30
“Jack!” Olivia ngồi cuối giường phàn nàn. “Khi nào thì anh định dùng cái máy tập chạy đó hả?”. Chị không thích phải chì chiết, nhưng vì anh cứ chần chừ kể từ buổi sáng Giáng sinh, khi chị mở quà của mình ra. Mặc dù anh cố gắng thể hiện vẻ hài lòng nhưng chị thấy sự thất vọng trong mắt anh. “Anh sẽ”, anh đáp, anh bước ra khỏi phòng tắm trong bộ đồ lót. “Sớm thôi”.
“Tuần trước anh đã hứa rồi mà”.
“Anh biết, anh biết”. Anh mang vẻ mặt cam chịu của một người đàn ông bị kết án trên đường từ phòng xét xử vào nhà giam. Mặt anh sáng lên. “Anh không có gì để mặc”.
“Jack, anh thừa biết em đã mua cho anh một đôi áo len rồi mà. Đừng có nói với em là anh quên đấy nhé”.
“Anh không quên”, anh thừa nhận, “nhưng anh thấy không thoải mái khi mặc quần áo mới”.
“Jack Griffin, đó là lý do kỳ quặc nhất em từng nghe đấy. Đủ rồi. Tập luyện đi”.
“Bây giờ hả?”, anh há hốc miệng.
“Bây giờ!”.
“Nhưng anh còn phải đi làm”.
“Anh cứ đi bộ ít nhất một dặm trước đã”.
“Một dặm hả?”.
“Đi làm về thì anh đã quá mệt rồi”.
“Có thể là anh không quá mệt”, anh nói tràn đầy hy vọng, và nhìn khá kỳ cục khi anh bĩu môi đứng trong phòng ngủ mà chỉ mặc đồ lót và đi tất sẫm màu.
“Anh sẽ đi bộ, Jack ạ”.
Olvia bỏ ngoài tai các lý do của anh. Tuần tiếp sau lễ Giáng sinh thì quá gấp. Jack nói như vậy nhưng ngay sau Năm mới thì mỗi buổi sáng anh sẽ luyện tập với cái máy. Olivia đã ngu ngốc tin lời anh. Bây giờ đã gần đến tuần thứ hai của tháng Một mà anh thậm chí vẫn chưa thèm cắm điện cho nó. Olivia không rời khỏi phòng trước khi anh bắt đầu đi bộ.
“Em thực sự không thấy khoẻ lắm”. Chị đảo mắt.
Càu nhàu trong hơi thở, Jack mở ngăn kéo dưới đáy tủ lôi bộ quần áo thun màu xám ra. “Anh hy vọng em thấy vui”, anh lẩm bẩm khi trở lại phòng tắm.
“Anh sẽ thấy khoẻ hơn khi tập xong”.
“Nếu anh còn sống”.
“Vui đấy”, chị đốp lại. “Anh hãy bắt đầu đi chậm và tăng dần tốc độ. Đừng làm quá đấy”, chị khuyên anh. Anh không thèm nhìn chị nhưng Olivia cảm thấy hơi có lỗi khi bước theo anh vào phòng tắm.
“Grace và em tuần nào cũng phàn nàn về lớp aerobics nhưng sau đó cả hai chúng em đều thấy khoẻ. Anh cũng sẽ như thế. “Nếu em đã nói vậy”. Jack ngồi trên thành bồn tắm buộc dây giày thể thao.
“Nói cho anh biết”, Olivia nói. “Em sẽ làm bữa sáng cho anh trong khi anh đi bộ”.
Jack nở nụ cười đầu tiên trong buổi sáng ngày hôm đó.
“Thịt lợn hun khói, trứng, hai lát bánh mì. Làm bằng lúa mạch ấy nhé.”, anh bổ sung vì biết chị phản đổi món bánh mì trắng.
“Cháo yến mạch”.
“Cháo yến mạch”, anh nói vọng lại phía sau.
“Với nho khô, nhưng chỉ khi anh thôi phàn nàn đi”. Tiếng càu nhàu vọng lại, và dù muốn tỏ ra nghiêm khắc, Olivia vẫn phải bật cười. Anh quá trẻ con với những chuyện thế này.
