Ngân Hà Rực Rỡ
Lộ Dao lo lắng mình ngủ quên quả thật có hơi dư thừa, bởi vì ngay cả ngồi một chút cũng không có thời gian. Đến nửa đêm, quả nhiên đứa nhỏ sốt càng lúc càng cao, mặt mày đỏ rực, môi lại trắng bệch. Mới đầu mạch đập tuy không mạnh nhưng còn bắt được, đến canh ba mạch cứ thế yếu dần yếu dần. Cứ cách một khắc Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc lại thay nhau dùng rượu lau người cho nó, Lộ Dao thì liên tục châm cứu, hi vọng nhờ đó khống chế được ngoại thương gây ra sốt cao.
Ân Lê Đình đề nghị để bọn họ dùng nội công giúp đứa nhỏ trị thương, Lộ Dao lắc đầu. Sốt cao kiểu này không giống do bị cảm, chẳng ăn nhập gì với nội lực, ngoài dùng thuốc, dao mổ ra, chỉ trông chờ vào ý chí của bản thân, gần như không còn biện pháp nào khác. Hơn nữa đứa bé này hiện giờ rất yếu, cũng không luyện qua công phu, sợ không chịu được nội lực đập vào kinh mạch. Giữa chừng Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu lần lượt đến một lúc, thấy tình hình như thế cũng bó tay, chỉ mong đứa nhỏ này cát nhân thiên tướng.
Lộ Dao không tin trời, xưa nay nàng chữa bệnh luôn cố hết sức mình, làm hết sức rồi cũng không thể dựa vào trời, vì thế cả một đêm phương thuốc đổi tới ba lần, đạo đồng sắc thuốc cùng không chịu nổi ngủ gục, cuối cùng bất đắc dĩ phải để Mạc Thanh Cốc sắc thay. Đến bình minh, vẫn không thấy hạ sốt, mạch càng lúc càng yếu, cơ hồ không dò được. Lộ Dao châm cứu xong lần nữa, cầm bút than trên bàn lên muốn viết nhưng nhấc bút hồi lâu vẫn chưa hạ xuống chữ nào, cuối cùng nhịn không được cào cào mớ tóc hơi rối, tông cửa chạy ra ngoài.
Ân Lê Đình đắp chăn cẩn thận cho đứa nhỏ xong chạy ra theo, chỉ thấy Lộ Dao ngồi dưới mái hiên, một tay gãi mớ tóc buông trên trán, lông mày nhăn tít. Dưới ánh nắng mai, khuôn mặt cả đêm chưa ngủ có phần tái nhợt, thần sắc do dự không quyết. Ân Lê Đình biết nàng lại đắn đo dùng thuốc như thế nào, cũng không quấy nhiễu, lặng lẽ ngồi bên cạnh.
Hồi lâu, Lộ Dao ngẩng đầu, ánh mắt hơi phân vân nhìn Ân Lê Đình, dường như vẫn đang do dự gì đó. Ân Lê Đình thấy vẻ mặt nàng, cho nàng một nụ cười an ủi, ánh mắt ấm áp mà yên lòng.
Lúc trước, Lộ Dao đáp ứng chữa bệnh cho Du Đại Nham. Thời gian này Du Đại Nham mỗi ngày mỗi khá lên, sư huynh đệ bọn họ đều nhìn thấy hết. Ở chung hơn một tháng này, mọi người đều nói Lộ Dao y thuật cao minh, hơn nữa tính tình cởi mở phóng khoáng, ưa đùa giỡn. Mãi đến khi gặp chuyện hôm nay, chàng mới phát hiện, Lộ Dao làm một thầy thuốc, cực kỳ nghiêm túc trân trọng sinh mạng là chuyện bọn họ chưa từng chứng kiến. Trong tình cảnh lính Nguyên bao vây như thế vẫn kiên trì chữa trị cho xong, công lực đao thương múa may trước mặt mà không chớp mắt thế này dường như không thể chỉ dùng cái gọi là lương tâm thầy thuốc để giải thích mà đó là một chấp niệm khác thường. Lộ Dao nhìn Ân Lê Đình, ánh nắng vàng tươi buổi sáng chiếu trên khuôn mặt tuấn tú còn sót chút non nớt của chàng, ánh mắt trong sáng lạ thường, tựa như gió mát trong núi làm Lộ Dao có cảm giác tâm can dễ chịu.
