Tự nơi đáy lòng trào lên cảm giác lạnh toát không thể nào ngăn cản được, tôi cất tiếng thổn thức đầy vẻ thê lương: “Có lẽ nếu được trở về quá khứ, chúng ta đều sẽ lựa chọn khác đi, không bước lại trên con đường thuở xưa nữa, như thế thì giờ đây chúng ta đã chẳng rơi vào cảnh ngộ khốn đốn thế này.”
Y hít sâu một hơi, vẻ dịu dàng trong cặp mắt màu hổ phách dần trở nên ảm đạm. “Chuyện làm ta hối hận nhất trong cuộc đời này là khi tới chùa Cam Lộ tuyên đọc thánh chỉ năm đó đã không mang nàng rời đi, đó thực là một lỗi lầm không thể nào tha thứ được.”
Chén rượu trong veo phản chiếu lại khuôn mặt không hoàn chỉnh của tôi, vừa khéo giống hệt như cuộc đời không hoàn chỉnh của tôi vậy. Tôi cố kìm nén những giọt lệ bên khóe mắt, chậm rãi nói: “Thanh, cho dù ngọn gió trong lòng muội luôn thổi về phía huynh, nhưng muội lại không thể không đi ngược gió. Trên đời này có một số chuyện đã được vận mệnh ai bài trước rồi, muội không oán hận huynh chút nào đâu.”
Y khẽ nở nụ cười, nhưng vẻ bi thương trong mắt thì lại càng thêm rõ ràng. “Người mà ta cả đời khao khát không thuộc về ta, đã thế ta còn phụ lòng hai nữ tử vô tội nữa, thực là tệ hại quá chừng.”
Tôi gắp một miếng bánh ngó sen hoa quế bỏ vào trong đĩa của y, gượng cười nói: “Đây là nơi mà năm xưa tiên đế và Thư Quý thái phi ân ái mặn nồng, lại là nơi ở cũ của huynh, việc gì phải nói tới những chuyện thương tâm ấy làm gì.”
Y mân mê chén rượu của mình trong tay, thế mà rượu trong chén lại chẳng hề sánh ra ngoài, mãi một lát sau y mới cất giọng vô cùng bình tĩnh: “Ta sợ nếu mình mà không nói thì sau này sẽ không còn cơ hội nữa.”
Lòng tôi thầm kinh hãi, đôi đũa bạc trong tay bất giác rơi xuống bàn làm phát ra những tiếng đinh đang hết sức chói tai. Trái tim tựa như bị muôn vàn mũi kim sắc nhọn đâm vào, tôi buột miệng kêu lên: “Huynh nói bậy!”
Sắc mặt y không hề thay đổi, khóe miệng chỉ hơi nhếch lên. “Không phải thế ư? Những lần gặp gỡ của chúng ta chủ yếu là trong các bữa tiệc toàn cung hội họp, ta ngay cả cơ hội tiếp cận nàng cũng không có, làm sao nói ra mấy lời này được! Cuộc đời này xét cho cùng cũng chỉ có mấy chục năm, nói qua là qua ngay, ta chỉ đành tranh thủ lúc này thôi.”
Nghe y giải thích như vậy tôi mới yên tâm hơn một chút, rồi cất giọng dịu dàng: “Huynh giờ đã làm cha rồi, thế mà ăn nói vẫn chẳng biết kiêng dè gì cả!”
“Ta chỉ sợ bỏ lỡ thêm cơ hội đấy thôi.” Sắc mặt y lúc này bình lặng như mặt nước hồ thu, không có lấy một tia xao động. “Hồi ta còn nhỏ, mỗi dịp xuân hè thường thấy phụ hoàng và mẫu phi dắt tay nhau cùng đi ngắm hoa, chuyện trò không ngớt. Khi đó hoa đường lê nở trắng như tuyết, hoa ngô đồng thì tím nhạt như sương, có điều năm nay hoa tàn sớm, ta đã lỡ mất mùa hoa, dù có muốn ngắm cũng chẳng được nữa rồi.” Bốn mắt nhìn nhau, bầu không khí chìm vào tĩnh lặng.
Một lát sau, y đưa tay tới nắm lấy bàn tay tôi. “Ta xin lỗi.”
Tôi khẽ lắc đầu. “Muội không muốn nghe thấy những lời này.”
Y nhìn tôi rồi nở nụ cười tươi như ánh dương rạng rỡ. “Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.”
Nỗi chua xót trong lòng gần như đã bị xua đi toàn bộ, chỉ còn lại sự dịu dàng, rồi tôi cũng nở nụ cười tươi rạng rỡ. “Cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.”
Có lẽ vì quá vui mừng, y nâng chén rượu lên một hơi uống cạn, sau đó còn chĩa đáy chén về phía tôi, khẽ cười, nói: “Nàng xem này, ta uống cạn rồi đấy.”
Tôi đưa mắt nhìn chén rượu đỏ tươi sóng sánh, dằn lòng lại, nở một nụ cười vui vẻ và hài lòng, không chút do dự ngẩng đầu uống cạn. Dòng rượu chảy vào cổ họng tôi linh hoạt như một con rắn độc, cứ thế trôi tuột xuống dạ dày. Tôi cười tươi rạng rỡ, cũng chĩa đáy chén rượu cho y xem, vui vẻ nói: “Đây chính là rượu giao bôi hợp cẩn, muội cũng chẳng để sót một giọt nào.”
Y khẽ mỉm cười, một nụ cười xuất phát tự đáy lòng khiến tôi cảm thấy vô cùng ấm áp. “Tốt lắm!”
Tôi buông thõng hai tay mà đứng lặng lẽ trước bàn, tựa như một bông tịch nhan trắng muốt đã gần héo úa. Dòng rượu lạnh băng kia lúc này đã ở trong cơ thể tôi, chắc chẳng bao lâu nữa sẽ lấy đi tính mạng tôi.
Nhưng giờ đây tôi lại thấy thỏa mãn vô cùng, đời này không còn điều gì nuối tiếc.
Màn đêm giá lạnh tựa như nước hồ Phiên Nguyệt, nhưng cũng hết sức dịu dàng. Thoạt nghe tiếng gió thổi qua cành cây xào xạc, tôi thầm cảm thấy Hắc Bạch Vô Thường chừng như đang lặng lẽ tiến đến gần, bèn nhìn y chăm chú, hy vọng có thể ghi nhớ kĩ nụ cười của y.
Chỉ mong y đừng trách tôi.
Thế nhưng một hồi lâu sau, trong lòng tôi chỉ có sự tuyệt vọng cùng một cơn lạnh giá tột cùng, hoàn toàn không có cảm giác đớn đau gì cả. Hơi thở của tôi vẫn đều đều như trước, chẳng thay đổi chút nào.
Đôi hàng lông mày của tôi chợt run rẩy, tựa như một ngọn lửa không ngừng lay động giữa làn gió hiu hiu. Y đưa tay về phía tôi. “Hoàn Nhi, để ta ôm nàng thêm một lần nữa.”
Đây có lẽ là chút ấm áp cuối cùng mà y mang tới cho tôi, cũng là thứ cuối cùng tôi có thể nhận được. Tôi không kìm được ghé sát tới gần y, còn có gì quan trọng nữa đây? Tôi sắp chết rồi, còn điều gì có thể làm tôi sợ nữa?
