Phục Đình ở trong phòng suốt chiều hôm ấy.
Cửa phòng luôn khép kín.
Mới đầu Tê Trì còn tưởng chàng về nhà nghỉ ngơi, vậy nhưng lại không thấy chàng nằm nghỉ.
Chàng chỉ ngồi bên nàng, tay chống trên bàn, mắt nhìn thẳng vào nàng.
Cảm giác ấy, cứ như thể đang trông chừng nàng vậy.
Nàng dần thấy lạ, trà đã pha xong, nhưng không còn lòng dạ để uống nữa, chỉ nhìn chàng từ đầu xuống chân mấy lần.
Đến lúc sắp không nén nổi muốn hỏi thì chàng đứng dậy: “Ta đi rửa mặt đã.”
Vừa nói vừa đi ra sau bình phong.
Ngày nào cũng có người hầu đưa nước tới đặt trên kệ gỗ để rửa mặt rửa tay, nhanh chóng có tiếng nước vang lên, đúng là chàng đang rửa mặt.
Tê Trì thôi nhìn, bụng nghĩ là mình thấy lạ ở chỗ nào à, vì sao chàng cứ nhìn mình chăm chú đến vậy?
Thế là giơ tay sờ má rồi lại ấn lên ngực.
Phục Đình rửa mặt xong đi ra, như thể đã gột rửa luôn sự phòng bị suốt một đêm, nhưng khi thấy Tê Trì ấn tay lên ngực thì chàng lập tức trở nên căng thẳng: “Nàng bị sao thế?”
Tê Trì bị hỏi vậy thì ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào chàng, tay dừng lại: “Thiếp có bị sao à?”
Phục Đình nghe vậy mới ý thức được là nàng không sao, lúc này mới lau gương mặt dính đầy nước, lắc đầu: “Không phải.”
Dừng lại, rồi lại nhìn nàng nói: “Nếu thấy có bất kỳ khó chịu nào thì phải nói cho ta biết.”
Tê Trì ngạc nhiên, nhìn sắc mặt nghiêm túc của chàng, không phải là câu buột miệng, tuy cảm thấy lạ nhưng vẫn gật đầu: “Được rồi.”
Trực giác mách bảo nàng chuyện này có liên quan tới bệnh sốt đuổi hoa đó, không lẽ chàng không tin chẩn đoán của đại phu sao?
Phục Đình không muốn làm như đang canh chừng phạm nhân, sợ sẽ khiến nàng khó chịu, tay siết vạt áo hai lần rồi quay người tìm bội kiếm, cầm lấy mảnh vải, bước ra xa mấy bước lau kiếm.
Nhưng khi cầm kiếm trong tay, sự tức giận đè nén khi ở quan thự lại bùng lên.
Một căn bệnh không nên xuất hiện lại cứ thế nảy sinh, lúc chàng nhận được tin mà rùng mình liên tục.
Cuối cùng chàng vẫn đặt kiếm xuống, chợt thấy sau lưng yên lặng bèn ngoái đầu nhìn.
Tê Trì nhắm mắt nghẹo cổ, nằm dựa trên giường, trông có vẻ đã ngủ.
Chàng lập tức bước tới, duỗi tay nắm lấy tay nàng, thấy mấy ngón tay nàng lạnh buốt thì sầm mặt, xoay người đi ra ngoài.
Đại phu bị một người hầu hớt hải gọi tới.
Phục Đình đứng ngoài cửa, gần như đẩy ông ta đi vào: “Vào khám kỹ đi!”
Đại phu hoảng hốt đi vào, còn chàng thu chân về, quay đầu đi đến dưới mái hiên, sầm mặt đi tới đi lui, trong lòng như có ngọn đuốc thiêu cháy tứ chi bách hài, rồi chàng nhấc chân đạp ngã chậu lan cảnh.
Chậu bông bằng sứ rơi xuống phát ra tiếng vỡ chói tai, như thể bị ai đó bóp lấy yết hầu.
Chàng đứng đó, cơn tức giận không cách nào lắng xuống, lồng ngực phập phồng.
Đại phu đi ra, đứng sau lưng chàng cẩn thận bẩm báo: “Bẩm Đại đô hộ, phu nhân không sao ạ, chỉ là thiếp ngủ thôi.”
Chàng lau miệng, như lau đi cảm xúc trong mình, quay đầu lại: “Ông khám kỹ chưa?”
“Vâng ạ, tiểu nhân phục vụ trong phủ Quang vương đã nhiều năm, tuyệt đối không dám thờ ơ chút nào với huyện chủ.”
Chàng gật đầu, xem như hài lòng với câu trả lời này.
Đại phu thở hắt ra, khom người cáo lui.
“Gượm đã,” Phục Đình gọi ông ta lại, bỗng hỏi: “Đã từng nghe nói đến sốt đuổi hoa chưa?”
Đại phu cảm thấy hình như đã loáng thoáng nghe qua ở đâu đó, nghĩ ngợi một hồi rồi lập tức kinh hãi: “Còn không phải là ở đất Bắc năm ấy…”
“Vậy tức là đã nghe qua.” Phục Đình ngắt lời ông ta, chẳng qua là muốn ông ta chú ý, vung tay nói: “Đi đi.”
Đại phu run rẩy rời đi.
Phục Đình đứng tại chỗ cố lấy lại bình tĩnh, đi vào phòng rồi khép cửa lại.
Quay về trước giường nhỏ, Tê Trì vẫn nhắm nghiền mắt.
Chàng ngồi xuống, cau mày nhìn gương mặt nàng, bất giác lại sờ tay nàng.
Thế nhưng nàng bất thình lình mở mắt ra, hai mắt sáng trong, rõ ràng ban nãy không hề ngủ.
Phục Đình thấy thế thì hiểu ra, lông mày nhíu lại, siết chặt tay nàng: “Nàng làm gì thế, lừa ta vui lắm sao?”
Nghe giọng chàng mà Tê Trì giật mình, tay bị đau, nhíu mày nói: “Làm gì có, vừa nãy đúng là thiếp mệt mà.”
Chàng buông tay ra nhưng vẻ mặt chẳng hề thả lỏng, cánh môi mím chặt.
Tê Trì nửa nằm, đúng lúc ánh mắt rơi lên bờ vai rộng của chàng, sắc mặt chàng lúc này rất lạ, thậm chí nàng muốn đưa tay vỗ vai chàng, để chàng có thể giãn mặt mày.
Nàng lên tiếng, giọng nhẹ nhàng: “Vừa nãy, chàng dọa thiếp đấy.”
Phục Đình nhìn mặt nàng, hầu kết lên xuống, trầm giọng cất tiếng: “Nàng cũng dọa được ta rồi.”
Nàng ngẩn người, bỗng hiểu ra câu chất vấn mang theo tức giận vừa nãy của chàng, ánh mắt lóe lên: “Chàng có gì cớ sao không nói?”
Phục Đình đứng dậy: “Cũng chẳng có gì, sau này ta sẽ nói với nàng sau.”
Tê Trì vẫn nhìn chàng, ngẫm nghĩ về lời chàng nói.
Sau này tức là sao?
…
Khi trời trở tối, Phục Đình mới lại ra ngoài một chuyến.
Tân Lộ và Thu Sương đứng bên ngoài để phục vụ Tê Trì, nhưng lúc tới thì thấy cửa phòng khép chặt, rồi lại thấy Đại đô hộ chợt xông ra thì lấy làm bất ngờ.
Nhất là Thu Sương, ra ngoài hành sự rồi quay về phủ thì lại thấy cửa phủ đóng kín, chỉ cho phép vào mà không cho ra, còn muốn đến hỏi gia chủ xem đã xảy ra chuyện gì, nhưng còn chưa kịp gõ cửa thì Đại đô hộ đã đi ra.
Hai người trố mắt nhìn nhau, lật đật cúi đầu hành lễ, không dám nói nhiều.
Phục Đình chỉ dặn một câu: “Thức ăn đưa đến ngoài cửa, các ngươi chớ nên vào.”
Dừng một lúc rồi nói tiếp: “Nếu Lý Nghiên đến thì cũng không được để thằng bé vào.”
Nói rồi đi thẳng về phòng.