Nàng thở dài, giọng nói hơi khàn do mệt mỏi cả đêm, nói nhỏ cứ như đang lẩm bẩm một mình: “Còn một phương thuốc nữa, có lẽ có tác dụng. Nhưng dùng thuốc rất nặng, có thể nói là hung ác, sợ đứa nhỏ đó không chịu nổi. Phương thuốc này dùng hay không dùng, sợ là đều mất một mạng.”
Ân Lê Đình đã hiểu nguyên nhân nàng rối rắm, khẽ vỗ cánh tay nàng nói: “Muội là đại phu, không phải thần tiên.”
Lộ Dao giật mình nhìn chàng, đột nhiên nhớ ra trước đây rất lâu, lâu lắm lâu lắm rồi. Một cô gái trẻ mặc blouse trắng, đặt tay trước ngực, đứng trong đại sảnh gần trăm năm tuổi lập lời thề từng câu từng câu một. Lời thề rất dài nhưng trong đó có một câu: “Nhớ kỹ, bạn là bác sĩ nhưng không phải thượng đế.” Mãi đến nay, lý giải của nàng đối với câu nói đó là, bệnh nhân bất kể tốt xấu, là một bác sĩ trong lúc chữa bệnh cứu người nàng không nên đối đãi khác biệt. Nhưng trải qua thế sự xoay vần, việc hôm nay hình như đã ép nàng phải lý giải theo một góc độ khác. Chớp chớp mắt, cúi đầu trầm tư nửa ngày, đột ngột đứng dậy đi vào phòng. Ân Lê Đình tưởng nàng muốn viết phương thuốc, nào ngờ nàng cầm kim châm, đâm liền mấy đại huyệt của đứa nhỏ, nói với Ân Lê Đình theo vào: “Ta tự đi phòng thuốc bốc thuốc rồi sắc, huynh canh chừng nó dùm ta, nếu đột nhiên có tình trạng gì bất thường thì kêu ta.”
Ân Lê Đình gật đầu đáp ứng, thấy Lộ Dao thi triển khinh công chạy đi.
Đợi đến lúc mặt trời hoàn toàn lên cao, Lộ Dao mới bê bát thuốc đã sắc xong về phòng.
Lúc này Mạc Thanh Cốc đang ngồi trên ghế tĩnh tọa, Ân Lê Đình ngồi cạnh giường nhìn đứa bé.
“Giúp ta đỡ nó dậy.” Lộ Dao thì thào.
Ân Lê Đình làm theo lời nàng. Lộ Dao dùng muỗng khuấy nhẹ một lát, đút từng muỗng thuốc nàng tự tay sắc cho nó. Thấy bát thuốc vơi dần đến đáy. Lộ Dao âm thầm hi vọng. Từ khi nàng lên núi Ân Lê Đình chưa thấy nàng sắc thuốc bao giờ. Mỗi lần sai Mạc Thanh Cốc sắc thuốc cho Du Đại Nham, nàng luôn nói nửa thật nửa đùa, nàng là một thần y mà phải đi sắc thuốc thì quá lãng phí tài nguyên. Lần này nàng tự tay sắc thuốc chắc hẳn đặc biệt thận trọng.
