J ustine cảm thấy mình như sắp phát điên, cô quyết định bước lên chiếc máy bay vận chuyển ở vịnh King, bang Alaska. Đã hai tuần kể từ hôm cô nghe được điện thoại của Seth và cô không thể chịu đựng sự chờ đợi mỏi mòn ấy thêm một ngày nào nữa.
Cô đã liên hệ với nhà máy đồ hộp, nơi Seth và ba anh thường bán cua và cá nhưng họ không biết gì và cũng chẳng có thông tin gì về lịch ra khơi của các đoàn thuyền đánh cá. Justine đành để lại lời nhắn qua cô thư ký trông dáng điệu mệt mỏi ấy, mặc dù chẳng có gì bảo đảm là Seth sẽ nhận được tin nhắn. Cô nhắn qua người phụ nữ ấy nhờ báo cho Seth biết cuối tuần này cô sẽ bay tới Alaska. Cô chỉ hy vọng anh nhận được tin nhắn về chuyến thăm sắp tới của cô.
Justine bước chậm rãi và cẩn thận xuống bậc thang của chiếc máy bay mười chỗ ngồi. Cô phóng mắt ra xa, lòng khát khao được nhìn thấy Seth và cầu mong cho anh đang ở cái sân bay bé nhỏ này và chờ đợi cô. Gió quất vào mặt khiến cô co người lại vì giá buốt. Đó là một ngày cuối tuần tháng Chín. Trời đất như đang báo hiệu một mùa đông đã về trên đất Alaska lạnh giá.
“Có ai đón cô chưa, thưa cô?”. Anh phi công cất tiếng hỏi khi Justine bước lại chỗ túi hành lý trong khoang chở bên ngoài máy bay.
“Tôi nghĩ là chồng tôi sẽ đón”. Nhưng Seth đã không ở đó như cô mong mỏi. Cô bắt taxi vào thành phố, chẳng mấy để tâm đến anh chàng lái xe cứ ba hoa nói về cuộc sống ở vùng biển này. Anh ta thả cô ở một khách sạn gần bến tàu với tấm biển được thắp bằng đèn nê-ông đề rõ chữ TEL.
Căn phòng thật nhỏ bé và cũ kỹ được trải tấm thảm len màu be vẫn hay thấy ở nhiều nơi. Những tấm rèm cửa và khăn trải giường được may bằng loại vải hoa đã bạc màu vốn chẳng hấp dẫn được ai kể cả khi chúng còn mới. Justine ngồi lên mép đệm, lòng thấy buồn khổ và mất mát ghê gớm. Đến đây là một quyết định điên rồ và chỉ chúng tỏ rằng cô thật sự tuyệt vọng mà thôi. Giờ đây cô đã tới Alaska, cô phải chấp nhận thực tế rằng chuyến đi này có thể là vô ích. Mới vài tuần trước đây thôi, cuộc sống vợ chồng của cô mới tuyệt vời và mỹ mãn làm sao. Nhưng giờ đây lòng cô tràn ngập nỗi nghi ngờ. Cô thực sự không tin mình đã cưới Seth. Cô thở dài, nghe trái tim mình tan nát. Thât đơn giản, cô chỉ muốn biết anh có thật lòng yêu cô không. Và kể từ lúc tự túc từ anh thưa dần, cô bắt đầu nghĩ anh không còn yêu cô nữa, và rằng tình yêu của anh cũng chỉ là nỗi đam mê nhất thời, rằng anh đã thoả mãn.
Cô có thể hoặc là nghỉ cả ngày cuối tuần ở trong phòng này để tiếc nuối ân hận và thương hại cho bản thân mình, hoặc là đi tìm tung tích của anh. Và rồi với quyết tâm tìm cho được người chồng yêu thương, Justine mặc bộ quần áo ấm nhất và hỏi Betty, người phụ nữ ngồi ở quầy trước xem đường nào đi ra nhà máy đồ hộp. Cô đi bộ vì từ khách sạn cô ở đến bến tàu cũng chỉ mất một đoạn đường ngắn. Gió vẫn không thôi lùa vào mái tóc thốc hơi lạnh vào mặt Justine khi cô đi về phía cảng. Cô giấu kỹ hai tay trong túi áo. Đã là cuối vụ đánh cá, nên có khá nhiều tàu thuyền đang neo đậu trên cầu tàu.
Justine bắt chuyện với vài người đánh cá. Bọn họ đều rất quen vời cái tên Seth và ba anh nhưng chẳng ai cho cô được mẫu thông tin hay đầu mối nào cả.
Cô quay trở về khách sạn, trái tim đau đớn gấp bội phần.
Khi chuẩn bị quay về, cô bỗng nhận ra có một con tàu đang chuẩn bị cập cảng, cánh buồm đang rộng vươn lên trời. Cánh buồm nhỏ hơn căng ra trông như cánh tay thép bé nhỏ bên sườn con tàu. Một người đàn ông lực lưỡng với mái đầu màu be đang đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh đang quay lưng về phía cô; trông dáng vẻ hơi giống với Seth. Có thể là anh ấy không nhỉ? Liệu cô có phải là người may mắn trong chuyến đi này hay không?
Justine sải bước thật nhanh về phía bến tàu, hướng tới chiếc thuyền đánh cá kia. “Seth!”. Cô cất tiếng gọi thật to nhưng gió đã đánh loãng tiếng gọi của cô vào không trung. Tuy nhiên người đàn ông kia vẫn quay lại bởi anh đã nghe thấy. Đó chính là chồng cô. Khi nhìn thấy vợ, anh nhảy bước lớn từ con tàu xuống mặt đất để hai chân chạm vào bến.
Justine chạy như bay xuống cầu tàu bằng gỗ và hét lên vì vui sướng, cô bổ nhào vào vòng tay dang rộng của Seth. Anh ôm chặt lấy cô bằng vòng tay rắn chắc, nâng bổng cô lên khỏi mặt đất. Rồi anh hôn cô bằng nụ hôn điên dại khiến bao ưu phiền và ngờ vực trong cô đều tan biến.
Justine nghe thấy nhiều tiếng rười khe khẽ đằng sau. Nhưng cô chỉ vừa mới nhận thấy và cả Seth cũng vậy.
“Em làm gì ở đây thế này hả em yêu?”. Anh hỏi và đưa tay vuốt những sợi tóc lòa xòa trên mặt Justine để được nhìn rõ cô hơn. Đôi mắt anh chan chứa tình yêu. “Làm sao em biết là bọn anh sắp quay về?”.
“Em không hề biết gì - em chỉ cầu trời là anh ở đây thôi”.
Seth lướt xuống môi cô lần nữa và thầm thì điều gì đó về lời cầu nguyện tưởng như đã không thể biến thành sự thật. Rồi môi anh tóm trọn lấy đôi môi chín mọng của cô.
“Em đang ở trong một phòng khách”, cô nói nhỏ với anh.
Seth ngoái nhìn lại. “Đợi anh ở đây nhé”, Nói rồi anh băng băng lao trở lại con tàu, nhảy phắt lên boong và nhanh chóng biến vào khoang ngầm. Justine còn đang băn khoăn không hiểu chuyện gì xảy ra thì đã thấy Seth xuất hiện trở lại, trên vai khoác một cái túi màu đen. Phải công nhận rằng dù chưa kịp cạo râu và tắm rửa nhưng anh vẫn là người đẹp trai nhất, gợi cảm nhất và đáng yêu nhất trong số những người đàn ông mà cô đã gặp.
“Chúng ta có bao nhiêu thời gian nữa hả em yêu?”, anh hỏi.
“Hai ngày nữa anh ạ”. Justine khoác tay chồng và âu yếm ngả đầu vào vai anh. “Chúng mình cần nói chuyện, Seth à”.
“Được”, anh hứa, nhưng sẽ chẳng có câu chuyện nào sau đó, bởi vì cô đã đọc được chính xác những điều mà ánh mắt anh đang nói trong lúc này.
“Tôi biết thế nào cô cũng tìm thấy chồng cô mà”. Betty nói khi thấy họ trở về nhà khách.
“Đúng vậy cô ạ. Tôi đã tìm thấy anh ấy đây rồi”. Justine nói, giọng nói chứa chan hạnh phúc. Khi họ tới phòng Justine, cô lấy chìa khóa mở cửa, Seth bế thốc cô trên tay ngay khi cánh cửa bật tung ra. Anh bế cô vào trong rồi búng nhẹ công tắc tắt đèn. Bao nhiêu phiền muộn đau khổ của thời khắc một tiếng trước đều tan biến đâu hết cả, giờ đây chỉ còn lại những nồng nàn say đắm như thưở trăng mật của đôi vợ chồng.
Người chồng đặt vợ trên một chiếc thảm đã xước nhiều chỗ. Đôi tay anh lùa vào mái tóc mềm mại của cô rồi như muốn nuốt lấy môi cô. Họ hôn nhau say sưa tưởng như chẳng còn cần gì hơn thế trên đời này. Họ chìm trong nụ hôn say đắm và đê mê đến tột cùng. “Anh cần phải tắm em yêu ạ”, đang lúc cao trào thì anh làu bàu thiếu kiên nhẫn. “Đợi anh ở đây nhé”.
“Vâng anh yêu”, cô thì thầm, đôi mắt nhắm nghiền, vẫn đang còn say sưa bởi nụ hôn dài thế kỷ của anh.
“Em có đói không?”, anh hỏi.
Justine mở mắt và nhìn vào đôi mắt chồng. Seth đang cởi bỏ áo choàng và tháo từng chiếc khuy áo sơ mi. “Em sắp chết đói rồi anh ạ”, cô nói. Nhưng cả hai đều hiểu là cô không đói vì thức ăn.
“Ôi Justine ơi, anh cũng thế”.
Anh là người duy nhất dám gọi cô bằng tên đó.
“Anh không thể tin được là em lại đến đây”, anh nói. Anh nhanh chóng cởi bỏ quần áo, ngồi xuống mép giường để cởi bỏ nốt đôi ủng. Anh đứng lên và cô giúp anh kéo khóa chiếc quần lót. Anh nôn nóng vứt toẹt bộ quần áo lên ghế.