Tân Lộ nhìn Thu Sương: “Có chuyện gì thế này?”
“Sao tôi biết được.” Thu Sương thấp giọng nói.
Nhưng hai người không dám trái lệnh, mau chóng đem thức ăn tới.
Tê Trì ngồi trong phòng quá lâu, lúc này không ngồi yên nổi nữa, đang định đứng dậy thì thấy Phục Đình đi ra nay lại đi vào, tự tay đem thức ăn tới.
Chàng đặt khay đồ lên bàn, nhìn nàng nói: “Ăn cơm thôi.”
Dù có giả vờ như không có chuyện gì đi nữa thì trong lòng Tê Trì cũng hiểu rõ, đúng là chàng đang trông chừng nàng.
Nàng cầm khăn ướt đặt trong khay lau tay, sau đó để xuống cầm đũa lên, nhìn chàng ngồi bên cạnh – hệt như cả buổi chiều hôm nay vậy, thế là buột miệng hỏi: “Sốt đuổi hoa đó, là lây như thế nào?”
Phục Đình vừa cầm đũa lên, nghe vậy thì ngước mắt nhìn nàng chăm chú.
Tê Trì vẫn cứ nhìn chàng, giờ ngồi gần lại càng thấy rõ hơn, từ trên xuống dưới chàng tươm tất không hề qua loa, chỉ có ánh mắt là nặng nề, trong đôi mắt sâu ấy như có sóng gió chao đảo, thêm cả sự đờ đẫn và do dự, một lúc sau mới mở miệng: “Tiếp xúc nhiều thì sẽ lây.”
Tê Trì dừng tay, nhớ tới những căn hộ khép kín cửa ở trên đường về, lại nghĩ đến Tân Lộ và Thu Sương không thể vào, lập tức hiểu ra.
“Thế chàng không sợ bị lây à?” Nàng bỗng hỏi.
Phục Đình gần như cố giữ vẻ mặt bình tĩnh từ nãy đến giờ, tới khi nghe thấy câu này thì khóe miệng không khỏi cong lên, nhưng gần như khó mà nhận ra.
Chàng nói: “Đây không phải là lần đầu đất Bắc gặp căn bệnh này, những người đã bị thì sẽ không lây nữa.”
Thì ra không phải lần đầu, mà chàng còn từng nhiễm bệnh.
Tê Trì đảo mắt, tự nhủ chẳng trách trông chàng lại biết rõ thế.
Dùng bữa xong, Tân Lộ và Thu Sương lại đưa nước nóng tới, mà cũng chỉ dám đưa đến ngoài cửa, dè dặt gọi “Đại đô hộ”.
Phục Đình tự tay làm mọi chuyện, lại ra ngoài bưng nước nóng vào.
Trời đã tối đen.
Tê Trì cuộn mình, chẳng mấy chốc lại buồn ngủ.
Nàng rửa tay rửa mặt, ngả mình xuống giường.
Nhưng khi Phục Đình nằm xuống thì nàng vẫn chưa ngủ.
Mệt thì mệt, nhưng bị ẩn số trước mắt làm phiền nên không tài nào chợp mắt nổi.
Dưới người là đệm mềm, cơ thể người đàn ông vùi ở cạnh bên.
Nàng không thay đồ, mặc nguyên váy mà ngủ, lưng tựa vào lòng chàng, có thể cảm nhận được hơi thở của chàng phảng phất qua đỉnh đầu nàng, phả vào trán nàng.
Cuối cùng, nàng vẫn không nén nổi hỏi: “Lúc nào thì mới đến ‘sau này’?”
Giọng Phục Đình vang lên trên đầu nàng: “Ngày mai.”
Giọng chàng ồm ồm, không rõ cớ gì mà nàng lại có cảm giác, hai chữ đó thốt ra khỏi miệng chàng một cách khó nhọc.
Dần dà nàng không trụ nổi nữa, mơ màng ngủ thiếp đi.
Cứ tưởng Phục Đình có thể ngủ trước nàng, dẫu gì chàng cũng đã thức trắng một đêm rồi.
Trong phòng không hề thắp đèn, từ mờ mờ đến đen nhánh, sau nửa đêm, ánh trăng bàng bạc xuyên qua khung cửa chiếu vào.
Tê Trì mơ màng tỉnh một lần, cảm giác bên hông nặng trịch, đưa tay sờ soạng thì sờ phải cánh tay người đàn ông ôm chặt hông mình.
Nàng không đẩy ra được, đành nhắm hai mắt, quay sang kéo chăn.
Bỗng bên tai nghe thấy chàng hỏi nhỏ: “Lạnh hả?”
“Ừ.” Nàng còn mơ ngủ, thuận miệng trả lời.
Nhưng cảm giác cánh tay trên hông càng ôm chặt hơn, sau đó kéo chăn đắp lên người nàng, cơ thể sau lưng cũng tựa sát vào.
Nàng cảm thấy đã thoải mái, rúc vào cơ thể sau lưng ngủ say.
Nhưng cuối cùng, cơ thể kia vẫn rời đi.
Phục Đình ngồi dậy, sờ gáy nàng, vẫn ấm, không lạnh.
Lại sờ tay chân nàng, cũng không nóng.
Giai đoạn đầu của sốt đuổi hoa là sẽ lúc lạnh lúc nóng, chàng vừa nghe thấy nàng kêu lạnh thì không ngủ nổi nữa.
Ánh trăng nhạt như nước chiếu tới trước giường, chẳng xuyên qua nổi tấm màn rũ xuống, trước giường như được bao phủ trong làn sương mơ hồ, hắt lên gương mặt say ngủ của Tê Trì. Trong mắt chàng, đôi lông mày ấy lại có vẻ không chân thực.
Một tay chàng gác lên người Tê Trì, tay kia siết lại, hàm răng cắn chặt, ngồi trên giường trông như cây tùng, mà lại càng giống bàn đá – cứ ngồi thế chẳng nhúc nhích chút nào.
Chỉ có hai tay là chốc chốc lại kiểm tra nhiệt độ trên người nàng, còn nàng thì vẫn thở đều.
Có lúc lại nghi ngờ mình sờ không chính xác, lặp đi lặp lại mấy lần, thậm chí còn muốn xuống giường gọi đại phu.
Nhưng trong lần kiểm tra tiếp lại bỏ đi suy nghĩ.
Nhiều lần như thế, chẳng khác gì tự dày vò.
***
Sau nửa đêm Tê Trì ngủ li bì, đến khi tỉnh thì trời đã sáng trưng.
Khắp phòng sáng choang, vạt nắng vàng hắt lên tấm màn ở đầu giường.
Bên tai nghe thấy tiếng động rất nhỏ, nàng trở mình, thấy Phục Đình đã dậy từ lúc nào, đang ngồi trên ghế xoay lưng về phía nàng, để lộ nửa đầu vai, vết thương sau lưng vừa được thay cao dán.
Vết thương ở đằng sau, có lẽ vì chàng thấy băng bó phiền phức nên không quấn băng nữa, trực tiếp kéo vạt áo lại.
Nàng ngồi dậy, rõ ràng không gây nên động tĩnh, thế mà chàng lập tức nhìn qua.
“Dậy rồi hả?” Chàng thắt áo lại, bước đến.
“Ừ.” Tê Trì nhìn chàng rồi lại nhìn ánh sáng ngoài khung cửa, giờ tay sờ mặt: “Bây giờ đã được tính là ‘sau này’ rồi hả?”
Phục Đình nhếch mép, trong đáy mắt chẳng hề che giấu mệt mỏi, dán mắt nhìn nàng một lúc lâu: “Đúng thế.”
Tê Trì khép vạt áo: “Thế bây giờ chàng đã có thể nói cho thiếp biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì được chưa?”
Sau một ngày một đêm, nàng cũng đã đoán được rất nhiều, song nàng vẫn kiên nhẫn, chờ đến “sau này” mà chàng nói thì mới hỏi.
Phục Đình nhìn chăm chú mặt nàng, tuy thấy nàng vẫn bình thường song vẫn hỏi: “Nàng có thấy khó chịu gì không?”
Như muốn chính miệng nàng xác nhận thì mới yên tâm.
