Nhờ tìm thấy đồi Mộc Nhĩ, mấy người An Bình liền không cần lặn lội đi tìm thảo dược nữa mà chỉ tập trung vào hái cái này. Chỉ một buổi sáng, nhóm người An Bình đã hái được gần trăm cân Mộc Nhĩ, còn có khoảng hơn hai mươi cân thảo mộc.
Bởi vì số lượng Mộc Nhĩ khá nhiều, An Bình liền quyết định trở về sớm. công đoạn phân loại và sơ chế Mộc Nhĩ hơi tốn thời gian, mà đặc biệt Mộc Nhĩ khi hái xong thì phải sơ chế ngay, chứ nếu để qua ngày, tác dụng của Mộc Nhĩ sẽ không bằng lúc mới hái.
Chỉ một buổi sáng, ở trước sân An gia đã có một đống thảo dược và Mộc Nhĩ. Cụ An và bà Nồng nhìn thấy liền trợn mắt há mồm. Làm họ còn tưởng thảo dược gì đó rất quý giá đâu, hiện tại chỉ mới nửa ngày đã hái ra nhiều như vậy.
Bà Nồng chỉ tay vào đống Mộc Nhĩ lắp bắp: “Đây… đều là thảo dược đó sao?”
Mấy người An Bình phì cười, An Trung vui vẻ nói:
“Mẹ, tất cả đều là thảo dược đấy, còn nhiều lắm. Nếu không phải Bình nhi nói hái nhiều quá về làm không kịp sẽ bị hỏng thì tụi con còn hái về gấp nhiều lần số này!”
Bà Nồng vui mừng: “Nói vậy, về sau chúng ta đâu cần gieo trồng, chỉ cần lên rừng hái về là đủ rồi!”
An Bình vội lắc đầu: “Không được đâu bà nội, vẫn là tự trồng sẽ tiện hơn. Dù sao trồng cũng không khó, sẽ không tốn nhiều công sức, mà còn có thể thu hoạch đúng theo mùa của nó, sao chế thành dược sẽ có công hiệu hơn. Chứ ở trên rừng, thảo dược mọc lan tràn, mỗi lần đi hái phải tìm kiếm, rất mất thời gian, lại còn nguy hiểm.”
An Bình nói tới đây mọi người liền gật đầu, thật ra, từ hồi mùa đông năm ngoái, lúc mà An Trung bị thương khi đi săn thú xong thì người trong thôn đều rất lo sợ khi đi vào rừng. Mỗi lần đi mọi người cũng chỉ quanh quẩn phía ngoài bìa rừng, không ai dám đi sâu vào trong rừng cả. Mọi người vẫn còn bị ám ảnh bởi tình huống máu me đầy người của mấy người An Trung hồi mùa đông năm ngoái.
Thảo dược được chất thành một đống trên sân, An Bình nói cần phải phân chia theo từng loại. Công đoạn này không khó, con nít ba tuổi cũng có thể làm. Bởi vì mỗi cây thảo dược đều có hình dạng khác nhau, cho nên rất dễ phân biệt. Tuy thế, cũng có không ít cỏ dại bị mấy người An Trung tưởng nhầm là thảo dược nên hái về, số cỏ dại bị An Bình loại bỏ có tới ba bốn cân.
Lại nói, lần này đa số đều là Mộc Nhĩ, cho nên rất nhanh mọi người đã phân loại xong. Tiếp đến, An Bình liền hướng dẫn mọi người phân loại Mộc Nhĩ. Còn nàng thì đem những cây dược thảo đã được phân loại kia đi rửa, sau đó để gáo nước, đợi ngày mai sẽ sao chế.
Mộc Nhĩ sẽ phân thành ba loại, loại già, loại non, và loại nhỏ.
Nàng dự tính sẽ dùng loại già sấy khô rồi nghiền thành bột. Loại bột này pha với nước rồi uống có thể trị được bệnh trĩ, bệnh xuất huyết tử cung cơ năng…
Đời trước, An Bình đã dùng loại bột này trị bệnh cho rất nhiều người, rất công hiệu.
Còn loại non thì phơi khô dùng cho chế biến món ăn, An Bình dự định sẽ đem bán nó cho những tửu lâu ở trong trấn. Số còn lại thì sẽ dùng chung với vài loại thảo dược khác rồi sao chế thành dược hoàn.
