Đào Hoa đảo chủ không ngờ thằng rể khờ khạo mà nay miệng lưỡi của hắn cũng biết lí luận như thế, bèn hầm hầm nói :
- Chỉ nói nhảm, ai bảo tên Tần Cối là trung thần, thế ngươi chẳng thấy trước mộ của Nhạc Vương, bức tượng sắt quì ngay trước mộ Nhạc Vương chẳng là vợ chồng Tần Cối đó sao? Và Nhạc Vương mộ còn tạc cả hai câu đối:
Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt,
Bạch thuyết vô hạnh trú nịnh thần
(Non nước có duyên vùi xương tôi trung
Sắt trắng bạc tình nên bị đúc thành tượng nịnh thần)
Ngâm xong hai câu đối, Hoàng đảo chủ lại tiếp :
- Đây là lời bàn của thiên cổ, ai mà có thay đổi ngược vụ án này?
Quách Tỉnh rằng :
- Nếu nói theo ý nhạc phụ, Nhạc Võ Mục Vương còn là vị trung thần, tuy bị chết thảm thê nơi Phong Ba Đình, nhưng vẫn còn để lại tiếng thơm muôn đời, nay tụi con giúp vị An Phú sứ Lã Văn Hoán cố thủ thành Tương Dương, dù biết rõ việc không thể đi tới đâu, nhưng nhạc phụ sao lại cho chúng con là hạng người đi bán mạng cho hôn quân gian thần và đều liệt vào hạng bất trung bất trí!
Hoàng Dược Sư vốn là người học vấn uyên bác, Quách Tỉnh từ nhỏ đã mồ côi, sự học làm sao mà bì với Hoàng đảo chủ, nhưng hôm nay chàng đã khiến ông bố vợ phải ngẩn người; lúc này Châu Bá Thông cũng dã tỉnh lại, và đã nghe hết chuyện trò của hai bên đương sự, bất giác cười ha ha rằng :
- Kìa Hoàng lão tà, không ngờ hôm nay ngươi cũng bị ngã nhào về tay con rể như vậy... Hà! Hà! Hà!
Đào Hoa đảo chủ tính tình vốn kiêu căng tột độ, sắc mặt lúc này biến đổi hẳn, Quách Tỉnh thừa biết rõ tính của bố vợ, vội lên tiếng ngay :
- Châu đại ca chớ nên nói đùa quá lố thế, thường nói trong trăn cái ngu của kẻ khờ cũng có một cái tạm nghe được! Nhạc phụ bấy lâu ở Đào Hoa đảo, đâu rõ về chuyện tàn bạo của quân Mông lúc chúng xâm chiếm nước ta; nghĩa là còn tàn bạo gấp mười lần hồi nhà Kim xâm đánh chúng ta là khác!
Quách Tỉnh bèn thuật hết tất cả hành vi của giặc mà mình đã tai nghe mắt thấy. Thì ra quân Mông Cổ vốn là dân du mục, chưa khai hóa lắm, trời sinh tính háo chiến, có rất nhiều bộ lạc, gần như đều sống cả một kiếp người vào chiến tranh, suốt đời không rời yên ngựa, đương nhiên đâu có hiểu ý nghĩa nhân đạo từ bi là cái quái gì. Quân Mông Cổ mỗi lần tác chiến đều có sẵn một lối chiến pháp tàn nhẫn kinh khủng, luôn luôn xua các dân bản xứ đi trước, hễ đối phương động lòng từ bi không nỡ giết hại đồng bào của mình, thế là quân Mông Cổ sẽ nhân cơ hội đột nhập ngay, và rốt cục là thua liểng xiểng, đây chỉ là một trong những cái dã man của chúng, còn hễ mỗi lần chúng công phá một nơi nào, chiếu lệ quan, thế nào chúng cũng mở cuộc tàn sát đại qui mô mà được mệnh danh là “Đồ thành” (giết toàn thành), dân chúng dù có chống đối hay không tất cả đều bị giết sạch,chỉ trừ những gái đẹp và các thợ khéo tay còn giữ lại mạng sống, đến cả các trẻ sơ sinh còn bị giết là đằng khác; Hoàng Dược Sư càng nghe càng đâm tức giận, cuối cùng ông ta phải hét lên :
- Trời ơi! Ra quân Mông Cổ tàn nhẫn đến mức độ đó sao, vậy thì tất cả những suy nghĩ của cha đều trái hết! Tỉnh con, chúng ta mau đi quay về Tương Dương.