Tôi nhoài người vào lòng y, làn da giá lạnh của y lại một lần nữa ở sát bên tôi, làm trái tim tôi dần trở nên bình lặng. Tôi khẽ cất tiếng lẩm bẩm: “Hàm Nhi hồi nhỏ rất nghịch ngợm, nhưng mười phần lanh lợi, không như Linh Tê từ nhỏ đã điềm đạm, chín chắn. Hai đứa nhỏ ấy một tĩnh một động, còn Tuyết Phách thì chưa biết tính cách sẽ như thế nào, nhưng trong ba huynh muội thì con bé là đứa xinh đẹp nhất...”
Đôi môi run lên nhè nhẹ, tôi không thể nói tiếp được nữa, cũng không muốn nghĩ tới những đứa bé ấy của tôi, chỉ biết là hổ dữ cũng không ăn thịt con, Huyền Lăng ắt hẳn sẽ không làm gì bốn đứa nhỏ ấy. Tôi nhắm mắt lại, tựa như một bông tịch nhan yếu ớt mọc ra từ trong lòng y, những ký ức thuở xưa dần dần hiện lên trước mắt. “Thanh, muội muốn trở về đỉnh Lăng Vân.”
Y dường như đã khẽ gật đầu, chợt có một thứ dịch thể ấm áp rơi từ cằm y xuống, hết giọt này tới giọt khác, chậm rãi chảy vào cổ tôi, rồi lại lăn xuống ngực, cuối cùng ngấm vào chiếc yếm trắng muốt thêu hình hoa sen.
Tôi chậm rãi đưa tay lên lau, đồng thời dịu dàng hỏi: “Thanh, sao huynh lại khóc vậy?”
Giữa làn nước mắt mơ hồ, tôi nhìn thấy đầu ngón tay mình thấp thoáng màu đỏ tươi, trái tim liền giống như bị người ta đâm vào một lưỡi dao sắc lẹm. Tôi vội vàng ngẩng lên nhìn, thấy một dòng máu đã chảy ra từ bên khóe môi y tự lúc nào, hệt như những bông hoa nở rộ đang không ngừng rơi xuống.
Tôi không sao kìm nén được những giọt nước mắt của mình, để chúng tuôn rơi cuồn cuộn, chừng như chỉ sau nháy mắt đã xuyên thủng thân thể tôi. Tôi hoang mang ngoảnh đầu lại cầm chén rượu của mình lên xem, y cố hết sức kéo tay tôi lại, đôi hàng lông mày nhíu chặt vì quá đau đớn, thế nhưng vẫn gượng nở nụ cười. “Không cần đâu, ta đã đánh tráo chén rượu của nàng rồi.”
Nơi đáy chén vẫn còn sót lại mấy giọt rượu đỏ tươi, tôi nhìn mà mắt như đau nhói, không kìm được cất giọng thê lương: “Sao lại như vậy chứ?”
“Chúng ta lẽ nào mới ngày đầu tiên biết nhau hay sao? Vẻ trù trừ do dự của nàng khi động vào bình rượu đó, ta nhìn thấy rất rõ ràng, dù ngón tay nàng giấu trong tay áo thì bên phải và bên trái khác nhau thế nào ta vẫn có thể nhìn ra được, bởi thủ đoạn dùng bình rượu hai ngăn một có độc một không có độc thế này cũng chẳng phải là quá mới mẻ. Huống chi hoàng huynh là hạng người thế nào chứ, chỉ nhìn việc y bảo nàng một mình tới đây là ta đã biết rằng có vấn đề rồi.”
Giọng nói của y nặng nề và ấm áp, tựa như một tấm chăn bông phủ lên tấm thân lạnh lẽo đang run lên lẩy bẩy của tôi. “Khi nàng đi đóng cửa sổ, ta đã tráo đổi chén rượu của hai chúng ta. Hoàn Nhi, ta không muốn nàng phải khó xử.”
Cơn giá lạnh cùng nỗi đau đớn tột cùng trong xương tủy dần đông cứng lại thành một khối băng rất lớn, còn cứng rắn vô cùng, cứ thế lăn qua trái tim tôi, sau đó lại lăn ngược trở về, khiến trái tim vốn mang đầy thương tích của tôi nhanh chóng bị nghiền nát. Tôi cất giọng thê lương: “Không thể thế được! Người phải chết rõ ràng là muội cơ mà! Sau khi muội chết, huynh liều mình đánh giết ra ngoài, dù gì cũng sẽ có một con đường sống!”
Y đưa tay nắm chặt lấy bàn tay tôi. “Sau khi ta đoạt nàng về từ trong tay Ma Cách, hoàng huynh đã nổi sát tâm, ta căn bản chẳng thể nào thoát được!” Máu tươi không ngừng chảy ra từ bên khóe miệng y, thế nhưng y vẫn khẽ mỉm cười. “Ta sớm biết sẽ có ngày này rồi. Chén rượu độc này dù nàng có thật sự đưa cho ta thì cũng chẳng sao, nàng làm thế chỉ vì muốn bảo vệ mình. Hoàn Nhi, sau này ta không thể bảo vệ nàng nữa, nàng nhất định phải tự biết bảo vệ bản thân đấy.”
Tôi gắng gượng đứng dậy. “Để muội đi tìm Ôn Thực Sơ, Ôn Thực Sơ nhất định có thể cứu được huynh.”
Đôi mắt y dần trở nên rời rạc, ánh trăng từ ngoài cửa sổ rọi vào dịu dàng vuốt ve đôi bờ má y, lại càng khiến khuôn mặt y lúc này thêm phần nhợt nhạt, hệt như một bông tịch nhan sắp úa tàn. Đôi bờ môi y giờ đã tím thẫm, giọng nói thì trở nên nặng nề vô hạn: “Rượu độc trong cung lợi hại đến cỡ nào chứ, một khi uống vào ắt sẽ phải mất mạng, không ai có thể cứu được.” Y đưa tay tới lau nước mắt cho tôi một cách khó khăn, dịu dàng nói tiếp: “Hoàn Nhi, nàng đừng khóc. Đợi lát nữa nàng ra ngoài, hoàng huynh mà nhìn thấy nàng khóc thì ắt sẽ trút giận lên người nàng đấy.”
“Được, muội không khóc.” Tôi ra sức gật đầu, muốn ngưng khóc theo lời của y, thế nhưng nước mắt càng lúc càng nhiều, không cách nào kìm nén được.
Y đưa tay tới, cố gắng ôm tôi vào lòng, khuôn mặt vốn nhăn nhó vì đau đớn chậm rãi dãn ra. “Hoàn Nhi, sau khi ta chết, nàng chớ nên đau thương. Nàng phải đáp ứng ta một việc, ấy là nhất định phải bảo vệ bản thân thật tốt, đừng để ai hãm hại.” Hơi thở của y dần trở nên dồn dập. “Đứa bé Tuyết Phách đó quả thực rất giống nàng. Nàng đã có những đứa con của nàng rồi, nhất định phải cố gắng sống tiếp cho tốt.” Rồi y khẽ thở dài một tiếng. “Xin lỗi, Hoàn Nhi, ta sau này không thể tiếp tục đứng sau lưng nàng để bảo vệ cho nàng được nữa.”
