Cuộc xâm lăng của các tộc người man rợ bắt đầu vào thế kỷ thứ ba. Ở phương Tây, người Francs, người Alamans, người Huns, người Goths, người Germains, người Vandales tràn đến làm lung lay đế chế La Mã. Năm 476, Hoàng đế Romulus Augustule thoái vị đánh dấu sự sụp đổ của đế chế này.
Cùng thời gian đó, các bộ lạc du mục Tiên Ti, Hung Nô, Đê, Khương ồ ạt tấn công vào đế chế Hoa Hạ. Những bộ lạc này gây ra sự suy tàn của vương triều nhà Hán, rồi đến vương triều nhà Tấn và buộc người Hán phải rời khỏi quê hương trốn về phía bờ nam sông Dương Tử. Đất nước bị chia cắt thành hai nửa. Bên bờ Bắc sông Dương Tử, các bộ lạc dần Hán hóa. Bằng cách sử dụng lại cách điều hành và văn tự của người Hán, họ xây dựng lên các vương quốc của mình. Ở bờ Nam, người Hán tiếp tục quần tụ quanh thiên tử, một hoàng đế được xem như thuận thiên thừa mệnh.
Giữa các vương quốc ở bờ Bắc và các triều đình bờ Nam, chiến tranh xảy ra khốc liệt triền miên. Cuộc chiến Nam – Bắc triều đi kèm với vô số những cuộc nội chiến. Ở bờ Bắc, các bộ lạc đánh nhau để tranh giành lãnh thổ. Ở bờ Nam, các thủ lĩnh địa phương tranh thủ mọi thời cơ để nổi dậy và tranh nhau ngai vàng.
Ở bờ Bắc, mười sáu vương triều được định hình. Con số này giảm dần theo năm tháng qua các cuộc xung đột. Ở bờ Nam, các vương triều nhà Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần nối tiếp nhau cai trị, càng ngày càng chóng lụi tàn vì các cuộc nội chiến ngày càng nhiều. Hai trăm năm sau, Dương Kiên, một triều thần gốc Hán, đã lật đổ ngai vàng của một vương quốc được các bộ lạc du mục lập ra. Dương Kiên thống nhất bờ Bắc, đánh bại bờ Nam và thống nhất hai miền Trung Hoa vào năm 589.
Một
Năm 400, triều Đông Tấn
Quân đội vượt dòng Dương Tử. Ngựa hí vang, chiến xa rì rầm, kỵ binh và bộ binh gầm thét. Tất cả tạo thành một con trăn khổng lồ trườn đi chầm chậm.
Trong chiếc xe phủ trướng đen, Bà Mẹ Trẻ mê man. Nàng đã mất hết khái niệm về thời gian và không còn biết đất trời thay đổi. Con đường của các binh sĩ là một hành lang tăm tối và lạnh lẽo, cách biệt với thế giới bên ngoài. Cuộc đời nhà binh đong đếm bằng những hồi tù và rền vang ra lệnh tiến quân hay dừng lại, bằng những tràng trống lệnh tấn công hay rút lui. Bà Mẹ Trẻ không biết đến niềm vui. Nàng chỉ biết đến nỗi buồn. Dễ bị tổn thương và không có vũ khí, nàng buộc phải theo chân người đàn ông đã bắt được mình.
Gò má nàng hóp sâu. Tiếng rít vội vã của bánh xe và tiếng rì rầm đáng sợ của dòng sông đã chiếm lấy da thịt nàng. Tay và chân nàng sưng húp. Ngực căng đầy làm nàng đau đớn. Bụng nàng biến thành một mỏm núi chỉ toan phun trào nước và máu. Trong nàng, sự sống lao vào cuộc chiến khốc liệt chống lại thần Chết. Bằng một sợi thừng kiếm được giữa trận chiến, nàng buộc chặt cái bụng căng tròn vào cơ thể yếu ớt đang dựa vào một dải xương sống mỏng manh của mình. Nàng sợ đứa con rơi khỏi nàng và rớt khỏi chiếc xe. Trên đường, nơi nào quân sĩ đi qua, nơi đó chẳng còn người giàu kẻ nghèo, chỉ còn những thây người, những kẻ đói khát, những kẻ tha hương cầu thực. Ngựa giẫm đạp lên nhau, chiến xa và xe kéo nối đuôi nhau, binh lính chạy bộ theo hàng ngũ. Kẻ bị thương, kẻ bị bệnh, tất cả những ai ngã xuống mà không kịp bình phục, tất cả những ai bị bỏ lại phía sau đều bị thần Chết nuốt chửng, mang đi.
Chiếc xe rung giật dữ dội. Con đường mòn làm bánh xe kêu cọt kẹt. Bà Mẹ Trẻ mở mắt, ôm ghì lấy bụng mình. Bất ngờ, một mũi tên đâm thủng mái vòm, mũi của nó xé toạc tấm màn trướng. Bà Mẹ Trẻ hét lên thất thanh. Chiếc xe dừng lại. Ở đằng xa, tiếng tù và vang lại báo hiệu cuộc tiến công. Những tiếng hét lúc đầu còn nhỏ, sau đó lớn dần rồi lao thẳng vào nhau. Nàng nghe người phu xe thúc con la dữ dội. Chiếc xe rên rỉ rồi lại tiến về phía trước.
Bụng nàng co thắt mạnh. Cơn đau làm nàng phải gập người lại. Nước chảy ra giữa hai đùi nàng. Mũi tên thứ hai đâm thủng mái xe. Nàng trườn xuống sàn xe, co rúm người lại.
Bỗng một hồi vó ngựa kéo tới, kèm theo tiếng la của một tên lính:
- Lửa! Lửa!
Một giọng khác trả lời:
- Chúng bắn cung tên lửa vào xe lương thảo rồi!
Vó ngựa làm rung chuyển mặt đất.
- Nhanh! Phụ nữ và lương thực nhanh vào làng!
Lửa đã đốt sáng cả trời đêm. Lửa vẽ lên những tấm trướng đen họa tiết hoa đỏ rực. Cánh hoa rời rạc phồng lên rồi vung vẩy khắp nơi. Bà Mẹ Trẻ nghẹt thở. Nàng không còn phân biệt được tiếng bánh xe và tiếng ngựa hí, tiếng lính tráng chạy qua chạy lại la hét những khẩu lệnh vội vàng. Tiếng ầm ầm trở nên đinh tai nhức óc. Nàng nhắm mắt lại. Bà cố nàng đã sinh nở trong một chiếc xe bị kỵ binh và cung thủ của một bộ lạc du mục truy sát. Bà chết ngay tại chỗ để rồi đứa bé đã phải bú sữa của người chết.
Số mệnh đã đeo đuổi gia đình nàng hay sao?
Nàng sinh ra trong một thị tộc danh giá ở đất Trung Nguyên. Dòng máu quý phái của tầng lớp thượng lưu chảy trong nàng. Từ thuở xa xưa, tầng lớp thượng lưu đã thường giao du và kết hôn với nhau. Là đẳng cấp cao nhất trong xã hội, họ không cần phải đóng thuế cho triều đình, cũng không phải thực hiện nghĩa vụ với các hoàng đế và sống tự cung tự cấp ở miền quê.
Tổ tiên của nàng từng sở hữu những thửa đất mênh mông ở Trung Nguyên. Một kỵ binh phải mất hai con trăng mới đi hết một vòng quanh các cánh rừng, đồng cỏ, ruộng nương, làng mạc và điền trang của tổ tiên nàng. Khi các bộ tộc dã man dồn quân lính Hoa Hạ vào bước đường cùng, thị tộc cũng buộc phải rời bỏ Trung Nguyên, vượt dòng Dương Tử sang bờ Nam lánh nạn. Một vương triều được dựng lên, mang tên Đông Tấn.
Mồ hôi của những kẻ lưu đày tưới đẫm bờ Nam, làm mọc lên vô số các thị thành. Giới thượng lưu đã đánh mất tài sản nhưng vẫn giữ những thói quen của tầng lớp mình và sống tự cung tự cấp, cách xa kinh đô mới mở. Trong khi chờ đợi lấy lại được bờ Bắc, họ khai khẩn đất hoang, tưới mát các ngọn đồi và ruộng rẫy. Cung điện, đền đài, vườn tược còn cao hơn và đẹp hơn những gì để lại cho những tộc người dã man.
Với khí hậu ôn hòa và đất đai màu mỡ, nghề trồng lúa nước và bông vải cùng nghề nuôi tằm lấy lụa đã phát triển mạnh mẽ; kỹ thuật dệt và kỹ thuật kim hoàn mở rộng trong dân chúng. Giao thương cũng phát đạt không kém. Khi đã giàu có, các thương nhân ngày càng có tầm ảnh hưởng rộng, mặc cho họ xuất thân từ tầng lớp thấp nhất của xã hội.
Giới thượng lưu không thích thay đổi. Cuộc sống của họ bình ổn. Họ để cho hoàng đế và chính quyền địa phương toan tính việc quân. Cầm kỳ thi họa và các suy tư triết lý mới là thú tiêu khiển của họ. Vào mùa xuân, họ đi du ngoạn bên bờ hồ, ngắm lũ cò trắng sải cánh trong sương mờ; mùa hè, họ chơi nhị cầm và tiêu sáo dưới ánh trăng; mùa thu, các cuộc tranh tài thi ca diễn ra trong chén tạc chén thù cùng thịt cá tươi ngon; mùa đông, những khúc hát dịu ngọt của phương Nam làm những thế hệ trẻ chẳng còn muốn quay về Trung Nguyên, nơi mùa đông khắc nghiệt trong bão tuyết mịt mù.
Bà Mẹ Trẻ chưa ăn uống gì từ đêm qua, nhưng nàng chẳng thiết tha. Tay nàng tìm kiếm trong chiếc xe rồi lôi ra một chiếc túi da cừu có mùi tởm lợm khiến nàng buồn nôn. Nàng phải ăn để có sức sinh nở. Nàng phải cố cử động cái miệng rét cóng và nuốt ực một ngụm nước chua lòm. Nàng cầm lấy một nắm cơm đã lạnh khô và mở banh cổ họng để nuốt vào từng hạt. Nàng thèm chút trà thơm vị mận xanh mà nàng uống hồi mùa hè nào đó trong một chiếc tách mã não trắng. Nàng còn nhớ tất cả các bộ tách trà được dùng theo từng mùa: trà hạt sen, trà cẩm tú cầu, trà bột vừng, trà mộc qua, trà hoa đào. Nàng tiếc đã không thể nào giữ lại trên đầu lưỡi chút hương vị ngày xưa. Làm sao nàng còn có thể nuôi dưỡng cái vẻ huy hoàng phù phiếm đó chứ?
Những mũi tên xé gió cắm phập vào tấm vải bạt của chiếc xe. Con la hí lên như bị cắt tiết. Bà Mẹ Trẻ ép mình sát mặt đất. Đã lâu thật lâu nàng không có tin tức gì về hôn phu. Nàng không biết chàng có còn sống hay không.
- Á!
Tiếng thét của người phu xe làm nàng run lẩy bẩy. Nàng bò lên, vén cánh cửa sổ nhỏ. Một mũi tên cắm vào vai của cái bóng đen ấy. Mặc dù bị thương, ông vẫn một tay nắm chặt dây cương còn tay kia đánh thúc con la.
Lính tráng là một dòng giống khác. Như những cánh chim lượn trên sông Dương Tử và trú trong mỏm núi, họ sống với nhau, xa cách cuộc sống thường nhật bên ngoài. Nàng không biết tên tuổi của người lính này. Chẳng hề biết nhau, họ lại trở thành bạn đường trên chuyến đi chết chóc này. Tại sao ông ta không dừng lại? Tại sao ông ta không bỏ mặc chiếc xe và bỏ trốn? Tại sao ông ta ngoan cố cầm cương? Những chiếc bánh xe rên xiết và xoay đều. Hoàn toàn tập trung và im lặng, ông ta đánh xe xé toạc đêm đen, không bao giờ nhìn lại phía sau.
Trước khi hôn phu của mình ra đi, nàng từng xin chàng một lưỡi dao nhọn.
- Để làm gì? – Chàng hỏi nàng.
- Dù cho chàng đã bắt cóc thiếp nhưng thiếp đã là vợ của chàng và thiếp chấp nhận số phận này. Thiếp muốn có thể tự sát nếu những kẻ thù của chàng chẳng may bắt được rồi làm nhục thiếp. Thiếp không muốn làm chàng mất danh dự.
Chàng không thể hiểu nổi.
- Nàng rất xinh đẹp, eo nàng thon thả, – chàng trả lời. – Hãy đi theo kẻ cho nàng một túp lều để ở và một đĩa cơm để ăn. Hãy quên ta đi.
Bà Mẹ Trẻ lạnh run. Cơn đau lại ập đến nơi bụng dưới của nàng, nhưng nỗi lo phải sinh hạ trong bão lửa và cung tên còn lớn hơn cơn đau này nhiều.
Những hình ảnh ấu thơ đầu tiên của nàng là những chiếc nồi bạc bắc trên bếp đất sét nung. Nô lệ mặc áo xanh áo hồng, lũ lượt thay than trong lò. Những thang thuốc sôi ùng ục trong nồi hay đang nguội đi bên cạnh những ngọn lửa tỏa ra mùi hương ngọt ngào và cay cay khắp phòng. Mẹ Lưu cầm một cái chén tới gần. Ánh mắt bà hiền hòa mặc dù khuôn mặt bà nghiêm nghị. Bà vừa thầm thì vừa mím môi:
- Uống đi con gái. Con bị ốm rồi… Con ốm nặng rồi. Mở miệng ra nào… Đúng rồi… Như vậy…
Giọng nói này làm nàng sợ và nàng không kháng cự được khi chén thuốc đến gần.