Tê Trì không thấy chàng nói rõ mà chỉ hỏi câu này, bèn lắc đầu: “Không có.” Rồi lập tức nhíu mày, cảm giác chàng cẩn thận đến vậy thì chắc chắn không phải là bệnh truyền nhiễm đơn giản, “Rốt cuộc sốt đuổi hoa là bệnh gì, nghiêm trọng vậy sao?”
Phục Đình trầm mặc, hơi nghiêng mặt đi, cứ như từ mũi đến cằm rồi tới cổ đều kéo căng.
Cho tới khi Tê Trì tưởng là chàng sẽ không nói, thì chàng mới đảo mắt nhìn sang, mở miệng: “Đó là ôn dịch.”
Nàng sững sờ: “Gì cơ?”
Phục Đình nói: “Đó là ôn dịch đã khiến đất Bắc lâm vào cảnh cùng khổ mấy năm.”
Tê Trì mấp máy cánh môi, bởi quá sợ hãi mà không nói nên lời.
Đó đúng là ôn dịch, Hồ tộc chịu ảnh hưởng đầu tiên đã dùng tiếng Hồ gọi nó là “sốt đuổi hoa”, bởi vì trước lạnh sau nóng, lạnh nóng tăng cao, rồi bỗng không nóng không lạnh, đầu đau người mỏi, tinh thần lờ đờ, sau đó lại sốt cao không ngừng, cho tới khi bị dày vò đến chết.
Người Hán chưa gặp chứng bệnh này bao giờ, thế nên cũng gọi theo cái tên đó.
Lúc quan viên hạ cấp đến báo, có thể tưởng tượng được sự tức giận của Phục Đình.
Mới yên ổn được mấy năm, khi đất Bắc đang bắt đầu khởi sắc thì trận ôn dịch kia lại bùng phát trở lại.
Chàng chờ ở quan thự suốt một đêm, nhìn khoái mã con này nối con kia lần lượt chạy tới, tấu sớ từ một tăng lên thành đống, cuối cùng lại đợi được tin tức ở U Lăng…
Thực ra là lo nàng hoang mang nên mới không nói cho nàng biết sớm.
Mãi tới lúc này khi đã qua, chàng mới tiết lộ.
Mới đầu Tê Trì giật mình ngạc nhiên, rồi tức khắc cảm thấy sợ hãi.
Giờ đã hiểu vì sao chàng trông chừng một ngày một đêm, thì ra là vậy.
Nàng lại nghĩ, sau khi về phủ mình đã tiếp xúc với cháu trai, cả Tân Lộ Thu Sương nữa, nếu thật sự bị nhiễm thì khó mà hình dung nổi.
Chẳng trách chàng lại cho bế phủ, chẳng trách chàng nói mình đã từng bị.
Nàng im lặng một lúc lâu, trong đầu cứ suy nghĩ mãi, rồi bất chợt nói: “Mấy năm qua đều bình yên, Đông rồi tuyết lớn liên miên, đáng nhẽ ôn dịch rất khó tái phát mới phải, thế mà giờ lại đột nhiên tới, chẳng lẽ sau chuyện này có nguyên nhân?”
“Đột Quyết.” Phục Đình tiếp lời, âm thanh lạnh lẽo: “Đầu tiên là chuyện ở thành Cổ Diệp, rồi chúng ta vừa về thì xảy ra chuyện này, không phải chúng thì là ai.”
Đấy cũng là nguyên nhân khiến chàng phẫn nộ.
Đất Bắc có đường biên giới rất dài, khu vực thành Cổ Diệp tiếp giáp với Mạt Hạt chỉ là một trong số đó mà thôi.
Nhưng người Đột Quyết lại có thể nghênh ngang đi qua thành Cổ Diệp như không, U Lăng gần đó lại gặp chuyện, rồi dịch bệnh kéo tới thật tình cờ, tất cả xuất hiện ngay tại biên giới.
Mà căn bệnh này xuất hiện lần đầu tiên là ở Đột Quyết, trong đất Bắc vốn không có.
Ban đầu bệnh lây qua người và động vật, đợt bệnh này vẫn chưa thấy có tin tức về lây nhiễm từ động vật, nhưng lại có liên tục nhiều người đổ bệnh trước, chứng tỏ người nhiễm bệnh không ở tại nơi cư trú, phần lớn bị lây khi ra ngoài đi lại, chỉ có thể bị nhiễm bên ngoài rồi lây vào đất Bắc, chứ không phải bộc phát từ trong đất Bắc.
Tê Trì hỏi câu này là có phỏng đoán, ngày trước từng nói lễ đuổi ôn dịch là người Đột Quyết làm, xem ra là thật.
Nàng đã được chứng kiến hành động của người Đột Quyết trong thành Cổ Diệp, biết bọn chúng ra tay tàn nhẫn, nhưng tin tức lúc này vẫn khiến nàng ớn lạnh, mặt trắng bệch hẳn: “Vì sao bọn chúng lại cố chấp lây lan ôn dịch như thế?”
“Không phải cố chấp lây lan ôn dịch,” Phục Đình nói: “Mà là cố chấp muốn làm đất Bắc suy yếu.”
Tê Trì không khỏi nhìn chàng, sắc mặt dần giãn ra, trong lòng đã hiểu: “Ý chàng là, Đột Quyết không muốn đất Bắc có cơ hội khôi phục.”
Chàng gật đầu.
Phục Đình đã có kế hoạch giúp đất Bắc khôi phục từ lâu, rồi vì Tê Trì đến đây, chi rất nhiều khoản tiền nên đã đẩy kế hoạch tiến hành sớm hơn nhiều.
Bây giờ ngoài mặt nổi, các hộ mới khai hoang đã gieo trồng thành đồng ruộng phì nhiêu, Hồ tộc cũng có nhiều súc vật hơn, các thương hộ cũng đang hoạt động có trật tự, những hiệu buôn nhỏ và phân xưởng nhỏ ảnh hưởng bên lề đều đang hoạt động.
Nhưng những chuyện này đều cần có thời gian.
Đột Quyết liên tục phái mật thám xâm nhập, ắt sẽ không trơ mắt nhìn đất Bắc có chuyển biến tốt, bắt đầu từ chuyện ở thành Cổ Diệp, bọn chúng đã không kiềm chế nổi nữa rồi.
Có lẽ lúc bố trí chuyện ở thành Cổ Diệp, chúng đã bắt đầu phát tán ôn dịch.
“Hà cớ gì?”
Bỗng vang lên một câu nói nhỏ, Phục Đình vô thức nhìn nàng.
Tê Trì để chân trần ngồi bên mép giường, tóc xõa ra, hai tay chống về phía trước, miệng lẩm bẩm câu này, môi mở ra khép lại, sắc mặt trắng nhợt, nhưng in hằn trong đôi mắt là sự sắc bén, thậm chí là lạnh lẽo.
Lời nàng thốt ra chất chứa sự không cam lòng, sau khi đến đất Bắc nàng đã chi tiền hao tâm tổn trí rất nhiều, bởi vì muốn đất Bắc có thể phục hồi phát triển.
Đã dốc nhiều vốn liếng như thế, mà đột nhiên Đột Quyết lại đâm ngang.
Hà cớ gì? Hà cớ gì đất Bắc không thể đứng vững, vừa khởi sắc đã bị chèn ép.
Phục Đình không cần biết vì sao nàng lại nói thế, bởi dẫu sao cũng đã nói thay tiếng lòng chàng, sự kiêu ngạo trong chàng đã được câu nói này khơi ra, bỗng dưng bật cười: “Đúng thế, hà cớ gì.”
Tê Trì nhìn sang, chàng nhìn lại, ánh mắt hai người chạm nhau, không hiểu sao lại có cảm giác cùng chung mối thù.
Đuôi mắt nàng cong lên nhưng chẳng thể cười nổi, bởi cảm xúc ấy đã kéo nàng về lại thực tại, nàng cụp mắt xuống: “Nhưng mà, đã khiến bọn chúng đạt được ý đồ rồi.”
Phục Đình thuận theo tầm mắt nhìn xuống đôi chân trần của nàng, hai chân trắng nõn, ngón chân nhẹ nhàng di di trên thảm trải dưới sàn, chàng nhìn lướt qua rồi lại nhìn rồi lại dời mắt đi, bật cười rất khẽ: “Không dễ thế đâu.”
