Thời gian ở trong chùa khá chán, cũng chẳng có gì thay đổi.
Trong phòng giảng kinh, tiếng sư thầy trụ trì giảng kinh vừa chậm rãi vừa nhẹ nhàng.
Các hòa thượng ngồi yên trên đệm cói ở bên dưới, khung cảnh lặng như tờ.
Ở hàng đầu, Tê Trì nghiêm chỉnh ngồi quỳ nghe giảng kinh.
Giảng xong một tờ, trụ trì khép kinh thư lại, cung kính hỏi: “Không biết phu nhân nghe rồi thì có kiến giải gì không?”
Tê Trì không thực sự đến để nghe kinh, chỉ là để mình trông giống bình thường mà thôi, thậm chí vừa rồi ông ta giảng kinh văn cái gì nàng cũng chẳng nghe.
Nàng chắp tay trước ngực, trả ngược lại câu hỏi, nhỏ nhẹ nói: “Xin trụ trì chỉ giáo.”
Trụ trì niệm một tiếng rồi nói: “Phật giảng Tứ Đại Giai Không, lòng phải rộng rãi thì mới có thể siêu thoát trần thế.”
Tê Trì hỏi: “Vậy làm sao để đạt được Tứ Đại Giai Không, lòng phải rộng rãi?”
Trụ trì đáp: “Buông bỏ vướng bận thì có thể vô dục vô cầu.”
Tê Trì nghe thế thì không khỏi mỉm cười, trên đời này được mấy ai thực sự buông bỏ được vướng bận?
Chỉ nội việc nàng đến từ Quang Châu là đã đem theo phần vướng bận nặng nề nhất rồi.
Nàng nói: “Ta vừa có dục lại có cả cầu, nên ta chỉ là người mà không thành Phật được.”
Trụ trì bị chặn họng, hiềm nỗi đối phương là phu nhân Đại đô hộ cao quý nên cũng không thể lấy đạo lý Phật giáo ra thuyết phục được, ông đành chắp tay niệm một tiếng A di đà rồi không nói gì thêm.
Tân Lộ đứng cạnh cửa, ló mặt ra nhìn vào.
Tê Trì trông thấy thế thì đứng dậy, tạm biệt sư thầy rồi đi ra ngoài.
Ra khỏi phòng giảng kinh, nàng dẫn Tân Lộ đi vào đại hùng bảo điện.
Trong điện hương khói lượn lờ, hương khách không đông, có người đang quỳ lạy trước tượng Phật.
Thu Sương đang bái trên đệm cói bên cạnh, bái xong thì đứng dậy, rồi người bên cạnh cũng rời đi.
Đó là một chủ quản lý cửa tiệm dưới danh nghĩa của Tê Trì.
Thu Sương đi tới, thấp giọng thưa: “Gia chủ, La tướng quân lệnh trong cửa tiệm sắp xếp truyền văn thư khẩn cấp tám trăm dặm, dù chủ nhân có xa tít chân trời thì rồi cũng sẽ phải hồi âm.”
Tê Trì nghe thế, càng phát hiện Phục Đình quyết tâm muốn gặp nàng cho bằng được.
“Quan gia triệu kiến, là thương nhân thì không có lý do từ chối, huống hồ còn là An Bắc Đại đô hộ.” Nàng than thở.
Vẫn chưa biết được dụng ý của Phục Đình, nàng không thể tùy tiện tìm người thay thế được, ngộ nhỡ khéo quá hóa vụng thì lợi bất cập hại.
Trong lúc trầm tư thì La Tiểu Nghĩa đã đi vào điện.
Tê Trì thấy hắn thì lập tức nhìn ra sau, vô thức tìm Phục Đình nhưng không thấy chàng đâu.
Chỉ có mỗi hắn đi vào, trên người vẫn đang mặc áo giáp, đĩnh đạc bước vào Phật điện.
Không ngờ La Tiểu Nghĩa cũng đến tìm Phục Đình, vừa thấy nàng thì hỏi: “Tẩu tẩu, tam ca có tới đây không?”
Tê Trì lắc đầu, ngẫm nghĩ rồi nói: “Nếu cũng không có ở doanh trại thì chắc là về phủ rồi, đâu nhất thiết ngày nào chàng cũng ở trong chùa.”
“Sao có thể chứ,” La Tiểu Nghĩa bật cười: “Tẩu tẩu đã ở đây thì sao có chuyện tam ca không tới.”
Tê Trì mỉm cười trước câu chòng ghẹo, mắt lấp láy, cảm thấy hắn như đang nói Phục Đình cứ xoay xung quanh nàng vậy.
La Tiểu Nghĩa nhìn một vòng quanh điện, không để ý sắc mặt nàng, đi tới hai bước rồi nói: “Vậy ta về phủ tìm tam ca vậy, ở trong chùa không được uống rượu, cũng chẳng làm gì được.”
Tê Trì cảm thấy buồn cười: “Huynh phải biết tôn trọng chứ, ở trong chùa sao lại muốn uống rượu.”
“Tẩu tẩu nghĩ oan cho ta rồi, có phải lúc nào ta cũng chăm chăm uống rượu đâu.” Hắn nói, “Do thấy tháng Ba sắp qua, vậy mà vẫn chưa được nếm ngụm rượu sinh nhật.”
Nàng hỏi: “Rượu sinh nhật gì?”