Mặc cho nàng nước mắt đầm đìa, Mẹ Lưu đỡ nàng dậy rồi đổ chất nước đen ngòm vào miệng nàng. Nước thuốc chua lòm làm nàng nghẹt thở. Hai thái dương nàng kêu ù ù. Giọng Mẹ Lưu của nàng nghe lúc được lúc mất:
- Uống đi… rồi con sẽ khỏe lại… Con sẽ có một người chồng tử tế và một bầy con ngoan…
Mẹ Lưu trở lại bên bếp lò và nấu một thứ thuốc khác.
- Uống cái này nữa. Nếu không con sẽ không đi lại được…
Nước mắt đầm đìa, nàng lại ngoan ngoãn há miệng. Chất nước sền sệt và đen ngòm nhấn chìm nàng. Đầu óc nàng quay cuồng, ngực nàng nức nở. Mẹ Lưu không lau khuôn mặt lem luốc của nàng mà còn quay lại với chén thuốc thứ ba.
- Thuốc này để giữ tay chân con được ấm và bổ gan.
Nàng quên cả nghiến răng và để mặc cho Mẹ Lưu làm gì thì làm. Cơ thể nàng đẫm mồ hôi, nàng ngã vật xuống chiếc gối và ngủ thiếp đi cho tới khi Mẹ Lưu gọi nàng dậy uống thuốc khác.
Mẹ Lưu là một nô tỳ mà người ta không biết tên tuổi. Tuy nhiên, chính bà là người mang bên mình tất cả các chìa khóa trong nhà. Những lời to nhỏ về quyền lực của bà đi trước bước chân của bà, tiếng chìa khóa lanh canh trước khi bà xuất hiện. Khi bà ngồi xuống và cầm lấy cây cọ, không phải để viết thư pháp hay để vẽ. Bà giữ hai khoản tiền, một khoản cho trang viên ở miền quê và một khoản cho tòa nhà trong kinh thành. Miệng lưỡi thiên hạ đồn rằng bà đã tách ông nội khỏi những người vợ của ông để dễ dàng cai quản. Mẹ Lưu cai quản ruộng đồng, trông chừng hạt giống rồi cho thu hoạch chúng. Bà đếm từng túi thóc và từng cuộn len, vải, lụa mà những nông dân làm việc cho gia đình nộp về. Bà xâu từng đồng tiền có được từ những người lái thương vào một sợi dây mảnh dài như con rắn và trao lại cho những người quản lý các phu nhân của ông nội. Mỗi tháng một lần, bà chất lên thuyền những túi lớn rau quả, hạt và lúa gạo rồi đi về phía kinh thành. Bà ở nhà ông nội và sắp xếp mọi việc trong tòa nhà. Vì Mẹ Lưu nói không ai biết cách dạy con gái nên bà dẫn nàng về ở với bà và không ai dám phản đối.
Gắn bó với Mẹ Lưu như một chiếc chìa khóa dính với thắt lưng của bà, nàng thường xuyên ù tai với giọng nói sang sảng của bà, nấp dưới váy bà và chơi đùa giữa hai chân bà. Khi bàn tay sần sùi của bà lướt trên khuôn mặt nàng, nàng cảm nhận từng đợt sóng yêu thương trìu mến. Trong số con cháu của ông nội với các bà vợ khác nhau, Mẹ Lưu chỉ yêu có mình nàng. Bà nhìn nàng bằng con mắt đầy lo lắng, thấy nàng quá gầy, quá xanh xao, quá im lặng. Bà nhìn nàng ăn từng chút, từng chút và sắp xếp giường chiếu cho nàng cẩn thận rồi mới đi ngủ trước cửa phòng nàng.
Trên thắt lưng của bà có một chiếc chìa khóa nghìn chân. Nó mở cửa căn phòng giấu kho báu của bộ tộc. Những chiếc rương bằng gỗ chống được mối mọt và hơi ẩm nằm ngay hàng, thẳng lối với nhau, trong đó chứa những nhạc cụ được đặt nằm ngang. Cầm một cái giẻ nhỏ trên tay, Mẹ Lưu lau chùi chúng thật kĩ lưỡng. Một nhạc cụ giống hình lá chuối được chăm sóc đặc biệt. Đáy cây đàn đã sờn và rạn là chỗ ít đẹp nhất. Mẹ Lưu nói rằng cây đàn cổ cầm cổ là một trong số các vật quý hiếm mà gia đình mang theo trong lúc chạy loạn về phương Nam và chỉ cây đàn đó thôi đã trị giá bằng cả một đô thành.
Mẹ Lưu hát thầm những điệu nhạc ngọt ngào. Bà không phải người Hán mà là con gái của một tộc người ở vùng đất cực Nam. Khi còn nhỏ, bà đã hát theo giọng điệu của bộ tộc. Mẹ Lưu nhắm mắt mơ màng và vỗ tay lên đùi giữ nhịp như thể bà đang nghe được thứ âm nhạc tuyệt hảo nhất.
Một buổi sáng, khi vừa mở mắt, cô gái nhỏ nhận thấy chiếc thảm trước phòng mình trống rỗng. Mặt trời chiếu qua tấm mành che rồi dừng lại trên tấm chăn vẫn còn nguyên hình dáng bà. Những hạt bụi nhỏ óng ánh xoay tròn trên dấu vết này rồi chợt tắt. Chúng thành hình một người đàn bà ngủ rồi bay tản ra.
Sau đó, người ta cho cô gái biết Mẹ Lưu chết trong đêm. Cùng với bà, thời thơ ấu của nàng cũng vụt mất như một cánh hoa bồ công anh bay đi.
Bên kia tường cao cổng kín quanh nhà, cuộc đời rất bình yên. Lừa và ngựa nhẩn nha gặm cỏ trên đồng; ngỗng và gà đẻ trứng giữa đường đi. Cây cối phủ quanh ngôi làng nhìn xuống những cánh đồng và ao hồ đầy ắp cá. Khu nhà ở rộng rãi gồm các tòa nhà và vườn tược của cha mẹ và các bác chia nhau, nối với nhau nhờ một dòng nước. Cùng với các anh em họ hàng, nàng nhảy nhót, trèo lên lưng dê, câu tôm, hái lá dâu về cho tằm ăn, nhả tơ nhả lụa.
Đi thuyền khoảng nửa ngày thì đến kinh thành nơi ông nội sống, một thành đô nằm giữa bốn bức tường cao bằng đá, các con kênh thay thế đường sá và những con thuyền được trang hoàng bằng những tấm vàng dát mỏng thay thế lũ ngựa bờm xinh xắn. Nàng ngoảnh đầu lại đếm những ngôi nhà xây bằng xà và cột được tô vẽ đang cắt vào nền trời.
Ông nội sống trong một tòa nhà có nhiều tầng. Nàng hiểu rõ tất cả các bức tranh và những hình vẽ trên tường đến từng chi tiết. Phong cảnh, thú vật, cỏ cây, những cảnh chiến tranh, những cuộc phiêu lưu của các thương nhân bán lụa trong sa mạc Tây Bắc, hình minh họa cho các bài cổ thi, cuộc đời những ông vua và những tao nhân mặc khách, ngôi nhà này với nàng còn rộng hơn cả một vương quốc. Phòng nàng ở tầng ba. Nàng nhảy cóc lên cầu thang gỗ để làm nó rung lên từng đợt. Khi nàng ngồi bên cửa sổ, kinh thành trải ra dưới mắt nàng như một bức họa trên vải cuốn.
Mùa xuân, hoa bừng nở trong từng góc phố. Màu sắc lúc đầu khác biệt nhau rồi hòa vào nhau. Khi gió thổi nhẹ, những cánh hoa bay lên cao rồi nhẹ nhàng đáp xuống mái tóc nàng. Mùa hè, khi những cơn bão tràn về, kênh rạch trở thành những dải lụa màu xanh ngọc. Mùa thu, vào những đêm trăng tròn, các tòa nhà in bóng xuống kênh làm thành một con rắn dát bạc. Nó chạy vòng quanh nàng để phô ra những đường kẻ sọc rực rỡ rồi chọc nàng cười. Mùa đông, thương nhân gả con gái của họ và phô trương sự giàu có. Cả kinh thành chen lấn nhau dưới những bến thuyền để xem từng đoàn thuyền chất đầy của hồi môn đi ngang qua. Trong tiếng nhạc lễ hội, những chiếc đĩa bạc, lọ ngọc thạch, san hô hình cây cối lũ lượt nối đuôi nhau, dẫn theo đủ thứ đồ đạc bằng gỗ quý khảm xà cừ và cẩm thạch. Khi những cuộn lụa đào ở cuối hàng đi ngang qua, lũ trẻ reo hò ríu rít, đàn ông nhíu mày và bứt râu, đàn bà ghen tỵ trong im lặng.
Lụa, cái thứ nguyên liệu vuốt ve dịu dàng này lại mang trong mình sức mạnh của ngọn lửa và cái tinh khiết của cánh rừng tre, chính là thứ đồ xa xỉ của giới quý tộc. Một sắc lệnh triều đình đã cấm dân chúng mặc lụa và những ai dám vi phạm luật này sẽ bị xử tử. Ngay cả những người lái buôn giàu có nhất cũng chỉ có thể trưng bày lụa trong cửa hiệu của họ như một tác phẩm nghệ thuật mà thôi.
Lúc còn bé, nàng thích lụa như điên. Nàng nhảy giậm lên nó, nàng ôm nó, quấn quanh cơ thể mỗi khi người thợ dệt của ông nội kính cẩn đem đến những tấm lụa mới dệt xong. Nàng nắm lấy đầu mút của cuộn vải và giật mạnh. Những làn sóng đủ màu sắc trải ra. Lụa, tùy theo xưởng dệt ra nó, mà mang những cái tên ngọt ngào khác nhau. Nàng biết rất nhiều tên và đọc chúng như một bài thơ dài: “Tuyết muộn hoa lê”, “Giấc mơ cầu hoa trà”, “Bóng liễu”, “Mây lang thang mùa hạ”, “Khúc hát chim vàng anh trong sương mù xanh”, “Trăng lên”, “Ao sen”, “Mùi hương sau cơn mưa thu”, “Thác hoa cúc dại”, “Hoa lan lười nhác”…
Ông nội, người cho nàng tất cả những gì nàng muốn, nói rằng phụ nữ thượng lưu đặc biệt hơn cả loại lụa mịn nhất.
Ông nội sinh ra trên đường lưu vong nên thích những thứ kỳ thú. Ngoài khả năng thi họa, ông còn là một tay đàn tỳ bà bốn dây siêu hạng. Ông chán ở quê và lên kinh thành của những hội hè miên man. Một chiếc thuyền phủ trướng thêu là ngôi nhà thứ ba của ông. Ông thích trôi nổi trên những con kênh từ sáng sớm để ngắm nhìn màu trời bình minh thay đổi, lướt qua các nhịp cầu và viết thư pháp trên nước bằng cách dùng cán cây quạt của mình để đẩy dồn ánh mặt trời.
Phụ nữ ngồi bên những khung cửa sổ rình xem ông đến; họ mân mê tấm khăn trong tay rồi ném xuống mũi thuyền những bó hoa trong đó gói ghém những bức thư tình. Ông chọn lựa tùy theo thơ hay thơ dở. Khi ông cập bến căn nhà, những người đàn bà vốn thích đeo mạng che kín khuôn mặt đẹp mỗi khi ra đường đều để lộ mặt mộc đến chen lấn nhau đón chào ông. Giữa những tấm màn khảm ngọc trai và những bình đốt trầm hương, những bàn tay trắng nõn mời ông ăn những món nóng hổi, rồi mang đến đĩa vàng, đĩa bạc, trên đó xếp từng lát cá sống theo hình muôn loài hoa. Sau giấc nghỉ trưa, mọi người chơi đối đáp nhau theo nhịp một chiếc cồng nhỏ và người thua phải cạn chén. Vui vẻ say sưa, ông nội nàng sẽ dùng miếng gảy ngà chơi đàn tỳ bà, thân đàn giống như thân thể một phụ nữ và sẽ hát, những khúc ca ngẫu hứng. Giống như sự nổi tiếng của xưởng kim hoàn sẽ làm nên giá trị của những viên đá quý, những người phụ nữ được vinh danh trong các bài thơ của ông cũng được thơm lây muôn phần.
Khi đêm xuống, căn nhà của ông nội nhộn nhịp hẳn lên. Như những đám mây muôn màu của buổi chiều tà, thuyền bè được sơn vẽ sẽ đỗ đầy bốn phía kinh thành. Gió thổi nhẹ qua ống tay áo của những bóng người ngồi bên mũi thuyền và làm phập phồng cổ áo. Tóc búi cao, mặt điểm trang son phấn, môi tô son và mắt được tôn lên nhờ những đường kẻ đen, khách khứa nhẹ nhàng phe phẩy những cây quạt lông chim quý hiếm chẳng hạn như chim Thiên thần bất tử, rồi lũ lượt kéo vào vườn Ngọc Hồ, được Mẹ Thiên nhiên đất Tây đô dâng tặng. Thuyền bè cập bến. Dựa vào tay người hầu, họ nhảy lên mặt đất. Những đôi ủng làm bằng gỗ quý của họ gõ cộc cộc. Những đôi giày cao gót nhồi bột trầm hương in dấu những bông hoa sen trắng trên con đường lát đá đen. Họ sẽ đến ngồi trong những tửu lầu nhìn ra kênh, uống rượu và nhâm nhi những lát cá tươi bắt trên sông Dương Tử rồi luận bàn về sự bất tử và thuật đắc nhân tâm. Trời vào đêm. Trăng lên cao. Những chiếc đèn lồng hoa đăng được thả xuống kênh nổi bập bềnh rồi xoay tròn, báo hiệu một kiều khách nổi tiếng sắp đến. Những chiếc thuyền mũi nhọn ló ra từ đêm đen. Với khuôn mặt che mạng kín, nàng cúi chào tất cả mọi người, ngâm một bài thơ với đàn tỳ bà rồi chiếc thuyền chở nàng biến mất vào trong những chiếc bóng lấp lánh trên sông.