Tôi ra sức lắc đầu. “Không! Không! Thanh, cuộc biệt ly trên đỉnh Lăng Vân đã trở thành sai lầm lớn nhất trong đời, muội cầu xin huynh, cầu xin huynh đừng rời xa muội nữa! Muội là thê tử của huynh, muội không muốn ở lại trong chốn hậu cung này, huynh hãy đưa muội rời khỏi đây, hãy đưa muội rời khỏi đây đi mà!”
Bàn tay y vừa vuốt ve bờ má tôi vừa run lên lẩy bẩy, những đầu ngón tay thật lạnh lẽo làm sao, chẳng còn được ấm áp như ngày xưa nữa. Y cố gắng nở một nụ cười mờ mịt như sương mù. “Có câu nói này của nàng, đời này ta không còn điều gì nuối tiếc nữa!” Giọng nói của y nhỏ dần. “Trong lòng ta, nàng mãi mãi là thê tử duy nhất của ta...”
Hai hàng lệ chảy dài trên bờ má, ánh trăng trắng lóa chiếu vào giống như cái miệng dữ dằn của một con quái thú đang ngoạm chặt lấy cổ họng tôi, mang tới nỗi đau đớn tột cùng. Tôi bất chấp tất cả ghé vào bên tai y, khẽ nói: “Dư Hàm, Linh Tê, còn cả Tuyết Phách nữa, đều là con của huynh...”
Gần như trong cùng một khoảnh khắc, đầu y ngoẹo xuống bờ vai tôi, lại từ từ trượt xuống đến khuỷu tay. Và rồi y cứ thế nằm lặng lẽ trong lòng tôi, chẳng hề động đậy, cũng chẳng còn lại một hơi thở nào.
Gió đêm nhẹ nhàng mở rộng cửa sổ ra từng chút một, dưới ánh trăng lạnh lẽo có thể nhìn thấy nơi bệ cửa sổ có những bông hoa trắng muốt đang nở rộ, chẳng hề tỏa hương, trên cánh hoa mỏng manh hãy còn lưu lại đôi giọt sương đêm thuần khiết, thực là yêu kiều, non nớt vô cùng.
Giọng nói sang sảng của y dường như lại vang lên sau lưng tôi: “Nàng có biết đây là hoa gì không?” Y sẽ không bao giờ hỏi tôi như vậy nữa.
Y chết rồi.
Trước ngực tôi vẫn còn những vệt máu ấm nóng do y nôn ra, nhưng dần dần cũng đã trở nên lạnh lẽo. Giống như trái tim này của tôi, đã vĩnh viễn chẳng thể nào ấm áp được nữa rồi.
Y chết rồi, nam tử mà tôi cả đời thương yêu và nhớ nhung da diết ấy đã chết rồi, chết vì tôi, chết ngay trong lòng tôi. Tôi áp sát mặt mình vào mặt y, đã lâu lắm rồi khuôn mặt của chúng tôi mới lại được ở gần nhau như thế.
Nhưng y nay đã chết rồi, y sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa, không bao giờ nhìn tôi bằng ánh mắt dịu dàng như thế nữa, cũng không bao giờ cùng tôi viết thơ hay gảy đàn, thổi sáo nữa.
Trường tương tư và Trường tương thủ, rốt cuộc đã phải vĩnh viễn xa lìa. Sau này, trong những đêm dài đằng đẵng, chỉ còn lại một mình Trường tương tư đau khổ giằng xé tâm can. Lúc này đây, trái tim tôi như đã trở nên mục ruỗng, thân thể cũng chỉ còn lại cái vỏ bên ngoài, cả cuộc đời này chẳng thể nào được giải thoát.
Đó là một tấm thiếp hợp hôn màu đỏ, chính giữa có hình một cặp uyên ương ân ái, phần rìa thì vẽ hình phượng hoàng đầu nối đuôi nhau, lấy ý từ câu phượng hoàng cùng bay, chỉ vợ chồng hòa hợp, nền của tấm thiếp còn có hoa văn sen mọc cùng gốc, ngụ ý nhiều con nhiều phúc, ân ái triền miên.
Mấy hàng chữ bên trên, tới lúc này vẫn còn in sâu trong đầu tôi:
Huyền Thanh - Chân Hoàn
Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.
Nguyện cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.
Đối với tôi mà nói, kiếp sống này đã trở nên tàn nhẫn vô cùng, chẳng còn chút gì gọi là đẹp tươi nữa, thế nhưng tôi lại chẳng thể nào chết theo y được.
Một hồi lâu sau, cũng chẳng biết là đã qua bao lâu rồi nữa, thân thể của y đã hoàn toàn trở nên nguội lạnh. Đôi môi lạnh băng của tôi hôn nhẹ lên bờ trán cũng lạnh băng của y, lòng thầm đau đớn đến nỗi chẳng còn lại chút cảm giác nào. Tôi giống như một người mất hồn, cứ thế chậm rãi đứng dậy, chậm rãi mở cửa điện ra, lẳng lặng đón lấy ánh trăng từ trên cao chiếu xuống, trong lòng chẳng có lấy một tia cảm xúc.
Cách đó ngoài trăm bước chân, ánh sáng tỏa ra từ những lưỡi đao sắc bén khiến tôi cơ hồ không mở mắt ra nổi, ngoảnh đầu ngó khắp thì thấy đâu đâu cũng là giáp trụ lạnh tanh. Chợt Lý Trường chạy tới đỡ lấy tôi, cất giọng nửa vui nửa buồn: “Nương nương rốt cuộc đã ra ngoài rồi!”
Tôi chỉ tay về phía đám người lăm lăm vũ khí trong tay kia, hỏi: “Đó là gì vậy?”
Lý Trường lúng túng cúi đầu. Thống lĩnh Vũ lâm quân Hạ Ngải - kẻ cầm đầu đám người kia - ôm quyền hành lễ với tôi, cung kính nói: “Hoàng thượng có chỉ, nếu chỉ có một mình nương nương ra ngoài thì tuyên đọc thánh chỉ; nếu ngoài nương nương ra còn có người nào khác, vậy thì tất thảy giết hết bất luận tội!”
Hạ Ngải đưa tay lên ra dấu cứa cổ. Mắt tôi bỗng như tối sầm, Huyền Lăng, y quả nhiên đã mưu tính kĩ càng, không để Huyền Thanh có con đường thoát.
Giọng tôi vang lên vẻ đầy bình tĩnh, như thể chẳng phải là của mình: “Bản cung vẫn bình yên vô sự, giờ đã ra ngoài rồi.” Hạ Ngải ngó nhìn về phía sau lưng tôi, truy hỏi: “Vậy...”
Tôi cắn chặt bờ môi, một hồi lâu sau mới cất giọng lạnh lùng: “Thanh Hà Vương đã qua đời.”
Hạ Ngải mỉm cười hài lòng, quay sang nói với Lý Trường: “Mời công công tuyên đọc thánh chỉ.”
Lý Trường nhìn thấy bộ dạng hung thần ác sát ấy của hắn thì không kìm được rùng mình một cái, lấy ra cuộn thánh chỉ đã được chuẩn bị sẵn, nói: “Thục phi Chân thị nghe chỉ...”
Tôi ngẩn ngơ quỳ xuống, bên tai văng vẳng giọng nói the thé của Lý Trường: “Trung cung thất đức, hậu cung thiếu người cầm trịch, nay trẫm đặt thêm ngôi vị hoàng quý phi ở trên tứ phi, địa vị ngang với phó hậu, chưởng quản lục cung. Thục phi Chân thị thông minh hiền đức, đoan trang tao nhã, là tấm gương sáng cho lục cung, nay trẫm ra ân ban phong làm hoàng quý phi. Khâm thử.”