La Tiểu Nghĩa nhìn nàng, bỗng vỗ trán: “Ây dà, đúng là tẩu tẩu chưa biết.”
Nàng lấy làm lạ: “Biết cái gì?”
La Tiểu Nghĩa duỗi tay ra, ra hiệu nàng qua bên nói chuyện.
Tân Lộ và Thu Sương lùi ra hai bước, đứng một bên chờ.
Tê Trì đi theo hắn, đứng cạnh tượng Phật: “Rốt cuộc là gì?”
La Tiểu Nghĩa cười cười rồi thần bí nói: “Tẩu tẩu không biết chứ, sinh nhật của tam ca là vào tháng Ba đấy.”
“Thật hả?”
La Tiểu Nghĩa thấy nàng không tin thì hỏi ngược lại: “Tẩu tẩu có nhớ biệt danh của tam ca là gì không?”
Biệt danh của Phục Đình…
“Tam lang.” Nàng nói.
Hồi trước chỉ nghe La Tiểu Nghĩa nói qua cái tên này một lần, nhưng nàng vẫn ghi nhớ.
“Đúng rồi.” La Tiểu Nghĩa gật đầu, “Sở dĩ tam ca có tên đó là vì huynh ấy sinh vào tháng Ba.”
Thì ra là vậy.
Một khắc trước Tê Trì còn đang suy nghĩ đối sách, nhưng bây giờ lại bị thông tin này làm cho bất ngờ.
“Là hôm nay hả?” Nàng hỏi.
La Tiểu Nghĩa xấu hổ cười: “Không phải, cha mẹ tam ca qua đời sớm, huynh ấy còn không để ý đến bản thân thì làm gì có chuyện nhớ được ngày sinh của mình. Chỉ là do ta tòng quân với huynh ấy đã mấy năm, nên mới biết được chuyện này, năm nào cũng ghi nhớ, tìm một ngày trong tháng Ba rủ huynh ấy đi uống rượu, coi như chúc mừng.”
Nói tới đây, chợt hai mắt hắn sáng lên, nhìn nàng nói: “Đúng rồi, năm nay tẩu tẩu đã tới, đáng lẽ phải do tẩu tẩu tổ chức chúc mừng cho tam ca mới phải!”
Tê Trì giật mình, không nói gì.
Là bởi không biết phải nói gì.
Theo lý mà nói, nàng vốn là thê tử thì nên hỏi tới mới phải, nhưng cuối cùng lại nhờ vào hắn nhắc nhở thì mới biết chuyện này.
La Tiểu Nghĩa tưởng nàng xấu hổ thì cười hai tiếng: “Vậy ta đi đây, không đi tìm tam ca nữa, việc này giao cho tẩu tẩu cả nhá.”
Hắn nhớ mấy năm qua bên cạnh tam ca không có ai, thân là huynh đệ thì chúc mừng nhau là điều nên, còn bây giờ dĩ nhiên để vợ chồng người ta ở riêng với nhau mới là tốt nhất.
Nói rồi hắn nhanh chóng lỉnh đi.
Tê Trì im lặng đứng tại chỗ, nhớ lại mấy ngày qua Phục Đình rất bình thường, nên làm chuyện gì thì làm chuyện đó, không để lộ chút dấu hiệu nào.
Nếu không phải bây giờ La Tiểu Nghĩa nhắc tới, thì ai mà biết tháng này lại là tháng sinh nhật của chàng.
Nàng quay đầu gọi Tân Lộ và Thu Sương vào, rồi cùng đi về phòng thiền ở đằng sau.
Thu Sương đi theo, tưởng gia chủ với La tướng quân nói chuyện lâu như thế thì có liên quan đến việc khó giải quyết trước mắt, nhưng bỗng dưng nghe thấy gia chủ hỏi: “Cần tặng quà gì để mừng sinh nhật một người?”
Thu Sương không khỏi nhìn Tân Lộ.
Tân Lộ phản ứng rất nhanh, cười nói: “Với tài chính của gia chủ thì muốn tặng gì cũng dễ thôi mà.”
Tê Trì nghĩ bụng, đúng là dễ, nhưng chưa chắc đã phù hợp, nếu không thì đã không hỏi rồi.
Nếu có thể khiến chàng bớt tập trung vào hiệu buôn của mình thì có tổ chức ba năm hôm cũng không đáng kể.
Nhưng đó là Phục Đình, rõ ràng là chuyện không thể.
***
Trời xẩm tối, Phục Đình buộc ngựa ở ngoài rồi đi vào cửa chùa.
Hương khách đã ra về, chúng tăng nhân vẫn còn đang trên khóa chiều, tiếng niệm kinh vang lên lanh lảnh.
Chàng đi thẳng đến phòng thiền.
Tới trước cửa, nhìn lướt qua phòng bên cạnh, phòng thiền sát vách khép kín.
Chàng tưởng Tê Trì đã đi nghỉ sớm, giơ tay đẩy cửa phòng mình ra, nhưng vừa bước vào thì thấp thoáng trông thấy bóng dáng người nữ.
Tê Trì mặc váy dài, lụa trắng khoác trên tay, nàng đang đứng bên cửa sổ khép cửa lại, sau đó quay sang nhìn.
“Hình như phòng của chàng nhỏ hơn phòng thiếp.” Nàng ngó nghiêng rồi nói.