Ông nội và cha nàng không thể sống cùng nhau. Ông nội giọng nói lớn, ngủ rất trễ và dậy sớm. Ông có thể diễn thuyết về hình dáng các vì sao đến tận sớm tinh mơ rồi đi lang thang trên những con kênh để đón ánh mặt trời. Cha nàng thì khác, ông rút lui từ sớm, dậy trễ và lảng tránh những cuộc gặp gỡ, tiệc tùng. Trắng trẻo và đa tình, ông có giọng nói nhỏ nhẹ và ánh mắt của người mơ ngủ. Sao chiếu mệnh của hai người đối lập nhau, người đầu tiên mạng Mộc, còn người thứ hai mạng Kim. Khi hai người giận nhau, mấy ông chú cả trong nhà nói “dao” đã đâm vào “cây”. Chỉ sau cái chết của Mẹ Lưu và ông nội, nàng mới được biết cha nàng.
Trên thuyền, cha nàng không bao giờ ngồi. Ông nằm ườn ở mũi thuyền dưới một cây dù. Dập dềnh đều đặn theo sóng nước, mọi người đến gần một hòn đảo hoang bao quanh toàn lau sậy mọc tua tủa trên đường chân trời. Khi cha và con gái đến, ngay lập tức một đám đông bao quanh nàng. Nàng bám vào tay áo cha mình. Người ta chào hỏi cha nàng rồi ngợi khen nàng không tiếc lời:
- Quả nhiên là tố nga khuynh thành mà!
Nàng ngượng ngùng giấu gương mặt e thẹn vào những nếp áo của cha. Trên đảo có một cái chợ thật lớn. Cô gái bé bỏng đi xem chim chóc, hươu, khỉ và xem cha mua đá cuội để mài mực rồi mua thân gỗ để đẽo đàn cổ cầm. Họ gặp những tài tử văn nhân có gốc gác thấp hèn mưu sinh bằng vài ba bức thư pháp hay tranh họa bán được. Giới thượng lưu tự cấm nhau không được giao du với những dòng giống hèn mọn, nhưng việc cấm đoán lại có tác dụng ngược lại với cha nàng. Ông mời họ đến ăn uống. Ông chạm cốc với họ, gọi họ là “huynh đệ”, rồi tặng họ những cây đàn cổ cầm và những viên đá mài mực do chính tay ông làm.
Cha nàng đi lang thang, nàng nối gót theo ông không rời. Thương nhân giàu có thì bày bán trong lều, người nghèo bày ra bên lối đi những đồ lặt vặt trên một tấm vải thủng lỗ chỗ. Những cửa hàng đá quý mức tầm tầm nhiều vô kể. Người ta tìm thấy ở đó từng khối ngọc thạch, đá pha lê đỏ và vàng, ngọc lam và lục bảo. Cha nàng mua những viên đá đen vớt được dưới đáy hồ bùn nhão. Ông sờ nắn, ước lượng trọng lượng, thử độ thanh âm, quan sát màu sắc và gân màu của đá. Sau khi được mài nhẵn bằng vữa, những viên đá này sẽ trở thành những nghiên mực có khắc thêm họa tiết. Khi chà một thanh nhựa thông lên đó, người ta sẽ có mực đen để viết thư pháp và vẽ tranh.
Cha nàng không thèm ngó ngàng gì đến lễ nghi đạo đức hiếu thảo và chỉ tham gia vào những bữa ăn của dòng tộc vào những dịp lễ lớn. Bất chấp các thành viên khác phê phán, ông chỉ thích chăm chú vào những công việc tay chân dành cho đám người bần tiện và nô lệ. Giữa rừng tre, ông cho dựng một mái nhà bằng rơm rạ. Ông ăn ngủ ở đó, giữa những cây đàn cổ cầm đang làm dang dở, những nghiên mực chưa xong và những chai lọ nung mới ra lò. Ngược lại với giới thượng lưu có đôi bàn tay chảy mỡ chỉ có thể nhấc nổi một cây quạt lông vũ, tay cha nàng ngắn, khỏe và biết làm dao, lưỡi bào, cưa và búa. Dưới tay ông, những hình thù thô thiển và tối tăm có được nét mảnh mai, tỷ lệ cân đối, màu sắc nổi bật, có được một cuộc đời đầy xúc cảm và rực rỡ.
Những buổi tối trời sáng ánh trăng, ông vừa chơi đàn cổ cầm trong rừng tre vừa uống rượu say khướt. Càng say, tay trái của ông càng lướt nhanh trên dây đàn được tay phải giữ hợp âm. Nốt khoan nốt nhặt nối tiếp nhau, thành tiếng sóng, tiếng rì rầm của dòng sông. Tiếng ngựa hí dồn và tiếng binh đao khói lửa vút lên, làm thành vọng âm của tiếng chim lảnh lót bay ngang qua nền trời.
Nàng đang ngồi giữa mái lều tranh. Kế bên nàng, cha nàng say khướt đang ngủ. Nàng liều lĩnh cầm lấy cây đàn và bắt chước từng động tác của ông. Đôi tay nhỏ nhắn của nàng di chuyển vụng về trên từng dây đàn. Những ngón tay chạm vào, kéo bung, đưa đẩy, khoan thai, dìu dặt. Âm thanh cất lên. Tinh tế và rụt rè, đó là một khúc ca ngây thơ, vui vẻ của một cô gái ở thuở ban mai của cuộc đời.
Trước tấm gương tròn, một cô gái trẻ nhảy múa, tay nhịp nhàng trong không khí. Những tà áo dài phập phồng và chiếc váy xếp nếp mở ra như một bông hoa mẫu đơn. Bỗng nhiên nàng dừng lại rồi đến gần chiếc gương. Hai bím tóc nàng buộc lại với nhau bằng một tấm vải đủ màu sắc làm thành hai bó hoa trà sau gáy. Giữa hai hàng lông mày, lấp lánh một mảnh vàng được gia công tinh xảo thành hình con ve sầu. Hai gò má nàng đánh phấn hồng nhạt. Môi nàng điểm xuyết hai chấm đỏ son ở giữa, như hai cánh hoa mận. Nàng đỏ mặt nhìn mình. Nàng đưa tay che mặt rồi nằm sóng soài ra thảm. Nàng đã mười bốn tuổi và người ta đã nói với nàng về hạnh phúc của một người phụ nữ.
Người ta đã xem tuổi và chọn ngày tổ chức hôn lễ. Cô của nàng, đã kết hôn với một quý tộc họ Vương, đứng ra làm mai mối. Cô gái trẻ sẽ kết hôn với một đứa cháu họ Vương, người thừa kế của dòng họ chức tước cao quý và một gia sản rộng mênh mông, nơi những bông hoa mẫu đơn rực rỡ bừng nở giữa mùa xuân.
Ngay sau hôn lễ, dì của nàng rủ nàng đi tản bộ. Chính cha nàng, người lẩn tránh thế gian, cũng buộc phải theo đám rước. Sau hai ngày đi thuyền, người ta cắm neo và đi bộ lên chùa. Sau khi đã thắp hương và dâng lễ vật lên các sư, cả gia đình nghỉ ngơi bên bờ sông, dưới bóng một cây lê đang nở hoa, trước khi gặp một gia đình khác đi xe ngựa đến. Sau màn chào hỏi xã giao lịch thiệp, thành viên của hai gia đình ngồi hai bên lối đi. Nhạc nổi lên và một nhóm kiều nữ xuất hiện, nhảy múa. Họ duyên dáng chuyển động từng cánh tay vải vóc thêu thùa. Trong những tia sáng mặt trời, tay họ hạ thấp xuống rồi cong lên và xoay vòng.
Người ta mang đồ ăn đến nhưng cô gái trẻ chỉ ăn với vẻ gượng gạo. Nàng đỏ mặt ngượng ngùng không thôi. Mặt cúi gằm, nàng không dám rời mắt khỏi những đĩa đồ ăn chay đựng trong cái liễn sơn mài. Bên kia rừng vũ nữ là vị hôn phu của nàng.
Sau chuyến tản bộ, nàng cảm thấy mình đã thành phụ nữ. Nàng xoay vòng trước gương, tự hỏi mình có đẹp không. Buổi tối, khi nàng đi ngủ, khuôn mặt vị hôn phu lấp ló sau quần là áo lượt của những vũ công lại hiện ra. Đôi má trẻ con của nàng, đôi môi hồng của nàng làm chàng trai cũng ngượng ngùng và hồi hộp. Nàng hốt hoảng nghĩ đến việc họ sẽ sớm chung chăn gối.
Của hồi môn đã được mang đến. Nhà họ Vương gửi đến những thỏi vàng hình chiếc ủng, những cuộn vải lụa, vịt và ngỗng. Của hồi môn do cha mẹ chàng trai chuẩn bị được đặt trong phòng nơi phụ mẫu sẽ ngắm nhìn và thêm vào đó những quà cáp khác. Cô gái trẻ nấp trong phòng nhưng vẫn nghe rõ tiếng chúc tụng. Những cô em họ của nàng đếm vải vóc, màn trướng, váy áo, chén đĩa, đồ đạc rồi phàn nàn sao chưa được lấy chồng.
Nàng lẻn ra khỏi phòng khi đêm đến. Tay cầm chiếc đèn lồng, nàng đi lang thang giữa đống đồ đạc bằng gỗ quý và những chiếc rương đầy vải vóc, lụa là, chén đĩa. Những chiếc váy treo trên móc có nẹp như cánh bướm còn mép váy xòe như quạt. Hoa cỏ, chim chóc, cây cối, mây trời, núi non và biển cả được thêu tỉ mỉ và viền chỉ vàng. Trên một chiếc bàn thấp, nàng phát hiện thấy một chiếc đàn cổ cầm hình một chiếc lá chuối sơn mài màu đen ngọc đã rạn. Tim nàng thắt lại. Nàng nhận ra vật quý nhất trong bộ sưu tập của gia đình, cây đàn mà Mẹ Lưu đã lấy ra khỏi tủ và chùi cẩn thận như một cây đàn mới tinh. Nàng đặt một tay lên đó.
“Cảm ơn cha!” Nàng thì thầm. Những dòng nước ngập đôi mắt nàng. Khi đã kết hôn, nàng sẽ không còn được cùng cha đến chợ, không được đi chọn đá và thân gỗ! Nàng sẽ không còn được giúp cha tìm những dụng cụ mà ông để mất liên tục, không còn được canh lò nấu cho cha luôn có rượu nóng, không còn được thổi tiêu khi cha chơi đàn cổ cầm.
Cây đàn có sáu dây lụa mới lên. Khi nàng vuốt qua, nhạc cụ cất tiếng, trầm và đơn điệu, như khi người ta thổi vào một chiếc tù và của bộ tộc man di. Cây đàn thuộc về nàng thơ Sái Văn Cơ sống cách đó hai trăm năm dưới triều nhà Hán. Cha nàng là Sái Ung, nhà thơ nổi tiếng, một tay viết thư pháp, một tay chơi đàn cổ cầm, có nhiều học trò, trong đó có những người nổi tiếng trong chiến tranh và những hoàng đế Hoa Hạ. Khi triều nhà Hán sụp đổ, khoảng thời gian chia cắt và những cuộc chiến tranh đẫm máu bắt đầu. Sái Ung chết trong tù. Một bộ tộc man di đã cướp phá kinh đô nhà Hán. Nàng Sái Văn Cơ bị bắt đem đến những thảo nguyên Tây Bắc. Nàng mới chỉ hai mươi ba tuổi. Nàng sống trong gió lạnh, uống sữa bò Tây Tạng suốt mười hai năm và sinh hạ hai người con trai cho tộc trưởng. Khi tướng Tào Tháo, một học trò của cha nàng, trở thành quân vương mới của Trung Hoa, ông ta cho một xe chở đầy vàng và ngọc trắng đến bộ tộc dã man để chuộc nàng về. Sái Văn Cơ phải xa con và trở về giữa những người Hoa Hạ. Nàng viết mười tám điệu phách cho đàn theo thanh âm của tộc người man và để lại một tập thơ viết về nỗi buồn đau của mình.
Cô gái trẻ khóc vì hạnh phúc và buồn tủi. Những giấc mơ và nỗi nhớ của nàng thổi mạnh trong lòng nàng từng cơn nóng lạnh. Nàng không còn biết cuộc đời nữa và trên hết là dửng dưng với những đám mây đang đổ dồn về phía chân trời và với cuộc chiến sắp nổ ra.
Nàng không biết rằng một đạo sĩ tên Tôn Ân đã tuyên bố mình được phó thác cho một sứ mệnh thiêng liêng rồi dấy quân chống hoàng đế nhà Đông Tấn. Lời hiệu triệu của ông ta đến tất cả những người theo đạo giáo đã làm tám tỉnh cùng nổi dậy. Người ta ném những dãy hàng rào ra đường; những dòng sông đầy thuyền chiến; các toán kỵ binh mang đầy vũ khí ngang dọc những cánh đồng để gia nhập với quân nổi loạn. Triều đình vội họp quần thần, bắt tội phạm đi lính và kêu gọi các băng đảng để tiêu diệt những kẻ nổi dậy. Hai đạo quân đối đầu nhau dọc bờ Nam sông Dương Tử.