Châu Bá Thông không thể ngờ được Hoàng Dược Sư lại mau hồi tâm tỉnh ngộ như vậy. Quách Tỉnh cả mừng rằng :
- Thưa nhạc phụ, tuy tình thế thành Tương Dương đang nguy nan, nhưng tinh thần của dân cũng như quân, ai nấy đều một lòng, phần còn lại có em Dung nó bày mưu lược, chỉ huy chặt chẽ, hiện tình trong ba bốn tháng, vẫn còn có hi vọng duy trì tình thế cũ, bọn con nay tới Lâm An đây, chẳng qua là cốt xin thêm cứu binh của triều đình để giải vây cho Tương Dương.
Hoàng Dược Sư nghiễm nhiên nói :
- Đúng rồi! Thế con đã đột nhập vào hoàng cung chưa?
Quách Tỉnh bèn kể hết cuộc đột nhập hoàng cung cho bố vợ hay, Hoàng Dược Sư bỗng nổi giận hầm hầm :
- Tên gian tặc Giá Tự Đạo này đáng giết lắm, Tỉnh nhi, thế sao còn chờ gì mà không ra tay giết quách thằng thừa tướng mạt kiếp ấy cho rồi, còn để hắn sống làm gì vậy?
Quách Tỉnh thở dài rằng :
- Chính con cũng nghĩ đến bước đường này, nhưng ngặt vì tên Giá Tự Đạo đã lồng quyền bấy lâu, nay các tên gian đảng trong triều phần đông đều là tâm phúc của y, tỉ như nhón Trần Nghi Trung đều toàn là quân ăn lương nhà Tống hại việc nhà vua, dù cho mình có giết chết tên gian tướng ấy đi nữa, cũng đâu có ích chi trong việc triều đình đâu.
Hoàng Dược Sư rằng :
(Thiếu hai trang)
... ràng như vậy, tóc hai con ma này đều xõ rũ rượi ra hai vai, tay cầm cả gậy “Khốc Thương bảng” (gậy khó người chết).
Nếu ngày thường, tên quản gia thế nào cũng chửi mắng như tát nước vào mặt nhóm tì nữ này rồi, cho chúng chỉ ăn ốc nói mò, nhưng vì dạo này trong phủ liên miên xảy ra nhiều chuyện quái gở, ai nấy đều tin những lời khai của đám tì nữ.
Ai cũng tin rằng thời suy vi ma quỷ mới hiện ra và trêu người như vậy! Trong đám người trong phủ, có tên kinh sợ nhất là nhóm thê thiếp hầu hạ của Giá Tự Đạo, đương nhiên họ không dám ngủ một mình, ai nấy quây quần hết lên đại sảnh để đỡ sợ!
Trong số nữ tì, có hai đứa bạo gan hơn hết, đem đề nghị là đọc kinh Quan Thế Âm có thể trừ tà ma, sẵn lúc này không có việc gì làm, vậy hãy đọc kinh Quan Thế Âm, may ra có thể đuổi tà ma cũng nên. Mọi người tán đồn ý kiến ngay. Trong lúc tiếng kinh ê a rù rì nổi lên ấy, nơi cửa sổ bỗng một luồng gió quái lạ ào ngay vào, thổi tắt hết đèn đóm trong đại sảnh.