Phòng thiền ở trong chùa dĩ nhiên sẽ thua xa phủ đô hộ, ngay tới đồ đạc trang trí cũng chẳng có, chỉ có một chiếc giường ở góc tường, cạnh cửa là một giá gỗ, thậm chí bàn nhỏ để ăn chay cũng là được mua chuẩn bị vì bọn họ tới đây.
Nàng cảm thấy, căn phòng của mình rộng rãi hơn căn phòng này nhiều.
Phục Đình cởi bội kiếm ra dựng ở cạnh cửa, ném roi ngựa xuống đất, nói: “Ta thấy cũng không khác gì nhau.”
Tê Trì vô tình cố ý hỏi: “Hôm nay vẫn bận chuyện của thương hộ kia à? Thiếp còn tưởng chàng sẽ không đến.”
Chàng nói: “Không chỉ thế, nhiều việc lắm.”
Bận rộn tới giờ này, tranh thủ trước khi cổng thành hạ xuống mới tới được đây.
Nàng không hỏi nữa.
Phục Đình nhìn nàng: “Sao nàng lại ở đây?”
Nàng đáp: “Tiểu Nghĩa tới tìm chàng, y nói tháng Ba sắp qua rồi.”
“Ờ.” Chàng không để tâm: “Thế thì sao?”
Nếu không phải La Tiểu Nghĩa nói rất nghiêm túc, thì lúc này thấy chàng nói nhẹ bẫng như vậy, Tê Trì rất nghi ngờ liệu có phải không hề có chuyện này hay không.
“Tiểu Nghĩa nói,” Nàng chậm rãi lên tiếng, nhìn thẳng vào mặt chàng: “Sinh nhật của chàng là vào tháng Ba.”
Ánh mắt Phục Đình dừng lại trên người nàng, khóe môi cong lên, cười nói: “Ta quên khuấy rồi.”
Tê Trì gật đầu: “Tiểu Nghĩa bảo, đến ngày sinh của mình là ngày nào chàng cũng không biết.”
Phục Đình đi tới trước chậu nước, vốc nước rửa mặt, giơ tay lau đi giọt nước trên mặt, lại sửa thẳng cổ áo quân phục, không lên tiếng.
Lúc cha mẹ qua đời thì chàng chỉ mới mười tuổi, ngày nhỏ nghèo khó nên không bao giờ tổ chức sinh nhật, về sau cũng không còn ai nói cho chàng biết, rồi nhiều năm qua đi, dần dà cũng không nhớ rõ.
Nàng dựa vào khung cửa, nói: “Tiếc thật, chàng là An Bắc Đại đô hộ, nếu năm nào cũng tổ chức sinh nhật thì riêng tiền biếu cũng đã không ít rồi.”
Chàng nghe thế thì nhìn nàng, suýt nữa đã bật cười: “Đất Bắc đã thành ra thế mà nàng còn bảo ta vơ vét của cải à.”
Đương nhiên Tê Trì biết chàng không làm chuyện đó, chỉ cố ý nói vậy thôi, nói xong thì mỉm cười, chuyển lời hỏi: “Qua sinh nhật thì năm nay chàng bao nhiêu tuổi?”
Chàng nhìn nàng, có vẻ thấy buồn cười: “Ta tưởng lúc thành hôn nàng đã biết rồi.”
Tê Trì chớp mắt, thánh nhân ban hôn nên thành hôn vội vàng chứ nàng không quá để ý, với cả lúc đó chỉ chú tâm vào chuyện của anh trai, nên đáp: “Không nhớ rõ lắm.”
Chàng nói: “Còn hai năm nữa là tới tuổi nhi lập*.”
(*Tuổi nhi lập hay tam thập nhi lập là chỉ tuổi 30.)
Nàng nghe vậy, đoán chàng cũng không nhớ được tuổi mình, bèn nhân cơ hội hỏi: “Thế chàng có biết thiếp mấy tuổi không?”
Phục Đình nghĩ nhanh rồi đáp: “Nhỏ hơn ta bốn tuổi.”
Lúc gặp nhau khi thành thân, chàng vẫn có ấn tượng.
Bọn họ thành thân lúc đã quá cái tuổi lập gia đình.
Vì đất Bắc nên chàng cũng chẳng rảnh để tâm tới hôn sự, bởi thế mới kéo dài nhiều năm.
Về phần Lý Tê Trì, chàng nghĩ, chắc vì từng có hôn ước với phủ Hà Lạc hầu nên không thể nghị hôn sớm.
Tê Trì không nói gì.
Không ngờ chàng lại biết chính xác như thế.
Tê Trì nhìn chàng, tự nhủ rất ít người có thể lên đến chức cao như vậy ở tuổi như chàng, mà người bình thường ở tuổi chàng thì đã có không dưới một đứa con.
Nàng không nghĩ nữa, duỗi tay chỉ vào bàn nhỏ, đổi đề tài: “Đây là chuẩn bị cho chàng.”
Phục Đình nhìn qua, trên bàn có một chiếc hộp gỗ sơn sặc sỡ.
“Gì thế?”
“Quà sinh nhật cho chàng.” Nàng nói.
Chàng chỉ nhìn lướt qua rồi bảo: “Ta chưa tổ chức sinh nhật bao giờ.”
Tê Trì đi tới sau bàn, ngồi quỳ xuống, đưa tay mở hộp ra: “Chàng không xem là gì à?”