Rồi cứ thế trần truồng bước vào phòng tắm.
Chiếc vòi tắm hoa sen được mở hết tốc lực. Justine cũng cởi bỏ đôi giày và cởi chiếc áo len chui cổ. Cô đang bắt đầu rờ tay lên cởi khuy chiếc áo sơ mi thì đã thấy anh trở lại. Đôi mắt anh rực lửa đam mê làm đôi tay cô chợt dừng lại như đóng băng trước chiếc khuy áo cuối cùng. Thật buồn cười vì cô thấy hơi ngượng ngùng trước anh. Họ đã cưới nhau và sống đời sống vợ chồng đầy huy hoàng và khó quên vào cái ngày nghỉ cuối tuần ấy. Nhưng đã nhiều tuần trôi qua, nó lâu quá và xa quá đến nỗi Justine tưởng chừng như đó chỉ là một giấc mơ.
Cảm nhận được tâm trạng của Justine nên Seth hình như đã đoán được cô đang nghĩ gì và hiểu sự e dè trong cô. Bằng một cử chỉ dịu dàng khiến cô chùng gối xuống, Seth nhẹ nhàng kéo cô vào lòng. Miệng anh thật ấm và ướt, anh muốn hôn lên khắp người cô. Chẳng mấy chốc chiếc áo sơ mi đã được lột bỏ và nằm im lặng cạnh chiếc áo len chui cổ.
Nụ hôn đắm đuối và dài đen vô tận làm cho cả hai như mềm người ra. Anh ngã xuống chiếc giường, kéo theo cô trong vòng tay rắn chắc khỏe mạnh. Thế rồi anh hôn lên bụng cô, và dần dần dịch lên phía trên, cởi bỏ hẳn chiếc áo lót để có thể tha hồ du ngoạn trên bầu ngực căng tròn và chắc nịch. Anh bật rên lên khe khẽ. Cô lùi dần xuống để môi cô lại đón nhận đôi môi đang say sưa của anh.
Chẳng bao lâu sau, anh ép cô xuống giường. Họ bị cuốn vào cảm giác đê mê tột độ của niềm đắm say hoan lạc. Cứ thế cho đến khi Justine bỗng thấy mình thăng hoa trong cảm giác hạnh phúc đến nghẹt thở. Rồi cuộn tròn trong vòng tay yêu dấu của chồng, chỉ có mỗi một miếng chăn mỏng phủ nhẹ trên đôi chân hai người, cô tựa mái đầu lên ngực Seth và vòng tay ôm lấy eo anh đầy mãn nguyện.
Seth hơi dựa lưng vào đầu giường, anh lùa tay vào mái tóc cô vuốt nhẹ nhàng. Justine nhắm mắt lại nhưng chẳng phải vì buồn ngủ. Cô muốn tận hưởng giây phút ngọt ngào tuyệt vời này, đặc biệt là nếu cô phải xa anh vài tuần nữa thì cô sẽ vẫn cảm nhận được anh bên cạnh bởi những dư âm tuyệt diệu mà anh đã mang lại cho cô.
“Anh không hiểu điều gì đã đưa em đến đây nữa”. Seth thầm thì. “Nhưng bất kể là điều gì thì anh vẫn thấy biết ơn vô cùng em yêu ạ”.
“Em cần phải biết Seth ạ”, cô nói bằng hơi thở ấm áp chứ không phát ra tiếng nữa. “Em cần phải biết là anh có ân hận vì chúng ta đã làm đám cưới không”.
“Không bao giờ”. Anh trả lời bằng giọng chắc chắn. Rồi nâng cằm cô lên, anh nhìn sâu vào mắt người vợ yêu dấu của mình và hỏi. “Còn em, em có hối hận không?”
Nụ cười dần rạng rỡ trên khuôn mặt cô. Lòng cô cảm thấy mãn nguyện vô cùng nên chẳng ngại ngần mà đưa ra câu trả lời anh đang chờ đợi. “Em yêu anh vô cùng. Tình yêu em dành cho anh nhiều khi khiến em phát điên mất. Em muốn chúng mình luôn ở bên nhau Seth ạ. Em không muốn anh xa nhà chút nào”.
“Với anh việc phải xa em cũng chẳng dễ dàng chút nào cả”. Đôi tay anh vẫn tiếp tục lướt trên những vùng nhạy cảm. “Anh lúc nào cũng yêu công việc đánh bắt của mình, nhưng từ lúc chúng mình xa nhau, trái tim anh đã luôn thuộc về em”.
Justine vuốt ve mơn trón đôi vai trần của anh, tận hưởng làn da chắc bóng. “Em chẳng nói cho ai ở nhà biết việc em làm. Bởi em biết nếu nói cho mẹ hay bà là em bay đến đây tìm anh, thể nào họ cũng bảo em đó là điều không tưởng, rằng em đang tìm kim đáy bể mà thôi”.
“Em lúc nào cũng có một giác quan rất chuẩn về thời gian”, Seth trêu vợ.
“Em ấy à?”. Justine cọ cọ má vào bộ ngực cuồn cuộn của chồng, lòng trào dâng cảm xúc yêu thương tràn trề với người đàn ông yêu dấu này. Cô gác chân lên anh.
“Khi nào em phải về?”, anh hỏi.
“Chiều tối ngày chủ nhật anh ạ”.
Anh lại lùa tay vào mái tóc dài của cô. “Nếu thế thì chúng mình phải bù lại thời gian đã mất, em có đồng ý không?”
Justine hoàn toàn đồng ý.
Sáng thứ hai, Grace dậy rất sớm, lòng thấy khoan khoái vì đã có một thời gian nghỉ ngơi dài. Con Buttercup, người bạn vàng tri kỷ ngủ trên sàn nhà giờ đang quấn quít bên chân chị, nó vẫy đuôi vui vẻ khi nhìn thấy Grace gấp chăn gối và ra khỏi giường.
“Chào buổi sáng tốt lành, người yêu của ta”. Grace nói và bước lại gần nó. Chị tự hỏi không biết Dan sẽ nghĩ gì khi biết chị đã thay vị trí của anh ta bằng một con chó.
Con Buttercup quanh quẩn theo chân Grace vào bếp rồi sau đó đi ra ngoài bằng cửa dành riêng cho thú nuôi trong nhà. Khi con chó đang làm công việc quen thuộc vào mỗi buổi sáng của nó thì Grace đã đun xong một ấm nhỏ cà-phê nóng. Khẽ thì thầm với mình, chị tắm và chọn một chiếc áo sơ mi màu đỏ mặc cùng với quần jeans để đến thư viện. Chị xỏ chân vào đôi giầy đỏ cho hợp với màu áo sơ mi và cho hai lát bánh mì bằng bột mì nguyên cám vào lò nướng chuẩn bị cho bữa sáng.
Đến giờ phải đi, con Buttercup cứ theo chân Grace ra tận xe. Chị cọ nhẹ vào đôi tai người bạn thân tình, thầm cảm ơn nó vì biết rằng thể nào nó cũng chờ đón chị mỗi khi đi làm về.
Con Buttercup là một người bạn hoàn hảo bởi nó biết yêu thương, biết vâng lời và rất đáng tin cậy. Ngay khi Grace đi khỏi nhà, nó liền quay trở lại vào bếp
qua chiếc cửa dành cho chó. Và khi Grace trở về nhà nó sẽ lại vui mừng ra chào đón chị.
Mặt trời đã lên cao quá ngọn cây, nhưng đài lại báo chiều sẽ mưa. Grace rất thích mùa thu; chị vẫn còn nhớ như in ngày Dan ở cùng mình, anh cũng có chung những cảm xúc ấy. Gần cả cuộc đời làm nghề đốn gỗ, lúc nào Dan cũng gần gũi với rừng núi. Chỉ những năm gần đây, khi đất đai trong rừng bị cấm khai thác thì Dan mới chuyển sang làm dịch vụ cây cối ở trong thị trấn. Chẳng mấy khi chị thấy chồng phàn nàn về công việc. Nhưng chị biết rằng anh rất ghét việc đó và trong lòng vẫn mong mỏi được trở về nơi rừng núi.
Nỗi buồn bỗng đâu lại ập đến với Grace. Chị ép mình phải nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa anh ta sẽ chỉ được gọi là chồng cũ của chị mà thôi. Bây giờ dù Dan đang ở đâu và với ai đi chăng nữa, chị vẫn mong anh được hạnh phúc. Chị đã không có khả năng mang lại hạnh phúc cho Dan ngay từ những ngày đầu thành chồng thành vợ. Họ lấy nhau lúc cả hai còn rất trẻ. Grace đã có mang Maryellen lúc họ vừa học xong phổ thông. Chị đã cưới Dan trước khi anh tòng quân đi lính ở Việt Nam. Vậy mà người đàn ông trở về từ cuộc chiến ấy đã không còn là con người trước đây. Gần bốn mươi năm sau cuộc chiến, Dan vẫn còn gặp những cơn ác mộng và giữ những kỷ niệm đau buồn không thể chia sẻ cùng ai. Chị không bao giờ hiểu được chuyện gì đã xảy ra trong những khu rừng tối tăm ở Việt Nam. Và Dan cũng nói là tốt hơn chị không nên biết.
Như lệ thường thì sáng thứ hai thư viện vẫn vắng độc giả, bởi họ đã có nhiều hoạt động bận rộn vào ngày cuối tuần rồi. Grace quyết định thay đổi bảng tin và mang ra một túi đựng, bên trong có một con bù nhìn, một con mèo đen và một miếng bí ngô. Tất cả đều là những mảnh bìa cát tông được cắt ra cho mỗi mùa lễ và kỳ nghỉ. Sắp đến lễ Tạ ơn, tiếp theo là lễ Giáng sinh. Đang bận rộn chuẩn bị, chợt chị nghe tiếng đàn ông phía sau lưng.
“Tôi muốn làm thẻ thư viện”. Cliff Harding nói với trợ lý của chị, chị Loretta Bailey.
