền Lăng lặng lẽ ngồi tựa vào ghế, chỉ lẳng lặng nhìn tôi bằng ánh mắt cô độc và đau thương.
Trái tim tôi bất giác nguội lạnh dần từng chút một.
Ngày hôm sau, ý chỉ của Huyền Lăng rốt cuộc đã được truyền đi khắp lục cung: “Hoàng hậu Chu thị, thiên mệnh chẳng dung, không xứng làm mẫu nghi thiên hạ, nhưng niệm tình là muội muội của Thuần Nguyên Hoàng hậu, vào cung hầu hạ đã lâu, nay đặc biệt an trí ở Chiêu Dương điện, không chết thì không được ra ngoài. Việc trong lục cung giao cho Thục phi quản lý, Quý phi, Đức phi hiệp trợ. Khâm thử.”
Không chỉ thế, Huyền Lăng còn sai người đi lấy toàn bộ thánh chỉ và bảo ấn, bảo sách từng ban cho nàng ta trong những dịp phong phi, phong quý phi, lập hoàng hậu, lại dặn dò phủ Nội vụ đối xử với nàng ta theo quy cách của canh y - loại cung tần mạt hạng nhất, đồng thời còn truyền lời ra khắp lục cung: “Đời này quyết không bao giờ gặp lại Chu Nghi Tu.”
Y làm như vậy có thể nói là đã ân đoạn nghĩa tuyệt với Chu Nghi Tu, chỉ lưu lại cho nàng ta cái danh hoàng hậu mà thôi.
Trong cung bắt đầu nổi lên những lời bàn tán xôn xao, rằng nhà họ Chu liên tiếp xuất hiện hai vị hoàng hậu, nhưng rồi vật cực tất phản, lạc cực sinh bi. Giờ đây ngôi hậu lung lay, lòng người cũng theo đó mà sôi sục.
Mà trong dịp đầu xuân hỗn loạn và lạnh lẽo này, ở Di Ninh cung, bệnh tình của Thái hậu dường như ngày một nặng.
Đang lúc sững sờ, chợt một tiếng “két” thật dài vang lên, cửa điện chậm rãi bị đẩy ra, tiếng cây gậy chống đầu rồng gõ xuống đất thật chẳng khác gì tiếng sấm rền. Thái hậu mang theo làn hương hoa lạnh lẽo kia chống gậy chậm rãi đi vào trong điện.
Thái hậu tới đây giữa đêm khuya, trên người chỉ mặc một chiếc áo dài màu xanh sẫm kiểu dáng bình thường, đồ trang sức cũng đơn giản không có gì đặc biệt, thế nhưng toàn thân lại toát ra một thứ khí thế của người ngồi ở ngôi cao khiến người ta không rét mà run.
Huyền Lăng thấy Thái hậu đích thân tới đây thì vội vàng đứng dậy nghênh đón, tôi và Hồ Uẩn Dung cũng không dám chậm trễ, lập tức khom người cất tiếng thỉnh an.
Thái hậu bám vào tay Huyền Lăng bước tới ngồi xuống chiếc ghế ở chính giữa, sau khi khẽ ho hai tiếng mới chậm rãi cất tiếng hỏi: “Chiếu thư phế hậu đã ban xuống chưa?”
Huyền Lăng thoáng ngẩn ra, đoạn cung kính đáp: “Chỉ còn thiếu việc đóng dấu nữa thôi.”
Thái hậu “ừm” một tiếng, nói: “Ai gia dạo này mắt không được tốt, Uẩn Dung, hãy đọc cho ai gia nghe đi!”
Hồ Uẩn Dung bất giác lộ ra mấy tia sợ hãi, đưa mắt thoáng nhìn qua phía tôi, rốt cuộc đành cầm chiếu thư lên đọc một lượt.
Thái hậu nhìn nàng ta, nói: “Giọng nói dễ nghe lắm, đọc cũng rất rõ ràng, có điều chớ nên run rẩy như vậy.” Rồi Thái hậu lại ngoảnh đầu qua nhìn tôi. “Lời ít mà ý nhiều, chắc đây là thủ bút của Thục phi rồi.”
Tôi cúi đầu khẽ thưa: “Dạ.”
Thái hậu tỏ ra vô cùng đau đớn, khi nhìn qua phía Hoàng hậu, trong mắt khó mà giấu được vẻ chán ghét và xót xa. “Thục phi xét ra không hề nói quá tội lỗi của ngươi chút nào!” Dứt lời, bà ta liền vung cây gậy chống lên định đánh xuống người Hoàng hậu.