Một đêm nọ, cô gái trẻ bị mẹ đánh thức. Quân đội triều đình đã đến vùng đất của họ. Quân đội tàn sát, cướp phá và đốt tất cả những gì chúng đi ngang qua. Gia đình phải đi lánh nạn ngay lập tức sau những tường thành cao của kinh thành được lính ly khai bảo vệ. Vào lúc bình minh, cô gái trẻ xuống thuyền. Siết chặt trong tay một chiếc rương nhỏ đựng cây đàn của Sái Văn Cơ, nàng để lại sau lưng mình toàn bộ vải vóc, lụa là của đêm tân hôn. Con thuyền nhổ neo và chìm vào làn sương mờ buổi sớm tinh mơ. Bất chợt nàng nghĩ đến cây đàn có thể mang cho nàng số phận bất hạnh của người chủ cũ.
Bóng quân lính qua lại trên bờ thành. Trống, tù và cùng những tiếng thét gào của chiến tranh vang lên. Quân triều đình và những người hung dữ xuất hiện như một bầy chim tham mồi rồi bao vây kinh thành. Những mũi tên lửa từ trên trời rớt xuống và những con kênh bốc cháy. Đến ngày thứ bảy, sự im lặng đè nặng kinh thành khi mặt trời lặn xuống dưới mép thành. Đêm im lặng đến mức làm người ta thấy sợ. Cô gái trẻ không thể chợp mắt. Nàng thức dậy, nắm lấy cây đàn rồi đi ngủ, siết chặt nó trước ngực.
Khi mặt trời ném xuống cửa sổ một tấm mạng đỏ rực, tiếng xì xào qua lại trên kênh: quân lính đã làm phản tổng đốc. Họ chém đầu ông ta và dâng kinh thành cho quân triều đình. Cánh cửa phòng nàng mở ra thật mạnh. Anh nàng nói nàng đến phòng thờ Phật. Phòng thờ của gia đình đen nghịt người. Tất cả thành viên của gia tộc đã đến đó cầu nguyện. Nàng quỳ sụp xuống thảm bên cạnh mẹ.
Nàng không thể tập trung vào những lời cầu nguyện và nhìn ngang dọc tìm cha. Không thấy ông trong đám đông, nàng tuồn ra cửa sổ. Qua chấn song cửa sổ, nàng thấy ông ở giữa sân, tay cầm kiếm, xung quanh là những người hầu lăm lăm vũ khí. Những âm thanh đáng sợ, một tiếng ù ù dội lên từ con kênh và tỏa ra khắp ngôi nhà. Bất thình lình, cánh cổng rung lên và bung ra thành trăm mảnh. Lũ người huơ cao đao kiếm vừa ùa vào vừa thét lên những âm thanh man dại. Nàng nhắm chặt mắt và bịt tai. Khi nàng mở mắt ra, nàng thấy cha mình lảo đảo và ngã úp xuống.
- Cha!
- Ở yên đây!
Mẹ nàng giữ nàng lại dưới váy của bà. Nhưng bị một sức mạnh như quỷ ám kích động, nàng vùng chạy ào ra khỏi phòng, dọc theo hành lang, không nghe thấy cả tiếng chân mình. Nàng nghe thấy tiếng bình lọ bị vỡ, đồ đạc rơi xuống, màn cửa bị xé toạc, nhưng nàng không hề thấy sợ.
Một toán lính nhào đến. Một lưỡi gươm lóe lên trong không trung rồi một nhúm tóc bay ra. Chết lặng vì kinh hoàng, nàng nhắm chặt mắt, lùi về bên trái và đập vào một bức tường. Bức tường bỗng chuyển động và giữ lấy vai nàng. Nàng mở mắt, hốt hoảng và thấy đó là một người lính nhỏ con mặt ngăm đen. Đồng tử sáng quắc lên dưới nón giáp trang hoàng bằng lông màu cam. Hắn nhìn nàng, đẩy nàng ra và ra lệnh mang nàng đi nhưng không được ngược đãi nàng.
Nàng bị nhốt trong một căn phòng, nàng thu mình trong một góc và áp tai vào tường. Tiếng ồn ào có vẻ đã ngưng, nhưng âm thanh nhỏ nhất cũng làm nàng run lên vì sợ hãi. Cửa phòng mở ra vào buổi chiều. Mẹ nàng bước vào, cùng với toán lính. Mẹ nàng nói viên chỉ huy của đoàn quân lấy làm tiếc về cái chết của cha nàng và để chuộc lại lỗi lầm của quân lính, hắn quyết định sẽ cưới con gái ông. Nàng gục đầu, không nói nên lời. Mẹ nàng kìm nén nước mắt rồi đi chuẩn bị phòng tân hôn. Cô gái trẻ muốn một bồn tắm nước nóng. Đó là yêu cầu duy nhất của nàng. Viên chỉ huy nói không cần thiết.
Nàng núp mình trần truồng dưới tấm chăn. Căn phòng đen tối đến mức nàng không còn khái niệm thời gian. Những bồn chồn của phụ nữ ập đến với nàng; nàng có cảm giác như đang ngủ trong một cỗ quan tài và người ta đang khóc than cái chết của nàng. Cánh cửa bật mở rồi một bóng đen tiến tới, tay cầm một ngọn nến. Một người đàn ông cởi bỏ trang phục, thổi tắt nến rồi lật tấm chăn lên.
Hai bàn tay nặng và cứng tóm lấy hai bầu ngực của cô gái trẻ. Nàng không dám phàn nàn cũng chẳng dám thở. Cả cơ thể nàng run lên rồi căng cứng lại. Bất thình lình, nàng cảm nhận hai đầu gối lạnh lẽo giữa đùi mình.
- Mẹ ơi!
Nàng la lên một tiếng.
Ngay trước bình minh, từ tường thành cao, ai đó thổi tù và. Người đàn ông đã trở thành hôn phu của nàng thức dậy. Hai bồn nước nóng đã được đặt sẵn trong phòng. Nàng đau khắp người, nhưng nàng trở dậy và vội vàng mặc quần áo để hoàn thành nhiệm vụ của hôn thê. Nàng im lặng đặt đầu của người đàn ông úp trên đùi nàng rồi dỡ búi tóc của hắn ra, búi tóc bốc mùi thật ghê tởm. Tóc dài và cứng trải ra trong bồn nước, nhả ra mùi mồ hôi, bùn, máu và những mùi khác không thể tả nổi. Nàng gội mái tóc đó thật lâu bằng vỏ cây phủ rêu, xoa nhẹ lớp da lông lá, đổ từng làn nước lên cơ thể hắn rồi dùng khăn kì cọ lưng hắn. Nàng cúi gằm mặt, tránh nhìn những cơ bắp và vết sẹo. Nàng nhìn chằm chằm vào bàn tay mình, bàn tay dường như trong mờ trên làn da của người đàn ông, làn da bị những vũ khí rạch ngang dọc.
Nàng cho hắn ngồi xuống trước gương ở bàn trang điểm rồi chải mái tóc đã vắt khô nước của hắn. Nàng lén nhìn vào mặt hắn. Không có mũ giáp che mặt, nàng không nhận ra hắn. Có lẽ đó không phải là kẻ nàng đã gặp trong hành lang. Hắn cũng nhìn nàng chằm chằm qua gương. Nàng quay đi.
- Gia đình nàng từ nay nằm dưới sự bảo vệ của ta, – hắn nói với nàng. Đó là lời đầu tiên hắn nói với nàng từ đêm qua tới giờ. – Hãy lấy đồ đạc của nàng. Chúng ta sắp lên đường.
Cổ họng nàng nghẹn lại đến mức nàng muốn nôn.
- Chính nàng đã chọn ta, – hắn nói qua gương.
Trong số những đồ quý hiếm mà gia đình nàng sở hữu, nàng chỉ lấy cây đàn cổ cầm của nàng Sái Văn Cơ. Nàng leo lên xe, vừa khóc vừa siết chặt cây đàn trước ngực.
Con la đi chậm lại. Bây giờ Bà Mẹ Trẻ đã nhận ra tiếng của những chiếc xe khác chở phụ nữ và lương thực. Gió làm cánh cửa đập đập và thổi vào mũi mùi hơi mưa ẩm ướt. Giống cây đàn cha nàng từng chơi, gió cũng than oán và rên rỉ.
Mưa vội vã đến. Từng hạt đập vào trướng làm nàng nhớ đến tiếng tỳ bà lảnh lót, loại nhạc cụ ông nội nàng ưa thích. Bà Mẹ Trẻ bịt tai lại. Tối nay, những người chết trở lại dương gian. Băng qua những tầng mây, ông nội và cha nàng chơi song tấu bằng những nhạc cụ yêu thích của mình. Họ nói với nàng về sự sinh thành hay về cái chết?
Những cơn co thắt liên tục làm nàng phải thở hắt ra. Chiếc xe dừng lại. Một tên lính mở cửa, bước lên. Không nói không rằng, hắn nắm tay nàng và vác nàng ra khỏi xe như vác một bao gạo. Nàng muốn dùng tay banh phắt ruột của mình ra. Mưa nghiến nát khuôn mặt nàng đang nhăn nhó và chảy vào miệng nàng. Nàng uống nước mưa để làm dịu từng tế bào thần kinh. Tên lính đạp cửa, xông vào một ngôi nhà. Một mùi kinh khủng xộc lên. Hắn đặt nàng vào một cái chuồng ngựa, xuống một đống rơm rồi bỏ đi. Bà Mẹ Trẻ mò mẫm bò đi. Hổn hển, nàng cởi bỏ quần áo lót rồi giạng chân ra. Đùi nàng rách toạc. Nàng ngất đi.
Khi nàng mở mắt ra, nàng thấy trong bóng đêm những người phụ nữ đang vội vã và nghe những con trâu đang rống lên.
- Chúng ta đang ở đâu vậy…? – Nàng hỏi
Một người phụ nữ đặt tay lên miệng nàng.
Những tiếng kim loại đều đặn vang lên. Áp tai vào kẽ tường, nàng biết là mưa đã ngớt. Vô số đuốc trôi đi trong đêm và lính tráng đấu kiếm. Những cơn đau thắt lại đến. Nàng bật ra một tiếng la. Những người phụ nữ nhào đến bên nàng, bịt miệng nàng bằng chiếc váy của họ. Nàng ưỡn ngực vẻ đau đớn rồi cơ thể nàng vã mồ hôi. Tiếng thét của những người đàn ông đến gần. Nàng cắn mạnh hết sức vào nùi vải đã được nhét vào giữa hai môi nàng. Tai nàng ù đặc. Nàng không còn nghe được tiếng trái tim mình đập ngày càng nhanh và mạnh, một cú, hai cú rồi ba cú… Chính là con nàng đang hối hả lao vào cuộc đời trong cơn thịnh nộ như lính tráng đang trên đường lao về cái chết.
Cánh cửa bật ra thật mạnh rồi một tên lính nhảy vào trong. Mình mẩy đầy máu me, mắt hắn quắc lên. Hắn lảo đảo như say, nhấc đuốc lên rồi huơ thanh kiếm vẫn dính máu chảy ròng ròng. Những người phụ nữ hét lên. Bà Mẹ Trẻ nhắm mắt lại. Khi nàng mở mắt ra, tên lính đã buông kiếm, người hắn đang co giật. Trên cổ hắn, một mẩu kim loại xuyên qua. Tên lính ngã xuống, úp mặt xuống đất, để lộ ra một mũi tên cắm vào gáy. Tay chân hắn giật lên liên hồi, nhiều lần hắn cố đứng dậy. Mỗi chuyển động của hắn đều làm những người phụ nữ hoảng sợ. Họ hốt hoảng ôm chặt nhau. Ngọn đuốc hắn làm rơi xuống đã đốt cháy đám rơm rạ.
Bà Mẹ Trẻ không còn cảm nhận được tay chân mình nữa. Những đợt đau thắt trong bụng nàng đã dứt. Nàng đờ đẫn và lạnh lẽo cùng cực. Đầu óc nàng lơ lửng rồi nàng cảm thấy một mùi rất nặng. Phải chăng kẻ thù đã chiếm được ngôi làng? Nàng khát nước. Nhưng nàng không còn đủ sức hé môi. Nàng bị những cột đen ngòm xoáy thẳng lên trời bao quanh.
Nàng nghe những tiếng hét quanh mình:
- Nước trong máng!
- … Một xô!
- Đưa váy chị đây…
- Giữ cô ta tỉnh!
- A, ra máu rồi!
- Cái đầu ra rồi…
- Từ từ thôi… Kéo!
- Nó không động đậy nữa…
- Đặt tay lên cổ nó… Từ từ thôi!…
- Đừng chết!… Hít vào đi…
- Đẩy… đẩy!
- Xoa bóp bụng nó…
Chết? Sống? Với nàng, cái nào cũng như nhau thôi. Nỗi buồn đè nặng lên nàng nhưng Bà Mẹ Trẻ mỉm cười. Nàng ngừng cuộc tự đấu tranh. Một cái nóng dịu ngọt mang nàng sang một thế giới khác, một thế giới tốt đẹp hơn.
Trên cây, chim chóc mặc kệ chiến tranh và ca hót líu lo. Bà Mẹ Trẻ nháy mắt rồi mở cặp lông mi nặng nề. Người ta mang đến cho nàng một đứa trẻ nhăn nheo, quấn trong những mẩu vải xé ra từ chiếc váy. Nàng nhận ra tiếng chim chóc thật ra là tiếng đứa trẻ mà nàng đã thai nghén đang khóc.
Bình minh đã vào đến chuồng ngựa rồi trải ra như một dòng sông sữa. Nàng ngạc nhiên thấy rằng nỗi buồn, sự đau đớn, nỗi sợ hãi, tất cả đều biến mất sau một giấc ngủ. Cuộc đời cuối cùng đã cho nàng niềm hạnh phúc của một người phụ nữ. Một cảm giác run rẩy nhẹ nhàng chưa từng có. Như một cốc trà sau chuyến đi đường dài, như bông hoa xuân đầu tiên hé nở bên đường. Một cảm giác bình yên lâng lâng vỗ về hai gò má nàng và làm chân tay nàng đang mỏi mệt được dãn ra.