Tê Trì cảm nhận được sự chắc chắn trong giọng chàng, bèn ngẩng đầu: “Chẳng lẽ chàng có cách đối phó?”
Vừa nói xong thì nàng “a” lên một tiếng, bừng hiểu: “Những quan phủ thu mua dược liệu kia là làm theo lệnh của chàng?”
Phục Đình gật đầu: “Đã trải qua một lần rồi, sao có thể lại để chúng dễ dàng đạt được.”
Ngày trước sau khi đẩy lùi được Đột Quyết thì chàng đã có dặn, nếu còn xảy ra chuyện này thì quan phủ lập tức phong tỏa tin tức, tập trung chữa bệnh, không được để Đột Quyết nhân cơ hội.
Các châu đêm đó đưa tấu sớ tới đều đã thực hiện theo căn dặn của chàng.
Từ sau khi xảy ra ôn dịch, đất Bắc quản lý người qua lại rất nghiêm ngặt, muốn xuất cảnh buôn bán cần phải có chứng từ của phủ Đô hộ, trước khi vào Trung Nguyên cũng phải kiểm tra cẩn thận.
Những chuyện đó đều là nhờ đề phòng Đột Quyết ban cho.
Tê Trì bội phục sự lo xa của chàng, nhưng không vì thế mà cảm thấy thoải mái hơn, bởi những đối sách đó đều bị ép phải thực hiện.
Đúng lúc này có người gõ cửa.
Là Thu Sương và Thu Sương đến mời dùng bữa.
Phục Đình không nói nữa, đi tới mở cửa: “Vào đi.”
Hai người ở ngoài bưng cơm nước nóng, có lẽ không ngờ được cho phép đi vào nên ngạc nhiên nhìn nhau, sau đó nhún người tiến vào.
…
Lúc Thu Sương và Thu Sương hầu hạ Tê Trì rửa mặt, Phục Đình cũng ra sau bình phong thay y phục.
Nhân lúc Đại đô hộ không ở đây, Tân Lộ và Thu Sương cứ nhìn nhau hoài, một bụng đầy nghi vấn muốn hỏi gia chủ, nhưng Tê Trì chỉ lắc đầu, bảo bọn họ đừng nói gì cả.
Hiện tại nàng không có tâm trạng làm họ thêm bối rối.
Hai người đành kìm nén, lui ra.
Phục Đình thay quân phục, đang định bước ra thì nhìn thấy hình bóng lên bình phong, như cách một làn sương mù, hệt như những gì chàng đã thấy trong ánh trăng đêm qua.
Nhưng đêm qua chàng lại không muốn nhìn.
Cảm giác đau đớn đó đã hành hạ chàng một đêm, tuy không bằng những lần kinh tâm động phách ở bên ngoài thành Cổ Diệp, song vẫn khiến chàng sợ hãi.
Cứ như có thanh đao sắc bén gác lên cổ, không rõ sẽ bị cứa lúc nào, mà hơi lạnh thì cứ thấm bên cổ.
Đến giờ người vẫn ở bên cạnh chàng, tựa như mất đi có lại, còn chàng lại như đã trải qua thiên quân vạn mã.
Chàng không đi ra mà trái lại, dùng sức kéo bình phong sang một bên, bỏ đi lớp ngăn cách này.
Thế là Tê Trì đứng trước người chàng không che không đậy, lọt gọn vào tầm mắt chàng.
Nàng ngước mắt lên, như vừa hoàn hồn từ trong suy tư, một tay chống lên mép bình phong, nhìn chàng, do dự một lúc rồi vẫn nói ra suy nghĩ khiến nàng sợ hãi: “Lỡ như, thiếp nói là lỡ như, nếu thiếp bị nhiễm thật thì sao?”
Gương mặt Phục Đình bất giác bạnh ra, cảm giác đêm qua lại ùa về, chàng cúi đầu nhìn vào mắt nàng bảo: “Cũng không đến mức mất mạng.”
Tê Trì chớp mắt: “Tức là có thể chữa được?”
Chàng mấp máy môi: “Có thể, nếu không ta thu mua dược liệu làm gì.”
Nàng thở hắt ra: “Thế thì là chuyện tốt rồi, thấy chàng cẩn thận suốt một ngày một đêm như vậy, thiếp còn tưởng bệnh này không chữa được.”
Phục Đình nhìn vào đôi mắt sâu của nàng, từ trên mặt nàng chuyển xuống bụng nàng, giọng trầm hơn: “Đúng là có thể chữa, nhưng sẽ mất nửa cái mạng.”
Tê Trì giật thót, nhận ra điều gì đấy qua ánh mắt của chàng, cúi đầu xoa bụng dưới: “Ý là không bảo vệ được con?”
Chàng im lặng, tức là thừa nhận.
Chỉ riêng việc tìm ra cách chữa thôi cũng đã không biết bao nhiêu tính mạng đi tong.
Hôm qua lúc về chàng đã đưa ra dự tính xấu nhất.
Nếu nàng bị nhiễm thật, thì dù có thế nào cũng không bảo vệ được đứa bé này.
Dù phẫn nộ tới mức đạp bể chậu hoa, nhưng khi thật sự đi đến bước ấy, dù có tự tay loại bỏ thì cũng phải bảo vệ nàng cho bằng được.
Những chàng chỉ có thể tự mình gặm nhấm những suy nghĩ này, cho đến bây giờ khi đã qua rồi thì mới nói ra.
Tê Trì áp tay vào bụng dưới, nhớ đến một ngày một đêm chàng như đi trên lớp băng mỏng, thế là nhìn chàng: “Nếu như vậy thật, chàng có ra tay được không?”
Phục Đình giơ tay nắm lấy tay nàng, kéo nàng tới trước mặt: “Đương nhiên rồi! Không lẽ ta có thể mặc kệ sống chết của nàng vì một đứa trẻ chưa chào đời sao!”
Những ngón tay nắm bình phong của nàng run lên, lặng yên nhìn chàng.
Nếu không phải đã biết chàng còn uống rượu ăn mừng vì đứa bé đến, thì nàng đã ngỡ chàng là người độc ác.
Nhưng nàng biết chàng không phải là người như vậy.
Phục Đình buông nàng ra, chân động một bước, không muốn nhắc lại chuyện này nữa.
“Tam lang.” Bỗng Tê Trì gọi chàng.
Chàng dừng chân nhìn nàng, bình thường nàng gọi chàng như thế đều là những lúc dịu dàng nhất.
“Sao nào?”
Tê Trì buột miệng gọi, nhưng không muốn nói thêm về những chuyện còn chưa xảy ra, chỉ tổ thêm nặng nề, thế là mỉm cười đổi lời: “Chàng định giải quyết việc này thế nào?”
Phục Đình thấy nàng cười thì cũng thả lỏng: “Chỉ đành gấp rút trị liệu.”
Nàng khẽ gật đầu: “Trị liệu thì cần đại phu và dược liệu, cũng cần phải tiêu tiền.”
Chàng chớp mắt, đến gần nàng: “Nàng muốn nói gì?”
Tê Trì đảo mắt: “Thiếp muốn chi tiền hỗ trợ, nhưng sợ chàng không vui.”
Không đợi chàng lên tiếng, nàng đã ngước mắt lên, tay đặt lên bụng, nói: “Lần này Đột Quyết suýt đã hại thiếp, nên nói cho cùng, thiếp cũng chỉ đang tiêu tiền vì mình.”
Phục Đình buồn cười nhìn nàng, nói thì nàng cũng đã nói rồi, nhìn nàng như vậy, có lẽ là tính luôn cả phần của con.
Chàng có gì mà không vui, nàng cũng chẳng phải tiêu tiền cho quân đội của chàng, mà là tiêu vì bách tính, vì đất Bắc này.
Hơn nữa dù nàng bỏ ra bao nhiêu, sau này chàng sẽ trả tất.
Huống hồ bây giờ nàng còn có thể vui vẻ mà nói tiêu tiền, chàng cũng không có gì phải nói.
Tay chàng vỗ một cái lên bình phong, như đinh đóng cột: “Tiêu đi.”