Lý Trường đi tới đỡ tôi dậy, lén đưa tay lau đi mấy giọt lệ nơi khóe mắt, gượng cười nói: “Chúc mừng nương nương, đây là chuyện mừng lớn chưa từng có đấy ạ...”
“Quạ... Quạ...” Chợt có một con quạ vỗ cánh bay ngang qua giữa bầu trời tịch mịch, lòng tôi thầm chua xót, biết rõ rằng có một thứ mà giờ mình đã vĩnh viễn mất đi.
Lý Trường đỡ tôi đi xuống dưới Đồng Hoa đài, khẽ nói: “Hoàng thượng biết là nương nương phen này mệt nhọc, vậy nên đã đặc biệt bày tiệc ở Thủy Lục Nam Huân điện để chờ nương nương.”
Gió đêm rất lớn khiến ống tay áo rộng của tôi giống như những cánh bướm không ngừng tung bay, thế nhưng đó lại là những cánh bướm chết chóc, chẳng hề có chút sinh khí. Một bông hoa ngô đồng màu tím chợt rơi vào vạt áo trước ngực tôi, nơi cuống hoa vẫn còn lưu lại chút nhựa nhầy nhầy. Tôi tiện tay cầm lên, bất giác cảm thấy mình cũng giống như bông hoa này, từ giờ trở đi chẳng còn nơi nương tựa.
Chân tôi bỗng trượt một cái, thân thể lăn lông lốc xuống dưới Đồng Hoa đài. Lý Trường không kìm được kinh hãi kêu lên: “Nương nương...”
Từ nơi đầu gối chân phải truyền tới một cơn đau thấu tâm can, trong khoảnh khắc sắp ngất đi, tôi chợt nhớ lại một câu nói của mẫu thân ngày trước, Kinh Hồng vũ là điệu múa chỉ dành cho nam tử mình yêu.
Tôi biết, tôi sau này chẳng thể múa được nữa rồi.
Ngày Mười bảy tháng Năm năm Càn Nguyên thứ hai mươi bảy, Thanh Hà Vương qua đời vì bạo bệnh ở Đồng Hoa đài. Ngày Hai mươi bảy tháng Năm năm Càn Nguyên thứ hai mươi bảy, trong ngày liệm Thanh Hà Vương, Trắc phi Chân thị sau một hồi khóc lóc đã đập đầu vào quan tài tự vẫn.
Hôm ấy, Lý Trường sau khi trở về từ phủ Thanh Hà Vương, trên mặt vẫn còn vương đầy dấu lệ. “Ẩn phi đã khóc đến ngất đi mấy lần, tới khi mọi người sắp đậy nắp quan tài cho Vương gia thì đột ngột lao đầu vào đó, máu bắn ra xa ngoài ba thước. Khi đó Ẩn phi chưa tắt thở, còn cố gắng bò vào trong quan tài của Vương gia mà ôm chặt lấy Vương gia, sau đó cắn lưỡi tự vẫn. Bọn nô tài tới lúc ấy mới hiểu ý của Ẩn phi, đó là mong được sống cùng giường, chết cùng mộ với Vương gia, sinh tử chẳng rời.”
Lúc ấy tôi đang ngồi trước tượng Quan Âm niệm Vãng sinh chú, vừa hay tin liền thấy lòng đau như cắt, tràng hạt trong tay bất chợt đứt lìa, những hạt châu rơi đầy trên mặt đất. Tôi đưa tay che mặt, những giọt nước mắt đã kìm nén suốt mấy ngày rốt cuộc đã lại một lần nữa tuôn rơi.
Mười ngày sau lễ khâm liệm, Huyền Lăng hạ chỉ sai hậu táng phu thê Thanh Hà Vương, thế tử của Thanh Hà Vương thì giao cho thê tử Bình Dương Vương nuôi nấng. Trong thời gian này, Huyền Lăng còn từng mấy lần khóc lóc sầu thảm vì cái chết của Thanh Hà Vương, thậm chí bỏ ăn bỏ uống, chỉ sau mấy ngày đã gầy đi rất nhiều. Ngoài ra y lại sinh lòng thương cảm vì Huyền Thanh phải chịu khổ ở biên quan, lâu ngày thành bệnh, bèn hạ chỉ tăng thêm một trăm vạn lạng bạc quân hưởng, ba quân ở biên quan đều phải mặc đồ tang truy điệu Thanh Hà Vương.
Khi nghe được tin này thì vết thương ở chân tôi đã đỡ hơn nhiều, có thể xuống giường đi lại chậm rãi. Thái y nói tôi đi lại thì không có vấn đề gì, nhưng không thể múa được nữa, cũng không thể chạy. Lúc này tôi chỉ đứng lặng lẽ trong thư phòng ở Thủy Lục Nam Huân điện, trong tay cầm chặt một sấp thư nhà mà mình vô ý nhìn thấy giữa chồng thư tịch của Huyền Lăng.
Đó là một sấp thư nhà rất dày, từng câu từng chữ bên trên đều do Huyền Thanh tự tay viết, chủ yếu là hỏi thăm tình hình trong vương phủ và trong cung, lại dặn dò Ngọc Ẩn và Triệt Nhi phải chú ý giữ gìn sức khỏe, lời lẽ hết sức ôn tồn, ấm áp. Có điều mỗi bức thư luôn kết thúc bằng bốn chữ nhỏ viết bằng thể chữ Khải hết sức ngay ngắn: Thục phi khỏe chăng?
Thư trả lời của Ngọc Ẩn thì rất dài, nét chữ cực kỳ nắn nót, từ trong từng chữ từng hàng đều có thể nhìn ra nỗi tương tư nồng đậm, mà ở cuối mỗi bức thư đều là ba chữ Khải nhỏ viết theo lối Trâm hoa: Thục phi khỏe.
Lạc khoản là đủ các mùa xuân, hạ, thu, đông trong hai năm dài đằng đẵng, chẳng thiếu đêm ngày.
Giữa cơn nghẹn ngào trong tĩnh lặng, tự nơi đáy lòng tôi không ngớt trào dâng một nỗi bi thương khó tả bằng lời, nước mắt không ngừng tuôn rơi, từng giọt từng giọt chảy xuống và ngấm vào chiếc áo hoàng quý phi màu vàng tươi thêu hình phượng hoàng, lưu lại những vệt nước mắt loang lổ.
Lý Trường đứng lặng lẽ sau lưng tôi, khẽ cất tiếng bẩm báo: “Nô tài đã điều tra ra rồi, chỗ thư nhà này đều là do Hiền phi nương nương mang về dâng lên cho Hoàng thượng, Hoàng thượng sau khi xem xong liền lưu lại và sai người sao một bản theo nét chữ của Vương gia mà gửi tới vương phủ cho Ẩn phi, thư của Ẩn phi cũng bị làm hệt như thế.”
Tôi đột nhiên nhớ ra, chiếc quạt tròn để bên giường của Huyền Lăng hôm đó chính là của Hiền phi Hồ Uẩn Dung.
Lý Trường cất giọng lo lắng: “Hiền phi nương nương một lòng muốn ngồi lên ngôi hậu, coi nương nương như cái gai trong mắt, liên tục ám hại, nương nương không thể không đề phòng được.”