Cùng thời gian đó, các bộ lạc du mục Tiên Ti, Hung Nô, Đê, Khương ồ ạt tấn công vào đế chế Hoa Hạ. Những bộ lạc này gây ra sự suy tàn của vương triều nhà Hán, rồi đến vương triều nhà Tấn và buộc người Hán phải rời khỏi quê hương trốn về phía bờ nam sông Dương Tử. Đất nước bị chia cắt thành hai nửa. Bên bờ Bắc sông Dương Tử, các bộ lạc dần Hán hóa. Bằng cách sử dụng lại cách điều hành và văn tự của người Hán, họ xây dựng lên các vương quốc của mình. Ở bờ Nam, người Hán tiếp tục quần tụ quanh thiên tử, một hoàng đế được xem như thuận thiên thừa mệnh.
Giữa các vương quốc ở bờ Bắc và các triều đình bờ Nam, chiến tranh xảy ra khốc liệt triền miên. Cuộc chiến Nam – Bắc triều đi kèm với vô số những cuộc nội chiến. Ở bờ Bắc, các bộ lạc đánh nhau để tranh giành lãnh thổ. Ở bờ Nam, các thủ lĩnh địa phương tranh thủ mọi thời cơ để nổi dậy và tranh nhau ngai vàng.
Ở bờ Bắc, mười sáu vương triều được định hình. Con số này giảm dần theo năm tháng qua các cuộc xung đột. Ở bờ Nam, các vương triều nhà Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần nối tiếp nhau cai trị, càng ngày càng chóng lụi tàn vì các cuộc nội chiến ngày càng nhiều. Hai trăm năm sau, Dương Kiên, một triều thần gốc Hán, đã lật đổ ngai vàng của một vương quốc được các bộ lạc du mục lập ra. Dương Kiên thống nhất bờ Bắc, đánh bại bờ Nam và thống nhất hai miền Trung Hoa vào năm 589.
Một
Năm 400, triều Đông Tấn
Quân đội vượt dòng Dương Tử. Ngựa hí vang, chiến xa rì rầm, kỵ binh và bộ binh gầm thét. Tất cả tạo thành một con trăn khổng lồ trườn đi chầm chậm.
Trong chiếc xe phủ trướng đen, Bà Mẹ Trẻ mê man. Nàng đã mất hết khái niệm về thời gian và không còn biết đất trời thay đổi. Con đường của các binh sĩ là một hành lang tăm tối và lạnh lẽo, cách biệt với thế giới bên ngoài. Cuộc đời nhà binh đong đếm bằng những hồi tù và rền vang ra lệnh tiến quân hay dừng lại, bằng những tràng trống lệnh tấn công hay rút lui. Bà Mẹ Trẻ không biết đến niềm vui. Nàng chỉ biết đến nỗi buồn. Dễ bị tổn thương và không có vũ khí, nàng buộc phải theo chân người đàn ông đã bắt được mình.
Gò má nàng hóp sâu. Tiếng rít vội vã của bánh xe và tiếng rì rầm đáng sợ của dòng sông đã chiếm lấy da thịt nàng. Tay và chân nàng sưng húp. Ngực căng đầy làm nàng đau đớn. Bụng nàng biến thành một mỏm núi chỉ toan phun trào nước và máu. Trong nàng, sự sống lao vào cuộc chiến khốc liệt chống lại thần Chết. Bằng một sợi thừng kiếm được giữa trận chiến, nàng buộc chặt cái bụng căng tròn vào cơ thể yếu ớt đang dựa vào một dải xương sống mỏng manh của mình. Nàng sợ đứa con rơi khỏi nàng và rớt khỏi chiếc xe. Trên đường, nơi nào quân sĩ đi qua, nơi đó chẳng còn người giàu kẻ nghèo, chỉ còn những thây người, những kẻ đói khát, những kẻ tha hương cầu thực. Ngựa giẫm đạp lên nhau, chiến xa và xe kéo nối đuôi nhau, binh lính chạy bộ theo hàng ngũ. Kẻ bị thương, kẻ bị bệnh, tất cả những ai ngã xuống mà không kịp bình phục, tất cả những ai bị bỏ lại phía sau đều bị thần Chết nuốt chửng, mang đi.
Chiếc xe rung giật dữ dội. Con đường mòn làm bánh xe kêu cọt kẹt. Bà Mẹ Trẻ mở mắt, ôm ghì lấy bụng mình. Bất ngờ, một mũi tên đâm thủng mái vòm, mũi của nó xé toạc tấm màn trướng. Bà Mẹ Trẻ hét lên thất thanh. Chiếc xe dừng lại. Ở đằng xa, tiếng tù và vang lại báo hiệu cuộc tiến công. Những tiếng hét lúc đầu còn nhỏ, sau đó lớn dần rồi lao thẳng vào nhau. Nàng nghe người phu xe thúc con la dữ dội. Chiếc xe rên rỉ rồi lại tiến về phía trước.
Bụng nàng co thắt mạnh. Cơn đau làm nàng phải gập người lại. Nước chảy ra giữa hai đùi nàng. Mũi tên thứ hai đâm thủng mái xe. Nàng trườn xuống sàn xe, co rúm người lại.
Bỗng một hồi vó ngựa kéo tới, kèm theo tiếng la của một tên lính:
- Lửa! Lửa!
Một giọng khác trả lời:
- Chúng bắn cung tên lửa vào xe lương thảo rồi!
Vó ngựa làm rung chuyển mặt đất.
- Nhanh! Phụ nữ và lương thực nhanh vào làng!
Lửa đã đốt sáng cả trời đêm. Lửa vẽ lên những tấm trướng đen họa tiết hoa đỏ rực. Cánh hoa rời rạc phồng lên rồi vung vẩy khắp nơi. Bà Mẹ Trẻ nghẹt thở. Nàng không còn phân biệt được tiếng bánh xe và tiếng ngựa hí, tiếng lính tráng chạy qua chạy lại la hét những khẩu lệnh vội vàng. Tiếng ầm ầm trở nên đinh tai nhức óc. Nàng nhắm mắt lại. Bà cố nàng đã sinh nở trong một chiếc xe bị kỵ binh và cung thủ của một bộ lạc du mục truy sát. Bà chết ngay tại chỗ để rồi đứa bé đã phải bú sữa của người chết.
Số mệnh đã đeo đuổi gia đình nàng hay sao?
Nàng sinh ra trong một thị tộc danh giá ở đất Trung Nguyên. Dòng máu quý phái của tầng lớp thượng lưu chảy trong nàng. Từ thuở xa xưa, tầng lớp thượng lưu đã thường giao du và kết hôn với nhau. Là đẳng cấp cao nhất trong xã hội, họ không cần phải đóng thuế cho triều đình, cũng không phải thực hiện nghĩa vụ với các hoàng đế và sống tự cung tự cấp ở miền quê.
Tổ tiên của nàng từng sở hữu những thửa đất mênh mông ở Trung Nguyên. Một kỵ binh phải mất hai con trăng mới đi hết một vòng quanh các cánh rừng, đồng cỏ, ruộng nương, làng mạc và điền trang của tổ tiên nàng. Khi các bộ tộc dã man dồn quân lính Hoa Hạ vào bước đường cùng, thị tộc cũng buộc phải rời bỏ Trung Nguyên, vượt dòng Dương Tử sang bờ Nam lánh nạn. Một vương triều được dựng lên, mang tên Đông Tấn.
Mồ hôi của những kẻ lưu đày tưới đẫm bờ Nam, làm mọc lên vô số các thị thành. Giới thượng lưu đã đánh mất tài sản nhưng vẫn giữ những thói quen của tầng lớp mình và sống tự cung tự cấp, cách xa kinh đô mới mở. Trong khi chờ đợi lấy lại được bờ Bắc, họ khai khẩn đất hoang, tưới mát các ngọn đồi và ruộng rẫy. Cung điện, đền đài, vườn tược còn cao hơn và đẹp hơn những gì để lại cho những tộc người dã man.
Với khí hậu ôn hòa và đất đai màu mỡ, nghề trồng lúa nước và bông vải cùng nghề nuôi tằm lấy lụa đã phát triển mạnh mẽ; kỹ thuật dệt và kỹ thuật kim hoàn mở rộng trong dân chúng. Giao thương cũng phát đạt không kém. Khi đã giàu có, các thương nhân ngày càng có tầm ảnh hưởng rộng, mặc cho họ xuất thân từ tầng lớp thấp nhất của xã hội.
Giới thượng lưu không thích thay đổi. Cuộc sống của họ bình ổn. Họ để cho hoàng đế và chính quyền địa phương toan tính việc quân. Cầm kỳ thi họa và các suy tư triết lý mới là thú tiêu khiển của họ. Vào mùa xuân, họ đi du ngoạn bên bờ hồ, ngắm lũ cò trắng sải cánh trong sương mờ; mùa hè, họ chơi nhị cầm và tiêu sáo dưới ánh trăng; mùa thu, các cuộc tranh tài thi ca diễn ra trong chén tạc chén thù cùng thịt cá tươi ngon; mùa đông, những khúc hát dịu ngọt của phương Nam làm những thế hệ trẻ chẳng còn muốn quay về Trung Nguyên, nơi mùa đông khắc nghiệt trong bão tuyết mịt mù.
Bà Mẹ Trẻ chưa ăn uống gì từ đêm qua, nhưng nàng chẳng thiết tha. Tay nàng tìm kiếm trong chiếc xe rồi lôi ra một chiếc túi da cừu có mùi tởm lợm khiến nàng buồn nôn. Nàng phải ăn để có sức sinh nở. Nàng phải cố cử động cái miệng rét cóng và nuốt ực một ngụm nước chua lòm. Nàng cầm lấy một nắm cơm đã lạnh khô và mở banh cổ họng để nuốt vào từng hạt. Nàng thèm chút trà thơm vị mận xanh mà nàng uống hồi mùa hè nào đó trong một chiếc tách mã não trắng. Nàng còn nhớ tất cả các bộ tách trà được dùng theo từng mùa: trà hạt sen, trà cẩm tú cầu, trà bột vừng, trà mộc qua, trà hoa đào. Nàng tiếc đã không thể nào giữ lại trên đầu lưỡi chút hương vị ngày xưa. Làm sao nàng còn có thể nuôi dưỡng cái vẻ huy hoàng phù phiếm đó chứ?
Những mũi tên xé gió cắm phập vào tấm vải bạt của chiếc xe. Con la hí lên như bị cắt tiết. Bà Mẹ Trẻ ép mình sát mặt đất. Đã lâu thật lâu nàng không có tin tức gì về hôn phu. Nàng không biết chàng có còn sống hay không.
- Á!
Tiếng thét của người phu xe làm nàng run lẩy bẩy. Nàng bò lên, vén cánh cửa sổ nhỏ. Một mũi tên cắm vào vai của cái bóng đen ấy. Mặc dù bị thương, ông vẫn một tay nắm chặt dây cương còn tay kia đánh thúc con la.
Lính tráng là một dòng giống khác. Như những cánh chim lượn trên sông Dương Tử và trú trong mỏm núi, họ sống với nhau, xa cách cuộc sống thường nhật bên ngoài. Nàng không biết tên tuổi của người lính này. Chẳng hề biết nhau, họ lại trở thành bạn đường trên chuyến đi chết chóc này. Tại sao ông ta không dừng lại? Tại sao ông ta không bỏ mặc chiếc xe và bỏ trốn? Tại sao ông ta ngoan cố cầm cương? Những chiếc bánh xe rên xiết và xoay đều. Hoàn toàn tập trung và im lặng, ông ta đánh xe xé toạc đêm đen, không bao giờ nhìn lại phía sau.
Trước khi hôn phu của mình ra đi, nàng từng xin chàng một lưỡi dao nhọn.
- Để làm gì? – Chàng hỏi nàng.
- Dù cho chàng đã bắt cóc thiếp nhưng thiếp đã là vợ của chàng và thiếp chấp nhận số phận này. Thiếp muốn có thể tự sát nếu những kẻ thù của chàng chẳng may bắt được rồi làm nhục thiếp. Thiếp không muốn làm chàng mất danh dự.
Chàng không thể hiểu nổi.
- Nàng rất xinh đẹp, eo nàng thon thả, – chàng trả lời. – Hãy đi theo kẻ cho nàng một túp lều để ở và một đĩa cơm để ăn. Hãy quên ta đi.
Bà Mẹ Trẻ lạnh run. Cơn đau lại ập đến nơi bụng dưới của nàng, nhưng nỗi lo phải sinh hạ trong bão lửa và cung tên còn lớn hơn cơn đau này nhiều.
Những hình ảnh ấu thơ đầu tiên của nàng là những chiếc nồi bạc bắc trên bếp đất sét nung. Nô lệ mặc áo xanh áo hồng, lũ lượt thay than trong lò. Những thang thuốc sôi ùng ục trong nồi hay đang nguội đi bên cạnh những ngọn lửa tỏa ra mùi hương ngọt ngào và cay cay khắp phòng. Mẹ Lưu cầm một cái chén tới gần. Ánh mắt bà hiền hòa mặc dù khuôn mặt bà nghiêm nghị. Bà vừa thầm thì vừa mím môi:
- Uống đi con gái. Con bị ốm rồi… Con ốm nặng rồi. Mở miệng ra nào… Đúng rồi… Như vậy…
Giọng nói này làm nàng sợ và nàng không kháng cự được khi chén thuốc đến gần.