Nàng muốn tiêu thì tiêu.
Cửa phòng luôn khép kín.
Mới đầu Tê Trì còn tưởng chàng về nhà nghỉ ngơi, vậy nhưng lại không thấy chàng nằm nghỉ.
Chàng chỉ ngồi bên nàng, tay chống trên bàn, mắt nhìn thẳng vào nàng.
Cảm giác ấy, cứ như thể đang trông chừng nàng vậy.
Nàng dần thấy lạ, trà đã pha xong, nhưng không còn lòng dạ để uống nữa, chỉ nhìn chàng từ đầu xuống chân mấy lần.
Đến lúc sắp không nén nổi muốn hỏi thì chàng đứng dậy: “Ta đi rửa mặt đã.”
Vừa nói vừa đi ra sau bình phong.
Ngày nào cũng có người hầu đưa nước tới đặt trên kệ gỗ để rửa mặt rửa tay, nhanh chóng có tiếng nước vang lên, đúng là chàng đang rửa mặt.
Tê Trì thôi nhìn, bụng nghĩ là mình thấy lạ ở chỗ nào à, vì sao chàng cứ nhìn mình chăm chú đến vậy?
Thế là giơ tay sờ má rồi lại ấn lên ngực.
Phục Đình rửa mặt xong đi ra, như thể đã gột rửa luôn sự phòng bị suốt một đêm, nhưng khi thấy Tê Trì ấn tay lên ngực thì chàng lập tức trở nên căng thẳng: “Nàng bị sao thế?”
Tê Trì bị hỏi vậy thì ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào chàng, tay dừng lại: “Thiếp có bị sao à?”
Phục Đình nghe vậy mới ý thức được là nàng không sao, lúc này mới lau gương mặt dính đầy nước, lắc đầu: “Không phải.”
Dừng lại, rồi lại nhìn nàng nói: “Nếu thấy có bất kỳ khó chịu nào thì phải nói cho ta biết.”
Tê Trì ngạc nhiên, nhìn sắc mặt nghiêm túc của chàng, không phải là câu buột miệng, tuy cảm thấy lạ nhưng vẫn gật đầu: “Được rồi.”
Trực giác mách bảo nàng chuyện này có liên quan tới bệnh sốt đuổi hoa đó, không lẽ chàng không tin chẩn đoán của đại phu sao?
Phục Đình không muốn làm như đang canh chừng phạm nhân, sợ sẽ khiến nàng khó chịu, tay siết vạt áo hai lần rồi quay người tìm bội kiếm, cầm lấy mảnh vải, bước ra xa mấy bước lau kiếm.
Nhưng khi cầm kiếm trong tay, sự tức giận đè nén khi ở quan thự lại bùng lên.
Một căn bệnh không nên xuất hiện lại cứ thế nảy sinh, lúc chàng nhận được tin mà rùng mình liên tục.
Cuối cùng chàng vẫn đặt kiếm xuống, chợt thấy sau lưng yên lặng bèn ngoái đầu nhìn.
Tê Trì nhắm mắt nghẹo cổ, nằm dựa trên giường, trông có vẻ đã ngủ.
Chàng lập tức bước tới, duỗi tay nắm lấy tay nàng, thấy mấy ngón tay nàng lạnh buốt thì sầm mặt, xoay người đi ra ngoài.
Đại phu bị một người hầu hớt hải gọi tới.
Phục Đình đứng ngoài cửa, gần như đẩy ông ta đi vào: “Vào khám kỹ đi!”
Đại phu hoảng hốt đi vào, còn chàng thu chân về, quay đầu đi đến dưới mái hiên, sầm mặt đi tới đi lui, trong lòng như có ngọn đuốc thiêu cháy tứ chi bách hài, rồi chàng nhấc chân đạp ngã chậu lan cảnh.
Chậu bông bằng sứ rơi xuống phát ra tiếng vỡ chói tai, như thể bị ai đó bóp lấy yết hầu.
Chàng đứng đó, cơn tức giận không cách nào lắng xuống, lồng ngực phập phồng.
Đại phu đi ra, đứng sau lưng chàng cẩn thận bẩm báo: “Bẩm Đại đô hộ, phu nhân không sao ạ, chỉ là thiếp ngủ thôi.”
Chàng lau miệng, như lau đi cảm xúc trong mình, quay đầu lại: “Ông khám kỹ chưa?”
“Vâng ạ, tiểu nhân phục vụ trong phủ Quang vương đã nhiều năm, tuyệt đối không dám thờ ơ chút nào với huyện chủ.”
Chàng gật đầu, xem như hài lòng với câu trả lời này.
Đại phu thở hắt ra, khom người cáo lui.
“Gượm đã,” Phục Đình gọi ông ta lại, bỗng hỏi: “Đã từng nghe nói đến sốt đuổi hoa chưa?”
Đại phu cảm thấy hình như đã loáng thoáng nghe qua ở đâu đó, nghĩ ngợi một hồi rồi lập tức kinh hãi: “Còn không phải là ở đất Bắc năm ấy…”
“Vậy tức là đã nghe qua.” Phục Đình ngắt lời ông ta, chẳng qua là muốn ông ta chú ý, vung tay nói: “Đi đi.”
Đại phu run rẩy rời đi.
Phục Đình đứng tại chỗ cố lấy lại bình tĩnh, đi vào phòng rồi khép cửa lại.
Quay về trước giường nhỏ, Tê Trì vẫn nhắm nghiền mắt.
Chàng ngồi xuống, cau mày nhìn gương mặt nàng, bất giác lại sờ tay nàng.
Thế nhưng nàng bất thình lình mở mắt ra, hai mắt sáng trong, rõ ràng ban nãy không hề ngủ.
Phục Đình thấy thế thì hiểu ra, lông mày nhíu lại, siết chặt tay nàng: “Nàng làm gì thế, lừa ta vui lắm sao?”
Nghe giọng chàng mà Tê Trì giật mình, tay bị đau, nhíu mày nói: “Làm gì có, vừa nãy đúng là thiếp mệt mà.”
Chàng buông tay ra nhưng vẻ mặt chẳng hề thả lỏng, cánh môi mím chặt.
Tê Trì nửa nằm, đúng lúc ánh mắt rơi lên bờ vai rộng của chàng, sắc mặt chàng lúc này rất lạ, thậm chí nàng muốn đưa tay vỗ vai chàng, để chàng có thể giãn mặt mày.
Nàng lên tiếng, giọng nhẹ nhàng: “Vừa nãy, chàng dọa thiếp đấy.”
Phục Đình nhìn mặt nàng, hầu kết lên xuống, trầm giọng cất tiếng: “Nàng cũng dọa được ta rồi.”
Nàng ngẩn người, bỗng hiểu ra câu chất vấn mang theo tức giận vừa nãy của chàng, ánh mắt lóe lên: “Chàng có gì cớ sao không nói?”
Phục Đình đứng dậy: “Cũng chẳng có gì, sau này ta sẽ nói với nàng sau.”
Tê Trì vẫn nhìn chàng, ngẫm nghĩ về lời chàng nói.
Sau này tức là sao?
…
Khi trời trở tối, Phục Đình mới lại ra ngoài một chuyến.
Tân Lộ và Thu Sương đứng bên ngoài để phục vụ Tê Trì, nhưng lúc tới thì thấy cửa phòng khép chặt, rồi lại thấy Đại đô hộ chợt xông ra thì lấy làm bất ngờ.
Nhất là Thu Sương, ra ngoài hành sự rồi quay về phủ thì lại thấy cửa phủ đóng kín, chỉ cho phép vào mà không cho ra, còn muốn đến hỏi gia chủ xem đã xảy ra chuyện gì, nhưng còn chưa kịp gõ cửa thì Đại đô hộ đã đi ra.
Hai người trố mắt nhìn nhau, lật đật cúi đầu hành lễ, không dám nói nhiều.
Phục Đình chỉ dặn một câu: “Thức ăn đưa đến ngoài cửa, các ngươi chớ nên vào.”
Dừng một lúc rồi nói tiếp: “Nếu Lý Nghiên đến thì cũng không được để thằng bé vào.”
Nói rồi đi thẳng về phòng.
Tân Lộ nhìn Thu Sương: “Có chuyện gì thế này?”