Móng tay đã cắm ngập vào lòng bàn tay, nhưng tôi vẫn không đổi sắc mặt, hờ hững nói: “Ta biết rồi.”
Y hít sâu một hơi, vẻ dịu dàng trong cặp mắt màu hổ phách dần trở nên ảm đạm. “Chuyện làm ta hối hận nhất trong cuộc đời này là khi tới chùa Cam Lộ tuyên đọc thánh chỉ năm đó đã không mang nàng rời đi, đó thực là một lỗi lầm không thể nào tha thứ được.”
Chén rượu trong veo phản chiếu lại khuôn mặt không hoàn chỉnh của tôi, vừa khéo giống hệt như cuộc đời không hoàn chỉnh của tôi vậy. Tôi cố kìm nén những giọt lệ bên khóe mắt, chậm rãi nói: “Thanh, cho dù ngọn gió trong lòng muội luôn thổi về phía huynh, nhưng muội lại không thể không đi ngược gió. Trên đời này có một số chuyện đã được vận mệnh ai bài trước rồi, muội không oán hận huynh chút nào đâu.”
Y khẽ nở nụ cười, nhưng vẻ bi thương trong mắt thì lại càng thêm rõ ràng. “Người mà ta cả đời khao khát không thuộc về ta, đã thế ta còn phụ lòng hai nữ tử vô tội nữa, thực là tệ hại quá chừng.”
Tôi gắp một miếng bánh ngó sen hoa quế bỏ vào trong đĩa của y, gượng cười nói: “Đây là nơi mà năm xưa tiên đế và Thư Quý thái phi ân ái mặn nồng, lại là nơi ở cũ của huynh, việc gì phải nói tới những chuyện thương tâm ấy làm gì.”
Y mân mê chén rượu của mình trong tay, thế mà rượu trong chén lại chẳng hề sánh ra ngoài, mãi một lát sau y mới cất giọng vô cùng bình tĩnh: “Ta sợ nếu mình mà không nói thì sau này sẽ không còn cơ hội nữa.”
Lòng tôi thầm kinh hãi, đôi đũa bạc trong tay bất giác rơi xuống bàn làm phát ra những tiếng đinh đang hết sức chói tai. Trái tim tựa như bị muôn vàn mũi kim sắc nhọn đâm vào, tôi buột miệng kêu lên: “Huynh nói bậy!”
Sắc mặt y không hề thay đổi, khóe miệng chỉ hơi nhếch lên. “Không phải thế ư? Những lần gặp gỡ của chúng ta chủ yếu là trong các bữa tiệc toàn cung hội họp, ta ngay cả cơ hội tiếp cận nàng cũng không có, làm sao nói ra mấy lời này được! Cuộc đời này xét cho cùng cũng chỉ có mấy chục năm, nói qua là qua ngay, ta chỉ đành tranh thủ lúc này thôi.”
Nghe y giải thích như vậy tôi mới yên tâm hơn một chút, rồi cất giọng dịu dàng: “Huynh giờ đã làm cha rồi, thế mà ăn nói vẫn chẳng biết kiêng dè gì cả!”
“Ta chỉ sợ bỏ lỡ thêm cơ hội đấy thôi.” Sắc mặt y lúc này bình lặng như mặt nước hồ thu, không có lấy một tia xao động. “Hồi ta còn nhỏ, mỗi dịp xuân hè thường thấy phụ hoàng và mẫu phi dắt tay nhau cùng đi ngắm hoa, chuyện trò không ngớt. Khi đó hoa đường lê nở trắng như tuyết, hoa ngô đồng thì tím nhạt như sương, có điều năm nay hoa tàn sớm, ta đã lỡ mất mùa hoa, dù có muốn ngắm cũng chẳng được nữa rồi.” Bốn mắt nhìn nhau, bầu không khí chìm vào tĩnh lặng.
Một lát sau, y đưa tay tới nắm lấy bàn tay tôi. “Ta xin lỗi.”
Tôi khẽ lắc đầu. “Muội không muốn nghe thấy những lời này.”
Y nhìn tôi rồi nở nụ cười tươi như ánh dương rạng rỡ. “Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.”
Nỗi chua xót trong lòng gần như đã bị xua đi toàn bộ, chỉ còn lại sự dịu dàng, rồi tôi cũng nở nụ cười tươi rạng rỡ. “Cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.”
Có lẽ vì quá vui mừng, y nâng chén rượu lên một hơi uống cạn, sau đó còn chĩa đáy chén về phía tôi, khẽ cười, nói: “Nàng xem này, ta uống cạn rồi đấy.”
Tôi đưa mắt nhìn chén rượu đỏ tươi sóng sánh, dằn lòng lại, nở một nụ cười vui vẻ và hài lòng, không chút do dự ngẩng đầu uống cạn. Dòng rượu chảy vào cổ họng tôi linh hoạt như một con rắn độc, cứ thế trôi tuột xuống dạ dày. Tôi cười tươi rạng rỡ, cũng chĩa đáy chén rượu cho y xem, vui vẻ nói: “Đây chính là rượu giao bôi hợp cẩn, muội cũng chẳng để sót một giọt nào.”
Y khẽ mỉm cười, một nụ cười xuất phát tự đáy lòng khiến tôi cảm thấy vô cùng ấm áp. “Tốt lắm!”
Tôi buông thõng hai tay mà đứng lặng lẽ trước bàn, tựa như một bông tịch nhan trắng muốt đã gần héo úa. Dòng rượu lạnh băng kia lúc này đã ở trong cơ thể tôi, chắc chẳng bao lâu nữa sẽ lấy đi tính mạng tôi.
Nhưng giờ đây tôi lại thấy thỏa mãn vô cùng, đời này không còn điều gì nuối tiếc.
Màn đêm giá lạnh tựa như nước hồ Phiên Nguyệt, nhưng cũng hết sức dịu dàng. Thoạt nghe tiếng gió thổi qua cành cây xào xạc, tôi thầm cảm thấy Hắc Bạch Vô Thường chừng như đang lặng lẽ tiến đến gần, bèn nhìn y chăm chú, hy vọng có thể ghi nhớ kĩ nụ cười của y.
Chỉ mong y đừng trách tôi.
Thế nhưng một hồi lâu sau, trong lòng tôi chỉ có sự tuyệt vọng cùng một cơn lạnh giá tột cùng, hoàn toàn không có cảm giác đớn đau gì cả. Hơi thở của tôi vẫn đều đều như trước, chẳng thay đổi chút nào.
Đôi hàng lông mày của tôi chợt run rẩy, tựa như một ngọn lửa không ngừng lay động giữa làn gió hiu hiu. Y đưa tay về phía tôi. “Hoàn Nhi, để ta ôm nàng thêm một lần nữa.”
Đây có lẽ là chút ấm áp cuối cùng mà y mang tới cho tôi, cũng là thứ cuối cùng tôi có thể nhận được. Tôi không kìm được ghé sát tới gần y, còn có gì quan trọng nữa đây? Tôi sắp chết rồi, còn điều gì có thể làm tôi sợ nữa?