Đút hết bát thuốc, Lộ Dao dùng kim châm bảo vệ tâm mạch đứa nhỏ. Hai người mạnh ai nấy dựa vào chân giường mà ngồi. Nắng sáng chiếu qua cửa sổ vào phòng, nhuộm cả gian phòng thành một màu vàng rực. Lộ Dao nhìn chằm chằm khung cửa sổ, đột nhiên rất muốn nói gì đó, thì thầm khe khẽ: “Lúc trước khi ta học y, sư phụ có nói với chúng ta: các con là đại phu, không phải thần tiên. Nhưng ta luôn cảm thấy, nếu y thuật đủ cao minh, bệnh nhân nào đụng đến ta thì mạng sẽ không mất. Ta cũng từng có một sư huynh, cực kỳ có thiên phú. Nhưng huynh ấy làm hai năm thì bỏ nghề thầy thuốc. Lúc đó rất nhiều người kinh ngạc, không rõ vì sao huynh ấy lại buông tha cho tiền đồ gấm vóc. Lúc đó huynh ấy có tâm sự riêng với ta và Thu Nhiên, huynh ấy căm ghét cảm giác bất lực khi chữa không hết bệnh, cứu không được sinh mạng. Sau này ta mới biết, vị hôn thê thanh mai trúc mã mười lăm năm của huynh ấy chết trên bàn mổ trong tay huynh ấy. Huynh ấy dốc hết sức lực, đến cuối cùng vẫn không cứu được người mình yêu nhất.”
Ân Lê Đình thấy thương cảm trong lòng. Xưa nay tâm địa chàng luôn mềm yếu, chuyện cũ này khiến Lộ Dao thì thầm kể như thế, làm chàng có cảm giác không nói nên lời, vừa chua xót vừa khổ sở.
“Nhưng càng khiến chúng ta kinh ngạc hơn là, nửa năm sau, một trận động đất khủng khiếp dẫn tới thương vong vô số. Tất cả đại phu chúng ta đều đến nơi thiên tai cứu chữa người bệnh. Lúc đó sư huynh trở về y quán, cùng đi với chúng ta. Ta lấy làm lạ, bởi vì lúc huynh ấy từ bỏ công việc rất kiên quyết, ta muốn hỏi huynh ấy vì sao. Ai ngờ còn chưa kịp hỏi, ở nơi bị thiên tai đó, sư huynh gặp tai nạn ngoài ý muốn, bị một cái xà nhà từ trên cao rơi xuống đè trúng, làm vỡ lá lách, không cấp cứu được, ngày hôm đó hi sinh vì nhiệm vụ, Ta nhớ một khắc trước khi huynh ấy chết, nắm lấy tay ta, không nói bất cứ điều gì nhưng ánh mắt huynh ấy đến giờ ta vẫn còn nhớ, đó là một loại giải thoát.”
Ân Lê Đình không ngờ câu chuyện lại ngoặt sang một bước như thế, nữa ngày mới thì thầm: “Có lẽ sư huynh của muội cảm thấy chết có ý nghĩa.”
Lộ Dao lại lắc đầu, “Ta luôn cảm thấy không đơn giản như vậy. Sư huynh tuyệt đối không phải người nhiệt huyết mà rất lý trí, rất bình tĩnh. Thật ra, đại phu không cao thượng cứu sống, chữa thương cho người bệnh như mọi người nghĩ đâu, giữa bản thân và người khác, chúng ta đều chọn bản thân. Ta không phải sư huynh, không cách nào hiểu được huynh ấy nghĩ gì. Chỉ là người cầm tay dạy mình lúc đầu lại đi ngay trên bàn giải phẫu của mình, thế nên mãi đến bây giờ ta vẫn nhớ mãi chuyện này.”
Ân Lê Đình hiểu ra, vỗ vai nàng, nói khẽ: “Nói như thế, muội đã tận lực rồi, không cần canh cánh trong lòng. Đạo gia nói, sinh tử tất cả đều là lẽ tự nhiên, không phải sức người có thể xoay chuyển.”
Lộ Dao ngạc nhiên ngước lên: “Lời như thế, sư huynh kia cũng từng nói với ta, lúc đầu huynh ấy học y chỉ vì có thể tận lực, không phải vì định sinh tử.”
“Vậy muội thì sao Lộ Dao? Muội học y vì cái gì? Cứu chữa người bệnh?” Ân Lê Đình không nhịn được thốt lên.
Lộ Dao nghe đến vấn đề này, ngược lại mỉm cười, dường như trong đó có chỗ khó nói, “Tất nhiên là vì vậy rồi. Có điều sự việc rất phức tạp, khẳng định không phải mấy chữ cứu chữa người bệnh là nói được hết. Đợi hôm nào đó ta nghĩ thông sẽ kể cho huynh nghe.