Phục Đình nhìn nàng rồi tới gần, ngồi xuống đối diện nàng, nhìn vào hộp gỗ.
Trong hộp có đặt một chiếc bát, là một tô mì bốc hơi nghi ngút.
Chàng ngước lên nhìn nàng.
Tê Trì đón ánh mắt chàng, nói: “Thiếp biết chàng không muốn thiếp vung tiền phung phí cho chàng, mà trong chùa cũng chẳng có gì để tiêu, chỉ là một bát mì Trường Thọ, chẳng lẽ chỉ thế này mà chàng cũng không muốn nhận?”
Phục Đình mím môi, ánh mắt chuyển từ mặt nàng xuống bát mì, một lúc sau mới nói: “Nàng đặc biệt chuẩn bị?”
Tê Trì nghĩ đến việc phải nhờ La Tiểu Nghĩa nhắc nàng nên tổ chức cho chàng, hình như cũng không thể xem là chuẩn bị riêng được, thế là tránh nặng tìm nhẹ, nói khẽ: “Mì thì đúng là thiếp làm.”
Phục Đình nhìn xuống tay nàng, có thể đoán được đôi tay trắng muốt ấy chưa bao giờ dính nước.
Chàng mềm lòng, vươn tay cầm bát mì lên.
Tê Trì nhìn chàng cầm đũa, đầu cúi xuống, im lặng vớt mì đưa lên miệng.
Chàng ăn rất dứt khoát, không hề lề mề.
Mì Trường Thọ chỉ tượng trưng cho may mắn nên cũng chẳng cần nhiều, chỉ mấy đũa là đã ăn xong.
Tê Trì thấy chàng đặt bát đũa xuống, nhìn nét mặt chàng rồi thấp giọng hỏi: “Thế nào?”
Phục Đình mím môi, yết hầu giật giật, mặt bạnh ra, một lúc sau mới nói: “Mặn quá.”
Nàng nhíu mày: “Không thể nào.”
Rõ ràng là nàng làm theo Tân Lộ mà, nếu nói nàng cho nhiều muối quá thì cũng là cho theo Tân Lộ.
Trong chùa bần hàn không ăn nổi muối tinh, nàng còn dặn Thu Sương chuẩn bị riêng kia mà.
Nàng nhìn chiếc bát sạch bách, nói: “Nhưng chàng ăn hết còn gì.”
Nàng cảm thấy là chàng cố ý.
Ánh mắt Phục Đình chuyển sang mặt nàng, từ lông mày nàng nhìn xuống đôi môi.
Chàng chống một tay lên bàn, nghiêng người tới trước, trầm giọng nói: “Há miệng ra.”
“Hả?” Tê Trì nhìn chàng.
Tay chàng giữ cằm nàng, rồi bất thình lình cúi đầu xuống, mạnh mẽ chặn môi nàng lại.
Tê Trì ngẩn người, không ngờ chàng tự dưng hôn mình.
Thậm chí nàng còn suýt tưởng chàng sẽ không hôn mình.
Môi bị ép mở ra, nàng ngạc nhiên khi chạm phải lưỡi chàng, lại bị bàn tay chàng ấn mạnh vào sau gáy, thế là tiếp xúc thật.
Hai mắt chàng mở to nhìn mặt nàng, cọ xát môi nàng qua lại.
Nàng bị đôi mắt đen nhìn chăm chú khiến con tim rạo rực, thở không ra hơi.
Tới cuối cùng, Phục Đình ngậm mạnh môi nàng rồi mới buông ra: “Có mặn không?”
Nàng thở hổn hển trước mặt chàng, mím môi, gật đầu: “Mặn.”
Thực ra cũng không rõ lắm, hình như nếm được mà lại như chỉ quấn lấy lưỡi chàng.
Chàng nhìn mặt nàng, hầu kết di động lên xuống, chỉ muốn cười bản thân.
Đã cố ý không hôn nàng lâu đến thế, mà giờ lại thua trước một tô mì.
Bên ngoài có tiếng niệm Phật, hình như là một tiểu sa di trẻ tuổi hỏi: “Phu nhân đang ở đâu thế, có muốn dọn cơm chay chưa ạ?”
Tân Lộ đáp: “Để sau đi.”
Lúc này Tê Trì mới nhớ là đang ở trong chùa.
Nàng nhìn chàng rồi đứng lên: “Thiếp đi trước đây.”
Lúc nói vẫn còn thở gấp.
Phục Đình chỉ gật đầu mà không nói thêm.
Nàng nhấc váy đi ra cửa, đoạn dừng lại ngoái đầu nhìn chàng, khẽ gọi một câu thăm dò: “Tam lang?”
Phục Đình sững người, quay đầu nhìn: “Nàng gọi ta là gì?”
Nàng vuốt tóc ra sau tai, mấp máy đôi môi tê rần, mắt cụp xuống rồi lại ngước lên, nhìn thẳng vào chàng: “Thiếp không được gọi như vậy sao?”
Phục Đình nhìn nàng chăm chú, hầu kết lại động, gật đầu: “Được.”
Đương nhiên là được.
Đã nhiều năm rồi chưa có ai gọi lại cái tên này, lâu tới mức đến chính chàng cũng suýt quên.
Dường như ngoài nàng ra, trên đời này chẳng còn người nào đủ tư cách gọi như vậy cả.