Tôi nhoài người vào lòng y, làn da giá lạnh của y lại một lần nữa ở sát bên tôi, làm trái tim tôi dần trở nên bình lặng. Tôi khẽ cất tiếng lẩm bẩm: “Hàm Nhi hồi nhỏ rất nghịch ngợm, nhưng mười phần lanh lợi, không như Linh Tê từ nhỏ đã điềm đạm, chín chắn. Hai đứa nhỏ ấy một tĩnh một động, còn Tuyết Phách thì chưa biết tính cách sẽ như thế nào, nhưng trong ba huynh muội thì con bé là đứa xinh đẹp nhất...”
Đôi môi run lên nhè nhẹ, tôi không thể nói tiếp được nữa, cũng không muốn nghĩ tới những đứa bé ấy của tôi, chỉ biết là hổ dữ cũng không ăn thịt con, Huyền Lăng ắt hẳn sẽ không làm gì bốn đứa nhỏ ấy. Tôi nhắm mắt lại, tựa như một bông tịch nhan yếu ớt mọc ra từ trong lòng y, những ký ức thuở xưa dần dần hiện lên trước mắt. “Thanh, muội muốn trở về đỉnh Lăng Vân.”
Y dường như đã khẽ gật đầu, chợt có một thứ dịch thể ấm áp rơi từ cằm y xuống, hết giọt này tới giọt khác, chậm rãi chảy vào cổ tôi, rồi lại lăn xuống ngực, cuối cùng ngấm vào chiếc yếm trắng muốt thêu hình hoa sen.
Tôi chậm rãi đưa tay lên lau, đồng thời dịu dàng hỏi: “Thanh, sao huynh lại khóc vậy?”
Giữa làn nước mắt mơ hồ, tôi nhìn thấy đầu ngón tay mình thấp thoáng màu đỏ tươi, trái tim liền giống như bị người ta đâm vào một lưỡi dao sắc lẹm. Tôi vội vàng ngẩng lên nhìn, thấy một dòng máu đã chảy ra từ bên khóe môi y tự lúc nào, hệt như những bông hoa nở rộ đang không ngừng rơi xuống.
Tôi không sao kìm nén được những giọt nước mắt của mình, để chúng tuôn rơi cuồn cuộn, chừng như chỉ sau nháy mắt đã xuyên thủng thân thể tôi. Tôi hoang mang ngoảnh đầu lại cầm chén rượu của mình lên xem, y cố hết sức kéo tay tôi lại, đôi hàng lông mày nhíu chặt vì quá đau đớn, thế nhưng vẫn gượng nở nụ cười. “Không cần đâu, ta đã đánh tráo chén rượu của nàng rồi.”
Nơi đáy chén vẫn còn sót lại mấy giọt rượu đỏ tươi, tôi nhìn mà mắt như đau nhói, không kìm được cất giọng thê lương: “Sao lại như vậy chứ?”
“Chúng ta lẽ nào mới ngày đầu tiên biết nhau hay sao? Vẻ trù trừ do dự của nàng khi động vào bình rượu đó, ta nhìn thấy rất rõ ràng, dù ngón tay nàng giấu trong tay áo thì bên phải và bên trái khác nhau thế nào ta vẫn có thể nhìn ra được, bởi thủ đoạn dùng bình rượu hai ngăn một có độc một không có độc thế này cũng chẳng phải là quá mới mẻ. Huống chi hoàng huynh là hạng người thế nào chứ, chỉ nhìn việc y bảo nàng một mình tới đây là ta đã biết rằng có vấn đề rồi.”
Giọng nói của y nặng nề và ấm áp, tựa như một tấm chăn bông phủ lên tấm thân lạnh lẽo đang run lên lẩy bẩy của tôi. “Khi nàng đi đóng cửa sổ, ta đã tráo đổi chén rượu của hai chúng ta. Hoàn Nhi, ta không muốn nàng phải khó xử.”
Cơn giá lạnh cùng nỗi đau đớn tột cùng trong xương tủy dần đông cứng lại thành một khối băng rất lớn, còn cứng rắn vô cùng, cứ thế lăn qua trái tim tôi, sau đó lại lăn ngược trở về, khiến trái tim vốn mang đầy thương tích của tôi nhanh chóng bị nghiền nát. Tôi cất giọng thê lương: “Không thể thế được! Người phải chết rõ ràng là muội cơ mà! Sau khi muội chết, huynh liều mình đánh giết ra ngoài, dù gì cũng sẽ có một con đường sống!”
Y đưa tay nắm chặt lấy bàn tay tôi. “Sau khi ta đoạt nàng về từ trong tay Ma Cách, hoàng huynh đã nổi sát tâm, ta căn bản chẳng thể nào thoát được!” Máu tươi không ngừng chảy ra từ bên khóe miệng y, thế nhưng y vẫn khẽ mỉm cười. “Ta sớm biết sẽ có ngày này rồi. Chén rượu độc này dù nàng có thật sự đưa cho ta thì cũng chẳng sao, nàng làm thế chỉ vì muốn bảo vệ mình. Hoàn Nhi, sau này ta không thể bảo vệ nàng nữa, nàng nhất định phải tự biết bảo vệ bản thân đấy.”
Tôi gắng gượng đứng dậy. “Để muội đi tìm Ôn Thực Sơ, Ôn Thực Sơ nhất định có thể cứu được huynh.”
Đôi mắt y dần trở nên rời rạc, ánh trăng từ ngoài cửa sổ rọi vào dịu dàng vuốt ve đôi bờ má y, lại càng khiến khuôn mặt y lúc này thêm phần nhợt nhạt, hệt như một bông tịch nhan sắp úa tàn. Đôi bờ môi y giờ đã tím thẫm, giọng nói thì trở nên nặng nề vô hạn: “Rượu độc trong cung lợi hại đến cỡ nào chứ, một khi uống vào ắt sẽ phải mất mạng, không ai có thể cứu được.” Y đưa tay tới lau nước mắt cho tôi một cách khó khăn, dịu dàng nói tiếp: “Hoàn Nhi, nàng đừng khóc. Đợi lát nữa nàng ra ngoài, hoàng huynh mà nhìn thấy nàng khóc thì ắt sẽ trút giận lên người nàng đấy.”
“Được, muội không khóc.” Tôi ra sức gật đầu, muốn ngưng khóc theo lời của y, thế nhưng nước mắt càng lúc càng nhiều, không cách nào kìm nén được.
Y đưa tay tới, cố gắng ôm tôi vào lòng, khuôn mặt vốn nhăn nhó vì đau đớn chậm rãi dãn ra. “Hoàn Nhi, sau khi ta chết, nàng chớ nên đau thương. Nàng phải đáp ứng ta một việc, ấy là nhất định phải bảo vệ bản thân thật tốt, đừng để ai hãm hại.” Hơi thở của y dần trở nên dồn dập. “Đứa bé Tuyết Phách đó quả thực rất giống nàng. Nàng đã có những đứa con của nàng rồi, nhất định phải cố gắng sống tiếp cho tốt.” Rồi y khẽ thở dài một tiếng. “Xin lỗi, Hoàn Nhi, ta sau này không thể tiếp tục đứng sau lưng nàng để bảo vệ cho nàng được nữa.”
Tôi ra sức lắc đầu. “Không! Không! Thanh, cuộc biệt ly trên đỉnh Lăng Vân đã trở thành sai lầm lớn nhất trong đời, muội cầu xin huynh, cầu xin huynh đừng rời xa muội nữa! Muội là thê tử của huynh, muội không muốn ở lại trong chốn hậu cung này, huynh hãy đưa muội rời khỏi đây, hãy đưa muội rời khỏi đây đi mà!”