“Tôi có thể giúp anh làm thẻ”.Loretta lôi ra một tờ mẫu để điền và đặt trên quầy. Cô ngừng lại khi nhìn thấy Grace đăm đăm nhìn mình vẻ không hài lòng.
Cliff ngoái lại. “Xin chào Grace”.
“Chào anh”, Grace hy vọng giọng nói của mình không để lộ ra vẻ khó chịu mà chị đang mang trong người.
“Tôi nghĩ đã đến lúc tối phải làm một cái thẻ thư viện, vì thực ra thì tuần nào tôi cũng phải đến vịnh Cedar mà”.
“Nếu tính theo đầu người của bất kỳ thành phố lớn nhỏ nào ở bang Washington này, thì thư viện chúng tôi có tỉ lệ độc giả dùng thẻ lớn nhất đấy anh ạ”. Loretta tự hào nói với Cliff khi đưa bút cho anh.
“Tôi thấy khá ấn tượng đấy”. Cliff nói nhưng đôi mắt vẫn nhìn về phía Grace.
Chị cố gắng phớt lờ ánh mắt đắm đuối của Cliff đang hướng về phía mình nhưng dường như không thể. Ngay lập tức chị cảm thấy mình lóng ngóng vụng về và chỉ muốn ngã lăn ra sàn. Cúi xuống để cố gắng lấy lại bình tĩnh, chị gần như va đầu vào Cliff Harding khi anh cũng đang cúi xuống. Hôm nay anh mặc một bộ đồ u như hôm trước, và trông anh thật hoàn hảo trong chiếc mũ cao bồi cùng giầy cao cổ. Thậm chí chị còn nghĩ rằng mình phát hiện ra mùi hương thơm của cỏ khô toát ra từ người anh nữa.
“Em đã sẵn sàng đi ăn tối với anh chưa?”, anh hỏi thầm khi cả hai còn đang cúi.
Grace ngước nhìn Loretta có vẻ đang chăm chú xem mấy thứ giấy tờ, nhưng Grace không hề ngốc chút nào. Người đồng nghiệp của chị rõ ràng rất thích câu trả lời của Grace, có lẽ còn hơn cả Cliff.
“Em nghĩ là... chưa anh ạ”. Chị cảm thấy mặt mình nóng bừng. Ý muốn của anh làm chị mất tự nhiên và thậm chí còn trở nên hơi vô duyên nữa. Cuộc hẹn hò cuối cùng của chị là với Dan và nó đã xảy ra từ lúc cả hai chỉ mới xấp xỉ đôi mươi. Cũng phải gần bốn thập kỷ trôi qua rồi - lại còn ở thế kỷ khác nữa. Bây giờ thì thời đại đã khác hẳn.
“Vậy mình đi uống cà-phê với nhau nhé”? Cliff đề nghị.
Trước khi Grace có thể đáp lời, Loletta đã đứng kiễng chân, dựa vào quầy và mỉm cười với cả hai. “Chị cứ nghỉ ngơi đi nếu như chị muốn”.
Grace ầm ừ kịch liệt phản kháng lời thúc giục đó.
“Đến quán Pancake Palace nhé?”. Cliff gợi ý, miệng nở một nụ cười rất đàn ông. Có vẻ như anh rất biết ơn lời động viên của Loretta ngay cả khi Grace không thích điều đó.
“Năm giờ vậy”, Grace đáp, cả hai đều không quá vui.
Cliff mỉm rười rồi đứng dậy. “Được, anh sẽ đợi em ở đó”.
Grace quay trở về chỗ và liếc nhìn qua quầy thấy Loretta. Trong khi đó Cliff bắt đầu bước về phía cửa ra vào.
Chợt như nhớ ra, chị gọi to. “Này thế còn cái thẻ thư viện của anh thì sao hả?”
Cliff vẫn tiếp tục bước đi. “Lần sau anh sẽ đến điền đơn xin”, anh đáp. Lúc năm giờ chiều, Grace vẫn không chắc thực sự mình có nên gặp Cliff Harding hay không nữa. Chị có vẻ hồi hộp trước cuộc hò hẹn này. Nhưng chị đã đồng ý sẽ đến đó mà. Thế nên Grace cho rằng mình cần phải giữ lời.
Cliff đứng dậy khi thấy Grace bước vào quán. “Anh không dám chắc là em sẽ đến”, anh nói nhỏ.
“Tôi cũng không chắc lắm”, Grace thú nhận và tiền lại chiếc ghế bọc đệm đỏ đối diện với anh. Chị lựa một chiếc tách bằng gốm màu be.
Cliff giơ tay vẫy cô hầu bàn.
“Thưa ông tôi đến đây ạ”, Goldie nói to từ phía sau quầy. Người hầu bàn lớn tuổi này đã làm ở Pancake Palace rất lâu rồi, Grace nhớ là hình như từ hồi chị còn đang học phổ thông. Nhưng không phải Goldie mà là một người mới đến làm việc đã trả nhầm hai chiếc thẻ tín dụng.
Mang chiếc ấm cà-phê bằng thủy tinh vào, Goldie rót cà-phê vào tách của Grace trước rồi mới chuyển sang tách của Cliff. “Anh chị có định ngồi lâu không?”. Bà hỏi Grace. “Hôm nay gia đình Chamber có đặt ăn tối ở đây”.
Đó là cách tế nhị mà Goldie muốn nhắc cho Grace biết rằng nếu chị không muốn chuyện trò lâu với người đàn ông này thì cũng có cớ để nhanh chóng cắt ngắn cuộc nói chuyện.
Grace muốn được hôn tay người phụ nữ già vì sự tế nhị ấy. “Chúng tôi sẽ không ngồi lâu đâu”.
“Tùy anh chị thôi”, Goldie nháy mắt đảm bảo.
“Cảm ơn bà”, Cliff nói.
“Vâng cảm ơn bà, bà Goldie”.
Bây giờ thì anh đã có thể được Grace chú ý đến, Cliff nhìn xuống tách càphê của mình để tránh ánh nhìn của người phụ nữ. “Anh cảm nhận được điều em đang nghĩ đấy”.
Grace thật sự nghi ngờ. “Anh ư?”.
“Em có vẻ hồi hộp lo lắng, có một chút xúc động, và trong lòng thiếu sự tin tưởng. Anh nói thế có đúng không?”
Thực sự anh nói đã rất trúng. “Tương đối đúng đấy. Sao anh đoán được?”
“Bởi vì anh cũng đang có những cảm giác như vậy”.
“Anh nói anh đã ly dị được năm năm rồi, phải không?”. Chẳng hiểu câu hỏi có ngụ ý gì đến sự căng thẳng của một câu chuyện giữa đôi nam nữ thường thấy không nhỉ?
“Đúng vậy, anh ly dị được năm năm rồi”.
“Anh có muốn nói về chuyện đó nữa không?”. Giá mà câu hỏi này do anh đặt ra thì tốt bởi chính Grace cũng không có ý khơi gợi lại chuyện cũ của chính mình.
“Nếu không quá chi tiết”.
“Còn bọn trẻ thì sao?”.
“Anh chỉ có một con gái. Nó đã lấy chồng và sống ở khu vực Bờ Đông. Tuần nào hai bố con anh cũng gọi điện trò chuyện một lúc. Mỗi năm anh bay đến đó một đôi lần thăm nó”.
Ít ra là anh vẫn còn liên lạc với con anh. Chứ chẳng giống như Dan của chị. Dan đã bỏ rơi cả chị và bọn trẻ.
“Susan, vợ cũ của anh, đã đem lòng yêu một đồng nghiệp cùng cơ quan”. Cliff bắt đầu kể. Bàn tay anh cầm chặt chiếc cốc và Grace nhận thấy cơ cằm anh đang giật giật. “Theo như lời cô ấy nói lúc đó, cô ấy chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc với anh”.
“Thế bây giờ cô ấy có hạnh phúc không?”.
“Anh chẳng biết nữa. Sau khi ly dị anh cũng về hưu và chuyển nhà đến Olalla”, Cliff nhắc đến một khu dân cư cách vịnh Cedar khoảng mười dặm về phía nam.
“Người địa phương họ gọi là Ou-la-la”. Grace bảo anh.
“Anh biết là sao người ta lại gọi thế rồi. Vùng đất thật là đẹp. Anh có khoảng bốn mươi mẫu ruộng và nuôi mười lăm con ngựa ở đó”.
“Thật tuyệt”.
“Đúng thế, mọi thứ đều tuyệt vời trừ một điều”. Đôi mắt anh dán chặt vào mắt Grace. “Anh rất cô đơn.” Đó là điều mà Grace thấu hiểu vô cùng. Cuộc hôn nhân của chị chưa bao giờ là hoàn toàn hạnh phúc, nhưng nhiều năm qua Grace và Dan cũng đã hòa hợp được với nhau. Có nhiều điều ẩn chứa trong sự hài hòa đó - những câu chuyện trong bữa tối, một đêm đi xem phim ở rạp, những lần sẻ chia kinh nghiệm và giúp đỡ nhau. Khi chị đi làm về thì lúc nào Dan cũng đã ở nhà và ra chào đón vợ một cách vui vẻ. Vậy mà giờ đây chỉ còn mỗi con Buttercup.
“Anh muốn tìm một người bạn”, Cliff tiếp lời. “Người có thể cùng anh đi nghe một buổi hòa nhạc vào mỗi tối, người có thể cùng anh chia sẻ buồn vui trong cuộc sống bây giờ và mãi mãi. Có vậy thôi”.
Grace cũng hé lộ ý nghĩ đó của mình. “Được vậy thì tốt quá” .
“Anh hi vọng là em cũng có cùng ý nghĩ giống anh”. Giọng anh nhẹ nhàng và khích lệ.
“Nhưng em chỉ có thế làm được điều đó sau khi vụ ly dị được giải quyết xong”, Grace nói.
“Được thôi”, Cliff nói.