“Em gọi điện đến văn phòng giúp anh nhé?”, anh nói khi trở lại phòng ngủ và nói cho chị cả một danh mục các chỉ dẫn. Cứ như thể anh sẽ đi xa cả tuần chứ không phải chỉ có một giờ. Đứng trước chiếc máy chạy bộ, anh nhìn chằm chằm vào nó, như thể đang tìm kiếm cơ hội cuối cùng trốn tránh việc này.
Một lát sau, có vẻ anh đã quyết định. Anh cắm dây điện rồi bước lên băng chuyền, cau mày nhìn bảng hiển thị rồi bắt đầu nhấn các nút.
“Anh không muốn đọc sách hướng dẫn trước à?”, chị gợi ý.
“Anh phớt lờ chị. Cỗ máy phát ra tiếng kêu vang rền rồi bắt đầu chuyển động, chút nữa thì ném Jack ngã. Olivia nuốt tiếng cười chực bật ra, biết rằng anh sẽ không đánh giá cao phản ứng của chị.
Do không có lựa chọn nào khác với chiếc máy nên anh bắt đầu bước đi. Nhưng sau một vài phút, anh thở hổn hển, một lần nữa khẳng định sức khoẻ tệ hại của mình. Olivia muốn bảo anh chậm lại nhưng chị nhận thấy Jack không thể nghe thấy gì.
Olivia tránh vào trong bếp nhưng vẫn nghe thấy tiếng rền vang của cỗ máy tập chạy khi chị cho nước vào lò nấu món cháo yến mạch cho anh. Anh có thể phàn nàn nhưng anh đã ăn hết sạch bát lần trước chị nấu cho anh.
Tiếp theo, chị với tay lấy điện thoại và gọi cho toà soạn báo. Khi trợ lý biên tập Steve Fullerton nghe máy, chị đọc thẳng một mạch những chỉ dẫn Jack đưa cho mình. Lúc này, nước cũng vừa sôi, chị cho yến mạch vào rồi tắt bếp để ninh chín từ từ.
Chị băn khoăn không biết Jack thế nào nên qua lại phòng ngủ. Khi vòng qua góc nhà, chị thấy anh ngừng tập từ lúc nào rồi. Anh chỉ mới tập được mười lăm phút. Chị hy vọng rồi anh sẽ tăng dần sức chịu đựng của mình. Chị cũng hy vọng mỗi buổi sáng sẽ không còn là một trận đánh vật như buổi tập hôm nay.
Bước vào phòng, Olivia thấy Jack đang ngồi trên chiếc máy tập hít thở khó nhọc. Mặt anh tái xám mồ hôi đầm đìa.
“Jack?”.
Chị gọi khẽ và lao về phía anh. “Jack? Jack, anh có sao không?”. Anh áp tay lên tim và lắc đầu...
“Em sẽ gọi 911”.
“Không”, anh thở dốc. “Anh sẽ ổn thôi. Một lúc nữa”.
Olivia không thể liều lĩnh thế. Chị chạy vào bếp vồ lấy điện thoại. Chị bấm vội ba con số.
“911 nghe đây”, một giọng phụ nữ trả lời máy.
“Tôi là thẩm phán Olivia Lockhart”, chị nói với giọng quyền uy nhất có thể. “Tôi cần một xe cấp cứu tới số 16 đường Lighthouse. Chồng tôi đang bị đau tim”. Chị nghe thấy giọng mình hết hoảng nhưng không thể kìm chế được. Có cảm giác như thể chính trái tim chị có nguy cơ ngừng đập.
“Thẩm phán Lockhart, làm ơn hãy giữ máy”.
“Không, chồng tôi cần tôi. Hãy nhanh lên! Vì Chúa, làm ơn nhanh lên”. Chị dập máy, nhớ lại điều mình đã đọc được nhiều tháng trước đây - rằng một viên aspirin có thể cứu một nạn nhân lên cơn đau tim.
Tay chị run rẩy khi lấy lọ thuốc aspirin từ tủ bếp và lắc đổ ra lòng bàn tay. Vài viên thuốc rớt ra và chị ném chỗ thừa xuống sàn trong trạng thái hoảng loạn.
Trông Jack có vẻ tệ khi chị trở lại, nằm sóng soài há miệng đớp đớp không khí.
“Jack, ôi, Jack”, chị khóc nức nở. Chị cố gắng cho anh nuốt viên aspirin. Tiếng còi cấp cứu vọng đến từ phía xa và chị lao ra mở cửa trước.