Bàn tay y vừa vuốt ve bờ má tôi vừa run lên lẩy bẩy, những đầu ngón tay thật lạnh lẽo làm sao, chẳng còn được ấm áp như ngày xưa nữa. Y cố gắng nở một nụ cười mờ mịt như sương mù. “Có câu nói này của nàng, đời này ta không còn điều gì nuối tiếc nữa!” Giọng nói của y nhỏ dần. “Trong lòng ta, nàng mãi mãi là thê tử duy nhất của ta...”
Hai hàng lệ chảy dài trên bờ má, ánh trăng trắng lóa chiếu vào giống như cái miệng dữ dằn của một con quái thú đang ngoạm chặt lấy cổ họng tôi, mang tới nỗi đau đớn tột cùng. Tôi bất chấp tất cả ghé vào bên tai y, khẽ nói: “Dư Hàm, Linh Tê, còn cả Tuyết Phách nữa, đều là con của huynh...”
Gần như trong cùng một khoảnh khắc, đầu y ngoẹo xuống bờ vai tôi, lại từ từ trượt xuống đến khuỷu tay. Và rồi y cứ thế nằm lặng lẽ trong lòng tôi, chẳng hề động đậy, cũng chẳng còn lại một hơi thở nào.
Gió đêm nhẹ nhàng mở rộng cửa sổ ra từng chút một, dưới ánh trăng lạnh lẽo có thể nhìn thấy nơi bệ cửa sổ có những bông hoa trắng muốt đang nở rộ, chẳng hề tỏa hương, trên cánh hoa mỏng manh hãy còn lưu lại đôi giọt sương đêm thuần khiết, thực là yêu kiều, non nớt vô cùng.
Giọng nói sang sảng của y dường như lại vang lên sau lưng tôi: “Nàng có biết đây là hoa gì không?” Y sẽ không bao giờ hỏi tôi như vậy nữa.
Y chết rồi.
Trước ngực tôi vẫn còn những vệt máu ấm nóng do y nôn ra, nhưng dần dần cũng đã trở nên lạnh lẽo. Giống như trái tim này của tôi, đã vĩnh viễn chẳng thể nào ấm áp được nữa rồi.
Y chết rồi, nam tử mà tôi cả đời thương yêu và nhớ nhung da diết ấy đã chết rồi, chết vì tôi, chết ngay trong lòng tôi. Tôi áp sát mặt mình vào mặt y, đã lâu lắm rồi khuôn mặt của chúng tôi mới lại được ở gần nhau như thế.
Nhưng y nay đã chết rồi, y sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa, không bao giờ nhìn tôi bằng ánh mắt dịu dàng như thế nữa, cũng không bao giờ cùng tôi viết thơ hay gảy đàn, thổi sáo nữa.
Trường tương tư và Trường tương thủ, rốt cuộc đã phải vĩnh viễn xa lìa. Sau này, trong những đêm dài đằng đẵng, chỉ còn lại một mình Trường tương tư đau khổ giằng xé tâm can. Lúc này đây, trái tim tôi như đã trở nên mục ruỗng, thân thể cũng chỉ còn lại cái vỏ bên ngoài, cả cuộc đời này chẳng thể nào được giải thoát.
Đó là một tấm thiếp hợp hôn màu đỏ, chính giữa có hình một cặp uyên ương ân ái, phần rìa thì vẽ hình phượng hoàng đầu nối đuôi nhau, lấy ý từ câu phượng hoàng cùng bay, chỉ vợ chồng hòa hợp, nền của tấm thiếp còn có hoa văn sen mọc cùng gốc, ngụ ý nhiều con nhiều phúc, ân ái triền miên.
Mấy hàng chữ bên trên, tới lúc này vẫn còn in sâu trong đầu tôi:
Huyền Thanh - Chân Hoàn
Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.
Nguyện cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.
Đối với tôi mà nói, kiếp sống này đã trở nên tàn nhẫn vô cùng, chẳng còn chút gì gọi là đẹp tươi nữa, thế nhưng tôi lại chẳng thể nào chết theo y được.
Một hồi lâu sau, cũng chẳng biết là đã qua bao lâu rồi nữa, thân thể của y đã hoàn toàn trở nên nguội lạnh. Đôi môi lạnh băng của tôi hôn nhẹ lên bờ trán cũng lạnh băng của y, lòng thầm đau đớn đến nỗi chẳng còn lại chút cảm giác nào. Tôi giống như một người mất hồn, cứ thế chậm rãi đứng dậy, chậm rãi mở cửa điện ra, lẳng lặng đón lấy ánh trăng từ trên cao chiếu xuống, trong lòng chẳng có lấy một tia cảm xúc.
Cách đó ngoài trăm bước chân, ánh sáng tỏa ra từ những lưỡi đao sắc bén khiến tôi cơ hồ không mở mắt ra nổi, ngoảnh đầu ngó khắp thì thấy đâu đâu cũng là giáp trụ lạnh tanh. Chợt Lý Trường chạy tới đỡ lấy tôi, cất giọng nửa vui nửa buồn: “Nương nương rốt cuộc đã ra ngoài rồi!”
Tôi chỉ tay về phía đám người lăm lăm vũ khí trong tay kia, hỏi: “Đó là gì vậy?”
Lý Trường lúng túng cúi đầu. Thống lĩnh Vũ lâm quân Hạ Ngải - kẻ cầm đầu đám người kia - ôm quyền hành lễ với tôi, cung kính nói: “Hoàng thượng có chỉ, nếu chỉ có một mình nương nương ra ngoài thì tuyên đọc thánh chỉ; nếu ngoài nương nương ra còn có người nào khác, vậy thì tất thảy giết hết bất luận tội!”
Hạ Ngải đưa tay lên ra dấu cứa cổ. Mắt tôi bỗng như tối sầm, Huyền Lăng, y quả nhiên đã mưu tính kĩ càng, không để Huyền Thanh có con đường thoát.
Giọng tôi vang lên vẻ đầy bình tĩnh, như thể chẳng phải là của mình: “Bản cung vẫn bình yên vô sự, giờ đã ra ngoài rồi.” Hạ Ngải ngó nhìn về phía sau lưng tôi, truy hỏi: “Vậy...”
Tôi cắn chặt bờ môi, một hồi lâu sau mới cất giọng lạnh lùng: “Thanh Hà Vương đã qua đời.”
Hạ Ngải mỉm cười hài lòng, quay sang nói với Lý Trường: “Mời công công tuyên đọc thánh chỉ.”
Lý Trường nhìn thấy bộ dạng hung thần ác sát ấy của hắn thì không kìm được rùng mình một cái, lấy ra cuộn thánh chỉ đã được chuẩn bị sẵn, nói: “Thục phi Chân thị nghe chỉ...”
Tôi ngẩn ngơ quỳ xuống, bên tai văng vẳng giọng nói the thé của Lý Trường: “Trung cung thất đức, hậu cung thiếu người cầm trịch, nay trẫm đặt thêm ngôi vị hoàng quý phi ở trên tứ phi, địa vị ngang với phó hậu, chưởng quản lục cung. Thục phi Chân thị thông minh hiền đức, đoan trang tao nhã, là tấm gương sáng cho lục cung, nay trẫm ra ân ban phong làm hoàng quý phi. Khâm thử.”