Bởi vì thời này người ta thường không dám ăn nấm, nhất là các loại nấm hoang mọc trong rừng. Từng có nhiều trường hợp vì quá nghèo không đủ cơm ăn. Rồi họ lên rừng hái mấy loại nấm thế này đem về ăn thử. Kết quả có người bị ngộ độc chết. Do đó về sau không có người dám mạo hiểm ăn thử nấm nữa.
Thời này chỉ biết ăn một số loại nấm quen thuộc như nấm rơm, nấm mối, nấm hương… Còn loại nấm Mộc Nhĩ này, bởi vì hình thù của nó không được đẹp, cho nên người ta liền nói nó không thể ăn, dù đói chết cũng không ai dám can đảm đi ăn thử loại nấm này.
Đời trước khi biết được chuyện này An Bình còn rất hứng thú, đi hái Mộc Nhĩ về chế biến thành món ăn cho cả nhà. Về sau ở cùng sư phụ, được sư phụ đem ra nghiên cứu, kết quả nó trở thành một loại dược liệu thông dụng.
Cũng vì hiện nay mọi người còn chưa biết được Mộc Nhĩ này có thể ăn, có thể dùng làm dược liệu trị bệnh, cho nên An Bình quyết định đem nó bào chế thành dược hoàn. Tuy rằng sẽ vất vả, nhưng nàng không ngại. Đời trước nàng cũng thường xuyên chế biến dược hoàn đem đi bán để lấy tiền giúp đỡ người nghèo. Chứ hiện tại dù có đem Mộc Nhĩ khô tới các hiệu thuốc, họ cũng sẽ không dám bỏ tiền ra thu mua.
Bào chế dược hoàn tuy còn cần thêm vài vị thuốc bổ trợ. Nhưng nàng không ngại, nàng có thể để mọi người lên rừng tìm hái cái vị thuốc đó, hoặc có thể ra tiệm thuốc mua về. Dù làm cách nào, dược hoàn vẫn dễ bán hơn dược liệu.
Còn về việc làm sao cho tiệm thuốc tin tưởng vào dược hoàn của mình, An Bình lại không hề lo lắng. Thuốc tốt tự có người cầu, nàng đã hành nghề hơn ba mươi năm, nàng tin chắc thuốc của mình công hiệu thế nào, cũng tin chắc bệnh nhân sẽ tin tưởng mà mua dược hoàn của nàng. Có thể mới đầu sẽ có nhiều trở ngại, nhưng nàng không sợ, nàng có thời gian chờ cho người khác tin vào dược hoàn của nàng.
Công việc phân loại Mộc Nhĩ và đúng là vất vả không ít, cả nhà châu đầu làm siêng suốt, phải đến tận tờ mờ tối mới phân loại xong. Chính là tham quá thì thâm, nhìn đống Mộc Nhĩ trùng ngụng trước mắt, An Bình cắn cắn môi than thở.
“Cha, hay là ngày mai cha và đại bá đi hái thảo dược thôi đi, còn nương và đại bá mẫu, để ở nhà phụ con phơi Mộc Nhĩ có được không?”
….
Qua gần chục ngày, nhà kho mới xây của An Gia đã chất được kha khá dược liệu. Tính toán có trên trăm cân. Mầm móng thảo dược cũng được An Bình chọn xong, nàng quyết định trồng Đảng sâm, Hà thủ ô đỏ, và ba vị thuốc quen thuộc đó là Gừng, Nghệ, và Tỏi.
Tuy chỉ năm loại thảo dược, nhưng cộng thêm một số thảo dược khác hái từ trên rừng về là đã có thể bào chế ra rất nhiều dược hoàn khác nhau. Huống hồ, cho dù không bào chế dược hoàn, đem phơi khô rồi bán lại cho các hiệu thuốc giá cả cũng không thấp. Đem bán cho các tửu lâu làm nguyên liệu nấu ăn cũng không sợ không thu được bạc.
Trong đó Đảng Sâm, có hình dạng thân cây màu tím, lá hơi tròn, phần cuốn có hình tim, phần đuôi hơi nhọn. Đảng Sâm xanh sinh trưởng tốt vào mùa xuân, khi thu hoạch thì đem đi rửa sạch rồi ủ nước một đêm, sau đó đem đi sao lại cho thành dược liệu. Có thể dùng chung với các loại dược liệu khác để chủng trị một số bệnh như tiêu chảy, lỵ, khí hư, thoát giang…vv… là một vị thuốc rất thông dụng.