Sự kiện thình lình như vậy, khiến mười mấy thê thiếp và mấy chục tì nữa hốt hoảng kêu rú cả lũ. Ngay trong lúc đó, ngoài cửa sổ “ầm ầm” hai tiếng, hiện ngay một đoàn lửa lân quang xanh lè, tất cả cảnh vật trong đại sảnh đều lập loè thành màu xanh hết. Tiếp sau đó, trên nóc nhà lại “ào” một tiếng đổ vỡ loảng xoảng, để lộ hẳn ra một lỗ hở lớn khổng lồ và rũ ngay xuống một tấm vải trắng, bị ánh lửa xanh chiếu vô hiện rõ bốn chữ “Nhất kiến phát tài” (hễ thấy là được bạc). Tấm vải phất phơ chập chờn, cả đám hoảng hồn hú thét inh lên, mấy nàng quá nhát gan đã ngất xỉu lăn ra mặt đất luôn.
Thình lình miếng vải viết chữ ấy vụt biến mất, mọi người tưởng đâu sắp thoát nạn, nào hay ngay nơi thủng trên ngói ấy nhoáng nhanh một đám lân hoả, vọt ngay xuống như sao băng, một màu sáng chiếu xanh lè khắp gian đại sảnh, tiếp đó tiếng rú kinh dị, một con ma “Vô thường quỷ” từ trên mái thủng bay vèo xuống.
Con ma này quái dị kinh người, từ đầu chí chân, cao hơn một trượng, miệng mắt đỏ choét, lưỡi thè ra ngoài hơn cả thước, tay trái cầm cây “Khốc Thương bảng”, tay mặt bợ ngay một đám lửa lân tinh, cả đám đà bà sợ tái mặt ôm chặt nhau lại thành một khối.
“Quỷ vô thường” khởi sự đi phây phây hai vòng trong đại sảnh, vừa đi vừa múa cây “Khốc Thương bảng” và điểm ngay vào trán các mụ thê thiếp và nữ tì của Giá Tự Đạo, kẻ nào bị điểm trúng đều hét rú lên một tiếng, ngã lăn ra bất tỉnh luôn. Chớp mắt bao nhiêu người nằm bất tỉnh nhân sự dưới mặt đất. Lúc này “quỷ vô thường” mới hét vang một tiếng, nhảy vọt lên từ cửa sổ đi ra. Mặt khác, phía ngoài vườn hoa của tướng phủ cũng xuất hiện một cảnh ma với người đại chiến.
Thì ra bọn nữ tì hô hoán ma quái xuất hiện, các thị vệ gia tướng trong tứơng phủ đều tỉnh giấc. Họ là các tay nhiều kinh nghiệm đánh nhau, đương nhiên đâu có tin ma quái gì, biết ngay đó là mánh gian của những quân ăn trộm cướp, đám vệ sĩ trong tướng phủ lập tức chia ngay mười tiểu đội, mỗi tiểu đội ước trên hai ba chục người, ai nấy cung tên sẵn sàng, thắp đèn đuốc sáng trưng lo đi tìm ma quái. Một đội võ sĩ vừa đi đến vườn hoa bỗng nghe tiếng đá rào rào từ trên cây đánh xuống, bao nhiêu đèn đuốc đều bị tắt ngủm.
Vì quá bất ngờ kêu hoảng lên cả đám với nhau cũng ngay khi đó, một giọng nói lạnh lùng rằng :
- Ta đây là “Thôi mạng vô thường quỷ”, nay đến cốt là dẫn hồn tên Giá Tự Đạo về nơi âm tào địa để cùng với tên Tần Cối chung nhau vào vạc dầu. Nếu lũ chúng bay có đứa nào thích đi theo chơi, bản “Thôi Mạng sứ” đây cũng sẵn lòng dìu dắt lũ bay... Hà! Hà! Hà!...
Những tiếng cười quái gở đã khiến đám võ sĩ nổi da gợn tóc gáy. Có hai tên bạo gan, quát tháo :
- Đây là người giả dạng lốt ma! Anh em chớ sợ, cứ bắn bừa tên vào đi!
Hai tên võ sĩ ấy bèn giơ cung bắn ngay, nhưng mũi tên vừa vọt ra được ba trượng, đột nhiên nghe “vèo” một tiếng, cả hai mũi tên đều bị quay ngược lại, rớt ngay lại trước mặt hai tên võ sĩ bắn tên mới kì ngộ, ai nấy kinh ngạc kêu “ồ” lên.