Mặc cho nàng nước mắt đầm đìa, Mẹ Lưu đỡ nàng dậy rồi đổ chất nước đen ngòm vào miệng nàng. Nước thuốc chua lòm làm nàng nghẹt thở. Hai thái dương nàng kêu ù ù. Giọng Mẹ Lưu của nàng nghe lúc được lúc mất:
- Uống đi… rồi con sẽ khỏe lại… Con sẽ có một người chồng tử tế và một bầy con ngoan…
Mẹ Lưu trở lại bên bếp lò và nấu một thứ thuốc khác.
- Uống cái này nữa. Nếu không con sẽ không đi lại được…
Nước mắt đầm đìa, nàng lại ngoan ngoãn há miệng. Chất nước sền sệt và đen ngòm nhấn chìm nàng. Đầu óc nàng quay cuồng, ngực nàng nức nở. Mẹ Lưu không lau khuôn mặt lem luốc của nàng mà còn quay lại với chén thuốc thứ ba.
- Thuốc này để giữ tay chân con được ấm và bổ gan.
Nàng quên cả nghiến răng và để mặc cho Mẹ Lưu làm gì thì làm. Cơ thể nàng đẫm mồ hôi, nàng ngã vật xuống chiếc gối và ngủ thiếp đi cho tới khi Mẹ Lưu gọi nàng dậy uống thuốc khác.
Mẹ Lưu là một nô tỳ mà người ta không biết tên tuổi. Tuy nhiên, chính bà là người mang bên mình tất cả các chìa khóa trong nhà. Những lời to nhỏ về quyền lực của bà đi trước bước chân của bà, tiếng chìa khóa lanh canh trước khi bà xuất hiện. Khi bà ngồi xuống và cầm lấy cây cọ, không phải để viết thư pháp hay để vẽ. Bà giữ hai khoản tiền, một khoản cho trang viên ở miền quê và một khoản cho tòa nhà trong kinh thành. Miệng lưỡi thiên hạ đồn rằng bà đã tách ông nội khỏi những người vợ của ông để dễ dàng cai quản. Mẹ Lưu cai quản ruộng đồng, trông chừng hạt giống rồi cho thu hoạch chúng. Bà đếm từng túi thóc và từng cuộn len, vải, lụa mà những nông dân làm việc cho gia đình nộp về. Bà xâu từng đồng tiền có được từ những người lái thương vào một sợi dây mảnh dài như con rắn và trao lại cho những người quản lý các phu nhân của ông nội. Mỗi tháng một lần, bà chất lên thuyền những túi lớn rau quả, hạt và lúa gạo rồi đi về phía kinh thành. Bà ở nhà ông nội và sắp xếp mọi việc trong tòa nhà. Vì Mẹ Lưu nói không ai biết cách dạy con gái nên bà dẫn nàng về ở với bà và không ai dám phản đối.
Gắn bó với Mẹ Lưu như một chiếc chìa khóa dính với thắt lưng của bà, nàng thường xuyên ù tai với giọng nói sang sảng của bà, nấp dưới váy bà và chơi đùa giữa hai chân bà. Khi bàn tay sần sùi của bà lướt trên khuôn mặt nàng, nàng cảm nhận từng đợt sóng yêu thương trìu mến. Trong số con cháu của ông nội với các bà vợ khác nhau, Mẹ Lưu chỉ yêu có mình nàng. Bà nhìn nàng bằng con mắt đầy lo lắng, thấy nàng quá gầy, quá xanh xao, quá im lặng. Bà nhìn nàng ăn từng chút, từng chút và sắp xếp giường chiếu cho nàng cẩn thận rồi mới đi ngủ trước cửa phòng nàng.
Trên thắt lưng của bà có một chiếc chìa khóa nghìn chân. Nó mở cửa căn phòng giấu kho báu của bộ tộc. Những chiếc rương bằng gỗ chống được mối mọt và hơi ẩm nằm ngay hàng, thẳng lối với nhau, trong đó chứa những nhạc cụ được đặt nằm ngang. Cầm một cái giẻ nhỏ trên tay, Mẹ Lưu lau chùi chúng thật kĩ lưỡng. Một nhạc cụ giống hình lá chuối được chăm sóc đặc biệt. Đáy cây đàn đã sờn và rạn là chỗ ít đẹp nhất. Mẹ Lưu nói rằng cây đàn cổ cầm cổ là một trong số các vật quý hiếm mà gia đình mang theo trong lúc chạy loạn về phương Nam và chỉ cây đàn đó thôi đã trị giá bằng cả một đô thành.
Mẹ Lưu hát thầm những điệu nhạc ngọt ngào. Bà không phải người Hán mà là con gái của một tộc người ở vùng đất cực Nam. Khi còn nhỏ, bà đã hát theo giọng điệu của bộ tộc. Mẹ Lưu nhắm mắt mơ màng và vỗ tay lên đùi giữ nhịp như thể bà đang nghe được thứ âm nhạc tuyệt hảo nhất.
Một buổi sáng, khi vừa mở mắt, cô gái nhỏ nhận thấy chiếc thảm trước phòng mình trống rỗng. Mặt trời chiếu qua tấm mành che rồi dừng lại trên tấm chăn vẫn còn nguyên hình dáng bà. Những hạt bụi nhỏ óng ánh xoay tròn trên dấu vết này rồi chợt tắt. Chúng thành hình một người đàn bà ngủ rồi bay tản ra.
Sau đó, người ta cho cô gái biết Mẹ Lưu chết trong đêm. Cùng với bà, thời thơ ấu của nàng cũng vụt mất như một cánh hoa bồ công anh bay đi.
Bên kia tường cao cổng kín quanh nhà, cuộc đời rất bình yên. Lừa và ngựa nhẩn nha gặm cỏ trên đồng; ngỗng và gà đẻ trứng giữa đường đi. Cây cối phủ quanh ngôi làng nhìn xuống những cánh đồng và ao hồ đầy ắp cá. Khu nhà ở rộng rãi gồm các tòa nhà và vườn tược của cha mẹ và các bác chia nhau, nối với nhau nhờ một dòng nước. Cùng với các anh em họ hàng, nàng nhảy nhót, trèo lên lưng dê, câu tôm, hái lá dâu về cho tằm ăn, nhả tơ nhả lụa.
Đi thuyền khoảng nửa ngày thì đến kinh thành nơi ông nội sống, một thành đô nằm giữa bốn bức tường cao bằng đá, các con kênh thay thế đường sá và những con thuyền được trang hoàng bằng những tấm vàng dát mỏng thay thế lũ ngựa bờm xinh xắn. Nàng ngoảnh đầu lại đếm những ngôi nhà xây bằng xà và cột được tô vẽ đang cắt vào nền trời.
Ông nội sống trong một tòa nhà có nhiều tầng. Nàng hiểu rõ tất cả các bức tranh và những hình vẽ trên tường đến từng chi tiết. Phong cảnh, thú vật, cỏ cây, những cảnh chiến tranh, những cuộc phiêu lưu của các thương nhân bán lụa trong sa mạc Tây Bắc, hình minh họa cho các bài cổ thi, cuộc đời những ông vua và những tao nhân mặc khách, ngôi nhà này với nàng còn rộng hơn cả một vương quốc. Phòng nàng ở tầng ba. Nàng nhảy cóc lên cầu thang gỗ để làm nó rung lên từng đợt. Khi nàng ngồi bên cửa sổ, kinh thành trải ra dưới mắt nàng như một bức họa trên vải cuốn.
Mùa xuân, hoa bừng nở trong từng góc phố. Màu sắc lúc đầu khác biệt nhau rồi hòa vào nhau. Khi gió thổi nhẹ, những cánh hoa bay lên cao rồi nhẹ nhàng đáp xuống mái tóc nàng. Mùa hè, khi những cơn bão tràn về, kênh rạch trở thành những dải lụa màu xanh ngọc. Mùa thu, vào những đêm trăng tròn, các tòa nhà in bóng xuống kênh làm thành một con rắn dát bạc. Nó chạy vòng quanh nàng để phô ra những đường kẻ sọc rực rỡ rồi chọc nàng cười. Mùa đông, thương nhân gả con gái của họ và phô trương sự giàu có. Cả kinh thành chen lấn nhau dưới những bến thuyền để xem từng đoàn thuyền chất đầy của hồi môn đi ngang qua. Trong tiếng nhạc lễ hội, những chiếc đĩa bạc, lọ ngọc thạch, san hô hình cây cối lũ lượt nối đuôi nhau, dẫn theo đủ thứ đồ đạc bằng gỗ quý khảm xà cừ và cẩm thạch. Khi những cuộn lụa đào ở cuối hàng đi ngang qua, lũ trẻ reo hò ríu rít, đàn ông nhíu mày và bứt râu, đàn bà ghen tỵ trong im lặng.
Lụa, cái thứ nguyên liệu vuốt ve dịu dàng này lại mang trong mình sức mạnh của ngọn lửa và cái tinh khiết của cánh rừng tre, chính là thứ đồ xa xỉ của giới quý tộc. Một sắc lệnh triều đình đã cấm dân chúng mặc lụa và những ai dám vi phạm luật này sẽ bị xử tử. Ngay cả những người lái buôn giàu có nhất cũng chỉ có thể trưng bày lụa trong cửa hiệu của họ như một tác phẩm nghệ thuật mà thôi.
Lúc còn bé, nàng thích lụa như điên. Nàng nhảy giậm lên nó, nàng ôm nó, quấn quanh cơ thể mỗi khi người thợ dệt của ông nội kính cẩn đem đến những tấm lụa mới dệt xong. Nàng nắm lấy đầu mút của cuộn vải và giật mạnh. Những làn sóng đủ màu sắc trải ra. Lụa, tùy theo xưởng dệt ra nó, mà mang những cái tên ngọt ngào khác nhau. Nàng biết rất nhiều tên và đọc chúng như một bài thơ dài: “Tuyết muộn hoa lê”, “Giấc mơ cầu hoa trà”, “Bóng liễu”, “Mây lang thang mùa hạ”, “Khúc hát chim vàng anh trong sương mù xanh”, “Trăng lên”, “Ao sen”, “Mùi hương sau cơn mưa thu”, “Thác hoa cúc dại”, “Hoa lan lười nhác”…
Ông nội, người cho nàng tất cả những gì nàng muốn, nói rằng phụ nữ thượng lưu đặc biệt hơn cả loại lụa mịn nhất.
Ông nội sinh ra trên đường lưu vong nên thích những thứ kỳ thú. Ngoài khả năng thi họa, ông còn là một tay đàn tỳ bà bốn dây siêu hạng. Ông chán ở quê và lên kinh thành của những hội hè miên man. Một chiếc thuyền phủ trướng thêu là ngôi nhà thứ ba của ông. Ông thích trôi nổi trên những con kênh từ sáng sớm để ngắm nhìn màu trời bình minh thay đổi, lướt qua các nhịp cầu và viết thư pháp trên nước bằng cách dùng cán cây quạt của mình để đẩy dồn ánh mặt trời.
Phụ nữ ngồi bên những khung cửa sổ rình xem ông đến; họ mân mê tấm khăn trong tay rồi ném xuống mũi thuyền những bó hoa trong đó gói ghém những bức thư tình. Ông chọn lựa tùy theo thơ hay thơ dở. Khi ông cập bến căn nhà, những người đàn bà vốn thích đeo mạng che kín khuôn mặt đẹp mỗi khi ra đường đều để lộ mặt mộc đến chen lấn nhau đón chào ông. Giữa những tấm màn khảm ngọc trai và những bình đốt trầm hương, những bàn tay trắng nõn mời ông ăn những món nóng hổi, rồi mang đến đĩa vàng, đĩa bạc, trên đó xếp từng lát cá sống theo hình muôn loài hoa. Sau giấc nghỉ trưa, mọi người chơi đối đáp nhau theo nhịp một chiếc cồng nhỏ và người thua phải cạn chén. Vui vẻ say sưa, ông nội nàng sẽ dùng miếng gảy ngà chơi đàn tỳ bà, thân đàn giống như thân thể một phụ nữ và sẽ hát, những khúc ca ngẫu hứng. Giống như sự nổi tiếng của xưởng kim hoàn sẽ làm nên giá trị của những viên đá quý, những người phụ nữ được vinh danh trong các bài thơ của ông cũng được thơm lây muôn phần.
Khi đêm xuống, căn nhà của ông nội nhộn nhịp hẳn lên. Như những đám mây muôn màu của buổi chiều tà, thuyền bè được sơn vẽ sẽ đỗ đầy bốn phía kinh thành. Gió thổi nhẹ qua ống tay áo của những bóng người ngồi bên mũi thuyền và làm phập phồng cổ áo. Tóc búi cao, mặt điểm trang son phấn, môi tô son và mắt được tôn lên nhờ những đường kẻ đen, khách khứa nhẹ nhàng phe phẩy những cây quạt lông chim quý hiếm chẳng hạn như chim Thiên thần bất tử, rồi lũ lượt kéo vào vườn Ngọc Hồ, được Mẹ Thiên nhiên đất Tây đô dâng tặng. Thuyền bè cập bến. Dựa vào tay người hầu, họ nhảy lên mặt đất. Những đôi ủng làm bằng gỗ quý của họ gõ cộc cộc. Những đôi giày cao gót nhồi bột trầm hương in dấu những bông hoa sen trắng trên con đường lát đá đen. Họ sẽ đến ngồi trong những tửu lầu nhìn ra kênh, uống rượu và nhâm nhi những lát cá tươi bắt trên sông Dương Tử rồi luận bàn về sự bất tử và thuật đắc nhân tâm. Trời vào đêm. Trăng lên cao. Những chiếc đèn lồng hoa đăng được thả xuống kênh nổi bập bềnh rồi xoay tròn, báo hiệu một kiều khách nổi tiếng sắp đến. Những chiếc thuyền mũi nhọn ló ra từ đêm đen. Với khuôn mặt che mạng kín, nàng cúi chào tất cả mọi người, ngâm một bài thơ với đàn tỳ bà rồi chiếc thuyền chở nàng biến mất vào trong những chiếc bóng lấp lánh trên sông.