Ân Lê Đình gật đầu, dịu dàng nói: “Được, ta chờ đến lúc đó.”
Không biết do hai người trò chuyện hay do nắng chiếu vào phòng, không khí u ám căng thẳng trong phòng cả đêm qua giờ thoáng đãng hơn rất nhiều. Lộ Dao thấy Mạc Thanh Cốc tĩnh tọa, biết sư huynh đệ bọn họ thường tĩnh tọa điều khí xem như nghỉ ngơi bèn hỏi Ân Lê Đình: “Huynh có cần nghỉ một chút không?”
Ân Lê Đình cười nói: “Ta không sao cả, nên nghỉ phải là muội chứ?”
Lộ Dao ngáp một cái: “Thật ra ta cũng còn ổn, lúc trước cũng từng chống chọi qua không ít đêm, lần này có hai người các huynh thức cùng, nhẹ nhàng hơn nhiều.” Đang nói, bụng lại kêu rột rột.
Ân Lê Đình nghe thấy càng buồn cười, Lộ Dao dỗi nói: “Cười gì chứ? Còn không mau đi lấy đồ cho bổn cô nương ăn!”
Ân Lê Đình ừ một tiếng, đẩy cửa đi ra. Đợi đến khi Ân Lê Đình bưng đồ ăn sáng về, Lộ Dao đang châm cứu cho đứa bé. Mạc Thanh Cốc đã dậy rồi, thấy chàng vào liền nói nhỏ: “Lục ca, đứa bé ấy bớt sốt rồi.”
Ân Lê Đình mừng rỡ, thấy Lộ Dao đứng dậy liền hỏi: “Lộ Dao, thuốc có công hiệu rồi đúng không?”
Lộ Dao gật đầu: “May mắn vô cùng, sức khỏe đứa bé này không tệ, ý chí sinh tồn rất mạnh, thuốc này chống được rồi, hôm nay tất hạ sốt, tính mạng không còn đáng lo nữa.”
Mọi người đều mừng rỡ. Lộ Dao chịu đựng một đêm, lúc này cảm giác đói bụng mỏi mệt kinh khủng, ăn như gió cuốn mây bay làm Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc sửng sốt. Ân Lê Đình biết trước giờ Lộ Dao ăn không ít, hơn nữa còn ăn rất nhanh, có điều nhanh thế này thì lần đầu tiên trông thấy. Còn như Mạc Thanh Cốc hoàn toàn bị tướng ăn của Lộ Dao hù dọa. Lộ Dao lườm hai người một cái, vẫn ăn hết sức hưng phấn.
Ân Lê Đình nhìn Lộ Dao, đầu tóc hơi rối, một đêm không ngủ làm sắc mặt hơi tái, lại thêm tướng ăn nữa, vốn hẳn là rất khó coi. Nhưng lúc này chàng lại cảm thấy, mái tóc hơi rối buông trên trán và bên tai cùng với khuôn mặt tái nhợt có nét ý vị riêng, dáng vẻ ăn cơm kia càng thêm đáng yêu. Đột nhiên ý thức được mình vừa nghĩ gì, mặt Ân Lê Đình nóng ran, tai ù hết lên. Sợ bị hai người kia thấy, chàng vội vàng cúi đầu, tiếp tục ăn đồ ăn trong chén, che đi vành tai nóng rực.
Mạc Thanh Cốc nhìn người này, ngó người kia, lại nhìn bánh bao trong chén mình, không khỏi rầu rĩ: không thấy đồ ăn hôm nay có gì đặc biệt, sao cả hai người này cứ như ba bữa rồi chưa được ăn thế này…
Đến giữa trưa, đứa nhỏ quả nhiên hạ sốt như lời Lộ Dao nói. Lộ Dao châm cứu lần cuối, lại viết phương thuốc giao cho đạo đồng, dặn cứ cách bốn canh giờ thì đút thuốc một lần. Chào hai người Ân Mạc xong, loạng choạng đi về phòng mình, kêu người lấy nước tắm rửa, vừa đặt mình xuống giường là ngủ thiếp đi.