“Sao tôi biết được.” Thu Sương thấp giọng nói.
Nhưng hai người không dám trái lệnh, mau chóng đem thức ăn tới.
Tê Trì ngồi trong phòng quá lâu, lúc này không ngồi yên nổi nữa, đang định đứng dậy thì thấy Phục Đình đi ra nay lại đi vào, tự tay đem thức ăn tới.
Chàng đặt khay đồ lên bàn, nhìn nàng nói: “Ăn cơm thôi.”
Dù có giả vờ như không có chuyện gì đi nữa thì trong lòng Tê Trì cũng hiểu rõ, đúng là chàng đang trông chừng nàng.
Nàng cầm khăn ướt đặt trong khay lau tay, sau đó để xuống cầm đũa lên, nhìn chàng ngồi bên cạnh – hệt như cả buổi chiều hôm nay vậy, thế là buột miệng hỏi: “Sốt đuổi hoa đó, là lây như thế nào?”
Phục Đình vừa cầm đũa lên, nghe vậy thì ngước mắt nhìn nàng chăm chú.
Tê Trì vẫn cứ nhìn chàng, giờ ngồi gần lại càng thấy rõ hơn, từ trên xuống dưới chàng tươm tất không hề qua loa, chỉ có ánh mắt là nặng nề, trong đôi mắt sâu ấy như có sóng gió chao đảo, thêm cả sự đờ đẫn và do dự, một lúc sau mới mở miệng: “Tiếp xúc nhiều thì sẽ lây.”
Tê Trì dừng tay, nhớ tới những căn hộ khép kín cửa ở trên đường về, lại nghĩ đến Tân Lộ và Thu Sương không thể vào, lập tức hiểu ra.
“Thế chàng không sợ bị lây à?” Nàng bỗng hỏi.
Phục Đình gần như cố giữ vẻ mặt bình tĩnh từ nãy đến giờ, tới khi nghe thấy câu này thì khóe miệng không khỏi cong lên, nhưng gần như khó mà nhận ra.
Chàng nói: “Đây không phải là lần đầu đất Bắc gặp căn bệnh này, những người đã bị thì sẽ không lây nữa.”
Thì ra không phải lần đầu, mà chàng còn từng nhiễm bệnh.
Tê Trì đảo mắt, tự nhủ chẳng trách trông chàng lại biết rõ thế.
Dùng bữa xong, Tân Lộ và Thu Sương lại đưa nước nóng tới, mà cũng chỉ dám đưa đến ngoài cửa, dè dặt gọi “Đại đô hộ”.
Phục Đình tự tay làm mọi chuyện, lại ra ngoài bưng nước nóng vào.
Trời đã tối đen.
Tê Trì cuộn mình, chẳng mấy chốc lại buồn ngủ.
Nàng rửa tay rửa mặt, ngả mình xuống giường.
Nhưng khi Phục Đình nằm xuống thì nàng vẫn chưa ngủ.
Mệt thì mệt, nhưng bị ẩn số trước mắt làm phiền nên không tài nào chợp mắt nổi.
Dưới người là đệm mềm, cơ thể người đàn ông vùi ở cạnh bên.
Nàng không thay đồ, mặc nguyên váy mà ngủ, lưng tựa vào lòng chàng, có thể cảm nhận được hơi thở của chàng phảng phất qua đỉnh đầu nàng, phả vào trán nàng.
Cuối cùng, nàng vẫn không nén nổi hỏi: “Lúc nào thì mới đến ‘sau này’?”
Giọng Phục Đình vang lên trên đầu nàng: “Ngày mai.”
Giọng chàng ồm ồm, không rõ cớ gì mà nàng lại có cảm giác, hai chữ đó thốt ra khỏi miệng chàng một cách khó nhọc.
Dần dà nàng không trụ nổi nữa, mơ màng ngủ thiếp đi.
Cứ tưởng Phục Đình có thể ngủ trước nàng, dẫu gì chàng cũng đã thức trắng một đêm rồi.
Trong phòng không hề thắp đèn, từ mờ mờ đến đen nhánh, sau nửa đêm, ánh trăng bàng bạc xuyên qua khung cửa chiếu vào.
Tê Trì mơ màng tỉnh một lần, cảm giác bên hông nặng trịch, đưa tay sờ soạng thì sờ phải cánh tay người đàn ông ôm chặt hông mình.
Nàng không đẩy ra được, đành nhắm hai mắt, quay sang kéo chăn.
Bỗng bên tai nghe thấy chàng hỏi nhỏ: “Lạnh hả?”
“Ừ.” Nàng còn mơ ngủ, thuận miệng trả lời.
Nhưng cảm giác cánh tay trên hông càng ôm chặt hơn, sau đó kéo chăn đắp lên người nàng, cơ thể sau lưng cũng tựa sát vào.
Nàng cảm thấy đã thoải mái, rúc vào cơ thể sau lưng ngủ say.
Nhưng cuối cùng, cơ thể kia vẫn rời đi.
Phục Đình ngồi dậy, sờ gáy nàng, vẫn ấm, không lạnh.
Lại sờ tay chân nàng, cũng không nóng.
Giai đoạn đầu của sốt đuổi hoa là sẽ lúc lạnh lúc nóng, chàng vừa nghe thấy nàng kêu lạnh thì không ngủ nổi nữa.
Ánh trăng nhạt như nước chiếu tới trước giường, chẳng xuyên qua nổi tấm màn rũ xuống, trước giường như được bao phủ trong làn sương mơ hồ, hắt lên gương mặt say ngủ của Tê Trì. Trong mắt chàng, đôi lông mày ấy lại có vẻ không chân thực.
Một tay chàng gác lên người Tê Trì, tay kia siết lại, hàm răng cắn chặt, ngồi trên giường trông như cây tùng, mà lại càng giống bàn đá – cứ ngồi thế chẳng nhúc nhích chút nào.
Chỉ có hai tay là chốc chốc lại kiểm tra nhiệt độ trên người nàng, còn nàng thì vẫn thở đều.
Có lúc lại nghi ngờ mình sờ không chính xác, lặp đi lặp lại mấy lần, thậm chí còn muốn xuống giường gọi đại phu.
Nhưng trong lần kiểm tra tiếp lại bỏ đi suy nghĩ.
Nhiều lần như thế, chẳng khác gì tự dày vò.
***
Sau nửa đêm Tê Trì ngủ li bì, đến khi tỉnh thì trời đã sáng trưng.
Khắp phòng sáng choang, vạt nắng vàng hắt lên tấm màn ở đầu giường.
Bên tai nghe thấy tiếng động rất nhỏ, nàng trở mình, thấy Phục Đình đã dậy từ lúc nào, đang ngồi trên ghế xoay lưng về phía nàng, để lộ nửa đầu vai, vết thương sau lưng vừa được thay cao dán.
Vết thương ở đằng sau, có lẽ vì chàng thấy băng bó phiền phức nên không quấn băng nữa, trực tiếp kéo vạt áo lại.
Nàng ngồi dậy, rõ ràng không gây nên động tĩnh, thế mà chàng lập tức nhìn qua.
“Dậy rồi hả?” Chàng thắt áo lại, bước đến.
“Ừ.” Tê Trì nhìn chàng rồi lại nhìn ánh sáng ngoài khung cửa, giờ tay sờ mặt: “Bây giờ đã được tính là ‘sau này’ rồi hả?”
Phục Đình nhếch mép, trong đáy mắt chẳng hề che giấu mệt mỏi, dán mắt nhìn nàng một lúc lâu: “Đúng thế.”
Tê Trì khép vạt áo: “Thế bây giờ chàng đã có thể nói cho thiếp biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì được chưa?”
Sau một ngày một đêm, nàng cũng đã đoán được rất nhiều, song nàng vẫn kiên nhẫn, chờ đến “sau này” mà chàng nói thì mới hỏi.
Phục Đình nhìn chăm chú mặt nàng, tuy thấy nàng vẫn bình thường song vẫn hỏi: “Nàng có thấy khó chịu gì không?”
Như muốn chính miệng nàng xác nhận thì mới yên tâm.