Một chiếc xe cấp cứu đậu bên cạnh nhà và hai nhân viên cứu thương mang theo thiết bị của họ lao về phía bậc thềm. Olivia thở phào nhẹ nhõm tới mức gần như quỵ gối xuống.
Từ lúc đó, các sự kiện cứ nhòa dần trong đầu chị. Cả hai người đàn ông sơ cứu Jack trong mấy phút đầu. Lúc đó anh đã bất tỉnh nhân sự và ý nghĩ kinh hoàng thoáng qua đầu chị rằng anh đã chết như bóp nghẹt chị. Chị không thể thở nổi. Trước khi chị có thể nhận ra chuyện gì đang diễn ra thì Jack đã được đưa lên băng ca chuyển tới xe cấp cứu.
“Chúng ta đang mất anh ấy!”, một trong các nhân viên hét lên.
“Không!”. Olivia thét lên khi đứng giữa sân. “Không!”. Chị không thể nhìn nên lấy tay bưng mặt lại. Xe cấp cứu lao đi.
Chị trở vào trong nhà, tìm thấy chìa khoá xe và thấy mình đang run rẩy. Trong tình trạng này chị không thể lái xe được. Chị phải ấn máy ba lần mới gọi được đúng số điện thoại nhà Grace.
“Olivia”, cô bạn thân nhất nói khi nhấc máy trả lời “Chút nữa thì tớ đã ra khỏi cửa rồi. May là cậu gọi được tớ đấy”.
“Jack... đau tim”. Ba từ đó khó nhọc bật ra từ cổ họng khô khốc của chị.
“Cậu đang ở đâu?”.
“Nhà”.
“Năm phút nữa tớ sẽ có mặt”.
Đó là năm phút dài nhất trong đời Olivia. Tất cả những gì chị có thể nghĩ đến là ngày đứa con trai Jordan của chị bị chết đuối. Chị nhớ đó là một buổi chiều tháng Tám tươi đẹp khi phó Cảnh sát trưởng đến nhà. Lúc đầu chị không tin anh ta - không muốn tin anh ta. Rồi chị muốn chồng về ở bên mình thật nhanh. Viên cảnh sát đã gọi cho Stan nhưng chồng chị làm việc ở tận Seattle. Anh phải mất hai giờ mới về được đến nhà. Hai giờ khủng khiếp như sự thật về cái chết của con trai họ bắt đầu ập đến. Olivia nhớ lại Justine và James đã đến và ở bên chị thế nào. Ba người bọn họ đã khóc và ôm chặt lấy nhau. Grace cũng là người Olivia gọi điện đầu tiên ngày hôm đó. Grace đã đến ngồi với chị và lũ trẻ cho đến khi Stan về.
Olivia sẽ không bao giờ quên cơn đau thắt trong bụng vào cái ngày tháng Tám khủng khiếp đó và bây giờ chị lại phải trải qua tất cả những cảm giác đó. Chị không biết Jack còn sống hay đã chết.
Jack đã không muốn leo lên cái máy tập đó. Anh đã cố nêu mọi lý do nhưng chị không thèm nghe. Ôi, không, chị biết rõ nhất và chị không chịu để anh thôi tập. Sau đó chị nhớ ra rằng anh đã nói là anh không thấy khoẻ lắm. Chị đã khăng khăng mặc kệ điều đó. Đúng ra, chị đã càu nhàu buộc anh phải leo lên nó.
Grace đến nơi và ngay khi Olivia nhìn thấy bạn, chị lao qua bãi cỏ, khóc nức lên và gần như cuồng loạn.
“Lên xe đi”, Grace nói. “Chúng ta sẽ nói chuyện trên đường tới bệnh viện”.
“Tớ… tớ không nghĩ anh ấy sẽ vượt qua được”, chị oà khóc.
“Chúng ta không biết được khi chưa đến đó”.
Người bạn thân nhất của chị nói có lý, nhưng Olivia sợ phải hy vọng, sợ phải tin rằng Jack sẽ không sao. Mất đi anh ấy, ngay vừa lúc mới tìm lại được tình yêu là một việc không thể tưởng tượng nổi. Chắc chắn Chúa trời sẽ không quá tàn nhẫn với chị.
“Họ đưa anh ấy tới bệnh viện Harrison hả?”. Grace hỏi khi chị vòng cua trên khúc đường quanh co quá tốc độ cho phép.