Tiếng lạnh lùng trong lùm cây lại nổi lên :
- Lũ chúng bay rõ thật tai nghiệt đầy mình, nay “Cầu Hồn sứ giả” đến đây mà chúng bay còn không rõ ngày chết đã đến. Ta đây là “Vô thường quỷ” của Diêm Vương điện, đã luyện được một thân hình thuần âm “hữu hình vô thể”, những loại binh đao trên dương thế không làm gì nổi ta! Nay hai thằng bạo gan lớn mật kia lại cả gan buông cung bắn, vậy bản sứ giả ra tay dắt ngay hồn phách hai đứa bay cho biết!
Tiếng vừa dứt thì hai tên nọ kêu “ối” lên một tiếng lăn đùng ra mặt đất hết nhúc nhích. Đám võ sĩ có mặt hoảng loạn cả lên, vội vàng xúm xít lại xem, quả nhiên hai tên võ sĩ này đã chết một cách vô duyên cớ. Chuyến này cả đám bay hồn lạc phách, trong lúc này tiếng nói lạnh lùng lại vang lên :
- Lũ bay hãy nghe đây, trong hai tên vừa bị chết đó, đáng lẽ mỗi đứa còn hai ba chục năm thọ mạng, nhưng chúng đã cả gan mạo phạm đến sứ giả “âm sai”, nên bắt buộc bản chức phải dẫn hồn chúng về Âm phủ. Bộ lũ chúng bay cũng muốn bắt chước theo hai tên khốn kiếp đó sao mà không chịu quì ngay xuống?
Cả đám thị vệ gia tướng đều hoảng hồn kinh hãi, quì thụp ngay xuống, đầu phủ phục sát mặt đất, không tên nào dám ngẩng lên. Ngay lúc ấy, trong lùm cây chỉ vang lên những tiếng :
- Phép tắc của Dược huynh quả linh nghiệm thiệt khiến cho cả đám chết toi này biến thành những con sâu cộc đầu, vui thật! Vui thật! Ha... ha... ha...
Chính vì tiếng nói này mà con ma Hoàng Dược Sư bị lộ chân tướng, đám võ sĩ lại nhao nhao lên, chúng ùa nhau đùa hết vào rừng. Nào hay cả đám vừa vào rừng, “ào” cát bụi mịt mù bay dội lên, rõ đúng là một cảnh “phi sa tẩu thạch” (cát bay đá chuyển), đánh dồn hết sang phía gia tướng, cả một cảnh kêu la inh ỏi vang lên. Đứa u đầu, kẻ chảy máu tưng bừng.
Sau trận mưa đá diễn ra, Hoàng Dược Sư và Châu Bá Thông tung mình đi luôn.
Nói về phía hoàng cung. Sau canh ba đêm đó, Quách Tỉnh nai nịt gọn gàng, rời khỏi quán trọ nhắm ngay hướng hoàn cung lướt mạnh. Đường lối đã quá quen, chẳng mấy chốc chàng đã nghiễn nhiên thuận lợi vào ngay hoàng cung.
Không ngờ hoàng cung đêm nay vắng tẻ lạnh lùng, đèn đuốc lù mờ, tứ bề im lìm, chẳng khác nào như nơi hoang dại. Quách Tỉnh lạ lùng, nghĩ thầm: “Sao lại vắng lạnh âm u vậy kìa?”
Đang lúc Quách Tỉnh mải suy nghĩ, chợt phía trước có đèn lồng đi tới, chàng vội tung mình lên mái điện, treo ngay chân vào nóc điện cúi ngược đầu xuống như dơi để quan sát động tĩnh! Chớp mắt ánh đèn lại gần, thì ra hai cung nữ xách theo đôi đèn lồng vừa đi vừa nói chuyện :
- Thật họa phúc đời người ta không biết đâu mà lường trước được! Ngay đến hoàng thượng, mấy hôm trước còn khỏe mạnh phây phây như thế, ai có thể ngờ đâu long thể bỗng trở nên bệnh nặng dữ tợn như vây!