Cây gậy chống đó có phần cán đầu rồng được đúc bằng vàng ròng, thân thì làm bằng gỗ lim, cứng rắn mười phần, nhát gậy này mà đánh xuống người Hoàng hậu thì dù không chết cũng sẽ trở thành người tàn phế.
Biến cố này xảy ra quá đột ngột, Hồ Uẩn Dung kinh hãi đến nỗi thiếu chút nữa đánh rơi tờ chiếu thư trong tay. Hoàng hậu thì mặt mày tái nhợt, vậy nhưng lại không né tránh, còn ưỡn thẳng lưng lên đón lấy nhát gậy ấy.
Sau đó, cây gậy rốt cuộc đã dừng giữa không trung, rồi Thái hậu dùng sức chống mạnh nó xuống đất, chỉ nghe thấy “rầm” một tiếng, âm thanh vang vọng mãi không ngừng, bên trong như mang đầy nỗi phẫn nộ và đau đớn của Thái hậu. Thái hậu không nhìn nàng ta nữa, chỉ lạnh lùng nói: “Năm xưa đưa ngươi vào cung, xem ra ai gia đã sai rồi.”
Hoàng hậu chậm rãi ngẩng đầu, hơi thở dần dần trở nên nặng nề và dồn dập, âm thanh đó nghe hệt như những tiếng trống không ngừng nối tiếp nhau gõ vào tai người ta, chứa đầy nỗi tuyệt vọng khó mà dùng lời miêu tả. “Cái sai của mẫu hậu không phải là ở chỗ đón con vào cung, mà là đồng ý đón tỷ tỷ vào cung. Mẫu hậu vốn thông minh tột bậc, cái đạo lý một núi không thể có hai hổ lẽ nào lại không hiểu ư?”
Có lẽ vì đại điện quá rộng lớn, hơi thở của Thái hậu dường như mang đầy vẻ lạnh lẽo và trống trải. “Là tại ai gia đã quá xem trọng cái tình tỷ muội của các ngươi.”
“Tình tỷ muội?” Hoàng hậu khẽ cười lạnh một tiếng, âm thanh như vọng ra từ sâu trong lồng ngực, chất chứa đầy nỗi thê lương trầm uất. “Ngay đến người từng mặn nồng ân ái còn có thể ra tay hạ sát, tình tỷ muội thì có đáng gì! Huống chi xét về thủ đoạn đối đãi với tỷ muội, con thực sự khâm phục mẫu hậu vô cùng!”
Khuôn mặt vốn già nua của Thái hậu tức thì trở nên tái nhợt như những bông hoa đã úa tàn trên hồ Thái Dịch, Huyền Lăng thấy thế liền gằn giọng quát: “Sao nàng lại có thể ăn nói càn rỡ với mẫu hậu như thế được?”
Hoàng hậu khẽ nở một nụ cười mỉm với Huyền Lăng, trong đôi mắt đen láy đã chẳng còn ánh hào quang rực rỡ của ngày nào, chỉ còn lại một sự trống trải và tuyệt vọng vô cùng vô tận, rồi nàng ta lẩm bẩm nói: “Càn là trời, khôn là đất, càn khôn phải hòa hợp thì thế sự mới được yên vui. Cổ nhân cũng từng nói cần tề gia trước rồi mới nên trị quốc, gia hòa vạn sự hưng, vậy mà giờ đây hậu cung lại lâu ngày thiếu người cầm trịch, thực chẳng phải là điều hay. Ngẫm thấy Nhàn Quý phi Chu thị xuất thân danh môn, đức hạnh kiêm đủ, lại từng hầu hạ trẫm nhiều năm, biết kính cẩn với bề trên, khoan hòa với kẻ dưới, chính là tấm gương cho tất thảy phi tần noi theo, nay vâng theo mệnh lệnh của Hoàng thái hậu, ban cho kim sách, kim bảo để cai quản hậu cung, chính thức lập làm hoàng hậu. Ơn này trời bể, thực là to lớn chẳng kể gì bằng, nhớ nên trân trọng. Khâm thử!”
Đây chính là chiếu thư lập hậu của nàng ta năm xưa, từng câu từng chữ đều được đổi bằng máu tươi và tính mạng, do đó đến giờ nàng ta vẫn thuộc làu, chẳng quên nửa chữ.