Ông nội và cha nàng không thể sống cùng nhau. Ông nội giọng nói lớn, ngủ rất trễ và dậy sớm. Ông có thể diễn thuyết về hình dáng các vì sao đến tận sớm tinh mơ rồi đi lang thang trên những con kênh để đón ánh mặt trời. Cha nàng thì khác, ông rút lui từ sớm, dậy trễ và lảng tránh những cuộc gặp gỡ, tiệc tùng. Trắng trẻo và đa tình, ông có giọng nói nhỏ nhẹ và ánh mắt của người mơ ngủ. Sao chiếu mệnh của hai người đối lập nhau, người đầu tiên mạng Mộc, còn người thứ hai mạng Kim. Khi hai người giận nhau, mấy ông chú cả trong nhà nói “dao” đã đâm vào “cây”. Chỉ sau cái chết của Mẹ Lưu và ông nội, nàng mới được biết cha nàng.
Trên thuyền, cha nàng không bao giờ ngồi. Ông nằm ườn ở mũi thuyền dưới một cây dù. Dập dềnh đều đặn theo sóng nước, mọi người đến gần một hòn đảo hoang bao quanh toàn lau sậy mọc tua tủa trên đường chân trời. Khi cha và con gái đến, ngay lập tức một đám đông bao quanh nàng. Nàng bám vào tay áo cha mình. Người ta chào hỏi cha nàng rồi ngợi khen nàng không tiếc lời:
- Quả nhiên là tố nga khuynh thành mà!
Nàng ngượng ngùng giấu gương mặt e thẹn vào những nếp áo của cha. Trên đảo có một cái chợ thật lớn. Cô gái bé bỏng đi xem chim chóc, hươu, khỉ và xem cha mua đá cuội để mài mực rồi mua thân gỗ để đẽo đàn cổ cầm. Họ gặp những tài tử văn nhân có gốc gác thấp hèn mưu sinh bằng vài ba bức thư pháp hay tranh họa bán được. Giới thượng lưu tự cấm nhau không được giao du với những dòng giống hèn mọn, nhưng việc cấm đoán lại có tác dụng ngược lại với cha nàng. Ông mời họ đến ăn uống. Ông chạm cốc với họ, gọi họ là “huynh đệ”, rồi tặng họ những cây đàn cổ cầm và những viên đá mài mực do chính tay ông làm.
Cha nàng đi lang thang, nàng nối gót theo ông không rời. Thương nhân giàu có thì bày bán trong lều, người nghèo bày ra bên lối đi những đồ lặt vặt trên một tấm vải thủng lỗ chỗ. Những cửa hàng đá quý mức tầm tầm nhiều vô kể. Người ta tìm thấy ở đó từng khối ngọc thạch, đá pha lê đỏ và vàng, ngọc lam và lục bảo. Cha nàng mua những viên đá đen vớt được dưới đáy hồ bùn nhão. Ông sờ nắn, ước lượng trọng lượng, thử độ thanh âm, quan sát màu sắc và gân màu của đá. Sau khi được mài nhẵn bằng vữa, những viên đá này sẽ trở thành những nghiên mực có khắc thêm họa tiết. Khi chà một thanh nhựa thông lên đó, người ta sẽ có mực đen để viết thư pháp và vẽ tranh.
Cha nàng không thèm ngó ngàng gì đến lễ nghi đạo đức hiếu thảo và chỉ tham gia vào những bữa ăn của dòng tộc vào những dịp lễ lớn. Bất chấp các thành viên khác phê phán, ông chỉ thích chăm chú vào những công việc tay chân dành cho đám người bần tiện và nô lệ. Giữa rừng tre, ông cho dựng một mái nhà bằng rơm rạ. Ông ăn ngủ ở đó, giữa những cây đàn cổ cầm đang làm dang dở, những nghiên mực chưa xong và những chai lọ nung mới ra lò. Ngược lại với giới thượng lưu có đôi bàn tay chảy mỡ chỉ có thể nhấc nổi một cây quạt lông vũ, tay cha nàng ngắn, khỏe và biết làm dao, lưỡi bào, cưa và búa. Dưới tay ông, những hình thù thô thiển và tối tăm có được nét mảnh mai, tỷ lệ cân đối, màu sắc nổi bật, có được một cuộc đời đầy xúc cảm và rực rỡ.
Những buổi tối trời sáng ánh trăng, ông vừa chơi đàn cổ cầm trong rừng tre vừa uống rượu say khướt. Càng say, tay trái của ông càng lướt nhanh trên dây đàn được tay phải giữ hợp âm. Nốt khoan nốt nhặt nối tiếp nhau, thành tiếng sóng, tiếng rì rầm của dòng sông. Tiếng ngựa hí dồn và tiếng binh đao khói lửa vút lên, làm thành vọng âm của tiếng chim lảnh lót bay ngang qua nền trời.
Nàng đang ngồi giữa mái lều tranh. Kế bên nàng, cha nàng say khướt đang ngủ. Nàng liều lĩnh cầm lấy cây đàn và bắt chước từng động tác của ông. Đôi tay nhỏ nhắn của nàng di chuyển vụng về trên từng dây đàn. Những ngón tay chạm vào, kéo bung, đưa đẩy, khoan thai, dìu dặt. Âm thanh cất lên. Tinh tế và rụt rè, đó là một khúc ca ngây thơ, vui vẻ của một cô gái ở thuở ban mai của cuộc đời.
Trước tấm gương tròn, một cô gái trẻ nhảy múa, tay nhịp nhàng trong không khí. Những tà áo dài phập phồng và chiếc váy xếp nếp mở ra như một bông hoa mẫu đơn. Bỗng nhiên nàng dừng lại rồi đến gần chiếc gương. Hai bím tóc nàng buộc lại với nhau bằng một tấm vải đủ màu sắc làm thành hai bó hoa trà sau gáy. Giữa hai hàng lông mày, lấp lánh một mảnh vàng được gia công tinh xảo thành hình con ve sầu. Hai gò má nàng đánh phấn hồng nhạt. Môi nàng điểm xuyết hai chấm đỏ son ở giữa, như hai cánh hoa mận. Nàng đỏ mặt nhìn mình. Nàng đưa tay che mặt rồi nằm sóng soài ra thảm. Nàng đã mười bốn tuổi và người ta đã nói với nàng về hạnh phúc của một người phụ nữ.
Người ta đã xem tuổi và chọn ngày tổ chức hôn lễ. Cô của nàng, đã kết hôn với một quý tộc họ Vương, đứng ra làm mai mối. Cô gái trẻ sẽ kết hôn với một đứa cháu họ Vương, người thừa kế của dòng họ chức tước cao quý và một gia sản rộng mênh mông, nơi những bông hoa mẫu đơn rực rỡ bừng nở giữa mùa xuân.
Ngay sau hôn lễ, dì của nàng rủ nàng đi tản bộ. Chính cha nàng, người lẩn tránh thế gian, cũng buộc phải theo đám rước. Sau hai ngày đi thuyền, người ta cắm neo và đi bộ lên chùa. Sau khi đã thắp hương và dâng lễ vật lên các sư, cả gia đình nghỉ ngơi bên bờ sông, dưới bóng một cây lê đang nở hoa, trước khi gặp một gia đình khác đi xe ngựa đến. Sau màn chào hỏi xã giao lịch thiệp, thành viên của hai gia đình ngồi hai bên lối đi. Nhạc nổi lên và một nhóm kiều nữ xuất hiện, nhảy múa. Họ duyên dáng chuyển động từng cánh tay vải vóc thêu thùa. Trong những tia sáng mặt trời, tay họ hạ thấp xuống rồi cong lên và xoay vòng.
Người ta mang đồ ăn đến nhưng cô gái trẻ chỉ ăn với vẻ gượng gạo. Nàng đỏ mặt ngượng ngùng không thôi. Mặt cúi gằm, nàng không dám rời mắt khỏi những đĩa đồ ăn chay đựng trong cái liễn sơn mài. Bên kia rừng vũ nữ là vị hôn phu của nàng.
Sau chuyến tản bộ, nàng cảm thấy mình đã thành phụ nữ. Nàng xoay vòng trước gương, tự hỏi mình có đẹp không. Buổi tối, khi nàng đi ngủ, khuôn mặt vị hôn phu lấp ló sau quần là áo lượt của những vũ công lại hiện ra. Đôi má trẻ con của nàng, đôi môi hồng của nàng làm chàng trai cũng ngượng ngùng và hồi hộp. Nàng hốt hoảng nghĩ đến việc họ sẽ sớm chung chăn gối.
Của hồi môn đã được mang đến. Nhà họ Vương gửi đến những thỏi vàng hình chiếc ủng, những cuộn vải lụa, vịt và ngỗng. Của hồi môn do cha mẹ chàng trai chuẩn bị được đặt trong phòng nơi phụ mẫu sẽ ngắm nhìn và thêm vào đó những quà cáp khác. Cô gái trẻ nấp trong phòng nhưng vẫn nghe rõ tiếng chúc tụng. Những cô em họ của nàng đếm vải vóc, màn trướng, váy áo, chén đĩa, đồ đạc rồi phàn nàn sao chưa được lấy chồng.
Nàng lẻn ra khỏi phòng khi đêm đến. Tay cầm chiếc đèn lồng, nàng đi lang thang giữa đống đồ đạc bằng gỗ quý và những chiếc rương đầy vải vóc, lụa là, chén đĩa. Những chiếc váy treo trên móc có nẹp như cánh bướm còn mép váy xòe như quạt. Hoa cỏ, chim chóc, cây cối, mây trời, núi non và biển cả được thêu tỉ mỉ và viền chỉ vàng. Trên một chiếc bàn thấp, nàng phát hiện thấy một chiếc đàn cổ cầm hình một chiếc lá chuối sơn mài màu đen ngọc đã rạn. Tim nàng thắt lại. Nàng nhận ra vật quý nhất trong bộ sưu tập của gia đình, cây đàn mà Mẹ Lưu đã lấy ra khỏi tủ và chùi cẩn thận như một cây đàn mới tinh. Nàng đặt một tay lên đó.
“Cảm ơn cha!” Nàng thì thầm. Những dòng nước ngập đôi mắt nàng. Khi đã kết hôn, nàng sẽ không còn được cùng cha đến chợ, không được đi chọn đá và thân gỗ! Nàng sẽ không còn được giúp cha tìm những dụng cụ mà ông để mất liên tục, không còn được canh lò nấu cho cha luôn có rượu nóng, không còn được thổi tiêu khi cha chơi đàn cổ cầm.
Cây đàn có sáu dây lụa mới lên. Khi nàng vuốt qua, nhạc cụ cất tiếng, trầm và đơn điệu, như khi người ta thổi vào một chiếc tù và của bộ tộc man di. Cây đàn thuộc về nàng thơ Sái Văn Cơ sống cách đó hai trăm năm dưới triều nhà Hán. Cha nàng là Sái Ung, nhà thơ nổi tiếng, một tay viết thư pháp, một tay chơi đàn cổ cầm, có nhiều học trò, trong đó có những người nổi tiếng trong chiến tranh và những hoàng đế Hoa Hạ. Khi triều nhà Hán sụp đổ, khoảng thời gian chia cắt và những cuộc chiến tranh đẫm máu bắt đầu. Sái Ung chết trong tù. Một bộ tộc man di đã cướp phá kinh đô nhà Hán. Nàng Sái Văn Cơ bị bắt đem đến những thảo nguyên Tây Bắc. Nàng mới chỉ hai mươi ba tuổi. Nàng sống trong gió lạnh, uống sữa bò Tây Tạng suốt mười hai năm và sinh hạ hai người con trai cho tộc trưởng. Khi tướng Tào Tháo, một học trò của cha nàng, trở thành quân vương mới của Trung Hoa, ông ta cho một xe chở đầy vàng và ngọc trắng đến bộ tộc dã man để chuộc nàng về. Sái Văn Cơ phải xa con và trở về giữa những người Hoa Hạ. Nàng viết mười tám điệu phách cho đàn theo thanh âm của tộc người man và để lại một tập thơ viết về nỗi buồn đau của mình.
Cô gái trẻ khóc vì hạnh phúc và buồn tủi. Những giấc mơ và nỗi nhớ của nàng thổi mạnh trong lòng nàng từng cơn nóng lạnh. Nàng không còn biết cuộc đời nữa và trên hết là dửng dưng với những đám mây đang đổ dồn về phía chân trời và với cuộc chiến sắp nổ ra.
Nàng không biết rằng một đạo sĩ tên Tôn Ân đã tuyên bố mình được phó thác cho một sứ mệnh thiêng liêng rồi dấy quân chống hoàng đế nhà Đông Tấn. Lời hiệu triệu của ông ta đến tất cả những người theo đạo giáo đã làm tám tỉnh cùng nổi dậy. Người ta ném những dãy hàng rào ra đường; những dòng sông đầy thuyền chiến; các toán kỵ binh mang đầy vũ khí ngang dọc những cánh đồng để gia nhập với quân nổi loạn. Triều đình vội họp quần thần, bắt tội phạm đi lính và kêu gọi các băng đảng để tiêu diệt những kẻ nổi dậy. Hai đạo quân đối đầu nhau dọc bờ Nam sông Dương Tử.
Một đêm nọ, cô gái trẻ bị mẹ đánh thức. Quân đội triều đình đã đến vùng đất của họ. Quân đội tàn sát, cướp phá và đốt tất cả những gì chúng đi ngang qua. Gia đình phải đi lánh nạn ngay lập tức sau những tường thành cao của kinh thành được lính ly khai bảo vệ. Vào lúc bình minh, cô gái trẻ xuống thuyền. Siết chặt trong tay một chiếc rương nhỏ đựng cây đàn của Sái Văn Cơ, nàng để lại sau lưng mình toàn bộ vải vóc, lụa là của đêm tân hôn. Con thuyền nhổ neo và chìm vào làn sương mờ buổi sớm tinh mơ. Bất chợt nàng nghĩ đến cây đàn có thể mang cho nàng số phận bất hạnh của người chủ cũ.