“Và còn điều này nữa”. Grace bắt gặp ánh mắt dịu dàng của anh một lần nữa, “Lần sau em sẽ là người gọi cho anh. Được không?”
Anh thoáng ngập ngừng. “Ừ, nhưng liệu có phải anh không được phép đến thư viện?”.
“Anh luôn được chào đón”, Grace nói với anh. “Nhưng chỉ trong giờ làm việc của thư viện thôi nhé”.
“Được”. Cliff với tay nhấc cốc cà-phê và đặt lên miệng nhưng trước đó Grace đã kịp nhìn thấy nụ cười nở trên khóe môi anh.
Ý nghĩ anh có thể sắp là người khách thân thuộc thường xuyên của thư viện thoáng len lỏi trong tâm trí chị.
Mọi chuyện dường như trở nên căng thẳng giữa Rosie và Zach kể từ đêm lễ hội ở trường Eddie. Rosie luôn phàn nàn chống cô vì chuyện đó. Còn Zach thì đơn giản là không hề thấy biết ơn vì những việc vợ anh đã làm. Hình như anh vẫn nghĩ rằng cô chỉ có mỗi việc là quanh quẩn trong nhà và suốt ngày xem những bộ phim truyền hình dài tập nhàm chán tlong khi anh vẫn phải đi làm. Anh chẳng hiểu là cuộc sống của cô cũng phức tạp không kém. Cô bận rộn đến nỗi thỉnh thoảng phải đi ra ngoài trước khi anh đi và trở về nhà lúc trời đã khá muộn vào buối tối. Giờ đây điều duy nhất anh mong mỏi là vợ nấu cho mình một bữa tối có bốn món. Cô nghĩ mà thấy giận anh quá.
Cô đã yêu cầu anh đi dự buổi lễ ở trường của Eddie. Nhưng sau đó vài ngày vẫn thấy anh còn bực bội. Eddie cũng là con trai của Zach và việc gặp gỡ với giáo viên của con chỉ là chuyện nhỏ. Vậy mà Zach cằn nhằn suốt cả buổi tối hôm ấy. Lúc đầu là kiếm chuyện về việc đặt bánh pizza cho bữa tối, rồi sau đó lại móc máy chuyện hạt tiêu xanh, và lại cả chuyện anh muốn mặc áo vét cũ để đi đến dự cuộc gặp mặt nữa, vân vân và vân vân. Tối ấy khi đã muộn, bất chấp sự cố gắng của Rosia nhưng mối bất hòa giữa họ đã nổ bùng thành một cuộc cãi vã om sòm.
Nhiều ngày trôi qua mà họ vẫn chưa thế giải quyết được vấn đề rắc rối ấy. Sau chuyện ngó ngẩn đó hai tuần, một trong hai người đã có một động tác làm lành. Một buổi tối, bất chấp việc phải thức đến qua nửa đêm để soát lại báo cáo cho hội phụ huynh học sinh, Rosie vẫn dậy lúc mới bình minh và rán món trứng thịt muối. Cô vẫn là người thích dành thời gian để nấu một bữa sáng thật ngon cho cả nhà. Cô hi vọng là Zach sẽ nhận ra là cô đang cố gắng để hàn gắn và điều đó sẽ khiến anh nguôi giận.
Rosie đập trứng vào chảo và nghe tiếng Allison bắt đầu náo loạn. Bây giờ bọn trẻ có thời khóa biểu khác nhau vì Allison đang học bậc trung học. Điều đó càng khó khăn cho việc có một bữa sáng được đông đủ cả nhà. Nhưng nếu sự sum họp quan trọng với chồng cô đến vậy thì cô cũng sẽ dành cả nửa buổi sáng để ngồi trước lò nướng trong bếp, chỉ để nhằm mục đích giữ hòa khí trong gia đình.
“Mẹ làm trứng rán cho con đấy”, cô bảo con gái khi thấy Allison bước chân vào cửa bếp.
“Con ghét ăn trứng lắm mẹ ơi”. Allison đáp, lẳng chiếc ba lô lên bàn.
“Con ghét trứng từ bao giờ thế hả?”
Con gái cô ngước mắt nhìn Rosie như thể mẹ nó có vấn đề về thần kinh. “Từ lâu rồi mẹ ạ”.
“Ôi thế mà mẹ quên mất”, Rosie lờ mờ nhớ lại những cuộc tranh cãi xảy ra đã lâu về chuyện bữa sáng. “Thế còn thịt muối thì sao hả con?”.
“Cũng tàm tạm mẹ ạ”. Cô con gái mở tủ lạnh và lôi ra một chai sô đa.
“Con đừng dùng sô đa bây giờ”. Rosie hoảng sợ ngăn lại.
“Sao lại không ạ?”. Allison nhìn mẹ một cách khinh khỉnh. “Sáng nào con chẳng dùng. Sao bây giờ lại không được?”.
“Được thôi, nếu con muốn”. Thật không đáng để tranh luận một chuyện cỏn con như vậy. Rosie đã đọc rất nhiều sách về việc nuôi dạy con ở tuổi dậy thì và cô rất cẩn thận khi có xích mích xảy ra. Đầu hàng một chai sô đa thì có đáng gì đâu so với việc để Allison được có cảm giác đã xỏ mũi mẹ.
Rosie tắt bếp lò và đổ những quả trứng đã rán ra hai cái đĩa ăn và đặt cùng với những lát thịt muối nguội. Bước chân xuống sảnh cô gõ cửa và mở phòng ngủ của Eddie. Phòng nó đúng là một khu thảm hoạ. Cô ngoảnh đi để khỏi phải nhìn sự bừa bộn ấy. Thằng con trai đang năm ườn ra cạnh giường trong chiếc chăn bông trên nền nhà.
“Con có muốn ăn sáng không?”, cô hỏi.
Eddie ngóc đầu dậy và chớp mắt nhìn mẹ. “Mẹ đấy à?”.
“Con có định ăn sáng không thế?”, cô lặp lại.
Nó ngồi dậy, bất ngờ mở bùng mắt “Có chứ mẹ”, nó nói với vẻ rất hào hứng.
“Con thích sô-cô-la mẹ ạ”.
“Sô-cô-la gì?”.
“Pop-Tarts”.
“Mẹ đã rán trứng và thịt muối cho con rồi”.
Eddie nhăn mũi lại cứ như thể mẹ nó vừa bảo nó ăn cám vậy. “Không, cám ơn mẹ, con không ăn đâu”.
Nó lại lăn ra gối và với tay kéo chiếc chăn bông trên nền nhà. Được thôi, thế là quá đủ rồi. Rosie rảo bước về phòng ngủ lớn, cô thấy Zach đang sắp sửa bước ra khỏi cửa phòng. Anh đã mặc xong veston và thắt ca-vát.
“Em đã nấu xong bữa sáng rồi”, Rosie nói, hơi ngượng ngập. Anh gật đầu ra ý đã biết.
“Thế anh có ăn không?”.
“Bây giờ thì anh không thể”, anh nói, nhìn xuống đồng hồ đeo tay. “Anh có một cuộc hẹn vào đầu giờ sáng nay”.
Điều đó thật tuyệt, trời đất! Chẳng ai thèm mảy may để tâm hay biết ơn vì những nỗ lực của cô, hoặc ít ra hiểu được rằng cô đã phải lao động quần quật mà chỉ ngủ chưa được nổi năm tiếng đồng hồ mỗi ngày. Quanh quẩn một lúc, cô quay lại phòng bếp và đổ hết cả thịt muối đông lạnh và trứng vào thùng rác. Rồi vùng vằng mở máy rửa bát. Cô ấn hết chỗ đĩa vào máy.
Zach đã bước vào phòng bếp. “Anh phải đi đây”.
“Chúc anh một ngày tốt lành”, cô làu bàu trong hơi thở dồn dập vì bực tức.
“Em cũng thế nhé”.
Chồng cô đã dừng lại ở cửa trước dẫn ra ga ra để xe. “Trưa nay em có muốn bọn mình đi ăn trưa không?”.
Chắc là Zach đã nhận ra rằng Rosie đã cố gắng thể hiện thiện chí bằng những việc làm của cô. Thế nên anh cũng muốn nhượng bộ. “Em nghĩ đó là một ý kiến tuyệt vời anh ạ”. Và cô nở một nụ cười vẻ biết ơn. Anh cũng mỉm cười với cô.
“Lúc mười một rưỡi em nhé?”.
Rosie gật đầu tán thành và anh bước về phía vợ, hôn lên má cô. “Bố ơi”. Tiếng Allison gọi lớn, nó chạy bổ vào bếp. “Bố cho con đi cùng xe nhé?”.
“Nếu như con đã muộn thì có thể đi cùng”.
“Bố đợi con một phút nhé”.
“Ừ, bố đợi con ở chỗ để xe”.
Allison nhảy bổ vào phòng ngủ của nó và quay trở lại chỉ sau hai giây, trên tay cầm chiếc áo len, nó chộp lấy chiếc ba lô trên bàn và chạy đi.
“Con đã có tiền ăn trưa chưa đấy?” Rosie hỏi.
“Gì ạ? À, tất nhiên là con có rồi”. Allison hôn lên má mẹ tạm biệt giống như Zach đã làm và biến mất sau cánh cửa.
Họ đi được một lát thì Eddie xuất hiện trước cửa bếp. “Mẹ ơi, món sô-cô-la Pop-Tart của con xong chưa ạ?”
“Gần xong rồi con ạ”, cô lẩm bẩm và với tay mở tủ bếp tìm cho đến khi sờ thấy hộp đồ ăn sáng yêu thích của con trai.