Lý Trường đi tới đỡ tôi dậy, lén đưa tay lau đi mấy giọt lệ nơi khóe mắt, gượng cười nói: “Chúc mừng nương nương, đây là chuyện mừng lớn chưa từng có đấy ạ...”
“Quạ... Quạ...” Chợt có một con quạ vỗ cánh bay ngang qua giữa bầu trời tịch mịch, lòng tôi thầm chua xót, biết rõ rằng có một thứ mà giờ mình đã vĩnh viễn mất đi.
Lý Trường đỡ tôi đi xuống dưới Đồng Hoa đài, khẽ nói: “Hoàng thượng biết là nương nương phen này mệt nhọc, vậy nên đã đặc biệt bày tiệc ở Thủy Lục Nam Huân điện để chờ nương nương.”
Gió đêm rất lớn khiến ống tay áo rộng của tôi giống như những cánh bướm không ngừng tung bay, thế nhưng đó lại là những cánh bướm chết chóc, chẳng hề có chút sinh khí. Một bông hoa ngô đồng màu tím chợt rơi vào vạt áo trước ngực tôi, nơi cuống hoa vẫn còn lưu lại chút nhựa nhầy nhầy. Tôi tiện tay cầm lên, bất giác cảm thấy mình cũng giống như bông hoa này, từ giờ trở đi chẳng còn nơi nương tựa.
Chân tôi bỗng trượt một cái, thân thể lăn lông lốc xuống dưới Đồng Hoa đài. Lý Trường không kìm được kinh hãi kêu lên: “Nương nương...”
Từ nơi đầu gối chân phải truyền tới một cơn đau thấu tâm can, trong khoảnh khắc sắp ngất đi, tôi chợt nhớ lại một câu nói của mẫu thân ngày trước, Kinh Hồng vũ là điệu múa chỉ dành cho nam tử mình yêu.
Tôi biết, tôi sau này chẳng thể múa được nữa rồi.
Ngày Mười bảy tháng Năm năm Càn Nguyên thứ hai mươi bảy, Thanh Hà Vương qua đời vì bạo bệnh ở Đồng Hoa đài. Ngày Hai mươi bảy tháng Năm năm Càn Nguyên thứ hai mươi bảy, trong ngày liệm Thanh Hà Vương, Trắc phi Chân thị sau một hồi khóc lóc đã đập đầu vào quan tài tự vẫn.
Hôm ấy, Lý Trường sau khi trở về từ phủ Thanh Hà Vương, trên mặt vẫn còn vương đầy dấu lệ. “Ẩn phi đã khóc đến ngất đi mấy lần, tới khi mọi người sắp đậy nắp quan tài cho Vương gia thì đột ngột lao đầu vào đó, máu bắn ra xa ngoài ba thước. Khi đó Ẩn phi chưa tắt thở, còn cố gắng bò vào trong quan tài của Vương gia mà ôm chặt lấy Vương gia, sau đó cắn lưỡi tự vẫn. Bọn nô tài tới lúc ấy mới hiểu ý của Ẩn phi, đó là mong được sống cùng giường, chết cùng mộ với Vương gia, sinh tử chẳng rời.”
Lúc ấy tôi đang ngồi trước tượng Quan Âm niệm Vãng sinh chú, vừa hay tin liền thấy lòng đau như cắt, tràng hạt trong tay bất chợt đứt lìa, những hạt châu rơi đầy trên mặt đất. Tôi đưa tay che mặt, những giọt nước mắt đã kìm nén suốt mấy ngày rốt cuộc đã lại một lần nữa tuôn rơi.
Mười ngày sau lễ khâm liệm, Huyền Lăng hạ chỉ sai hậu táng phu thê Thanh Hà Vương, thế tử của Thanh Hà Vương thì giao cho thê tử Bình Dương Vương nuôi nấng. Trong thời gian này, Huyền Lăng còn từng mấy lần khóc lóc sầu thảm vì cái chết của Thanh Hà Vương, thậm chí bỏ ăn bỏ uống, chỉ sau mấy ngày đã gầy đi rất nhiều. Ngoài ra y lại sinh lòng thương cảm vì Huyền Thanh phải chịu khổ ở biên quan, lâu ngày thành bệnh, bèn hạ chỉ tăng thêm một trăm vạn lạng bạc quân hưởng, ba quân ở biên quan đều phải mặc đồ tang truy điệu Thanh Hà Vương.
Khi nghe được tin này thì vết thương ở chân tôi đã đỡ hơn nhiều, có thể xuống giường đi lại chậm rãi. Thái y nói tôi đi lại thì không có vấn đề gì, nhưng không thể múa được nữa, cũng không thể chạy. Lúc này tôi chỉ đứng lặng lẽ trong thư phòng ở Thủy Lục Nam Huân điện, trong tay cầm chặt một sấp thư nhà mà mình vô ý nhìn thấy giữa chồng thư tịch của Huyền Lăng.
Đó là một sấp thư nhà rất dày, từng câu từng chữ bên trên đều do Huyền Thanh tự tay viết, chủ yếu là hỏi thăm tình hình trong vương phủ và trong cung, lại dặn dò Ngọc Ẩn và Triệt Nhi phải chú ý giữ gìn sức khỏe, lời lẽ hết sức ôn tồn, ấm áp. Có điều mỗi bức thư luôn kết thúc bằng bốn chữ nhỏ viết bằng thể chữ Khải hết sức ngay ngắn: Thục phi khỏe chăng?
Thư trả lời của Ngọc Ẩn thì rất dài, nét chữ cực kỳ nắn nót, từ trong từng chữ từng hàng đều có thể nhìn ra nỗi tương tư nồng đậm, mà ở cuối mỗi bức thư đều là ba chữ Khải nhỏ viết theo lối Trâm hoa: Thục phi khỏe.
Lạc khoản là đủ các mùa xuân, hạ, thu, đông trong hai năm dài đằng đẵng, chẳng thiếu đêm ngày.
Giữa cơn nghẹn ngào trong tĩnh lặng, tự nơi đáy lòng tôi không ngớt trào dâng một nỗi bi thương khó tả bằng lời, nước mắt không ngừng tuôn rơi, từng giọt từng giọt chảy xuống và ngấm vào chiếc áo hoàng quý phi màu vàng tươi thêu hình phượng hoàng, lưu lại những vệt nước mắt loang lổ.
Lý Trường đứng lặng lẽ sau lưng tôi, khẽ cất tiếng bẩm báo: “Nô tài đã điều tra ra rồi, chỗ thư nhà này đều là do Hiền phi nương nương mang về dâng lên cho Hoàng thượng, Hoàng thượng sau khi xem xong liền lưu lại và sai người sao một bản theo nét chữ của Vương gia mà gửi tới vương phủ cho Ẩn phi, thư của Ẩn phi cũng bị làm hệt như thế.”
Tôi đột nhiên nhớ ra, chiếc quạt tròn để bên giường của Huyền Lăng hôm đó chính là của Hiền phi Hồ Uẩn Dung.
Lý Trường cất giọng lo lắng: “Hiền phi nương nương một lòng muốn ngồi lên ngôi hậu, coi nương nương như cái gai trong mắt, liên tục ám hại, nương nương không thể không đề phòng được.”
Móng tay đã cắm ngập vào lòng bàn tay, nhưng tôi vẫn không đổi sắc mặt, hờ hững nói: “Ta biết rồi.”
/43
|