“Tớ... không... rõ, phòng khám tư mới, tớ nghĩ vậy”. Đột nhiên chị không biết. Các nhân viên cấp cứu chắc hẳn đã nói với chị nhưng lúc đó chị không thể tập trung được.
Đúng như vậy, chiếc xe cấp cứu đang đậu bên ngoài phòng khám mới của vịnh Cedar. Olivia lao vào bên trong tới bàn đón tiếp.
“Chồng tôi ở đây - Jack Griffin”.
“Vâng thưa bà Griffin, bây giờ các bác sĩ đang cấp cứu cho ông ấy. Mời bà ngồi xuống ghế, họ sẽ ra ngay khi có thể”.
“Không”, Olivia cãi lại. Người phụ nữ này có vẻ không hiểu rằng người đàn ông phía sau những cánh cửa đóng chặt kia là chồng chị. Những quy định và luật lệ chết tiệt Jack có thể đang chết và chị là vợ nên có quyền ở bên anh. Trong tất cả những năm tháng làm thẩm phán toà án dân sự, Olivia chưa từng dùng vị thế của mình để đạt mục đích cá nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp này chị không thể yên lặng.
“Tôi là thẩm phán. Và tôi cần ở bên chồng tôi”.
“Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi không được phép”.
“Cô không hiểu”, chị nói cao giọng và gần như phát điên. “Tôi cần ở bên chồng tôi”.
Grace tiến lên phía bàn đón tiếp và vòng tay ôm lấy Olivia. “Các bác sĩ sẽ ra ngay thôi mà”, chị nói.
Olivia đứng yên tại chỗ. “Tớ muốn ở bên anh ấy”.
“Cậu sẽ được làm thế”, Grace hứa với giọng dịu dàng.
“Anh ấy cần tớ”.
“Ngay lúc này anh ấy cần các bác sĩ hơn. Sẽ không lâu đâu Olivia”. Grace đưa chị trở lại khu vực chờ, và chỉ với sự phản đối chiếu lệ, Olivia ngồi xuống.
Một thế kỷ trôi qua. Hai thế kỷ. Charlotte và Ben xuất hiện.
“Ben có một máy quét sóng giống như của cảnh sát Charlotte giải thích. “Khi chúng tôi nghe thấy tiếng người điều vận nói ở số 16 đường Lighthouse, chúng tôi đoán chắc hẳn là Jack”.
Charlotte ngồi xuống bên chị, Grace ngồi phía bên kia. Mỗi người nắm một tay chị.
Người bác sĩ rốt cuộc cũng đã xuất hiện, Olivia thấy biển ghi tên là bác sĩ Timmons. Anh bước về phía chị.
Chị đứng dậy, chuẩn bị tâm lý cho điều tồi tệ nhất.
Bác sĩ Timmons nở nụ cười trấn an chị. “Chúng tôi đã cứu được ông ấy rồi”.
“Ơn Chúa”. Chị thở phào nhẹ nhõm đến mức suýt nữa khuỵu gối xuống. May là Grace đã đỡ lấy chị.
“Ông ấy là người may mắn. Chỉ cần năm hay mười phút nữa thôi là không còn cứu kịp nữa”.
Olivia trố mắt nhìn chằm chằm vào vị bác sĩ. “Ý anh là gì?”
“Nếu không có phòng khám ở vịnh Cedar này thì chồng bà đã có thể chết trên đường tới bệnh viện”.
“Ôi”. Olivia bắt đầu hiểu được ngụ ý điều anh ta đang nói với chị.
Bác sĩ Timmons nói tiếp. “Chúng ta cần chuyển ông ấy tới bệnh viện Harrison để bác sĩ chuyên khoa tim khám”.
“Dĩ nhiên rồi”.
“Còn một số giấy tờ cần bà ký trước khi chúng tôi làm việc đó”.
Chị gật đầu và nhớ ra rằng chị đã xấu hổ thế nào khi mẹ mình và Ben cùng bạn bè họ ở Trung tâm Người cao tuổi bị bắt vì tổ chức một cuộc biểu tình trái phép đòi xây dựng một cơ sở y tế.
Lúc đó Olivia không biết được rằng một cơ sở y tế trong thị trấn của mẹ mình một ngày kia sẽ cứu sống Jack.