Một tiếng sau thì Eddie đã ngồi trên xe buýt đến trường. Còn Rosie thì dọn dẹp phòng bếp, bật chiếc máy rửa bát. Vẫn đeo chiếc tạp dề cũ đã dùng mười năm, cô đi vào phòng ngủ và mở ngăn kéo tủ quần áo để lấy ra bộ đồ lót sạch. Sau khi vào phòng tắm một lúc, cô bỗng nhớ ra hôm nay phải đến trường Eddie để dự một bữa trưa tình nguyện ở lớp của nó. Cô lầm bầm và ngửa mặt lên để mặc nước chảy trên khuôn mặt một lúc. Tối nay cô cũng phải đi nữa. Zach chẳng bao giờ tán thành việc cô làm hội trưởng hội phụ huynh cả. Cô mới chỉ đảm đương cương vị này được hơn một năm nay và đã hứa sẽ phục vụ không quá một nhiệm kỳ. Nhưng tháng sáu năm ngoái, chẳng có ông bố bà mẹ nào xung phong làm cả. Thế là Rosie chẳng còn sự lựa chọn nào khác là phải nhận tiếp nhiệm vụ này.
Cô mặc quần áo vào và chuẩn bị gọi điện cho Zach thì nghe tiếng chuông điện thoại. Nửa tiếng sau, cô lao như bay ra cửa, giải quyết một việc khẩn cấp liên quan đến bộ áo choàng đồng phục mới của dàn hợp xướng ở nhà thờ. Đơn đặt hàng của họ bị tráo đổi với đơn đặt hàng của nhà thờ khác ở đâu đó trong bang Florida. Những chiếc áo choàng bắt buộc phải có trong buổi trình diễn trước ngày cuối tháng. Tới nhà thờ, cô bực bội tháo bỏ những chiếc áo choàng đó, nhấc điện thoại gọi đen gần chục cú và chuyển những hộp đựng áo đến bưu điện để trả lại cho công ty may. Mãi đến mười một rưỡi cô mới nhận ra là chưa gọi lại cho Zach. Lôi điện thoại di động ra, cô bấm số máy văn phòng của chồng.
“Công ty Smith, Cox và Jefferson nghe đây ạ”, tiếng một giọng phụ nữ trẻ và lạ ở đầu dây bên kia.
Rosie dừng lại chỗ đèn đỏ. “Alô, tôi là Rosie Cox. Làm ơn cho tôi nói chuyện với chồng tôi một chút”.
“Chào bà Cox. Tôi là Janice Lamond. Có lẽ chúng ta chưa gặp nhau nhỉ?”.
“Chắc là chưa đâu”, cô nói. Đèn đã chuyển sang tính hiệu xanh và cô tăng tốc lao về phía trước.
“Xin lỗi bà nhưng ông Cox đã rời văn phòng rồi ạ. Tôi tưởng là ông đi gặp bà cơ mà?
Họ đã không hẹn trước là sẽ gặp nhau ở đâu, ít nhất là không theo như cô nhớ. Thế thì Zach đi quái đâu được nhỉ? Nghĩ đi, nghĩ đi cô ra lệnh cho mình.
“Thế anh ấy có mang theo điện thoại di động không?”.
“Ồ, rất tiếc là ông ấy lại không mang rồi”.
Rosie lầm bầm. “Thế anh ấy có nói với cô là đi đâu không?”.
Người đàn bà do dự một lúc rồi trả lời. “Tôi tin là ông ấy đến nhà hàng D.D ở khu vịnh”.
Tất nhiên rồi. Đó là nhà hàng mà cô thích nhất và Zach luôn dẫn cô tới đó để kỷ niệm sinh nhật cô.
“Bà sẽ đến muộn ạ?”. Janice hỏi. “Để tôi gọi điện cho nhà hàng và báo cho ông ấy biết nếu bà muốn”.
“Tôi không thể đến ăn trưa với anh ấy được”, Rosie nói, trong lòng thực sự thấy tiếc. Zach chắc sẽ không tha thứ cho cô. Đặc biệt là nếu anh biết cô hủy cuộc gặp với anh chỉ vì một bữa trưa với nhóm tình nguyện.
“Tôi có giúp gì được bà nữa không?”. Zach không bao giờ đề cập với cô về người nhân viên mới này nhiệt tình với công việc đến mức độ nào. Rosie thấy thích cô gái này. Cô lao xe vào khu đỗ xe của trường và tắt máy.
“Cô không thấy phiền khi gọi điện cho anh ấy giúp tôi chứ?”.
“Rất sẵn lòng, thưa bà”.
“Cảm ơn cô rất nhiều”.
“Bà có muốn tôi nói cho ông ấy biết là ông ấy có thể tìm bà ở đâu không ạ?”. “Không cần đâu”, cô nói nhanh, không mong Zach gọi điện cho cô vào giữa lúc đang diễn ra hoạt động tình nguyện. “Cô chỉ cần bảo anh ấy là tôi sẽ giải thích mọi chuyện sau khi tôi về nhà”.
“Tôi sẽ làm ngay đây”. Janice đáp.
Rosie rất biết ơn cô trợ lý mới của công ty đã tỏ ra gần gũi thân thiện và sẵn sàng giúp đỡ cô như vậy.
Nếu như Zach có thực sự thất vọng bởi vợ đã trốn không ăn trưa với mình thì anh cũng sẽ không tỏ vẻ gì khi anh bước chân vào nhà tối hôm ấy. Rosie đang làm nóng ham bơ gơ trong lò vi sóng để làm món mì ống spageti, món ăn mà Eddie rất thích cho bữa tối thì chồng cô trở về. Như thường lệ, cô chạy ngay ra cửa đón anh.
Cô cố gắng đoán tâm trạng của chồng. “Em rất xin lỗi vì bữa trưa”, cô nói.
Zach nhún vai và búng ngón tay vào phong thư. “Không sao đâu”.
“Lẽ ra em nên kiểm tra lịch của em nhưng em quên mất. Thế cô trợ lý có gọi được cho anh không?”.
“Thực ra cô ấy đã đến ăn cùng anh”.
“Anh ăn trưa với thư ký của anh à?”. Rosie không chắc là mình thích nghe điều này.
“Janice không phải là thư ký. Cô ấy là trợ lý của anh”, Zach quay lưng đi và nhẹ nhàng giải thích. “Anh rời văn phòng sớm bởi vì anh muốn chọn một bàn cạnh cửa số. Khi Janice gọi điện báo tin cho anh là em không đến được, anh bèn nói nếu hủy cái bàn ấy thì cũng hơi ngượng. Anh cũng chỉ gợi ý đùa, bảo cô ấy đến cùng vì em không đến dược. Thế mà cô ấy đến thật”.
“Ôi thế à”. Rosie lặng yên một lúc. “Thế anh đã có một bữa trưa ngon lành chứ?”. Cô nhai một thanh kẹo và hỏi anh.
“Bình thường thôi”, Zach nói nhỏ và lao về phòng ngủ để chuẩn bị tắm, thế nhưng vợ anh đã nhận ra rằng anh huýt sáo rất vui vẻ.
“Tuần sau em có thể đi ăn trưa với anh vào ngày nào cũng được”, cô nói với theo chồng.
“Xin lỗi em yêu”, anh đáp khi đi ngang qua cô. “Anh đã có lịch hết cả rồi”.
Cô đã liên hệ với nhà máy đồ hộp, nơi Seth và ba anh thường bán cua và cá nhưng họ không biết gì và cũng chẳng có thông tin gì về lịch ra khơi của các đoàn thuyền đánh cá. Justine đành để lại lời nhắn qua cô thư ký trông dáng điệu mệt mỏi ấy, mặc dù chẳng có gì bảo đảm là Seth sẽ nhận được tin nhắn. Cô nhắn qua người phụ nữ ấy nhờ báo cho Seth biết cuối tuần này cô sẽ bay tới Alaska. Cô chỉ hy vọng anh nhận được tin nhắn về chuyến thăm sắp tới của cô.
Justine bước chậm rãi và cẩn thận xuống bậc thang của chiếc máy bay mười chỗ ngồi. Cô phóng mắt ra xa, lòng khát khao được nhìn thấy Seth và cầu mong cho anh đang ở cái sân bay bé nhỏ này và chờ đợi cô. Gió quất vào mặt khiến cô co người lại vì giá buốt. Đó là một ngày cuối tuần tháng Chín. Trời đất như đang báo hiệu một mùa đông đã về trên đất Alaska lạnh giá.
“Có ai đón cô chưa, thưa cô?”. Anh phi công cất tiếng hỏi khi Justine bước lại chỗ túi hành lý trong khoang chở bên ngoài máy bay.
“Tôi nghĩ là chồng tôi sẽ đón”. Nhưng Seth đã không ở đó như cô mong mỏi. Cô bắt taxi vào thành phố, chẳng mấy để tâm đến anh chàng lái xe cứ ba hoa nói về cuộc sống ở vùng biển này. Anh ta thả cô ở một khách sạn gần bến tàu với tấm biển được thắp bằng đèn nê-ông đề rõ chữ TEL.
Căn phòng thật nhỏ bé và cũ kỹ được trải tấm thảm len màu be vẫn hay thấy ở nhiều nơi. Những tấm rèm cửa và khăn trải giường được may bằng loại vải hoa đã bạc màu vốn chẳng hấp dẫn được ai kể cả khi chúng còn mới. Justine ngồi lên mép đệm, lòng thấy buồn khổ và mất mát ghê gớm. Đến đây là một quyết định điên rồ và chỉ chúng tỏ rằng cô thật sự tuyệt vọng mà thôi. Giờ đây cô đã tới Alaska, cô phải chấp nhận thực tế rằng chuyến đi này có thể là vô ích. Mới vài tuần trước đây thôi, cuộc sống vợ chồng của cô mới tuyệt vời và mỹ mãn làm sao. Nhưng giờ đây lòng cô tràn ngập nỗi nghi ngờ. Cô thực sự không tin mình đã cưới Seth. Cô thở dài, nghe trái tim mình tan nát. Thât đơn giản, cô chỉ muốn biết anh có thật lòng yêu cô không. Và kể từ lúc tự túc từ anh thưa dần, cô bắt đầu nghĩ anh không còn yêu cô nữa, và rằng tình yêu của anh cũng chỉ là nỗi đam mê nhất thời, rằng anh đã thoả mãn.