Thái hậu coi như không nghe thấy, chỉ bình thản nhìn qua phía Huyền Lăng. “Hoàng thượng, vẫn còn thiếu một con dấu nữa, vậy tức là vẫn chưa phế hậu rồi.”
Huyền Lăng bất giác trầm mặt. “Mẫu hậu, tội của Chu thị quyết không thể tha, nhi thần không thể không phế bỏ ngôi hậu của nàng ta để an ủi vong linh Uyển Uyển nơi chín suối. Mong mẫu hậu đừng nên ngăn cản.”
Thái hậu khẽ mỉm cười. “Không ngờ con lại biết rào trước đón sau như thế đấy. Được rồi, con muốn ai gia không ngăn cản thì ai gia sẽ không ngăn cản, ai gia tới đây giữa đêm khuya thế này chỉ bởi vì đột ngột nhớ lại chuyện năm xưa, do đó muốn nói cho con biết thôi.”
Huyền Lăng lộ rõ vẻ nghiêm túc. “Dạ.”
Thái hậu đưa tay vuốt ve bờ vai Huyền Lăng vẻ hiền từ. “Tấm lòng của con với A Nhu ai gia biết rất rõ, lời mà nó từng nói chắc hẳn con vẫn chưa quên, do đó, ai gia chỉ muốn nhắc nhở con một chút thôi.” Thái hậu khẽ ho một tiếng, cất giọng trầm thấp: “Trước khi từ trần, A Nhu đã từng cầu xin con một việc, con có còn nhớ không?”
Huyền Lăng toàn thân chấn động, vừa kinh hãi vừa ngẩn ngơ, nhưng rất nhanh sau đó sắc mặt đã dần bình tĩnh trở lại, hờ hững nói: “Nhi thần không ngày nào dám quên, nhưng tội ác của Chu thị quả thực không thể tha thứ được.”
Một làn gió lạnh chợt nhè nhẹ thổi vào qua ô cửa sổ, mang theo mùi ẩm mốc của cỏ cây đã bị ngấm nước mưa lâu ngày, nhanh chóng luồn lách khắp nơi. Ngọn nến trên chiếc đế đồng cháy đã lâu rồi, tim nến trở nên cong queo đen đúa, ngay đến ánh sáng tỏa ra cũng yếu hẳn đi, không ngừng nhảy nhót trong chiếc chụp đèn. Giữa làn ánh sáng lờ mờ yếu ớt ấy, quang cảnh trong điện trở nên hết sức mơ hồ, gần như chẳng thứ gì có thể nhìn thấy rõ.
Thái hậu hờ hững nói: “Ai gia chỉ hỏi con thôi.”
Huyền Lăng cố gắng kìm nén nỗi oán hận và giận dữ trong cổ họng, trầm giọng nói: “Khi đó Uyển Uyển chỉ còn thoi thóp một hơi thở, nàng ấy đã nắm lấy tay con mà cất lời thỉnh cầu.” Y nhắm hai mắt lại, nói ra rành rọt từng chữ một: “Thiếp mệnh bạc, không thể sống với tứ lang tới lúc đầu bạc răng long, ngay đến con của chúng ta cũng không giữ được. Thiếp chỉ có một người muội muội là Nghi Tu thôi, xin tứ lang sau này bất kể thế nào cũng phải đối tốt với muội ấy, đừng ghét bỏ muội ấy!”
Tứ lang! Tứ lang! Thì ra năm xưa nàng ta cũng từng âu yếm gọi y như thế!
Tiếng thở dài của Thái hậu như một nắm đấm nện vào trái tim tôi, bà ta hờ hững nói: “Con đã chính miệng đồng ý với A Nhu rồi, tuyệt đối không bao giờ ghét bỏ Nghi Tu!”
Huyền Lăng phẫn nộ kêu lên: “Mẫu hậu!”
“Hoàng thượng!” Thái hậu ngăn cơn giận dữ của Huyền Lăng lại. “Nếu con bất chấp lời hứa với A Nhu, ngay cả di ngôn của nó cũng chẳng chịu nghe theo, sau này xuống suối vàng, con còn mặt mũi nào để gặp lại nó nữa?”
Huyền Lăng tỏ ra vô cùng đau đớn không cách nào kìm nén được. Thái hậu nhìn y vẻ thương xót, thế nhưng giọng nói lại không hề nhân nhượng: “Con bây giờ ghét bỏ Nghi Tu, đến tên của nó cũng không chịu gọi, câu nào câu nấy đều gọi nó là Chu thị, nhưng con chớ quên A Nhu cũng là Chu thị, và mẫu hậu của con cũng là Chu thị đấy. Ai gia chỉ nói với con một câu này thôi, nhà họ Chu không thể xuất hiện phế hậu được.”