Tê Trì không thấy chàng nói rõ mà chỉ hỏi câu này, bèn lắc đầu: “Không có.” Rồi lập tức nhíu mày, cảm giác chàng cẩn thận đến vậy thì chắc chắn không phải là bệnh truyền nhiễm đơn giản, “Rốt cuộc sốt đuổi hoa là bệnh gì, nghiêm trọng vậy sao?”
Phục Đình trầm mặc, hơi nghiêng mặt đi, cứ như từ mũi đến cằm rồi tới cổ đều kéo căng.
Cho tới khi Tê Trì tưởng là chàng sẽ không nói, thì chàng mới đảo mắt nhìn sang, mở miệng: “Đó là ôn dịch.”
Nàng sững sờ: “Gì cơ?”
Phục Đình nói: “Đó là ôn dịch đã khiến đất Bắc lâm vào cảnh cùng khổ mấy năm.”
Tê Trì mấp máy cánh môi, bởi quá sợ hãi mà không nói nên lời.
Đó đúng là ôn dịch, Hồ tộc chịu ảnh hưởng đầu tiên đã dùng tiếng Hồ gọi nó là “sốt đuổi hoa”, bởi vì trước lạnh sau nóng, lạnh nóng tăng cao, rồi bỗng không nóng không lạnh, đầu đau người mỏi, tinh thần lờ đờ, sau đó lại sốt cao không ngừng, cho tới khi bị dày vò đến chết.
Người Hán chưa gặp chứng bệnh này bao giờ, thế nên cũng gọi theo cái tên đó.
Lúc quan viên hạ cấp đến báo, có thể tưởng tượng được sự tức giận của Phục Đình.
Mới yên ổn được mấy năm, khi đất Bắc đang bắt đầu khởi sắc thì trận ôn dịch kia lại bùng phát trở lại.
Chàng chờ ở quan thự suốt một đêm, nhìn khoái mã con này nối con kia lần lượt chạy tới, tấu sớ từ một tăng lên thành đống, cuối cùng lại đợi được tin tức ở U Lăng…
Thực ra là lo nàng hoang mang nên mới không nói cho nàng biết sớm.
Mãi tới lúc này khi đã qua, chàng mới tiết lộ.
Mới đầu Tê Trì giật mình ngạc nhiên, rồi tức khắc cảm thấy sợ hãi.
Giờ đã hiểu vì sao chàng trông chừng một ngày một đêm, thì ra là vậy.
Nàng lại nghĩ, sau khi về phủ mình đã tiếp xúc với cháu trai, cả Tân Lộ Thu Sương nữa, nếu thật sự bị nhiễm thì khó mà hình dung nổi.
Chẳng trách chàng lại cho bế phủ, chẳng trách chàng nói mình đã từng bị.
Nàng im lặng một lúc lâu, trong đầu cứ suy nghĩ mãi, rồi bất chợt nói: “Mấy năm qua đều bình yên, Đông rồi tuyết lớn liên miên, đáng nhẽ ôn dịch rất khó tái phát mới phải, thế mà giờ lại đột nhiên tới, chẳng lẽ sau chuyện này có nguyên nhân?”
“Đột Quyết.” Phục Đình tiếp lời, âm thanh lạnh lẽo: “Đầu tiên là chuyện ở thành Cổ Diệp, rồi chúng ta vừa về thì xảy ra chuyện này, không phải chúng thì là ai.”
Đấy cũng là nguyên nhân khiến chàng phẫn nộ.
Đất Bắc có đường biên giới rất dài, khu vực thành Cổ Diệp tiếp giáp với Mạt Hạt chỉ là một trong số đó mà thôi.
Nhưng người Đột Quyết lại có thể nghênh ngang đi qua thành Cổ Diệp như không, U Lăng gần đó lại gặp chuyện, rồi dịch bệnh kéo tới thật tình cờ, tất cả xuất hiện ngay tại biên giới.
Mà căn bệnh này xuất hiện lần đầu tiên là ở Đột Quyết, trong đất Bắc vốn không có.
Ban đầu bệnh lây qua người và động vật, đợt bệnh này vẫn chưa thấy có tin tức về lây nhiễm từ động vật, nhưng lại có liên tục nhiều người đổ bệnh trước, chứng tỏ người nhiễm bệnh không ở tại nơi cư trú, phần lớn bị lây khi ra ngoài đi lại, chỉ có thể bị nhiễm bên ngoài rồi lây vào đất Bắc, chứ không phải bộc phát từ trong đất Bắc.
Tê Trì hỏi câu này là có phỏng đoán, ngày trước từng nói lễ đuổi ôn dịch là người Đột Quyết làm, xem ra là thật.
Nàng đã được chứng kiến hành động của người Đột Quyết trong thành Cổ Diệp, biết bọn chúng ra tay tàn nhẫn, nhưng tin tức lúc này vẫn khiến nàng ớn lạnh, mặt trắng bệch hẳn: “Vì sao bọn chúng lại cố chấp lây lan ôn dịch như thế?”
“Không phải cố chấp lây lan ôn dịch,” Phục Đình nói: “Mà là cố chấp muốn làm đất Bắc suy yếu.”
Tê Trì không khỏi nhìn chàng, sắc mặt dần giãn ra, trong lòng đã hiểu: “Ý chàng là, Đột Quyết không muốn đất Bắc có cơ hội khôi phục.”
Chàng gật đầu.
Phục Đình đã có kế hoạch giúp đất Bắc khôi phục từ lâu, rồi vì Tê Trì đến đây, chi rất nhiều khoản tiền nên đã đẩy kế hoạch tiến hành sớm hơn nhiều.
Bây giờ ngoài mặt nổi, các hộ mới khai hoang đã gieo trồng thành đồng ruộng phì nhiêu, Hồ tộc cũng có nhiều súc vật hơn, các thương hộ cũng đang hoạt động có trật tự, những hiệu buôn nhỏ và phân xưởng nhỏ ảnh hưởng bên lề đều đang hoạt động.
Nhưng những chuyện này đều cần có thời gian.
Đột Quyết liên tục phái mật thám xâm nhập, ắt sẽ không trơ mắt nhìn đất Bắc có chuyển biến tốt, bắt đầu từ chuyện ở thành Cổ Diệp, bọn chúng đã không kiềm chế nổi nữa rồi.
Có lẽ lúc bố trí chuyện ở thành Cổ Diệp, chúng đã bắt đầu phát tán ôn dịch.
“Hà cớ gì?”
Bỗng vang lên một câu nói nhỏ, Phục Đình vô thức nhìn nàng.
Tê Trì để chân trần ngồi bên mép giường, tóc xõa ra, hai tay chống về phía trước, miệng lẩm bẩm câu này, môi mở ra khép lại, sắc mặt trắng nhợt, nhưng in hằn trong đôi mắt là sự sắc bén, thậm chí là lạnh lẽo.
Lời nàng thốt ra chất chứa sự không cam lòng, sau khi đến đất Bắc nàng đã chi tiền hao tâm tổn trí rất nhiều, bởi vì muốn đất Bắc có thể phục hồi phát triển.
Đã dốc nhiều vốn liếng như thế, mà đột nhiên Đột Quyết lại đâm ngang.
Hà cớ gì? Hà cớ gì đất Bắc không thể đứng vững, vừa khởi sắc đã bị chèn ép.
Phục Đình không cần biết vì sao nàng lại nói thế, bởi dẫu sao cũng đã nói thay tiếng lòng chàng, sự kiêu ngạo trong chàng đã được câu nói này khơi ra, bỗng dưng bật cười: “Đúng thế, hà cớ gì.”
Tê Trì nhìn sang, chàng nhìn lại, ánh mắt hai người chạm nhau, không hiểu sao lại có cảm giác cùng chung mối thù.
Đuôi mắt nàng cong lên nhưng chẳng thể cười nổi, bởi cảm xúc ấy đã kéo nàng về lại thực tại, nàng cụp mắt xuống: “Nhưng mà, đã khiến bọn chúng đạt được ý đồ rồi.”
Phục Đình thuận theo tầm mắt nhìn xuống đôi chân trần của nàng, hai chân trắng nõn, ngón chân nhẹ nhàng di di trên thảm trải dưới sàn, chàng nhìn lướt qua rồi lại nhìn rồi lại dời mắt đi, bật cười rất khẽ: “Không dễ thế đâu.”