- Chỉ nói nhảm, ai bảo tên Tần Cối là trung thần, thế ngươi chẳng thấy trước mộ của Nhạc Vương, bức tượng sắt quì ngay trước mộ Nhạc Vương chẳng là vợ chồng Tần Cối đó sao? Và Nhạc Vương mộ còn tạc cả hai câu đối:
Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt,
Bạch thuyết vô hạnh trú nịnh thần
(Non nước có duyên vùi xương tôi trung
Sắt trắng bạc tình nên bị đúc thành tượng nịnh thần)
Ngâm xong hai câu đối, Hoàng đảo chủ lại tiếp :
- Đây là lời bàn của thiên cổ, ai mà có thay đổi ngược vụ án này?
Quách Tỉnh rằng :
- Nếu nói theo ý nhạc phụ, Nhạc Võ Mục Vương còn là vị trung thần, tuy bị chết thảm thê nơi Phong Ba Đình, nhưng vẫn còn để lại tiếng thơm muôn đời, nay tụi con giúp vị An Phú sứ Lã Văn Hoán cố thủ thành Tương Dương, dù biết rõ việc không thể đi tới đâu, nhưng nhạc phụ sao lại cho chúng con là hạng người đi bán mạng cho hôn quân gian thần và đều liệt vào hạng bất trung bất trí!
Hoàng Dược Sư vốn là người học vấn uyên bác, Quách Tỉnh từ nhỏ đã mồ côi, sự học làm sao mà bì với Hoàng đảo chủ, nhưng hôm nay chàng đã khiến ông bố vợ phải ngẩn người; lúc này Châu Bá Thông cũng dã tỉnh lại, và đã nghe hết chuyện trò của hai bên đương sự, bất giác cười ha ha rằng :
- Kìa Hoàng lão tà, không ngờ hôm nay ngươi cũng bị ngã nhào về tay con rể như vậy... Hà! Hà! Hà!
Đào Hoa đảo chủ tính tình vốn kiêu căng tột độ, sắc mặt lúc này biến đổi hẳn, Quách Tỉnh thừa biết rõ tính của bố vợ, vội lên tiếng ngay :
- Châu đại ca chớ nên nói đùa quá lố thế, thường nói trong trăn cái ngu của kẻ khờ cũng có một cái tạm nghe được! Nhạc phụ bấy lâu ở Đào Hoa đảo, đâu rõ về chuyện tàn bạo của quân Mông lúc chúng xâm chiếm nước ta; nghĩa là còn tàn bạo gấp mười lần hồi nhà Kim xâm đánh chúng ta là khác!
Quách Tỉnh bèn thuật hết tất cả hành vi của giặc mà mình đã tai nghe mắt thấy. Thì ra quân Mông Cổ vốn là dân du mục, chưa khai hóa lắm, trời sinh tính háo chiến, có rất nhiều bộ lạc, gần như đều sống cả một kiếp người vào chiến tranh, suốt đời không rời yên ngựa, đương nhiên đâu có hiểu ý nghĩa nhân đạo từ bi là cái quái gì. Quân Mông Cổ mỗi lần tác chiến đều có sẵn một lối chiến pháp tàn nhẫn kinh khủng, luôn luôn xua các dân bản xứ đi trước, hễ đối phương động lòng từ bi không nỡ giết hại đồng bào của mình, thế là quân Mông Cổ sẽ nhân cơ hội đột nhập ngay, và rốt cục là thua liểng xiểng, đây chỉ là một trong những cái dã man của chúng, còn hễ mỗi lần chúng công phá một nơi nào, chiếu lệ quan, thế nào chúng cũng mở cuộc tàn sát đại qui mô mà được mệnh danh là “Đồ thành” (giết toàn thành), dân chúng dù có chống đối hay không tất cả đều bị giết sạch,chỉ trừ những gái đẹp và các thợ khéo tay còn giữ lại mạng sống, đến cả các trẻ sơ sinh còn bị giết là đằng khác; Hoàng Dược Sư càng nghe càng đâm tức giận, cuối cùng ông ta phải hét lên :
- Trời ơi! Ra quân Mông Cổ tàn nhẫn đến mức độ đó sao, vậy thì tất cả những suy nghĩ của cha đều trái hết! Tỉnh con, chúng ta mau đi quay về Tương Dương.