Lộ Dao lo lắng mình ngủ quên quả thật có hơi dư thừa, bởi vì ngay cả ngồi một chút cũng không có thời gian. Đến nửa đêm, quả nhiên đứa nhỏ sốt càng lúc càng cao, mặt mày đỏ rực, môi lại trắng bệch. Mới đầu mạch đập tuy không mạnh nhưng còn bắt được, đến canh ba mạch cứ thế yếu dần yếu dần. Cứ cách một khắc Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc lại thay nhau dùng rượu lau người cho nó, Lộ Dao thì liên tục châm cứu, hi vọng nhờ đó khống chế được ngoại thương gây ra sốt cao.
Ân Lê Đình đề nghị để bọn họ dùng nội công giúp đứa nhỏ trị thương, Lộ Dao lắc đầu. Sốt cao kiểu này không giống do bị cảm, chẳng ăn nhập gì với nội lực, ngoài dùng thuốc, dao mổ ra, chỉ trông chờ vào ý chí của bản thân, gần như không còn biện pháp nào khác. Hơn nữa đứa bé này hiện giờ rất yếu, cũng không luyện qua công phu, sợ không chịu được nội lực đập vào kinh mạch. Giữa chừng Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu lần lượt đến một lúc, thấy tình hình như thế cũng bó tay, chỉ mong đứa nhỏ này cát nhân thiên tướng.
Lộ Dao không tin trời, xưa nay nàng chữa bệnh luôn cố hết sức mình, làm hết sức rồi cũng không thể dựa vào trời, vì thế cả một đêm phương thuốc đổi tới ba lần, đạo đồng sắc thuốc cùng không chịu nổi ngủ gục, cuối cùng bất đắc dĩ phải để Mạc Thanh Cốc sắc thay. Đến bình minh, vẫn không thấy hạ sốt, mạch càng lúc càng yếu, cơ hồ không dò được. Lộ Dao châm cứu xong lần nữa, cầm bút than trên bàn lên muốn viết nhưng nhấc bút hồi lâu vẫn chưa hạ xuống chữ nào, cuối cùng nhịn không được cào cào mớ tóc hơi rối, tông cửa chạy ra ngoài.
Ân Lê Đình đắp chăn cẩn thận cho đứa nhỏ xong chạy ra theo, chỉ thấy Lộ Dao ngồi dưới mái hiên, một tay gãi mớ tóc buông trên trán, lông mày nhăn tít. Dưới ánh nắng mai, khuôn mặt cả đêm chưa ngủ có phần tái nhợt, thần sắc do dự không quyết. Ân Lê Đình biết nàng lại đắn đo dùng thuốc như thế nào, cũng không quấy nhiễu, lặng lẽ ngồi bên cạnh.
Hồi lâu, Lộ Dao ngẩng đầu, ánh mắt hơi phân vân nhìn Ân Lê Đình, dường như vẫn đang do dự gì đó. Ân Lê Đình thấy vẻ mặt nàng, cho nàng một nụ cười an ủi, ánh mắt ấm áp mà yên lòng.
Lúc trước, Lộ Dao đáp ứng chữa bệnh cho Du Đại Nham. Thời gian này Du Đại Nham mỗi ngày mỗi khá lên, sư huynh đệ bọn họ đều nhìn thấy hết. Ở chung hơn một tháng này, mọi người đều nói Lộ Dao y thuật cao minh, hơn nữa tính tình cởi mở phóng khoáng, ưa đùa giỡn. Mãi đến khi gặp chuyện hôm nay, chàng mới phát hiện, Lộ Dao làm một thầy thuốc, cực kỳ nghiêm túc trân trọng sinh mạng là chuyện bọn họ chưa từng chứng kiến. Trong tình cảnh lính Nguyên bao vây như thế vẫn kiên trì chữa trị cho xong, công lực đao thương múa may trước mặt mà không chớp mắt thế này dường như không thể chỉ dùng cái gọi là lương tâm thầy thuốc để giải thích mà đó là một chấp niệm khác thường. Lộ Dao nhìn Ân Lê Đình, ánh nắng vàng tươi buổi sáng chiếu trên khuôn mặt tuấn tú còn sót chút non nớt của chàng, ánh mắt trong sáng lạ thường, tựa như gió mát trong núi làm Lộ Dao có cảm giác tâm can dễ chịu.