Trong phòng giảng kinh, tiếng sư thầy trụ trì giảng kinh vừa chậm rãi vừa nhẹ nhàng.
Các hòa thượng ngồi yên trên đệm cói ở bên dưới, khung cảnh lặng như tờ.
Ở hàng đầu, Tê Trì nghiêm chỉnh ngồi quỳ nghe giảng kinh.
Giảng xong một tờ, trụ trì khép kinh thư lại, cung kính hỏi: “Không biết phu nhân nghe rồi thì có kiến giải gì không?”
Tê Trì không thực sự đến để nghe kinh, chỉ là để mình trông giống bình thường mà thôi, thậm chí vừa rồi ông ta giảng kinh văn cái gì nàng cũng chẳng nghe.
Nàng chắp tay trước ngực, trả ngược lại câu hỏi, nhỏ nhẹ nói: “Xin trụ trì chỉ giáo.”
Trụ trì niệm một tiếng rồi nói: “Phật giảng Tứ Đại Giai Không, lòng phải rộng rãi thì mới có thể siêu thoát trần thế.”
Tê Trì hỏi: “Vậy làm sao để đạt được Tứ Đại Giai Không, lòng phải rộng rãi?”
Trụ trì đáp: “Buông bỏ vướng bận thì có thể vô dục vô cầu.”
Tê Trì nghe thế thì không khỏi mỉm cười, trên đời này được mấy ai thực sự buông bỏ được vướng bận?
Chỉ nội việc nàng đến từ Quang Châu là đã đem theo phần vướng bận nặng nề nhất rồi.
Nàng nói: “Ta vừa có dục lại có cả cầu, nên ta chỉ là người mà không thành Phật được.”
Trụ trì bị chặn họng, hiềm nỗi đối phương là phu nhân Đại đô hộ cao quý nên cũng không thể lấy đạo lý Phật giáo ra thuyết phục được, ông đành chắp tay niệm một tiếng A di đà rồi không nói gì thêm.
Tân Lộ đứng cạnh cửa, ló mặt ra nhìn vào.
Tê Trì trông thấy thế thì đứng dậy, tạm biệt sư thầy rồi đi ra ngoài.
Ra khỏi phòng giảng kinh, nàng dẫn Tân Lộ đi vào đại hùng bảo điện.
Trong điện hương khói lượn lờ, hương khách không đông, có người đang quỳ lạy trước tượng Phật.
Thu Sương đang bái trên đệm cói bên cạnh, bái xong thì đứng dậy, rồi người bên cạnh cũng rời đi.
Đó là một chủ quản lý cửa tiệm dưới danh nghĩa của Tê Trì.
Thu Sương đi tới, thấp giọng thưa: “Gia chủ, La tướng quân lệnh trong cửa tiệm sắp xếp truyền văn thư khẩn cấp tám trăm dặm, dù chủ nhân có xa tít chân trời thì rồi cũng sẽ phải hồi âm.”
Tê Trì nghe thế, càng phát hiện Phục Đình quyết tâm muốn gặp nàng cho bằng được.
“Quan gia triệu kiến, là thương nhân thì không có lý do từ chối, huống hồ còn là An Bắc Đại đô hộ.” Nàng than thở.
Vẫn chưa biết được dụng ý của Phục Đình, nàng không thể tùy tiện tìm người thay thế được, ngộ nhỡ khéo quá hóa vụng thì lợi bất cập hại.
Trong lúc trầm tư thì La Tiểu Nghĩa đã đi vào điện.
Tê Trì thấy hắn thì lập tức nhìn ra sau, vô thức tìm Phục Đình nhưng không thấy chàng đâu.
Chỉ có mỗi hắn đi vào, trên người vẫn đang mặc áo giáp, đĩnh đạc bước vào Phật điện.
Không ngờ La Tiểu Nghĩa cũng đến tìm Phục Đình, vừa thấy nàng thì hỏi: “Tẩu tẩu, tam ca có tới đây không?”
Tê Trì lắc đầu, ngẫm nghĩ rồi nói: “Nếu cũng không có ở doanh trại thì chắc là về phủ rồi, đâu nhất thiết ngày nào chàng cũng ở trong chùa.”
“Sao có thể chứ,” La Tiểu Nghĩa bật cười: “Tẩu tẩu đã ở đây thì sao có chuyện tam ca không tới.”
Tê Trì mỉm cười trước câu chòng ghẹo, mắt lấp láy, cảm thấy hắn như đang nói Phục Đình cứ xoay xung quanh nàng vậy.
La Tiểu Nghĩa nhìn một vòng quanh điện, không để ý sắc mặt nàng, đi tới hai bước rồi nói: “Vậy ta về phủ tìm tam ca vậy, ở trong chùa không được uống rượu, cũng chẳng làm gì được.”
Tê Trì cảm thấy buồn cười: “Huynh phải biết tôn trọng chứ, ở trong chùa sao lại muốn uống rượu.”
“Tẩu tẩu nghĩ oan cho ta rồi, có phải lúc nào ta cũng chăm chăm uống rượu đâu.” Hắn nói, “Do thấy tháng Ba sắp qua, vậy mà vẫn chưa được nếm ngụm rượu sinh nhật.”
Nàng hỏi: “Rượu sinh nhật gì?”