31
Corrie buồn ngủ cả ngày nhưng không muốn để Roy biết. Có nói với anh lý do vì sao chị buồn cũng chẳng ích gì. Vào ngày này năm 1975, chị ngồi trong văn phòng luật sư của cha mình và ký giấy tờ cho đi đứa con của mình. Những ngày đó chẳng cần được sự cho phép của người cha; nhưng nếu có, Corrie cũng buộc phải nói dối và giấu tên cha đứa bé. Như thế, chị sẽ bị mất mặt trước gia đình và người bạn của cha mình, nhưng thà làm thế còn hơn dính dáng tới Roy.
Corrie vừa cầm cốc cà phê mới rót vừa quan sát chồng đang phân loại thư từ và hóa đơn. Roy đã quá quen thuộc với việc vợ hiện diện trong công việc tới mức chẳng để ý mấy khi chị đến phòng anh. Lần này anh nhìn lên và nhíu mày.
“Em bị cúm à?”, anh hỏi khiến chị ngạc nhiên.
“Không. Sao thế?”.
Anh nhún vai trước câu hỏi của chị. “Trông em nhợt nhạt lắm”.
“Không hề”.
“Em cũng đột nhiên trở nên im lặng. Như thế chẳng giống em chút nào”. Anh lại tiếp tục.
“Anh hãy cầu nguyện đi”.
Anh nháy mắt cười. “Có lẽ anh nên như vậy. Nhưng nếu em không khỏe, em về nhà đi. Hôm nay quả là một ngày trôi qua chậm chạp”.
“Có lẽ em sẽ về”, chị nói, và nghĩ đến việc đó lúc quay lại phòng làm việc phía ngoài. Roy được thuê để kiểm tra thông tin cần thiết cho một người bạn ở Seattle, Joe Landry. Gần đây, Joe có thuê một trợ lý mới và nghi ngờ rằng cô ta khai khống quá trình làm việc trước đây của mình. Anh ta nhờ Roy kiểm tra và anh đã làm việc này trong vài ngày qua. Những việc nhỏ nhặt này giúp họ kiếm cơm hàng ngày.
Sau nửa tiếng, Roy ra khỏi văn phòng và ngồi ở góc bàn của chị. “Em vẫn ở đây à? Corrie, nếu em thấy không khỏe thì về nhà đi”. Thấy chị chỉ nhún vai, anh hỏi, “gần đây em có nói chuyện với Linnette không?”.
“Không hẳn”. Corrie tưởng rằng nếu con gái sống ở vịnh Cedar, hai mẹ con họ sẽ có nhiều thời gian bên nhau hơn. Nhưng đâu phải. Cả hai đều có cuộc sống bận rộn và có khi cả tuần họ chẳng gặp nhau hay nói chuyện với nhau. Có vẻ câu trả lời khiến chồng chị ngạc nhiên. “Con bé mới ghé qua và có vài câu hỏi liên quan tới chuyện hẹn hò. Về cái anh chàng nuôi ngựa mà em rất thích đó”.
“Anh khuyên con chuyện tình cảm à?”. Đáng sợ thật.
Roy xù lông lên. “Thực sự anh không muốn nhưng con nó cần giúp đỡ”. “Anh chẳng kể gì về chuyện này”.
Roy xoa mặt. “Đến giờ anh mới nhớ ra. Có thể em cần nói chuyện với con”.
Corrie công nhận đúng là như vậy và chị với chiếc điện thoại. Chị xem đồng hồ và hy vọng rằng mình không đánh thức Linnette dậy. Vì con bé đổi ca ở phòng khám nên khó mà nhớ được giờ làm.
“Sao hôm nay em không rủ con đi ăn trưa? Hãy làm cái việc rất đáng yêu giữa mẹ và con gái đi”.
Corrie bỏ tay khỏi điện thoại. Có vẻ như chồng chị muốn chị rời khỏi văn phòng. Đầu tiên, anh giục chị về nhà. Còn bây giờ lại muốn chị đi ăn trưa. Chắc hẳn có chuyện gì đó và chị rất muốn biết.
Chị khoanh tay nhìn anh chăm chú. “Được rồi, có chuyện gì vậy?”.
Vẻ ngây thơ đến kinh ngạc của anh có thể đánh lừa bất kỳ ai, nhưng chị đã quá hiểu vì từng làm vợ người đàn ông này gần 27 năm.
“Không có gì!”, anh tuyên bố, rõ ràng là anh sốc khi chị có ý như vậy.
“Anh nên kể cho em nghe thì hơn, Roy McAfee”.
“Sao em lại nghĩ là anh có chuyện gì?”.