Cô có thể hoặc là nghỉ cả ngày cuối tuần ở trong phòng này để tiếc nuối ân hận và thương hại cho bản thân mình, hoặc là đi tìm tung tích của anh. Và rồi với quyết tâm tìm cho được người chồng yêu thương, Justine mặc bộ quần áo ấm nhất và hỏi Betty, người phụ nữ ngồi ở quầy trước xem đường nào đi ra nhà máy đồ hộp. Cô đi bộ vì từ khách sạn cô ở đến bến tàu cũng chỉ mất một đoạn đường ngắn. Gió vẫn không thôi lùa vào mái tóc thốc hơi lạnh vào mặt Justine khi cô đi về phía cảng. Cô giấu kỹ hai tay trong túi áo. Đã là cuối vụ đánh cá, nên có khá nhiều tàu thuyền đang neo đậu trên cầu tàu.
Justine bắt chuyện với vài người đánh cá. Bọn họ đều rất quen vời cái tên Seth và ba anh nhưng chẳng ai cho cô được mẫu thông tin hay đầu mối nào cả.
Cô quay trở về khách sạn, trái tim đau đớn gấp bội phần.
Khi chuẩn bị quay về, cô bỗng nhận ra có một con tàu đang chuẩn bị cập cảng, cánh buồm đang rộng vươn lên trời. Cánh buồm nhỏ hơn căng ra trông như cánh tay thép bé nhỏ bên sườn con tàu. Một người đàn ông lực lưỡng với mái đầu màu be đang đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh đang quay lưng về phía cô; trông dáng vẻ hơi giống với Seth. Có thể là anh ấy không nhỉ? Liệu cô có phải là người may mắn trong chuyến đi này hay không?
Justine sải bước thật nhanh về phía bến tàu, hướng tới chiếc thuyền đánh cá kia. “Seth!”. Cô cất tiếng gọi thật to nhưng gió đã đánh loãng tiếng gọi của cô vào không trung. Tuy nhiên người đàn ông kia vẫn quay lại bởi anh đã nghe thấy. Đó chính là chồng cô. Khi nhìn thấy vợ, anh nhảy bước lớn từ con tàu xuống mặt đất để hai chân chạm vào bến.
Justine chạy như bay xuống cầu tàu bằng gỗ và hét lên vì vui sướng, cô bổ nhào vào vòng tay dang rộng của Seth. Anh ôm chặt lấy cô bằng vòng tay rắn chắc, nâng bổng cô lên khỏi mặt đất. Rồi anh hôn cô bằng nụ hôn điên dại khiến bao ưu phiền và ngờ vực trong cô đều tan biến.
Justine nghe thấy nhiều tiếng rười khe khẽ đằng sau. Nhưng cô chỉ vừa mới nhận thấy và cả Seth cũng vậy.
“Em làm gì ở đây thế này hả em yêu?”. Anh hỏi và đưa tay vuốt những sợi tóc lòa xòa trên mặt Justine để được nhìn rõ cô hơn. Đôi mắt anh chan chứa tình yêu. “Làm sao em biết là bọn anh sắp quay về?”.
“Em không hề biết gì - em chỉ cầu trời là anh ở đây thôi”.
Seth lướt xuống môi cô lần nữa và thầm thì điều gì đó về lời cầu nguyện tưởng như đã không thể biến thành sự thật. Rồi môi anh tóm trọn lấy đôi môi chín mọng của cô.
“Em đang ở trong một phòng khách”, cô nói nhỏ với anh.
Seth ngoái nhìn lại. “Đợi anh ở đây nhé”, Nói rồi anh băng băng lao trở lại con tàu, nhảy phắt lên boong và nhanh chóng biến vào khoang ngầm. Justine còn đang băn khoăn không hiểu chuyện gì xảy ra thì đã thấy Seth xuất hiện trở lại, trên vai khoác một cái túi màu đen. Phải công nhận rằng dù chưa kịp cạo râu và tắm rửa nhưng anh vẫn là người đẹp trai nhất, gợi cảm nhất và đáng yêu nhất trong số những người đàn ông mà cô đã gặp.
“Chúng ta có bao nhiêu thời gian nữa hả em yêu?”, anh hỏi.
“Hai ngày nữa anh ạ”. Justine khoác tay chồng và âu yếm ngả đầu vào vai anh. “Chúng mình cần nói chuyện, Seth à”.
“Được”, anh hứa, nhưng sẽ chẳng có câu chuyện nào sau đó, bởi vì cô đã đọc được chính xác những điều mà ánh mắt anh đang nói trong lúc này.
“Tôi biết thế nào cô cũng tìm thấy chồng cô mà”. Betty nói khi thấy họ trở về nhà khách.
“Đúng vậy cô ạ. Tôi đã tìm thấy anh ấy đây rồi”. Justine nói, giọng nói chứa chan hạnh phúc. Khi họ tới phòng Justine, cô lấy chìa khóa mở cửa, Seth bế thốc cô trên tay ngay khi cánh cửa bật tung ra. Anh bế cô vào trong rồi búng nhẹ công tắc tắt đèn. Bao nhiêu phiền muộn đau khổ của thời khắc một tiếng trước đều tan biến đâu hết cả, giờ đây chỉ còn lại những nồng nàn say đắm như thưở trăng mật của đôi vợ chồng.
Người chồng đặt vợ trên một chiếc thảm đã xước nhiều chỗ. Đôi tay anh lùa vào mái tóc mềm mại của cô rồi như muốn nuốt lấy môi cô. Họ hôn nhau say sưa tưởng như chẳng còn cần gì hơn thế trên đời này. Họ chìm trong nụ hôn say đắm và đê mê đến tột cùng. “Anh cần phải tắm em yêu ạ”, đang lúc cao trào thì anh làu bàu thiếu kiên nhẫn. “Đợi anh ở đây nhé”.
“Vâng anh yêu”, cô thì thầm, đôi mắt nhắm nghiền, vẫn đang còn say sưa bởi nụ hôn dài thế kỷ của anh.
“Em có đói không?”, anh hỏi.
Justine mở mắt và nhìn vào đôi mắt chồng. Seth đang cởi bỏ áo choàng và tháo từng chiếc khuy áo sơ mi. “Em sắp chết đói rồi anh ạ”, cô nói. Nhưng cả hai đều hiểu là cô không đói vì thức ăn.
“Ôi Justine ơi, anh cũng thế”.
Anh là người duy nhất dám gọi cô bằng tên đó.
“Anh không thể tin được là em lại đến đây”, anh nói. Anh nhanh chóng cởi bỏ quần áo, ngồi xuống mép giường để cởi bỏ nốt đôi ủng. Anh đứng lên và cô giúp anh kéo khóa chiếc quần lót. Anh nôn nóng vứt toẹt bộ quần áo lên ghế.
Rồi cứ thế trần truồng bước vào phòng tắm.
Chiếc vòi tắm hoa sen được mở hết tốc lực. Justine cũng cởi bỏ đôi giày và cởi chiếc áo len chui cổ. Cô đang bắt đầu rờ tay lên cởi khuy chiếc áo sơ mi thì đã thấy anh trở lại. Đôi mắt anh rực lửa đam mê làm đôi tay cô chợt dừng lại như đóng băng trước chiếc khuy áo cuối cùng. Thật buồn cười vì cô thấy hơi ngượng ngùng trước anh. Họ đã cưới nhau và sống đời sống vợ chồng đầy huy hoàng và khó quên vào cái ngày nghỉ cuối tuần ấy. Nhưng đã nhiều tuần trôi qua, nó lâu quá và xa quá đến nỗi Justine tưởng chừng như đó chỉ là một giấc mơ.
Cảm nhận được tâm trạng của Justine nên Seth hình như đã đoán được cô đang nghĩ gì và hiểu sự e dè trong cô. Bằng một cử chỉ dịu dàng khiến cô chùng gối xuống, Seth nhẹ nhàng kéo cô vào lòng. Miệng anh thật ấm và ướt, anh muốn hôn lên khắp người cô. Chẳng mấy chốc chiếc áo sơ mi đã được lột bỏ và nằm im lặng cạnh chiếc áo len chui cổ.
Nụ hôn đắm đuối và dài đen vô tận làm cho cả hai như mềm người ra. Anh ngã xuống chiếc giường, kéo theo cô trong vòng tay rắn chắc khỏe mạnh. Thế rồi anh hôn lên bụng cô, và dần dần dịch lên phía trên, cởi bỏ hẳn chiếc áo lót để có thể tha hồ du ngoạn trên bầu ngực căng tròn và chắc nịch. Anh bật rên lên khe khẽ. Cô lùi dần xuống để môi cô lại đón nhận đôi môi đang say sưa của anh.
Chẳng bao lâu sau, anh ép cô xuống giường. Họ bị cuốn vào cảm giác đê mê tột độ của niềm đắm say hoan lạc. Cứ thế cho đến khi Justine bỗng thấy mình thăng hoa trong cảm giác hạnh phúc đến nghẹt thở. Rồi cuộn tròn trong vòng tay yêu dấu của chồng, chỉ có mỗi một miếng chăn mỏng phủ nhẹ trên đôi chân hai người, cô tựa mái đầu lên ngực Seth và vòng tay ôm lấy eo anh đầy mãn nguyện.
Seth hơi dựa lưng vào đầu giường, anh lùa tay vào mái tóc cô vuốt nhẹ nhàng. Justine nhắm mắt lại nhưng chẳng phải vì buồn ngủ. Cô muốn tận hưởng giây phút ngọt ngào tuyệt vời này, đặc biệt là nếu cô phải xa anh vài tuần nữa thì cô sẽ vẫn cảm nhận được anh bên cạnh bởi những dư âm tuyệt diệu mà anh đã mang lại cho cô.
“Anh không hiểu điều gì đã đưa em đến đây nữa”. Seth thầm thì. “Nhưng bất kể là điều gì thì anh vẫn thấy biết ơn vô cùng em yêu ạ”.
“Em cần phải biết Seth ạ”, cô nói bằng hơi thở ấm áp chứ không phát ra tiếng nữa. “Em cần phải biết là anh có ân hận vì chúng ta đã làm đám cưới không”.