Châu Bá Thông không thể ngờ được Hoàng Dược Sư lại mau hồi tâm tỉnh ngộ như vậy. Quách Tỉnh cả mừng rằng :
- Thưa nhạc phụ, tuy tình thế thành Tương Dương đang nguy nan, nhưng tinh thần của dân cũng như quân, ai nấy đều một lòng, phần còn lại có em Dung nó bày mưu lược, chỉ huy chặt chẽ, hiện tình trong ba bốn tháng, vẫn còn có hi vọng duy trì tình thế cũ, bọn con nay tới Lâm An đây, chẳng qua là cốt xin thêm cứu binh của triều đình để giải vây cho Tương Dương.
Hoàng Dược Sư nghiễm nhiên nói :
- Đúng rồi! Thế con đã đột nhập vào hoàng cung chưa?
Quách Tỉnh bèn kể hết cuộc đột nhập hoàng cung cho bố vợ hay, Hoàng Dược Sư bỗng nổi giận hầm hầm :
- Tên gian tặc Giá Tự Đạo này đáng giết lắm, Tỉnh nhi, thế sao còn chờ gì mà không ra tay giết quách thằng thừa tướng mạt kiếp ấy cho rồi, còn để hắn sống làm gì vậy?
Quách Tỉnh thở dài rằng :
- Chính con cũng nghĩ đến bước đường này, nhưng ngặt vì tên Giá Tự Đạo đã lồng quyền bấy lâu, nay các tên gian đảng trong triều phần đông đều là tâm phúc của y, tỉ như nhón Trần Nghi Trung đều toàn là quân ăn lương nhà Tống hại việc nhà vua, dù cho mình có giết chết tên gian tướng ấy đi nữa, cũng đâu có ích chi trong việc triều đình đâu.
Hoàng Dược Sư rằng :
(Thiếu hai trang)
... ràng như vậy, tóc hai con ma này đều xõ rũ rượi ra hai vai, tay cầm cả gậy “Khốc Thương bảng” (gậy khó người chết).
Nếu ngày thường, tên quản gia thế nào cũng chửi mắng như tát nước vào mặt nhóm tì nữ này rồi, cho chúng chỉ ăn ốc nói mò, nhưng vì dạo này trong phủ liên miên xảy ra nhiều chuyện quái gở, ai nấy đều tin những lời khai của đám tì nữ.
Ai cũng tin rằng thời suy vi ma quỷ mới hiện ra và trêu người như vậy! Trong đám người trong phủ, có tên kinh sợ nhất là nhóm thê thiếp hầu hạ của Giá Tự Đạo, đương nhiên họ không dám ngủ một mình, ai nấy quây quần hết lên đại sảnh để đỡ sợ!
Trong số nữ tì, có hai đứa bạo gan hơn hết, đem đề nghị là đọc kinh Quan Thế Âm có thể trừ tà ma, sẵn lúc này không có việc gì làm, vậy hãy đọc kinh Quan Thế Âm, may ra có thể đuổi tà ma cũng nên. Mọi người tán đồn ý kiến ngay. Trong lúc tiếng kinh ê a rù rì nổi lên ấy, nơi cửa sổ bỗng một luồng gió quái lạ ào ngay vào, thổi tắt hết đèn đóm trong đại sảnh.