Tê Trì cảm nhận được sự chắc chắn trong giọng chàng, bèn ngẩng đầu: “Chẳng lẽ chàng có cách đối phó?”
Vừa nói xong thì nàng “a” lên một tiếng, bừng hiểu: “Những quan phủ thu mua dược liệu kia là làm theo lệnh của chàng?”
Phục Đình gật đầu: “Đã trải qua một lần rồi, sao có thể lại để chúng dễ dàng đạt được.”
Ngày trước sau khi đẩy lùi được Đột Quyết thì chàng đã có dặn, nếu còn xảy ra chuyện này thì quan phủ lập tức phong tỏa tin tức, tập trung chữa bệnh, không được để Đột Quyết nhân cơ hội.
Các châu đêm đó đưa tấu sớ tới đều đã thực hiện theo căn dặn của chàng.
Từ sau khi xảy ra ôn dịch, đất Bắc quản lý người qua lại rất nghiêm ngặt, muốn xuất cảnh buôn bán cần phải có chứng từ của phủ Đô hộ, trước khi vào Trung Nguyên cũng phải kiểm tra cẩn thận.
Những chuyện đó đều là nhờ đề phòng Đột Quyết ban cho.
Tê Trì bội phục sự lo xa của chàng, nhưng không vì thế mà cảm thấy thoải mái hơn, bởi những đối sách đó đều bị ép phải thực hiện.
Đúng lúc này có người gõ cửa.
Là Thu Sương và Thu Sương đến mời dùng bữa.
Phục Đình không nói nữa, đi tới mở cửa: “Vào đi.”
Hai người ở ngoài bưng cơm nước nóng, có lẽ không ngờ được cho phép đi vào nên ngạc nhiên nhìn nhau, sau đó nhún người tiến vào.
…
Lúc Thu Sương và Thu Sương hầu hạ Tê Trì rửa mặt, Phục Đình cũng ra sau bình phong thay y phục.
Nhân lúc Đại đô hộ không ở đây, Tân Lộ và Thu Sương cứ nhìn nhau hoài, một bụng đầy nghi vấn muốn hỏi gia chủ, nhưng Tê Trì chỉ lắc đầu, bảo bọn họ đừng nói gì cả.
Hiện tại nàng không có tâm trạng làm họ thêm bối rối.
Hai người đành kìm nén, lui ra.
Phục Đình thay quân phục, đang định bước ra thì nhìn thấy hình bóng lên bình phong, như cách một làn sương mù, hệt như những gì chàng đã thấy trong ánh trăng đêm qua.
Nhưng đêm qua chàng lại không muốn nhìn.
Cảm giác đau đớn đó đã hành hạ chàng một đêm, tuy không bằng những lần kinh tâm động phách ở bên ngoài thành Cổ Diệp, song vẫn khiến chàng sợ hãi.
Cứ như có thanh đao sắc bén gác lên cổ, không rõ sẽ bị cứa lúc nào, mà hơi lạnh thì cứ thấm bên cổ.
Đến giờ người vẫn ở bên cạnh chàng, tựa như mất đi có lại, còn chàng lại như đã trải qua thiên quân vạn mã.
Chàng không đi ra mà trái lại, dùng sức kéo bình phong sang một bên, bỏ đi lớp ngăn cách này.
Thế là Tê Trì đứng trước người chàng không che không đậy, lọt gọn vào tầm mắt chàng.
Nàng ngước mắt lên, như vừa hoàn hồn từ trong suy tư, một tay chống lên mép bình phong, nhìn chàng, do dự một lúc rồi vẫn nói ra suy nghĩ khiến nàng sợ hãi: “Lỡ như, thiếp nói là lỡ như, nếu thiếp bị nhiễm thật thì sao?”
Gương mặt Phục Đình bất giác bạnh ra, cảm giác đêm qua lại ùa về, chàng cúi đầu nhìn vào mắt nàng bảo: “Cũng không đến mức mất mạng.”
Tê Trì chớp mắt: “Tức là có thể chữa được?”
Chàng mấp máy môi: “Có thể, nếu không ta thu mua dược liệu làm gì.”
Nàng thở hắt ra: “Thế thì là chuyện tốt rồi, thấy chàng cẩn thận suốt một ngày một đêm như vậy, thiếp còn tưởng bệnh này không chữa được.”
Phục Đình nhìn vào đôi mắt sâu của nàng, từ trên mặt nàng chuyển xuống bụng nàng, giọng trầm hơn: “Đúng là có thể chữa, nhưng sẽ mất nửa cái mạng.”
Tê Trì giật thót, nhận ra điều gì đấy qua ánh mắt của chàng, cúi đầu xoa bụng dưới: “Ý là không bảo vệ được con?”
Chàng im lặng, tức là thừa nhận.
Chỉ riêng việc tìm ra cách chữa thôi cũng đã không biết bao nhiêu tính mạng đi tong.
Hôm qua lúc về chàng đã đưa ra dự tính xấu nhất.
Nếu nàng bị nhiễm thật, thì dù có thế nào cũng không bảo vệ được đứa bé này.
Dù phẫn nộ tới mức đạp bể chậu hoa, nhưng khi thật sự đi đến bước ấy, dù có tự tay loại bỏ thì cũng phải bảo vệ nàng cho bằng được.
Những chàng chỉ có thể tự mình gặm nhấm những suy nghĩ này, cho đến bây giờ khi đã qua rồi thì mới nói ra.
Tê Trì áp tay vào bụng dưới, nhớ đến một ngày một đêm chàng như đi trên lớp băng mỏng, thế là nhìn chàng: “Nếu như vậy thật, chàng có ra tay được không?”
Phục Đình giơ tay nắm lấy tay nàng, kéo nàng tới trước mặt: “Đương nhiên rồi! Không lẽ ta có thể mặc kệ sống chết của nàng vì một đứa trẻ chưa chào đời sao!”
Những ngón tay nắm bình phong của nàng run lên, lặng yên nhìn chàng.
Nếu không phải đã biết chàng còn uống rượu ăn mừng vì đứa bé đến, thì nàng đã ngỡ chàng là người độc ác.
Nhưng nàng biết chàng không phải là người như vậy.
Phục Đình buông nàng ra, chân động một bước, không muốn nhắc lại chuyện này nữa.
“Tam lang.” Bỗng Tê Trì gọi chàng.
Chàng dừng chân nhìn nàng, bình thường nàng gọi chàng như thế đều là những lúc dịu dàng nhất.
“Sao nào?”
Tê Trì buột miệng gọi, nhưng không muốn nói thêm về những chuyện còn chưa xảy ra, chỉ tổ thêm nặng nề, thế là mỉm cười đổi lời: “Chàng định giải quyết việc này thế nào?”
Phục Đình thấy nàng cười thì cũng thả lỏng: “Chỉ đành gấp rút trị liệu.”
Nàng khẽ gật đầu: “Trị liệu thì cần đại phu và dược liệu, cũng cần phải tiêu tiền.”
Chàng chớp mắt, đến gần nàng: “Nàng muốn nói gì?”
Tê Trì đảo mắt: “Thiếp muốn chi tiền hỗ trợ, nhưng sợ chàng không vui.”
Không đợi chàng lên tiếng, nàng đã ngước mắt lên, tay đặt lên bụng, nói: “Lần này Đột Quyết suýt đã hại thiếp, nên nói cho cùng, thiếp cũng chỉ đang tiêu tiền vì mình.”
Phục Đình buồn cười nhìn nàng, nói thì nàng cũng đã nói rồi, nhìn nàng như vậy, có lẽ là tính luôn cả phần của con.
Chàng có gì mà không vui, nàng cũng chẳng phải tiêu tiền cho quân đội của chàng, mà là tiêu vì bách tính, vì đất Bắc này.
Hơn nữa dù nàng bỏ ra bao nhiêu, sau này chàng sẽ trả tất.
Huống hồ bây giờ nàng còn có thể vui vẻ mà nói tiêu tiền, chàng cũng không có gì phải nói.
Tay chàng vỗ một cái lên bình phong, như đinh đóng cột: “Tiêu đi.”
Nàng muốn tiêu thì tiêu.
/100
|