Rồi bà ta lạnh lùng đưa mắt liếc qua phía tôi và Hồ Uẩn Dung. “Hai người các ngươi tốt nhất cũng hãy nhớ lấy điều này.”
Tôi lẳng lặng cúi đầu, thản nhiên cất tiếng đáp: “Dạ!”
Thái hậu không để ý đến tôi nữa, dịu dàng khuyên nhủ Huyền Lăng: “A Nhu vốn thông minh rất mực, mà con người ta trước khi chết lòng thường sáng suốt vô cùng, những việc Nghi Tu đã làm nó chưa chắc đã không biết, cho nên mới phải khổ sở van nài con như vậy. Những việc Nghi Tu đã làm ai gia cũng không thể dung thứ được, lần này ai gia khuyên con chỉ là vì hy vọng sau này con còn có thể gặp lại A Nhu dưới suối vàng. Nhà họ Chu của Nghi Tu cũng là nhà họ Chu của A Nhu, mong con hãy hiểu cho một phen khổ tâm của nó!”
Huyền Lăng chỉ đáp lại bằng sự lặng im, Thái hậu lại chậm rãi nói tiếp: “Mẫu hậu là người sắp chết, lời của ta con hoàn toàn có thể không nghe. Nhưng con phải nhớ lấy, mẫu thân của con là người nhà họ Chu, vợ kết tóc của con là người nhà họ Chu, trên người con cũng chảy dòng máu của nhà họ Chu!” Kế đó bà ta liền bám vào tay Tôn cô cô, khẽ dặn dò: “Trúc Tức, đưa Hoàng hậu về đi.”
Đại điện lúc này tĩnh lặng tột cùng, ngay cả tiếng nổ lốp bốp của vụn trầm hương trong lò cũng có thể nghe thấy rõ, Thái hậu thì dường như chưa từng tới đây vậy. Hồ Uẩn Dung còn chưa cam tâm, nắm chặt góc áo Huyền Lăng mà cất tiếng van nài: “Hoàng thượng, Thái hậu bị ốm nên hồ đồ, nhưng người thì không thể hồ đồ được! Trong cung đã có biết bao nhiêu đứa bé phải chết oan rồi, chúng đều là con của người đấy!”
Huyền Lăng lặng lẽ ngồi tựa vào ghế, chỉ lẳng lặng nhìn tôi bằng ánh mắt cô độc và đau thương.
Trái tim tôi bất giác nguội lạnh dần từng chút một.
Ngày hôm sau, ý chỉ của Huyền Lăng rốt cuộc đã được truyền đi khắp lục cung: “Hoàng hậu Chu thị, thiên mệnh chẳng dung, không xứng làm mẫu nghi thiên hạ, nhưng niệm tình là muội muội của Thuần Nguyên Hoàng hậu, vào cung hầu hạ đã lâu, nay đặc biệt an trí ở Chiêu Dương điện, không chết thì không được ra ngoài. Việc trong lục cung giao cho Thục phi quản lý, Quý phi, Đức phi hiệp trợ. Khâm thử.”
Không chỉ thế, Huyền Lăng còn sai người đi lấy toàn bộ thánh chỉ và bảo ấn, bảo sách từng ban cho nàng ta trong những dịp phong phi, phong quý phi, lập hoàng hậu, lại dặn dò phủ Nội vụ đối xử với nàng ta theo quy cách của canh y - loại cung tần mạt hạng nhất, đồng thời còn truyền lời ra khắp lục cung: “Đời này quyết không bao giờ gặp lại Chu Nghi Tu.”
Y làm như vậy có thể nói là đã ân đoạn nghĩa tuyệt với Chu Nghi Tu, chỉ lưu lại cho nàng ta cái danh hoàng hậu mà thôi.
Trong cung bắt đầu nổi lên những lời bàn tán xôn xao, rằng nhà họ Chu liên tiếp xuất hiện hai vị hoàng hậu, nhưng rồi vật cực tất phản, lạc cực sinh bi. Giờ đây ngôi hậu lung lay, lòng người cũng theo đó mà sôi sục.
Mà trong dịp đầu xuân hỗn loạn và lạnh lẽo này, ở Di Ninh cung, bệnh tình của Thái hậu dường như ngày một nặng.
/43
|