La Tiểu Nghĩa nhìn nàng, bỗng vỗ trán: “Ây dà, đúng là tẩu tẩu chưa biết.”
Nàng lấy làm lạ: “Biết cái gì?”
La Tiểu Nghĩa duỗi tay ra, ra hiệu nàng qua bên nói chuyện.
Tân Lộ và Thu Sương lùi ra hai bước, đứng một bên chờ.
Tê Trì đi theo hắn, đứng cạnh tượng Phật: “Rốt cuộc là gì?”
La Tiểu Nghĩa cười cười rồi thần bí nói: “Tẩu tẩu không biết chứ, sinh nhật của tam ca là vào tháng Ba đấy.”
“Thật hả?”
La Tiểu Nghĩa thấy nàng không tin thì hỏi ngược lại: “Tẩu tẩu có nhớ biệt danh của tam ca là gì không?”
Biệt danh của Phục Đình…
“Tam lang.” Nàng nói.
Hồi trước chỉ nghe La Tiểu Nghĩa nói qua cái tên này một lần, nhưng nàng vẫn ghi nhớ.
“Đúng rồi.” La Tiểu Nghĩa gật đầu, “Sở dĩ tam ca có tên đó là vì huynh ấy sinh vào tháng Ba.”
Thì ra là vậy.
Một khắc trước Tê Trì còn đang suy nghĩ đối sách, nhưng bây giờ lại bị thông tin này làm cho bất ngờ.
“Là hôm nay hả?” Nàng hỏi.
La Tiểu Nghĩa xấu hổ cười: “Không phải, cha mẹ tam ca qua đời sớm, huynh ấy còn không để ý đến bản thân thì làm gì có chuyện nhớ được ngày sinh của mình. Chỉ là do ta tòng quân với huynh ấy đã mấy năm, nên mới biết được chuyện này, năm nào cũng ghi nhớ, tìm một ngày trong tháng Ba rủ huynh ấy đi uống rượu, coi như chúc mừng.”
Nói tới đây, chợt hai mắt hắn sáng lên, nhìn nàng nói: “Đúng rồi, năm nay tẩu tẩu đã tới, đáng lẽ phải do tẩu tẩu tổ chức chúc mừng cho tam ca mới phải!”
Tê Trì giật mình, không nói gì.
Là bởi không biết phải nói gì.
Theo lý mà nói, nàng vốn là thê tử thì nên hỏi tới mới phải, nhưng cuối cùng lại nhờ vào hắn nhắc nhở thì mới biết chuyện này.
La Tiểu Nghĩa tưởng nàng xấu hổ thì cười hai tiếng: “Vậy ta đi đây, không đi tìm tam ca nữa, việc này giao cho tẩu tẩu cả nhá.”
Hắn nhớ mấy năm qua bên cạnh tam ca không có ai, thân là huynh đệ thì chúc mừng nhau là điều nên, còn bây giờ dĩ nhiên để vợ chồng người ta ở riêng với nhau mới là tốt nhất.
Nói rồi hắn nhanh chóng lỉnh đi.
Tê Trì im lặng đứng tại chỗ, nhớ lại mấy ngày qua Phục Đình rất bình thường, nên làm chuyện gì thì làm chuyện đó, không để lộ chút dấu hiệu nào.
Nếu không phải bây giờ La Tiểu Nghĩa nhắc tới, thì ai mà biết tháng này lại là tháng sinh nhật của chàng.
Nàng quay đầu gọi Tân Lộ và Thu Sương vào, rồi cùng đi về phòng thiền ở đằng sau.
Thu Sương đi theo, tưởng gia chủ với La tướng quân nói chuyện lâu như thế thì có liên quan đến việc khó giải quyết trước mắt, nhưng bỗng dưng nghe thấy gia chủ hỏi: “Cần tặng quà gì để mừng sinh nhật một người?”
Thu Sương không khỏi nhìn Tân Lộ.
Tân Lộ phản ứng rất nhanh, cười nói: “Với tài chính của gia chủ thì muốn tặng gì cũng dễ thôi mà.”
Tê Trì nghĩ bụng, đúng là dễ, nhưng chưa chắc đã phù hợp, nếu không thì đã không hỏi rồi.
Nếu có thể khiến chàng bớt tập trung vào hiệu buôn của mình thì có tổ chức ba năm hôm cũng không đáng kể.
Nhưng đó là Phục Đình, rõ ràng là chuyện không thể.
***
Trời xẩm tối, Phục Đình buộc ngựa ở ngoài rồi đi vào cửa chùa.
Hương khách đã ra về, chúng tăng nhân vẫn còn đang trên khóa chiều, tiếng niệm kinh vang lên lanh lảnh.
Chàng đi thẳng đến phòng thiền.
Tới trước cửa, nhìn lướt qua phòng bên cạnh, phòng thiền sát vách khép kín.
Chàng tưởng Tê Trì đã đi nghỉ sớm, giơ tay đẩy cửa phòng mình ra, nhưng vừa bước vào thì thấp thoáng trông thấy bóng dáng người nữ.
Tê Trì mặc váy dài, lụa trắng khoác trên tay, nàng đang đứng bên cửa sổ khép cửa lại, sau đó quay sang nhìn.
“Hình như phòng của chàng nhỏ hơn phòng thiếp.” Nàng ngó nghiêng rồi nói.