Sự kiện thình lình như vậy, khiến mười mấy thê thiếp và mấy chục tì nữa hốt hoảng kêu rú cả lũ. Ngay trong lúc đó, ngoài cửa sổ “ầm ầm” hai tiếng, hiện ngay một đoàn lửa lân quang xanh lè, tất cả cảnh vật trong đại sảnh đều lập loè thành màu xanh hết. Tiếp sau đó, trên nóc nhà lại “ào” một tiếng đổ vỡ loảng xoảng, để lộ hẳn ra một lỗ hở lớn khổng lồ và rũ ngay xuống một tấm vải trắng, bị ánh lửa xanh chiếu vô hiện rõ bốn chữ “Nhất kiến phát tài” (hễ thấy là được bạc). Tấm vải phất phơ chập chờn, cả đám hoảng hồn hú thét inh lên, mấy nàng quá nhát gan đã ngất xỉu lăn ra mặt đất luôn.
Thình lình miếng vải viết chữ ấy vụt biến mất, mọi người tưởng đâu sắp thoát nạn, nào hay ngay nơi thủng trên ngói ấy nhoáng nhanh một đám lân hoả, vọt ngay xuống như sao băng, một màu sáng chiếu xanh lè khắp gian đại sảnh, tiếp đó tiếng rú kinh dị, một con ma “Vô thường quỷ” từ trên mái thủng bay vèo xuống.
Con ma này quái dị kinh người, từ đầu chí chân, cao hơn một trượng, miệng mắt đỏ choét, lưỡi thè ra ngoài hơn cả thước, tay trái cầm cây “Khốc Thương bảng”, tay mặt bợ ngay một đám lửa lân tinh, cả đám đà bà sợ tái mặt ôm chặt nhau lại thành một khối.
“Quỷ vô thường” khởi sự đi phây phây hai vòng trong đại sảnh, vừa đi vừa múa cây “Khốc Thương bảng” và điểm ngay vào trán các mụ thê thiếp và nữ tì của Giá Tự Đạo, kẻ nào bị điểm trúng đều hét rú lên một tiếng, ngã lăn ra bất tỉnh luôn. Chớp mắt bao nhiêu người nằm bất tỉnh nhân sự dưới mặt đất. Lúc này “quỷ vô thường” mới hét vang một tiếng, nhảy vọt lên từ cửa sổ đi ra. Mặt khác, phía ngoài vườn hoa của tướng phủ cũng xuất hiện một cảnh ma với người đại chiến.
Thì ra bọn nữ tì hô hoán ma quái xuất hiện, các thị vệ gia tướng trong tứơng phủ đều tỉnh giấc. Họ là các tay nhiều kinh nghiệm đánh nhau, đương nhiên đâu có tin ma quái gì, biết ngay đó là mánh gian của những quân ăn trộm cướp, đám vệ sĩ trong tướng phủ lập tức chia ngay mười tiểu đội, mỗi tiểu đội ước trên hai ba chục người, ai nấy cung tên sẵn sàng, thắp đèn đuốc sáng trưng lo đi tìm ma quái. Một đội võ sĩ vừa đi đến vườn hoa bỗng nghe tiếng đá rào rào từ trên cây đánh xuống, bao nhiêu đèn đuốc đều bị tắt ngủm.
Vì quá bất ngờ kêu hoảng lên cả đám với nhau cũng ngay khi đó, một giọng nói lạnh lùng rằng :
- Ta đây là “Thôi mạng vô thường quỷ”, nay đến cốt là dẫn hồn tên Giá Tự Đạo về nơi âm tào địa để cùng với tên Tần Cối chung nhau vào vạc dầu. Nếu lũ chúng bay có đứa nào thích đi theo chơi, bản “Thôi Mạng sứ” đây cũng sẵn lòng dìu dắt lũ bay... Hà! Hà! Hà!...
Những tiếng cười quái gở đã khiến đám võ sĩ nổi da gợn tóc gáy. Có hai tên bạo gan, quát tháo :
- Đây là người giả dạng lốt ma! Anh em chớ sợ, cứ bắn bừa tên vào đi!
Hai tên võ sĩ ấy bèn giơ cung bắn ngay, nhưng mũi tên vừa vọt ra được ba trượng, đột nhiên nghe “vèo” một tiếng, cả hai mũi tên đều bị quay ngược lại, rớt ngay lại trước mặt hai tên võ sĩ bắn tên mới kì ngộ, ai nấy kinh ngạc kêu “ồ” lên.