“Anh sẽ không nói ra. Bởi vì em biết anh là người thế nào”.
Anh nhíu mày rồi lắc đầu. “Em là người phụ nữ đa nghi”.
Chị chẳng tranh cãi với anh. “Lấy anh nên em mới sinh ra thế chứ”.
Roy rời khỏi mép bàn của chị rồi thong thả đi về phòng làm việc như thể trên đời này chẳng có mối bận tâm nào hết.
Corrie theo sau anh và ngồi vào chiếc ghế thường dùng cho khách. “Anh có nhớ tấm thiệp đầu tiên viết gì không?”
Roy chẳng buồn lôi nó ra. Rõ ràng anh đã đọc rất nhiều lần nên mới thuộc làu như thế. “AI CŨNG CÓ ĐIỀU GÌ ĐÓ PHẢI ÂN HẬN. CÓ ĐIỀU GÌ ĐÃ LÀM VÀ ƯỚC MÌNH CÓ THỂ LÀM LẠI KHÔNG. HÃY NGHĨ VỀ ĐIỀU ĐÓ”.
“Mấy tuần vừa qua cả hai chúng ta đều suy nghĩ rất nhiều”, chị nhẹ nhàng bảo anh. Trái tim chị ngập tràn tình yêu và, đúng, cả sự hối tiếc nữa. Dù chưa từng một lần bế, nhưng chị yêu con bé. Khi ký những giấy tờ cho con đi, chị cảm thấy như mình đang cho đi một phần tâm hồn. Giá chị quyết định tự mình nuôi con bé, cha mẹ chị sẽ giúp đỡ chị. Nhưng dù lúc đó còn quá trẻ, Corrie vẫn hiểu rằng như thế là không công bằng với họ, không công bằng với chị và đứa bé. Một gia đình yêu thương đang mong chờ đón đứa trẻ và dù lòng đau như cắt, chị vẫn phải ký giấy tờ cho con đi.
“Anh muốn nói với em rằng giá như anh biết em có thai, anh sẽ không tiếp tục và làm cái việc kinh khủng đó. Nhưng chỉ là anh không biết...”.
Corrie cũng vậy, đó là nguyên nhân chính khiến chị không thông báo cho anh.
“Em nghĩ đã đến lúc chúng ta nên trung thực với nhau”, chị bảo anh.
Anh nhìn chị chằm chằm. “Anh đã bao giờ không trung thực với em đâu”. “Có lẽ chỉ là không cởi mở, nhưng rõ ràng là chiều nay anh muốn xua em ra khỏi văn phòng và em muốn biết tại sao”.
Roy thở dài. “Được rồi”. Anh nói không ngần ngại. Anh muốn gọi vài cuộc điện thoại và tìm ra anh có thể làm gì cho... con gái chúng ta”.
“Mà không cho em biết?”.
Anh lắc đầu. “Anh sẽ cho em biết những gì anh tìm ra”.
“Vào phút cuối”, chị đáp lại.
Anh ngập ngừng rồi thú nhận. “Vào phút cuối”, anh nhắc lại.
“Đó là những gì em nghĩ. Nhưng tại sao? Anh có nghĩ rằng tinh thần em không ổn định không? Anh có cho rằng em không thể xử lý bất kỳ thông tin nào anh đưa ra không?”.
“Không”, anh từ chối thẳng thừng. “Thật kỳ cục”.
“Vậy thì lý do gì có thể khiến anh giấu em?”.
“Chúng ta có một cô con gái ba mươi tuổi”, anh trầm ngâm. “Một đứa con gái mà chúng ta chẳng hề biết gì về nó”.
Chị phải kiềm chế để không nhắc anh rằng, đến tận gần đây, họ cũng chẳng hề biết đứa con đầu lòng là con gái.
“Trong suốt những năm qua, anh đã chống chọi để gạt những suy nghĩ về đứa trẻ ra khỏi đầu mình. Anh cảm thấy thoải mái với việc đó. Anh không muốn biết - và đã làm đúng như vậy. Chúng ta đã thề là không bao giờ nhắc lại chuyện này, nhưng giờ đây... giờ đây con bé lại xuất hiện và nó không muốn bị chúng ta lờ đi”.
Rõ ràng Corrie rũng đau đớn. “Anh muốn tự mình tìm ra con bé, tự liên lạc rồi thông báo lại cho em”.