Phòng thiền ở trong chùa dĩ nhiên sẽ thua xa phủ đô hộ, ngay tới đồ đạc trang trí cũng chẳng có, chỉ có một chiếc giường ở góc tường, cạnh cửa là một giá gỗ, thậm chí bàn nhỏ để ăn chay cũng là được mua chuẩn bị vì bọn họ tới đây.
Nàng cảm thấy, căn phòng của mình rộng rãi hơn căn phòng này nhiều.
Phục Đình cởi bội kiếm ra dựng ở cạnh cửa, ném roi ngựa xuống đất, nói: “Ta thấy cũng không khác gì nhau.”
Tê Trì vô tình cố ý hỏi: “Hôm nay vẫn bận chuyện của thương hộ kia à? Thiếp còn tưởng chàng sẽ không đến.”
Chàng nói: “Không chỉ thế, nhiều việc lắm.”
Bận rộn tới giờ này, tranh thủ trước khi cổng thành hạ xuống mới tới được đây.
Nàng không hỏi nữa.
Phục Đình nhìn nàng: “Sao nàng lại ở đây?”
Nàng đáp: “Tiểu Nghĩa tới tìm chàng, y nói tháng Ba sắp qua rồi.”
“Ờ.” Chàng không để tâm: “Thế thì sao?”
Nếu không phải La Tiểu Nghĩa nói rất nghiêm túc, thì lúc này thấy chàng nói nhẹ bẫng như vậy, Tê Trì rất nghi ngờ liệu có phải không hề có chuyện này hay không.
“Tiểu Nghĩa nói,” Nàng chậm rãi lên tiếng, nhìn thẳng vào mặt chàng: “Sinh nhật của chàng là vào tháng Ba.”
Ánh mắt Phục Đình dừng lại trên người nàng, khóe môi cong lên, cười nói: “Ta quên khuấy rồi.”
Tê Trì gật đầu: “Tiểu Nghĩa bảo, đến ngày sinh của mình là ngày nào chàng cũng không biết.”
Phục Đình đi tới trước chậu nước, vốc nước rửa mặt, giơ tay lau đi giọt nước trên mặt, lại sửa thẳng cổ áo quân phục, không lên tiếng.
Lúc cha mẹ qua đời thì chàng chỉ mới mười tuổi, ngày nhỏ nghèo khó nên không bao giờ tổ chức sinh nhật, về sau cũng không còn ai nói cho chàng biết, rồi nhiều năm qua đi, dần dà cũng không nhớ rõ.
Nàng dựa vào khung cửa, nói: “Tiếc thật, chàng là An Bắc Đại đô hộ, nếu năm nào cũng tổ chức sinh nhật thì riêng tiền biếu cũng đã không ít rồi.”
Chàng nghe thế thì nhìn nàng, suýt nữa đã bật cười: “Đất Bắc đã thành ra thế mà nàng còn bảo ta vơ vét của cải à.”
Đương nhiên Tê Trì biết chàng không làm chuyện đó, chỉ cố ý nói vậy thôi, nói xong thì mỉm cười, chuyển lời hỏi: “Qua sinh nhật thì năm nay chàng bao nhiêu tuổi?”
Chàng nhìn nàng, có vẻ thấy buồn cười: “Ta tưởng lúc thành hôn nàng đã biết rồi.”
Tê Trì chớp mắt, thánh nhân ban hôn nên thành hôn vội vàng chứ nàng không quá để ý, với cả lúc đó chỉ chú tâm vào chuyện của anh trai, nên đáp: “Không nhớ rõ lắm.”
Chàng nói: “Còn hai năm nữa là tới tuổi nhi lập*.”
(*Tuổi nhi lập hay tam thập nhi lập là chỉ tuổi 30.)
Nàng nghe vậy, đoán chàng cũng không nhớ được tuổi mình, bèn nhân cơ hội hỏi: “Thế chàng có biết thiếp mấy tuổi không?”
Phục Đình nghĩ nhanh rồi đáp: “Nhỏ hơn ta bốn tuổi.”
Lúc gặp nhau khi thành thân, chàng vẫn có ấn tượng.
Bọn họ thành thân lúc đã quá cái tuổi lập gia đình.
Vì đất Bắc nên chàng cũng chẳng rảnh để tâm tới hôn sự, bởi thế mới kéo dài nhiều năm.
Về phần Lý Tê Trì, chàng nghĩ, chắc vì từng có hôn ước với phủ Hà Lạc hầu nên không thể nghị hôn sớm.
Tê Trì không nói gì.
Không ngờ chàng lại biết chính xác như thế.
Tê Trì nhìn chàng, tự nhủ rất ít người có thể lên đến chức cao như vậy ở tuổi như chàng, mà người bình thường ở tuổi chàng thì đã có không dưới một đứa con.
Nàng không nghĩ nữa, duỗi tay chỉ vào bàn nhỏ, đổi đề tài: “Đây là chuẩn bị cho chàng.”
Phục Đình nhìn qua, trên bàn có một chiếc hộp gỗ sơn sặc sỡ.
“Gì thế?”
“Quà sinh nhật cho chàng.” Nàng nói.
Chàng chỉ nhìn lướt qua rồi bảo: “Ta chưa tổ chức sinh nhật bao giờ.”
Tê Trì đi tới sau bàn, ngồi quỳ xuống, đưa tay mở hộp ra: “Chàng không xem là gì à?”