Còn Hà Thủ Ô Đỏ thì có thân mềm dạng dây leo quấn với nhau, rễ phình to, củ màu đỏ.
Bởi vì số lượng Mộc Nhĩ khá nhiều, An Bình liền quyết định trở về sớm. công đoạn phân loại và sơ chế Mộc Nhĩ hơi tốn thời gian, mà đặc biệt Mộc Nhĩ khi hái xong thì phải sơ chế ngay, chứ nếu để qua ngày, tác dụng của Mộc Nhĩ sẽ không bằng lúc mới hái.
Chỉ một buổi sáng, ở trước sân An gia đã có một đống thảo dược và Mộc Nhĩ. Cụ An và bà Nồng nhìn thấy liền trợn mắt há mồm. Làm họ còn tưởng thảo dược gì đó rất quý giá đâu, hiện tại chỉ mới nửa ngày đã hái ra nhiều như vậy.
Bà Nồng chỉ tay vào đống Mộc Nhĩ lắp bắp: “Đây… đều là thảo dược đó sao?”
Mấy người An Bình phì cười, An Trung vui vẻ nói:
“Mẹ, tất cả đều là thảo dược đấy, còn nhiều lắm. Nếu không phải Bình nhi nói hái nhiều quá về làm không kịp sẽ bị hỏng thì tụi con còn hái về gấp nhiều lần số này!”
Bà Nồng vui mừng: “Nói vậy, về sau chúng ta đâu cần gieo trồng, chỉ cần lên rừng hái về là đủ rồi!”
An Bình vội lắc đầu: “Không được đâu bà nội, vẫn là tự trồng sẽ tiện hơn. Dù sao trồng cũng không khó, sẽ không tốn nhiều công sức, mà còn có thể thu hoạch đúng theo mùa của nó, sao chế thành dược sẽ có công hiệu hơn. Chứ ở trên rừng, thảo dược mọc lan tràn, mỗi lần đi hái phải tìm kiếm, rất mất thời gian, lại còn nguy hiểm.”
An Bình nói tới đây mọi người liền gật đầu, thật ra, từ hồi mùa đông năm ngoái, lúc mà An Trung bị thương khi đi săn thú xong thì người trong thôn đều rất lo sợ khi đi vào rừng. Mỗi lần đi mọi người cũng chỉ quanh quẩn phía ngoài bìa rừng, không ai dám đi sâu vào trong rừng cả. Mọi người vẫn còn bị ám ảnh bởi tình huống máu me đầy người của mấy người An Trung hồi mùa đông năm ngoái.
Thảo dược được chất thành một đống trên sân, An Bình nói cần phải phân chia theo từng loại. Công đoạn này không khó, con nít ba tuổi cũng có thể làm. Bởi vì mỗi cây thảo dược đều có hình dạng khác nhau, cho nên rất dễ phân biệt. Tuy thế, cũng có không ít cỏ dại bị mấy người An Trung tưởng nhầm là thảo dược nên hái về, số cỏ dại bị An Bình loại bỏ có tới ba bốn cân.
Lại nói, lần này đa số đều là Mộc Nhĩ, cho nên rất nhanh mọi người đã phân loại xong. Tiếp đến, An Bình liền hướng dẫn mọi người phân loại Mộc Nhĩ. Còn nàng thì đem những cây dược thảo đã được phân loại kia đi rửa, sau đó để gáo nước, đợi ngày mai sẽ sao chế.
Mộc Nhĩ sẽ phân thành ba loại, loại già, loại non, và loại nhỏ.
Nàng dự tính sẽ dùng loại già sấy khô rồi nghiền thành bột. Loại bột này pha với nước rồi uống có thể trị được bệnh trĩ, bệnh xuất huyết tử cung cơ năng…
Đời trước, An Bình đã dùng loại bột này trị bệnh cho rất nhiều người, rất công hiệu.
Còn loại non thì phơi khô dùng cho chế biến món ăn, An Bình dự định sẽ đem bán nó cho những tửu lâu ở trong trấn. Số còn lại thì sẽ dùng chung với vài loại thảo dược khác rồi sao chế thành dược hoàn.
Bởi vì thời này người ta thường không dám ăn nấm, nhất là các loại nấm hoang mọc trong rừng. Từng có nhiều trường hợp vì quá nghèo không đủ cơm ăn. Rồi họ lên rừng hái mấy loại nấm thế này đem về ăn thử. Kết quả có người bị ngộ độc chết. Do đó về sau không có người dám mạo hiểm ăn thử nấm nữa.