Bóng quân lính qua lại trên bờ thành. Trống, tù và cùng những tiếng thét gào của chiến tranh vang lên. Quân triều đình và những người hung dữ xuất hiện như một bầy chim tham mồi rồi bao vây kinh thành. Những mũi tên lửa từ trên trời rớt xuống và những con kênh bốc cháy. Đến ngày thứ bảy, sự im lặng đè nặng kinh thành khi mặt trời lặn xuống dưới mép thành. Đêm im lặng đến mức làm người ta thấy sợ. Cô gái trẻ không thể chợp mắt. Nàng thức dậy, nắm lấy cây đàn rồi đi ngủ, siết chặt nó trước ngực.
Khi mặt trời ném xuống cửa sổ một tấm mạng đỏ rực, tiếng xì xào qua lại trên kênh: quân lính đã làm phản tổng đốc. Họ chém đầu ông ta và dâng kinh thành cho quân triều đình. Cánh cửa phòng nàng mở ra thật mạnh. Anh nàng nói nàng đến phòng thờ Phật. Phòng thờ của gia đình đen nghịt người. Tất cả thành viên của gia tộc đã đến đó cầu nguyện. Nàng quỳ sụp xuống thảm bên cạnh mẹ.
Nàng không thể tập trung vào những lời cầu nguyện và nhìn ngang dọc tìm cha. Không thấy ông trong đám đông, nàng tuồn ra cửa sổ. Qua chấn song cửa sổ, nàng thấy ông ở giữa sân, tay cầm kiếm, xung quanh là những người hầu lăm lăm vũ khí. Những âm thanh đáng sợ, một tiếng ù ù dội lên từ con kênh và tỏa ra khắp ngôi nhà. Bất thình lình, cánh cổng rung lên và bung ra thành trăm mảnh. Lũ người huơ cao đao kiếm vừa ùa vào vừa thét lên những âm thanh man dại. Nàng nhắm chặt mắt và bịt tai. Khi nàng mở mắt ra, nàng thấy cha mình lảo đảo và ngã úp xuống.
- Cha!
- Ở yên đây!
Mẹ nàng giữ nàng lại dưới váy của bà. Nhưng bị một sức mạnh như quỷ ám kích động, nàng vùng chạy ào ra khỏi phòng, dọc theo hành lang, không nghe thấy cả tiếng chân mình. Nàng nghe thấy tiếng bình lọ bị vỡ, đồ đạc rơi xuống, màn cửa bị xé toạc, nhưng nàng không hề thấy sợ.
Một toán lính nhào đến. Một lưỡi gươm lóe lên trong không trung rồi một nhúm tóc bay ra. Chết lặng vì kinh hoàng, nàng nhắm chặt mắt, lùi về bên trái và đập vào một bức tường. Bức tường bỗng chuyển động và giữ lấy vai nàng. Nàng mở mắt, hốt hoảng và thấy đó là một người lính nhỏ con mặt ngăm đen. Đồng tử sáng quắc lên dưới nón giáp trang hoàng bằng lông màu cam. Hắn nhìn nàng, đẩy nàng ra và ra lệnh mang nàng đi nhưng không được ngược đãi nàng.
Nàng bị nhốt trong một căn phòng, nàng thu mình trong một góc và áp tai vào tường. Tiếng ồn ào có vẻ đã ngưng, nhưng âm thanh nhỏ nhất cũng làm nàng run lên vì sợ hãi. Cửa phòng mở ra vào buổi chiều. Mẹ nàng bước vào, cùng với toán lính. Mẹ nàng nói viên chỉ huy của đoàn quân lấy làm tiếc về cái chết của cha nàng và để chuộc lại lỗi lầm của quân lính, hắn quyết định sẽ cưới con gái ông. Nàng gục đầu, không nói nên lời. Mẹ nàng kìm nén nước mắt rồi đi chuẩn bị phòng tân hôn. Cô gái trẻ muốn một bồn tắm nước nóng. Đó là yêu cầu duy nhất của nàng. Viên chỉ huy nói không cần thiết.
Nàng núp mình trần truồng dưới tấm chăn. Căn phòng đen tối đến mức nàng không còn khái niệm thời gian. Những bồn chồn của phụ nữ ập đến với nàng; nàng có cảm giác như đang ngủ trong một cỗ quan tài và người ta đang khóc than cái chết của nàng. Cánh cửa bật mở rồi một bóng đen tiến tới, tay cầm một ngọn nến. Một người đàn ông cởi bỏ trang phục, thổi tắt nến rồi lật tấm chăn lên.
Hai bàn tay nặng và cứng tóm lấy hai bầu ngực của cô gái trẻ. Nàng không dám phàn nàn cũng chẳng dám thở. Cả cơ thể nàng run lên rồi căng cứng lại. Bất thình lình, nàng cảm nhận hai đầu gối lạnh lẽo giữa đùi mình.
- Mẹ ơi!
Nàng la lên một tiếng.
Ngay trước bình minh, từ tường thành cao, ai đó thổi tù và. Người đàn ông đã trở thành hôn phu của nàng thức dậy. Hai bồn nước nóng đã được đặt sẵn trong phòng. Nàng đau khắp người, nhưng nàng trở dậy và vội vàng mặc quần áo để hoàn thành nhiệm vụ của hôn thê. Nàng im lặng đặt đầu của người đàn ông úp trên đùi nàng rồi dỡ búi tóc của hắn ra, búi tóc bốc mùi thật ghê tởm. Tóc dài và cứng trải ra trong bồn nước, nhả ra mùi mồ hôi, bùn, máu và những mùi khác không thể tả nổi. Nàng gội mái tóc đó thật lâu bằng vỏ cây phủ rêu, xoa nhẹ lớp da lông lá, đổ từng làn nước lên cơ thể hắn rồi dùng khăn kì cọ lưng hắn. Nàng cúi gằm mặt, tránh nhìn những cơ bắp và vết sẹo. Nàng nhìn chằm chằm vào bàn tay mình, bàn tay dường như trong mờ trên làn da của người đàn ông, làn da bị những vũ khí rạch ngang dọc.
Nàng cho hắn ngồi xuống trước gương ở bàn trang điểm rồi chải mái tóc đã vắt khô nước của hắn. Nàng lén nhìn vào mặt hắn. Không có mũ giáp che mặt, nàng không nhận ra hắn. Có lẽ đó không phải là kẻ nàng đã gặp trong hành lang. Hắn cũng nhìn nàng chằm chằm qua gương. Nàng quay đi.
- Gia đình nàng từ nay nằm dưới sự bảo vệ của ta, – hắn nói với nàng. Đó là lời đầu tiên hắn nói với nàng từ đêm qua tới giờ. – Hãy lấy đồ đạc của nàng. Chúng ta sắp lên đường.
Cổ họng nàng nghẹn lại đến mức nàng muốn nôn.
- Chính nàng đã chọn ta, – hắn nói qua gương.
Trong số những đồ quý hiếm mà gia đình nàng sở hữu, nàng chỉ lấy cây đàn cổ cầm của nàng Sái Văn Cơ. Nàng leo lên xe, vừa khóc vừa siết chặt cây đàn trước ngực.
Con la đi chậm lại. Bây giờ Bà Mẹ Trẻ đã nhận ra tiếng của những chiếc xe khác chở phụ nữ và lương thực. Gió làm cánh cửa đập đập và thổi vào mũi mùi hơi mưa ẩm ướt. Giống cây đàn cha nàng từng chơi, gió cũng than oán và rên rỉ.
Mưa vội vã đến. Từng hạt đập vào trướng làm nàng nhớ đến tiếng tỳ bà lảnh lót, loại nhạc cụ ông nội nàng ưa thích. Bà Mẹ Trẻ bịt tai lại. Tối nay, những người chết trở lại dương gian. Băng qua những tầng mây, ông nội và cha nàng chơi song tấu bằng những nhạc cụ yêu thích của mình. Họ nói với nàng về sự sinh thành hay về cái chết?
Những cơn co thắt liên tục làm nàng phải thở hắt ra. Chiếc xe dừng lại. Một tên lính mở cửa, bước lên. Không nói không rằng, hắn nắm tay nàng và vác nàng ra khỏi xe như vác một bao gạo. Nàng muốn dùng tay banh phắt ruột của mình ra. Mưa nghiến nát khuôn mặt nàng đang nhăn nhó và chảy vào miệng nàng. Nàng uống nước mưa để làm dịu từng tế bào thần kinh. Tên lính đạp cửa, xông vào một ngôi nhà. Một mùi kinh khủng xộc lên. Hắn đặt nàng vào một cái chuồng ngựa, xuống một đống rơm rồi bỏ đi. Bà Mẹ Trẻ mò mẫm bò đi. Hổn hển, nàng cởi bỏ quần áo lót rồi giạng chân ra. Đùi nàng rách toạc. Nàng ngất đi.
Khi nàng mở mắt ra, nàng thấy trong bóng đêm những người phụ nữ đang vội vã và nghe những con trâu đang rống lên.
- Chúng ta đang ở đâu vậy…? – Nàng hỏi
Một người phụ nữ đặt tay lên miệng nàng.
Những tiếng kim loại đều đặn vang lên. Áp tai vào kẽ tường, nàng biết là mưa đã ngớt. Vô số đuốc trôi đi trong đêm và lính tráng đấu kiếm. Những cơn đau thắt lại đến. Nàng bật ra một tiếng la. Những người phụ nữ nhào đến bên nàng, bịt miệng nàng bằng chiếc váy của họ. Nàng ưỡn ngực vẻ đau đớn rồi cơ thể nàng vã mồ hôi. Tiếng thét của những người đàn ông đến gần. Nàng cắn mạnh hết sức vào nùi vải đã được nhét vào giữa hai môi nàng. Tai nàng ù đặc. Nàng không còn nghe được tiếng trái tim mình đập ngày càng nhanh và mạnh, một cú, hai cú rồi ba cú… Chính là con nàng đang hối hả lao vào cuộc đời trong cơn thịnh nộ như lính tráng đang trên đường lao về cái chết.
Cánh cửa bật ra thật mạnh rồi một tên lính nhảy vào trong. Mình mẩy đầy máu me, mắt hắn quắc lên. Hắn lảo đảo như say, nhấc đuốc lên rồi huơ thanh kiếm vẫn dính máu chảy ròng ròng. Những người phụ nữ hét lên. Bà Mẹ Trẻ nhắm mắt lại. Khi nàng mở mắt ra, tên lính đã buông kiếm, người hắn đang co giật. Trên cổ hắn, một mẩu kim loại xuyên qua. Tên lính ngã xuống, úp mặt xuống đất, để lộ ra một mũi tên cắm vào gáy. Tay chân hắn giật lên liên hồi, nhiều lần hắn cố đứng dậy. Mỗi chuyển động của hắn đều làm những người phụ nữ hoảng sợ. Họ hốt hoảng ôm chặt nhau. Ngọn đuốc hắn làm rơi xuống đã đốt cháy đám rơm rạ.
Bà Mẹ Trẻ không còn cảm nhận được tay chân mình nữa. Những đợt đau thắt trong bụng nàng đã dứt. Nàng đờ đẫn và lạnh lẽo cùng cực. Đầu óc nàng lơ lửng rồi nàng cảm thấy một mùi rất nặng. Phải chăng kẻ thù đã chiếm được ngôi làng? Nàng khát nước. Nhưng nàng không còn đủ sức hé môi. Nàng bị những cột đen ngòm xoáy thẳng lên trời bao quanh.
Nàng nghe những tiếng hét quanh mình:
- Nước trong máng!
- … Một xô!
- Đưa váy chị đây…
- Giữ cô ta tỉnh!
- A, ra máu rồi!
- Cái đầu ra rồi…
- Từ từ thôi… Kéo!
- Nó không động đậy nữa…
- Đặt tay lên cổ nó… Từ từ thôi!…
- Đừng chết!… Hít vào đi…
- Đẩy… đẩy!
- Xoa bóp bụng nó…
Chết? Sống? Với nàng, cái nào cũng như nhau thôi. Nỗi buồn đè nặng lên nàng nhưng Bà Mẹ Trẻ mỉm cười. Nàng ngừng cuộc tự đấu tranh. Một cái nóng dịu ngọt mang nàng sang một thế giới khác, một thế giới tốt đẹp hơn.
Trên cây, chim chóc mặc kệ chiến tranh và ca hót líu lo. Bà Mẹ Trẻ nháy mắt rồi mở cặp lông mi nặng nề. Người ta mang đến cho nàng một đứa trẻ nhăn nheo, quấn trong những mẩu vải xé ra từ chiếc váy. Nàng nhận ra tiếng chim chóc thật ra là tiếng đứa trẻ mà nàng đã thai nghén đang khóc.
Bình minh đã vào đến chuồng ngựa rồi trải ra như một dòng sông sữa. Nàng ngạc nhiên thấy rằng nỗi buồn, sự đau đớn, nỗi sợ hãi, tất cả đều biến mất sau một giấc ngủ. Cuộc đời cuối cùng đã cho nàng niềm hạnh phúc của một người phụ nữ. Một cảm giác run rẩy nhẹ nhàng chưa từng có. Như một cốc trà sau chuyến đi đường dài, như bông hoa xuân đầu tiên hé nở bên đường. Một cảm giác bình yên lâng lâng vỗ về hai gò má nàng và làm chân tay nàng đang mỏi mệt được dãn ra.
/7
|