Nàng thở dài, giọng nói hơi khàn do mệt mỏi cả đêm, nói nhỏ cứ như đang lẩm bẩm một mình: “Còn một phương thuốc nữa, có lẽ có tác dụng. Nhưng dùng thuốc rất nặng, có thể nói là hung ác, sợ đứa nhỏ đó không chịu nổi. Phương thuốc này dùng hay không dùng, sợ là đều mất một mạng.”
Ân Lê Đình đã hiểu nguyên nhân nàng rối rắm, khẽ vỗ cánh tay nàng nói: “Muội là đại phu, không phải thần tiên.”
Lộ Dao giật mình nhìn chàng, đột nhiên nhớ ra trước đây rất lâu, lâu lắm lâu lắm rồi. Một cô gái trẻ mặc blouse trắng, đặt tay trước ngực, đứng trong đại sảnh gần trăm năm tuổi lập lời thề từng câu từng câu một. Lời thề rất dài nhưng trong đó có một câu: “Nhớ kỹ, bạn là bác sĩ nhưng không phải thượng đế.” Mãi đến nay, lý giải của nàng đối với câu nói đó là, bệnh nhân bất kể tốt xấu, là một bác sĩ trong lúc chữa bệnh cứu người nàng không nên đối đãi khác biệt. Nhưng trải qua thế sự xoay vần, việc hôm nay hình như đã ép nàng phải lý giải theo một góc độ khác. Chớp chớp mắt, cúi đầu trầm tư nửa ngày, đột ngột đứng dậy đi vào phòng. Ân Lê Đình tưởng nàng muốn viết phương thuốc, nào ngờ nàng cầm kim châm, đâm liền mấy đại huyệt của đứa nhỏ, nói với Ân Lê Đình theo vào: “Ta tự đi phòng thuốc bốc thuốc rồi sắc, huynh canh chừng nó dùm ta, nếu đột nhiên có tình trạng gì bất thường thì kêu ta.”
Ân Lê Đình gật đầu đáp ứng, thấy Lộ Dao thi triển khinh công chạy đi.
Đợi đến lúc mặt trời hoàn toàn lên cao, Lộ Dao mới bê bát thuốc đã sắc xong về phòng.
Lúc này Mạc Thanh Cốc đang ngồi trên ghế tĩnh tọa, Ân Lê Đình ngồi cạnh giường nhìn đứa bé.
“Giúp ta đỡ nó dậy.” Lộ Dao thì thào.
Ân Lê Đình làm theo lời nàng. Lộ Dao dùng muỗng khuấy nhẹ một lát, đút từng muỗng thuốc nàng tự tay sắc cho nó. Thấy bát thuốc vơi dần đến đáy. Lộ Dao âm thầm hi vọng. Từ khi nàng lên núi Ân Lê Đình chưa thấy nàng sắc thuốc bao giờ. Mỗi lần sai Mạc Thanh Cốc sắc thuốc cho Du Đại Nham, nàng luôn nói nửa thật nửa đùa, nàng là một thần y mà phải đi sắc thuốc thì quá lãng phí tài nguyên. Lần này nàng tự tay sắc thuốc chắc hẳn đặc biệt thận trọng.