Thời này chỉ biết ăn một số loại nấm quen thuộc như nấm rơm, nấm mối, nấm hương… Còn loại nấm Mộc Nhĩ này, bởi vì hình thù của nó không được đẹp, cho nên người ta liền nói nó không thể ăn, dù đói chết cũng không ai dám can đảm đi ăn thử loại nấm này.
Đời trước khi biết được chuyện này An Bình còn rất hứng thú, đi hái Mộc Nhĩ về chế biến thành món ăn cho cả nhà. Về sau ở cùng sư phụ, được sư phụ đem ra nghiên cứu, kết quả nó trở thành một loại dược liệu thông dụng.
Cũng vì hiện nay mọi người còn chưa biết được Mộc Nhĩ này có thể ăn, có thể dùng làm dược liệu trị bệnh, cho nên An Bình quyết định đem nó bào chế thành dược hoàn. Tuy rằng sẽ vất vả, nhưng nàng không ngại. Đời trước nàng cũng thường xuyên chế biến dược hoàn đem đi bán để lấy tiền giúp đỡ người nghèo. Chứ hiện tại dù có đem Mộc Nhĩ khô tới các hiệu thuốc, họ cũng sẽ không dám bỏ tiền ra thu mua.
Bào chế dược hoàn tuy còn cần thêm vài vị thuốc bổ trợ. Nhưng nàng không ngại, nàng có thể để mọi người lên rừng tìm hái cái vị thuốc đó, hoặc có thể ra tiệm thuốc mua về. Dù làm cách nào, dược hoàn vẫn dễ bán hơn dược liệu.
Còn về việc làm sao cho tiệm thuốc tin tưởng vào dược hoàn của mình, An Bình lại không hề lo lắng. Thuốc tốt tự có người cầu, nàng đã hành nghề hơn ba mươi năm, nàng tin chắc thuốc của mình công hiệu thế nào, cũng tin chắc bệnh nhân sẽ tin tưởng mà mua dược hoàn của nàng. Có thể mới đầu sẽ có nhiều trở ngại, nhưng nàng không sợ, nàng có thời gian chờ cho người khác tin vào dược hoàn của nàng.
Công việc phân loại Mộc Nhĩ và đúng là vất vả không ít, cả nhà châu đầu làm siêng suốt, phải đến tận tờ mờ tối mới phân loại xong. Chính là tham quá thì thâm, nhìn đống Mộc Nhĩ trùng ngụng trước mắt, An Bình cắn cắn môi than thở.
“Cha, hay là ngày mai cha và đại bá đi hái thảo dược thôi đi, còn nương và đại bá mẫu, để ở nhà phụ con phơi Mộc Nhĩ có được không?”
….
Qua gần chục ngày, nhà kho mới xây của An Gia đã chất được kha khá dược liệu. Tính toán có trên trăm cân. Mầm móng thảo dược cũng được An Bình chọn xong, nàng quyết định trồng Đảng sâm, Hà thủ ô đỏ, và ba vị thuốc quen thuộc đó là Gừng, Nghệ, và Tỏi.
Tuy chỉ năm loại thảo dược, nhưng cộng thêm một số thảo dược khác hái từ trên rừng về là đã có thể bào chế ra rất nhiều dược hoàn khác nhau. Huống hồ, cho dù không bào chế dược hoàn, đem phơi khô rồi bán lại cho các hiệu thuốc giá cả cũng không thấp. Đem bán cho các tửu lâu làm nguyên liệu nấu ăn cũng không sợ không thu được bạc.
Trong đó Đảng Sâm, có hình dạng thân cây màu tím, lá hơi tròn, phần cuốn có hình tim, phần đuôi hơi nhọn. Đảng Sâm xanh sinh trưởng tốt vào mùa xuân, khi thu hoạch thì đem đi rửa sạch rồi ủ nước một đêm, sau đó đem đi sao lại cho thành dược liệu. Có thể dùng chung với các loại dược liệu khác để chủng trị một số bệnh như tiêu chảy, lỵ, khí hư, thoát giang…vv… là một vị thuốc rất thông dụng.
Còn Hà Thủ Ô Đỏ thì có thân mềm dạng dây leo quấn với nhau, rễ phình to, củ màu đỏ.
/20
|