Phục Đình nhìn nàng rồi tới gần, ngồi xuống đối diện nàng, nhìn vào hộp gỗ.
Trong hộp có đặt một chiếc bát, là một tô mì bốc hơi nghi ngút.
Chàng ngước lên nhìn nàng.
Tê Trì đón ánh mắt chàng, nói: “Thiếp biết chàng không muốn thiếp vung tiền phung phí cho chàng, mà trong chùa cũng chẳng có gì để tiêu, chỉ là một bát mì Trường Thọ, chẳng lẽ chỉ thế này mà chàng cũng không muốn nhận?”
Phục Đình mím môi, ánh mắt chuyển từ mặt nàng xuống bát mì, một lúc sau mới nói: “Nàng đặc biệt chuẩn bị?”
Tê Trì nghĩ đến việc phải nhờ La Tiểu Nghĩa nhắc nàng nên tổ chức cho chàng, hình như cũng không thể xem là chuẩn bị riêng được, thế là tránh nặng tìm nhẹ, nói khẽ: “Mì thì đúng là thiếp làm.”
Phục Đình nhìn xuống tay nàng, có thể đoán được đôi tay trắng muốt ấy chưa bao giờ dính nước.
Chàng mềm lòng, vươn tay cầm bát mì lên.
Tê Trì nhìn chàng cầm đũa, đầu cúi xuống, im lặng vớt mì đưa lên miệng.
Chàng ăn rất dứt khoát, không hề lề mề.
Mì Trường Thọ chỉ tượng trưng cho may mắn nên cũng chẳng cần nhiều, chỉ mấy đũa là đã ăn xong.
Tê Trì thấy chàng đặt bát đũa xuống, nhìn nét mặt chàng rồi thấp giọng hỏi: “Thế nào?”
Phục Đình mím môi, yết hầu giật giật, mặt bạnh ra, một lúc sau mới nói: “Mặn quá.”
Nàng nhíu mày: “Không thể nào.”
Rõ ràng là nàng làm theo Tân Lộ mà, nếu nói nàng cho nhiều muối quá thì cũng là cho theo Tân Lộ.
Trong chùa bần hàn không ăn nổi muối tinh, nàng còn dặn Thu Sương chuẩn bị riêng kia mà.
Nàng nhìn chiếc bát sạch bách, nói: “Nhưng chàng ăn hết còn gì.”
Nàng cảm thấy là chàng cố ý.
Ánh mắt Phục Đình chuyển sang mặt nàng, từ lông mày nàng nhìn xuống đôi môi.
Chàng chống một tay lên bàn, nghiêng người tới trước, trầm giọng nói: “Há miệng ra.”
“Hả?” Tê Trì nhìn chàng.
Tay chàng giữ cằm nàng, rồi bất thình lình cúi đầu xuống, mạnh mẽ chặn môi nàng lại.
Tê Trì ngẩn người, không ngờ chàng tự dưng hôn mình.
Thậm chí nàng còn suýt tưởng chàng sẽ không hôn mình.
Môi bị ép mở ra, nàng ngạc nhiên khi chạm phải lưỡi chàng, lại bị bàn tay chàng ấn mạnh vào sau gáy, thế là tiếp xúc thật.
Hai mắt chàng mở to nhìn mặt nàng, cọ xát môi nàng qua lại.
Nàng bị đôi mắt đen nhìn chăm chú khiến con tim rạo rực, thở không ra hơi.
Tới cuối cùng, Phục Đình ngậm mạnh môi nàng rồi mới buông ra: “Có mặn không?”
Nàng thở hổn hển trước mặt chàng, mím môi, gật đầu: “Mặn.”
Thực ra cũng không rõ lắm, hình như nếm được mà lại như chỉ quấn lấy lưỡi chàng.
Chàng nhìn mặt nàng, hầu kết di động lên xuống, chỉ muốn cười bản thân.
Đã cố ý không hôn nàng lâu đến thế, mà giờ lại thua trước một tô mì.
Bên ngoài có tiếng niệm Phật, hình như là một tiểu sa di trẻ tuổi hỏi: “Phu nhân đang ở đâu thế, có muốn dọn cơm chay chưa ạ?”
Tân Lộ đáp: “Để sau đi.”
Lúc này Tê Trì mới nhớ là đang ở trong chùa.
Nàng nhìn chàng rồi đứng lên: “Thiếp đi trước đây.”
Lúc nói vẫn còn thở gấp.
Phục Đình chỉ gật đầu mà không nói thêm.
Nàng nhấc váy đi ra cửa, đoạn dừng lại ngoái đầu nhìn chàng, khẽ gọi một câu thăm dò: “Tam lang?”
Phục Đình sững người, quay đầu nhìn: “Nàng gọi ta là gì?”
Nàng vuốt tóc ra sau tai, mấp máy đôi môi tê rần, mắt cụp xuống rồi lại ngước lên, nhìn thẳng vào chàng: “Thiếp không được gọi như vậy sao?”
Phục Đình nhìn nàng chăm chú, hầu kết lại động, gật đầu: “Được.”
Đương nhiên là được.
Đã nhiều năm rồi chưa có ai gọi lại cái tên này, lâu tới mức đến chính chàng cũng suýt quên.
Dường như ngoài nàng ra, trên đời này chẳng còn người nào đủ tư cách gọi như vậy cả.
/100
|