Đút hết bát thuốc, Lộ Dao dùng kim châm bảo vệ tâm mạch đứa nhỏ. Hai người mạnh ai nấy dựa vào chân giường mà ngồi. Nắng sáng chiếu qua cửa sổ vào phòng, nhuộm cả gian phòng thành một màu vàng rực. Lộ Dao nhìn chằm chằm khung cửa sổ, đột nhiên rất muốn nói gì đó, thì thầm khe khẽ: “Lúc trước khi ta học y, sư phụ có nói với chúng ta: các con là đại phu, không phải thần tiên. Nhưng ta luôn cảm thấy, nếu y thuật đủ cao minh, bệnh nhân nào đụng đến ta thì mạng sẽ không mất. Ta cũng từng có một sư huynh, cực kỳ có thiên phú. Nhưng huynh ấy làm hai năm thì bỏ nghề thầy thuốc. Lúc đó rất nhiều người kinh ngạc, không rõ vì sao huynh ấy lại buông tha cho tiền đồ gấm vóc. Lúc đó huynh ấy có tâm sự riêng với ta và Thu Nhiên, huynh ấy căm ghét cảm giác bất lực khi chữa không hết bệnh, cứu không được sinh mạng. Sau này ta mới biết, vị hôn thê thanh mai trúc mã mười lăm năm của huynh ấy chết trên bàn mổ trong tay huynh ấy. Huynh ấy dốc hết sức lực, đến cuối cùng vẫn không cứu được người mình yêu nhất.”
Ân Lê Đình thấy thương cảm trong lòng. Xưa nay tâm địa chàng luôn mềm yếu, chuyện cũ này khiến Lộ Dao thì thầm kể như thế, làm chàng có cảm giác không nói nên lời, vừa chua xót vừa khổ sở.
“Nhưng càng khiến chúng ta kinh ngạc hơn là, nửa năm sau, một trận động đất khủng khiếp dẫn tới thương vong vô số. Tất cả đại phu chúng ta đều đến nơi thiên tai cứu chữa người bệnh. Lúc đó sư huynh trở về y quán, cùng đi với chúng ta. Ta lấy làm lạ, bởi vì lúc huynh ấy từ bỏ công việc rất kiên quyết, ta muốn hỏi huynh ấy vì sao. Ai ngờ còn chưa kịp hỏi, ở nơi bị thiên tai đó, sư huynh gặp tai nạn ngoài ý muốn, bị một cái xà nhà từ trên cao rơi xuống đè trúng, làm vỡ lá lách, không cấp cứu được, ngày hôm đó hi sinh vì nhiệm vụ, Ta nhớ một khắc trước khi huynh ấy chết, nắm lấy tay ta, không nói bất cứ điều gì nhưng ánh mắt huynh ấy đến giờ ta vẫn còn nhớ, đó là một loại giải thoát.”
Ân Lê Đình không ngờ câu chuyện lại ngoặt sang một bước như thế, nữa ngày mới thì thầm: “Có lẽ sư huynh của muội cảm thấy chết có ý nghĩa.”
Lộ Dao lại lắc đầu, “Ta luôn cảm thấy không đơn giản như vậy. Sư huynh tuyệt đối không phải người nhiệt huyết mà rất lý trí, rất bình tĩnh. Thật ra, đại phu không cao thượng cứu sống, chữa thương cho người bệnh như mọi người nghĩ đâu, giữa bản thân và người khác, chúng ta đều chọn bản thân. Ta không phải sư huynh, không cách nào hiểu được huynh ấy nghĩ gì. Chỉ là người cầm tay dạy mình lúc đầu lại đi ngay trên bàn giải phẫu của mình, thế nên mãi đến bây giờ ta vẫn nhớ mãi chuyện này.”
Ân Lê Đình hiểu ra, vỗ vai nàng, nói khẽ: “Nói như thế, muội đã tận lực rồi, không cần canh cánh trong lòng. Đạo gia nói, sinh tử tất cả đều là lẽ tự nhiên, không phải sức người có thể xoay chuyển.”
Lộ Dao ngạc nhiên ngước lên: “Lời như thế, sư huynh kia cũng từng nói với ta, lúc đầu huynh ấy học y chỉ vì có thể tận lực, không phải vì định sinh tử.”
“Vậy muội thì sao Lộ Dao? Muội học y vì cái gì? Cứu chữa người bệnh?” Ân Lê Đình không nhịn được thốt lên.
Lộ Dao nghe đến vấn đề này, ngược lại mỉm cười, dường như trong đó có chỗ khó nói, “Tất nhiên là vì vậy rồi. Có điều sự việc rất phức tạp, khẳng định không phải mấy chữ cứu chữa người bệnh là nói được hết. Đợi hôm nào đó ta nghĩ thông sẽ kể cho huynh nghe.