“Anh cần tìm ra con bé”, anh đính chính lại. “Anh đã tìm trong danh sách đăng ký nhận con nuôi và điền tên chúng ta vào”.
“Sao lại loại em ra?” Corrie bật ra.
“Anh sẽ giải thích cho em ngay. Như anh đã nói, anh vào mạng Internet”.
Lúc này chị cũng thú nhận. “Em cũng làm thế”.
Ánh mắt hai vợ chồng gặp nhau. “Con bé chưa đăng ký”.
Corrie biết điều đó. Chị không hiểu tại sao. Bằng cách nào đó, con gái chị có thể tìm ra họ mà không thông qua một tổ chức cho nhận con nuôi nào. Và rồi…
“Vì thế anh mới để em đứng ngoài cuộc”, Corrie lẩm bẩm. “Vì anh không biết chắc động cơ nào khiến con bé làm thế”.
Roy gật đầu. “Nếu con bé muốn chúng ta tìm ra, nó đã đăng ký. Đằng này nó lại không đăng ký. Điều này khiến anh nghĩ là không phải ngẫu nhiên. Con bé đã tìm ra anh, nhưng lại không muốn chúng ta tìm ra nó. Con bé cố tình gửi những tấm bưu thiếp nặc danh, gửi hoa đến. Con bé muốn làm anh ám ảnh. Đây là một trò đùa của nó và vì lý do nào đó, con bé thấy anh có lỗi nhiều hơn em”.
“Em không biết tại sao”, Corrie nói ra suy nghĩ của mình. “Nhưng em nghĩ có thể anh đúng”. Chồng chị luôn thận trọng và có lẽ quan trọng hơn cả là nghi. Anh xem xét mọi góc độ, mô tả từng chi tiết một cách có phương pháp. Cách anh làm khiến chị nghĩ tới những người giải câu đố, can thận nghiên cứu từng đầu mối một.
“Luật nhận con nuôi ở California khác ở Washington”, Roy nói thêm. “Anh đang nghĩ...”.
“California?” Corrie ngắt lời.
Ngay lập tức Roy thể hiện vẻ bực bội trên mặt - anh đã nói nhiều hơn anh muốn. “Ừ, California. Đó là nơi các thủ tục cho và nhận con nuôi cuối cùng diễn ra”.
Lúc ký tên, Corrie không để ý nhà con bé sẽ ở đâu. Có lẽ luật sư có nói với chị nhưng chị không nhớ.
“Em cũng không để ý đến ngày tháng, đúng không?”.
“Đúng. Tại sao phải thế?”. Chị nuốt nước bọt và lắc đầu. “Chẳng có lý do gì hết”.
“Corrie?”.
Chị nhìn xuống, cố kiềm chế cảm xúc và chẳng muốn nói gì. “Anh đã sai vì không nói với em những gì anh tìm ra”.
“Ý anh là còn nhiều hơn nữa à?”, chị ngắt lời chồng. Chị cảm thấy giận dữ khi Roy tiến hành điều tra một mình và gạt chị ra ngoài. Thì đúng là chị cũng có lỗi. Nhưng chị có lý do chính đáng. Roy đã bảo anh không muốn biết, anh từ chối bàn về chủ đề này, vì thế nên chị phải tự mình tìm hiểu.
“Không, anh chẳng tìm thấy gì khác. Anh đã gặp trở ngại lớn trong việc tìm hiểu hồ sơ bang California. Chỉ Alabama, Alaska, Kansas và Oregon là “Những bang có hồ sơ mở”. Lý do anh có thể tìm ra nhiều là vì anh thông qua một người bạn cũ làm cho chính quyền bang California”.
Anh nheo mắt nhìn Corrie. “Sao em lại phát hiện ra là chúng ta có một đứa con gái?”.
Chị nhìn xuống hai bàn tay đang gập lại. “Nhật ký của mẹ em. Em đã có cuốn nhật ký đó và em tra ngày tháng. Mẹ em biết. Mẹ em chưa bao giờ nói một lời nào với em, nhưng bà biết là chúng ta đã có một đứa con gái”.
“Em yêu, chúng ta sẽ tìm ra con bé và khi tìm ra, chúng ta sẽ giải thích mọi chuyện”.
Corrie chỉ có thể hy vọng con bé biết rằng chị đã và vẫn luôn yêu con bé mặc dù chị đã đẩy nó ra khỏi cuộc đời họ.
/30
|