“Không bao giờ”. Anh trả lời bằng giọng chắc chắn. Rồi nâng cằm cô lên, anh nhìn sâu vào mắt người vợ yêu dấu của mình và hỏi. “Còn em, em có hối hận không?”
Nụ cười dần rạng rỡ trên khuôn mặt cô. Lòng cô cảm thấy mãn nguyện vô cùng nên chẳng ngại ngần mà đưa ra câu trả lời anh đang chờ đợi. “Em yêu anh vô cùng. Tình yêu em dành cho anh nhiều khi khiến em phát điên mất. Em muốn chúng mình luôn ở bên nhau Seth ạ. Em không muốn anh xa nhà chút nào”.
“Với anh việc phải xa em cũng chẳng dễ dàng chút nào cả”. Đôi tay anh vẫn tiếp tục lướt trên những vùng nhạy cảm. “Anh lúc nào cũng yêu công việc đánh bắt của mình, nhưng từ lúc chúng mình xa nhau, trái tim anh đã luôn thuộc về em”.
Justine vuốt ve mơn trón đôi vai trần của anh, tận hưởng làn da chắc bóng. “Em chẳng nói cho ai ở nhà biết việc em làm. Bởi em biết nếu nói cho mẹ hay bà là em bay đến đây tìm anh, thể nào họ cũng bảo em đó là điều không tưởng, rằng em đang tìm kim đáy bể mà thôi”.
“Em lúc nào cũng có một giác quan rất chuẩn về thời gian”, Seth trêu vợ.
“Em ấy à?”. Justine cọ cọ má vào bộ ngực cuồn cuộn của chồng, lòng trào dâng cảm xúc yêu thương tràn trề với người đàn ông yêu dấu này. Cô gác chân lên anh.
“Khi nào em phải về?”, anh hỏi.
“Chiều tối ngày chủ nhật anh ạ”.
Anh lại lùa tay vào mái tóc dài của cô. “Nếu thế thì chúng mình phải bù lại thời gian đã mất, em có đồng ý không?”
Justine hoàn toàn đồng ý.
Sáng thứ hai, Grace dậy rất sớm, lòng thấy khoan khoái vì đã có một thời gian nghỉ ngơi dài. Con Buttercup, người bạn vàng tri kỷ ngủ trên sàn nhà giờ đang quấn quít bên chân chị, nó vẫy đuôi vui vẻ khi nhìn thấy Grace gấp chăn gối và ra khỏi giường.
“Chào buổi sáng tốt lành, người yêu của ta”. Grace nói và bước lại gần nó. Chị tự hỏi không biết Dan sẽ nghĩ gì khi biết chị đã thay vị trí của anh ta bằng một con chó.
Con Buttercup quanh quẩn theo chân Grace vào bếp rồi sau đó đi ra ngoài bằng cửa dành riêng cho thú nuôi trong nhà. Khi con chó đang làm công việc quen thuộc vào mỗi buổi sáng của nó thì Grace đã đun xong một ấm nhỏ cà-phê nóng. Khẽ thì thầm với mình, chị tắm và chọn một chiếc áo sơ mi màu đỏ mặc cùng với quần jeans để đến thư viện. Chị xỏ chân vào đôi giầy đỏ cho hợp với màu áo sơ mi và cho hai lát bánh mì bằng bột mì nguyên cám vào lò nướng chuẩn bị cho bữa sáng.
Đến giờ phải đi, con Buttercup cứ theo chân Grace ra tận xe. Chị cọ nhẹ vào đôi tai người bạn thân tình, thầm cảm ơn nó vì biết rằng thể nào nó cũng chờ đón chị mỗi khi đi làm về.
Con Buttercup là một người bạn hoàn hảo bởi nó biết yêu thương, biết vâng lời và rất đáng tin cậy. Ngay khi Grace đi khỏi nhà, nó liền quay trở lại vào bếp
qua chiếc cửa dành cho chó. Và khi Grace trở về nhà nó sẽ lại vui mừng ra chào đón chị.
Mặt trời đã lên cao quá ngọn cây, nhưng đài lại báo chiều sẽ mưa. Grace rất thích mùa thu; chị vẫn còn nhớ như in ngày Dan ở cùng mình, anh cũng có chung những cảm xúc ấy. Gần cả cuộc đời làm nghề đốn gỗ, lúc nào Dan cũng gần gũi với rừng núi. Chỉ những năm gần đây, khi đất đai trong rừng bị cấm khai thác thì Dan mới chuyển sang làm dịch vụ cây cối ở trong thị trấn. Chẳng mấy khi chị thấy chồng phàn nàn về công việc. Nhưng chị biết rằng anh rất ghét việc đó và trong lòng vẫn mong mỏi được trở về nơi rừng núi.
Nỗi buồn bỗng đâu lại ập đến với Grace. Chị ép mình phải nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa anh ta sẽ chỉ được gọi là chồng cũ của chị mà thôi. Bây giờ dù Dan đang ở đâu và với ai đi chăng nữa, chị vẫn mong anh được hạnh phúc. Chị đã không có khả năng mang lại hạnh phúc cho Dan ngay từ những ngày đầu thành chồng thành vợ. Họ lấy nhau lúc cả hai còn rất trẻ. Grace đã có mang Maryellen lúc họ vừa học xong phổ thông. Chị đã cưới Dan trước khi anh tòng quân đi lính ở Việt Nam. Vậy mà người đàn ông trở về từ cuộc chiến ấy đã không còn là con người trước đây. Gần bốn mươi năm sau cuộc chiến, Dan vẫn còn gặp những cơn ác mộng và giữ những kỷ niệm đau buồn không thể chia sẻ cùng ai. Chị không bao giờ hiểu được chuyện gì đã xảy ra trong những khu rừng tối tăm ở Việt Nam. Và Dan cũng nói là tốt hơn chị không nên biết.
Như lệ thường thì sáng thứ hai thư viện vẫn vắng độc giả, bởi họ đã có nhiều hoạt động bận rộn vào ngày cuối tuần rồi. Grace quyết định thay đổi bảng tin và mang ra một túi đựng, bên trong có một con bù nhìn, một con mèo đen và một miếng bí ngô. Tất cả đều là những mảnh bìa cát tông được cắt ra cho mỗi mùa lễ và kỳ nghỉ. Sắp đến lễ Tạ ơn, tiếp theo là lễ Giáng sinh. Đang bận rộn chuẩn bị, chợt chị nghe tiếng đàn ông phía sau lưng.
“Tôi muốn làm thẻ thư viện”. Cliff Harding nói với trợ lý của chị, chị Loretta Bailey.
“Tôi có thể giúp anh làm thẻ”.Loretta lôi ra một tờ mẫu để điền và đặt trên quầy. Cô ngừng lại khi nhìn thấy Grace đăm đăm nhìn mình vẻ không hài lòng.
Cliff ngoái lại. “Xin chào Grace”.
“Chào anh”, Grace hy vọng giọng nói của mình không để lộ ra vẻ khó chịu mà chị đang mang trong người.
“Tôi nghĩ đã đến lúc tối phải làm một cái thẻ thư viện, vì thực ra thì tuần nào tôi cũng phải đến vịnh Cedar mà”.
“Nếu tính theo đầu người của bất kỳ thành phố lớn nhỏ nào ở bang Washington này, thì thư viện chúng tôi có tỉ lệ độc giả dùng thẻ lớn nhất đấy anh ạ”. Loretta tự hào nói với Cliff khi đưa bút cho anh.
“Tôi thấy khá ấn tượng đấy”. Cliff nói nhưng đôi mắt vẫn nhìn về phía Grace.
Chị cố gắng phớt lờ ánh mắt đắm đuối của Cliff đang hướng về phía mình nhưng dường như không thể. Ngay lập tức chị cảm thấy mình lóng ngóng vụng về và chỉ muốn ngã lăn ra sàn. Cúi xuống để cố gắng lấy lại bình tĩnh, chị gần như va đầu vào Cliff Harding khi anh cũng đang cúi xuống. Hôm nay anh mặc một bộ đồ u như hôm trước, và trông anh thật hoàn hảo trong chiếc mũ cao bồi cùng giầy cao cổ. Thậm chí chị còn nghĩ rằng mình phát hiện ra mùi hương thơm của cỏ khô toát ra từ người anh nữa.
“Em đã sẵn sàng đi ăn tối với anh chưa?”, anh hỏi thầm khi cả hai còn đang cúi.
Grace ngước nhìn Loretta có vẻ đang chăm chú xem mấy thứ giấy tờ, nhưng Grace không hề ngốc chút nào. Người đồng nghiệp của chị rõ ràng rất thích câu trả lời của Grace, có lẽ còn hơn cả Cliff.
“Em nghĩ là... chưa anh ạ”. Chị cảm thấy mặt mình nóng bừng. Ý muốn của anh làm chị mất tự nhiên và thậm chí còn trở nên hơi vô duyên nữa. Cuộc hẹn hò cuối cùng của chị là với Dan và nó đã xảy ra từ lúc cả hai chỉ mới xấp xỉ đôi mươi. Cũng phải gần bốn thập kỷ trôi qua rồi - lại còn ở thế kỷ khác nữa. Bây giờ thì thời đại đã khác hẳn.
“Vậy mình đi uống cà-phê với nhau nhé”? Cliff đề nghị.
Trước khi Grace có thể đáp lời, Loletta đã đứng kiễng chân, dựa vào quầy và mỉm cười với cả hai. “Chị cứ nghỉ ngơi đi nếu như chị muốn”.
Grace ầm ừ kịch liệt phản kháng lời thúc giục đó.
“Đến quán Pancake Palace nhé?”. Cliff gợi ý, miệng nở một nụ cười rất đàn ông. Có vẻ như anh rất biết ơn lời động viên của Loretta ngay cả khi Grace không thích điều đó.
“Năm giờ vậy”, Grace đáp, cả hai đều không quá vui.
Cliff mỉm rười rồi đứng dậy. “Được, anh sẽ đợi em ở đó”.
Grace quay trở về chỗ và liếc nhìn qua quầy thấy Loretta. Trong khi đó Cliff bắt đầu bước về phía cửa ra vào.