Ân Lê Đình gật đầu, dịu dàng nói: “Được, ta chờ đến lúc đó.”
Không biết do hai người trò chuyện hay do nắng chiếu vào phòng, không khí u ám căng thẳng trong phòng cả đêm qua giờ thoáng đãng hơn rất nhiều. Lộ Dao thấy Mạc Thanh Cốc tĩnh tọa, biết sư huynh đệ bọn họ thường tĩnh tọa điều khí xem như nghỉ ngơi bèn hỏi Ân Lê Đình: “Huynh có cần nghỉ một chút không?”
Ân Lê Đình cười nói: “Ta không sao cả, nên nghỉ phải là muội chứ?”
Lộ Dao ngáp một cái: “Thật ra ta cũng còn ổn, lúc trước cũng từng chống chọi qua không ít đêm, lần này có hai người các huynh thức cùng, nhẹ nhàng hơn nhiều.” Đang nói, bụng lại kêu rột rột.
Ân Lê Đình nghe thấy càng buồn cười, Lộ Dao dỗi nói: “Cười gì chứ? Còn không mau đi lấy đồ cho bổn cô nương ăn!”
Ân Lê Đình ừ một tiếng, đẩy cửa đi ra. Đợi đến khi Ân Lê Đình bưng đồ ăn sáng về, Lộ Dao đang châm cứu cho đứa bé. Mạc Thanh Cốc đã dậy rồi, thấy chàng vào liền nói nhỏ: “Lục ca, đứa bé ấy bớt sốt rồi.”
Ân Lê Đình mừng rỡ, thấy Lộ Dao đứng dậy liền hỏi: “Lộ Dao, thuốc có công hiệu rồi đúng không?”
Lộ Dao gật đầu: “May mắn vô cùng, sức khỏe đứa bé này không tệ, ý chí sinh tồn rất mạnh, thuốc này chống được rồi, hôm nay tất hạ sốt, tính mạng không còn đáng lo nữa.”
Mọi người đều mừng rỡ. Lộ Dao chịu đựng một đêm, lúc này cảm giác đói bụng mỏi mệt kinh khủng, ăn như gió cuốn mây bay làm Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc sửng sốt. Ân Lê Đình biết trước giờ Lộ Dao ăn không ít, hơn nữa còn ăn rất nhanh, có điều nhanh thế này thì lần đầu tiên trông thấy. Còn như Mạc Thanh Cốc hoàn toàn bị tướng ăn của Lộ Dao hù dọa. Lộ Dao lườm hai người một cái, vẫn ăn hết sức hưng phấn.
Ân Lê Đình nhìn Lộ Dao, đầu tóc hơi rối, một đêm không ngủ làm sắc mặt hơi tái, lại thêm tướng ăn nữa, vốn hẳn là rất khó coi. Nhưng lúc này chàng lại cảm thấy, mái tóc hơi rối buông trên trán và bên tai cùng với khuôn mặt tái nhợt có nét ý vị riêng, dáng vẻ ăn cơm kia càng thêm đáng yêu. Đột nhiên ý thức được mình vừa nghĩ gì, mặt Ân Lê Đình nóng ran, tai ù hết lên. Sợ bị hai người kia thấy, chàng vội vàng cúi đầu, tiếp tục ăn đồ ăn trong chén, che đi vành tai nóng rực.
Mạc Thanh Cốc nhìn người này, ngó người kia, lại nhìn bánh bao trong chén mình, không khỏi rầu rĩ: không thấy đồ ăn hôm nay có gì đặc biệt, sao cả hai người này cứ như ba bữa rồi chưa được ăn thế này…
Đến giữa trưa, đứa nhỏ quả nhiên hạ sốt như lời Lộ Dao nói. Lộ Dao châm cứu lần cuối, lại viết phương thuốc giao cho đạo đồng, dặn cứ cách bốn canh giờ thì đút thuốc một lần. Chào hai người Ân Mạc xong, loạng choạng đi về phòng mình, kêu người lấy nước tắm rửa, vừa đặt mình xuống giường là ngủ thiếp đi.
/126
|