Tiếng lạnh lùng trong lùm cây lại nổi lên :
- Lũ chúng bay rõ thật tai nghiệt đầy mình, nay “Cầu Hồn sứ giả” đến đây mà chúng bay còn không rõ ngày chết đã đến. Ta đây là “Vô thường quỷ” của Diêm Vương điện, đã luyện được một thân hình thuần âm “hữu hình vô thể”, những loại binh đao trên dương thế không làm gì nổi ta! Nay hai thằng bạo gan lớn mật kia lại cả gan buông cung bắn, vậy bản sứ giả ra tay dắt ngay hồn phách hai đứa bay cho biết!
Tiếng vừa dứt thì hai tên nọ kêu “ối” lên một tiếng lăn đùng ra mặt đất hết nhúc nhích. Đám võ sĩ có mặt hoảng loạn cả lên, vội vàng xúm xít lại xem, quả nhiên hai tên võ sĩ này đã chết một cách vô duyên cớ. Chuyến này cả đám bay hồn lạc phách, trong lúc này tiếng nói lạnh lùng lại vang lên :
- Lũ bay hãy nghe đây, trong hai tên vừa bị chết đó, đáng lẽ mỗi đứa còn hai ba chục năm thọ mạng, nhưng chúng đã cả gan mạo phạm đến sứ giả “âm sai”, nên bắt buộc bản chức phải dẫn hồn chúng về Âm phủ. Bộ lũ chúng bay cũng muốn bắt chước theo hai tên khốn kiếp đó sao mà không chịu quì ngay xuống?
Cả đám thị vệ gia tướng đều hoảng hồn kinh hãi, quì thụp ngay xuống, đầu phủ phục sát mặt đất, không tên nào dám ngẩng lên. Ngay lúc ấy, trong lùm cây chỉ vang lên những tiếng :
- Phép tắc của Dược huynh quả linh nghiệm thiệt khiến cho cả đám chết toi này biến thành những con sâu cộc đầu, vui thật! Vui thật! Ha... ha... ha...
Chính vì tiếng nói này mà con ma Hoàng Dược Sư bị lộ chân tướng, đám võ sĩ lại nhao nhao lên, chúng ùa nhau đùa hết vào rừng. Nào hay cả đám vừa vào rừng, “ào” cát bụi mịt mù bay dội lên, rõ đúng là một cảnh “phi sa tẩu thạch” (cát bay đá chuyển), đánh dồn hết sang phía gia tướng, cả một cảnh kêu la inh ỏi vang lên. Đứa u đầu, kẻ chảy máu tưng bừng.
Sau trận mưa đá diễn ra, Hoàng Dược Sư và Châu Bá Thông tung mình đi luôn.
Nói về phía hoàng cung. Sau canh ba đêm đó, Quách Tỉnh nai nịt gọn gàng, rời khỏi quán trọ nhắm ngay hướng hoàn cung lướt mạnh. Đường lối đã quá quen, chẳng mấy chốc chàng đã nghiễn nhiên thuận lợi vào ngay hoàng cung.
Không ngờ hoàng cung đêm nay vắng tẻ lạnh lùng, đèn đuốc lù mờ, tứ bề im lìm, chẳng khác nào như nơi hoang dại. Quách Tỉnh lạ lùng, nghĩ thầm: “Sao lại vắng lạnh âm u vậy kìa?”
Đang lúc Quách Tỉnh mải suy nghĩ, chợt phía trước có đèn lồng đi tới, chàng vội tung mình lên mái điện, treo ngay chân vào nóc điện cúi ngược đầu xuống như dơi để quan sát động tĩnh! Chớp mắt ánh đèn lại gần, thì ra hai cung nữ xách theo đôi đèn lồng vừa đi vừa nói chuyện :
- Thật họa phúc đời người ta không biết đâu mà lường trước được! Ngay đến hoàng thượng, mấy hôm trước còn khỏe mạnh phây phây như thế, ai có thể ngờ đâu long thể bỗng trở nên bệnh nặng dữ tợn như vây!
/55
|