Chợt như nhớ ra, chị gọi to. “Này thế còn cái thẻ thư viện của anh thì sao hả?”
Cliff vẫn tiếp tục bước đi. “Lần sau anh sẽ đến điền đơn xin”, anh đáp. Lúc năm giờ chiều, Grace vẫn không chắc thực sự mình có nên gặp Cliff Harding hay không nữa. Chị có vẻ hồi hộp trước cuộc hò hẹn này. Nhưng chị đã đồng ý sẽ đến đó mà. Thế nên Grace cho rằng mình cần phải giữ lời.
Cliff đứng dậy khi thấy Grace bước vào quán. “Anh không dám chắc là em sẽ đến”, anh nói nhỏ.
“Tôi cũng không chắc lắm”, Grace thú nhận và tiền lại chiếc ghế bọc đệm đỏ đối diện với anh. Chị lựa một chiếc tách bằng gốm màu be.
Cliff giơ tay vẫy cô hầu bàn.
“Thưa ông tôi đến đây ạ”, Goldie nói to từ phía sau quầy. Người hầu bàn lớn tuổi này đã làm ở Pancake Palace rất lâu rồi, Grace nhớ là hình như từ hồi chị còn đang học phổ thông. Nhưng không phải Goldie mà là một người mới đến làm việc đã trả nhầm hai chiếc thẻ tín dụng.
Mang chiếc ấm cà-phê bằng thủy tinh vào, Goldie rót cà-phê vào tách của Grace trước rồi mới chuyển sang tách của Cliff. “Anh chị có định ngồi lâu không?”. Bà hỏi Grace. “Hôm nay gia đình Chamber có đặt ăn tối ở đây”.
Đó là cách tế nhị mà Goldie muốn nhắc cho Grace biết rằng nếu chị không muốn chuyện trò lâu với người đàn ông này thì cũng có cớ để nhanh chóng cắt ngắn cuộc nói chuyện.
Grace muốn được hôn tay người phụ nữ già vì sự tế nhị ấy. “Chúng tôi sẽ không ngồi lâu đâu”.
“Tùy anh chị thôi”, Goldie nháy mắt đảm bảo.
“Cảm ơn bà”, Cliff nói.
“Vâng cảm ơn bà, bà Goldie”.
Bây giờ thì anh đã có thể được Grace chú ý đến, Cliff nhìn xuống tách càphê của mình để tránh ánh nhìn của người phụ nữ. “Anh cảm nhận được điều em đang nghĩ đấy”.
Grace thật sự nghi ngờ. “Anh ư?”.
“Em có vẻ hồi hộp lo lắng, có một chút xúc động, và trong lòng thiếu sự tin tưởng. Anh nói thế có đúng không?”
Thực sự anh nói đã rất trúng. “Tương đối đúng đấy. Sao anh đoán được?”
“Bởi vì anh cũng đang có những cảm giác như vậy”.
“Anh nói anh đã ly dị được năm năm rồi, phải không?”. Chẳng hiểu câu hỏi có ngụ ý gì đến sự căng thẳng của một câu chuyện giữa đôi nam nữ thường thấy không nhỉ?
“Đúng vậy, anh ly dị được năm năm rồi”.
“Anh có muốn nói về chuyện đó nữa không?”. Giá mà câu hỏi này do anh đặt ra thì tốt bởi chính Grace cũng không có ý khơi gợi lại chuyện cũ của chính mình.
“Nếu không quá chi tiết”.
“Còn bọn trẻ thì sao?”.
“Anh chỉ có một con gái. Nó đã lấy chồng và sống ở khu vực Bờ Đông. Tuần nào hai bố con anh cũng gọi điện trò chuyện một lúc. Mỗi năm anh bay đến đó một đôi lần thăm nó”.
Ít ra là anh vẫn còn liên lạc với con anh. Chứ chẳng giống như Dan của chị. Dan đã bỏ rơi cả chị và bọn trẻ.
“Susan, vợ cũ của anh, đã đem lòng yêu một đồng nghiệp cùng cơ quan”. Cliff bắt đầu kể. Bàn tay anh cầm chặt chiếc cốc và Grace nhận thấy cơ cằm anh đang giật giật. “Theo như lời cô ấy nói lúc đó, cô ấy chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc với anh”.
“Thế bây giờ cô ấy có hạnh phúc không?”.
“Anh chẳng biết nữa. Sau khi ly dị anh cũng về hưu và chuyển nhà đến Olalla”, Cliff nhắc đến một khu dân cư cách vịnh Cedar khoảng mười dặm về phía nam.
“Người địa phương họ gọi là Ou-la-la”. Grace bảo anh.
“Anh biết là sao người ta lại gọi thế rồi. Vùng đất thật là đẹp. Anh có khoảng bốn mươi mẫu ruộng và nuôi mười lăm con ngựa ở đó”.
“Thật tuyệt”.
“Đúng thế, mọi thứ đều tuyệt vời trừ một điều”. Đôi mắt anh dán chặt vào mắt Grace. “Anh rất cô đơn.” Đó là điều mà Grace thấu hiểu vô cùng. Cuộc hôn nhân của chị chưa bao giờ là hoàn toàn hạnh phúc, nhưng nhiều năm qua Grace và Dan cũng đã hòa hợp được với nhau. Có nhiều điều ẩn chứa trong sự hài hòa đó - những câu chuyện trong bữa tối, một đêm đi xem phim ở rạp, những lần sẻ chia kinh nghiệm và giúp đỡ nhau. Khi chị đi làm về thì lúc nào Dan cũng đã ở nhà và ra chào đón vợ một cách vui vẻ. Vậy mà giờ đây chỉ còn mỗi con Buttercup.
“Anh muốn tìm một người bạn”, Cliff tiếp lời. “Người có thể cùng anh đi nghe một buổi hòa nhạc vào mỗi tối, người có thể cùng anh chia sẻ buồn vui trong cuộc sống bây giờ và mãi mãi. Có vậy thôi”.
Grace cũng hé lộ ý nghĩ đó của mình. “Được vậy thì tốt quá” .
“Anh hi vọng là em cũng có cùng ý nghĩ giống anh”. Giọng anh nhẹ nhàng và khích lệ.
“Nhưng em chỉ có thế làm được điều đó sau khi vụ ly dị được giải quyết xong”, Grace nói.
“Được thôi”, Cliff nói.
“Và còn điều này nữa”. Grace bắt gặp ánh mắt dịu dàng của anh một lần nữa, “Lần sau em sẽ là người gọi cho anh. Được không?”
Anh thoáng ngập ngừng. “Ừ, nhưng liệu có phải anh không được phép đến thư viện?”.
“Anh luôn được chào đón”, Grace nói với anh. “Nhưng chỉ trong giờ làm việc của thư viện thôi nhé”.
“Được”. Cliff với tay nhấc cốc cà-phê và đặt lên miệng nhưng trước đó Grace đã kịp nhìn thấy nụ cười nở trên khóe môi anh.
Ý nghĩ anh có thể sắp là người khách thân thuộc thường xuyên của thư viện thoáng len lỏi trong tâm trí chị.
Mọi chuyện dường như trở nên căng thẳng giữa Rosie và Zach kể từ đêm lễ hội ở trường Eddie. Rosie luôn phàn nàn chống cô vì chuyện đó. Còn Zach thì đơn giản là không hề thấy biết ơn vì những việc vợ anh đã làm. Hình như anh vẫn nghĩ rằng cô chỉ có mỗi việc là quanh quẩn trong nhà và suốt ngày xem những bộ phim truyền hình dài tập nhàm chán tlong khi anh vẫn phải đi làm. Anh chẳng hiểu là cuộc sống của cô cũng phức tạp không kém. Cô bận rộn đến nỗi thỉnh thoảng phải đi ra ngoài trước khi anh đi và trở về nhà lúc trời đã khá muộn vào buối tối. Giờ đây điều duy nhất anh mong mỏi là vợ nấu cho mình một bữa tối có bốn món. Cô nghĩ mà thấy giận anh quá.
Cô đã yêu cầu anh đi dự buổi lễ ở trường của Eddie. Nhưng sau đó vài ngày vẫn thấy anh còn bực bội. Eddie cũng là con trai của Zach và việc gặp gỡ với giáo viên của con chỉ là chuyện nhỏ. Vậy mà Zach cằn nhằn suốt cả buổi tối hôm ấy. Lúc đầu là kiếm chuyện về việc đặt bánh pizza cho bữa tối, rồi sau đó lại móc máy chuyện hạt tiêu xanh, và lại cả chuyện anh muốn mặc áo vét cũ để đi đến dự cuộc gặp mặt nữa, vân vân và vân vân. Tối ấy khi đã muộn, bất chấp sự cố gắng của Rosia nhưng mối bất hòa giữa họ đã nổ bùng thành một cuộc cãi vã om sòm.
Nhiều ngày trôi qua mà họ vẫn chưa thế giải quyết được vấn đề rắc rối ấy. Sau chuyện ngó ngẩn đó hai tuần, một trong hai người đã có một động tác làm lành. Một buổi tối, bất chấp việc phải thức đến qua nửa đêm để soát lại báo cáo cho hội phụ huynh học sinh, Rosie vẫn dậy lúc mới bình minh và rán món trứng thịt muối. Cô vẫn là người thích dành thời gian để nấu một bữa sáng thật ngon cho cả nhà. Cô hi vọng là Zach sẽ nhận ra là cô đang cố gắng để hàn gắn và điều đó sẽ khiến anh nguôi giận.
Rosie đập trứng vào chảo và nghe tiếng Allison bắt đầu náo loạn. Bây giờ bọn trẻ có thời khóa biểu khác nhau vì Allison đang học bậc trung học. Điều đó càng khó khăn cho việc có một bữa sáng được đông đủ cả nhà. Nhưng nếu sự sum họp quan trọng với chồng cô đến vậy thì cô cũng sẽ dành cả nửa buổi sáng để ngồi trước lò nướng trong bếp, chỉ để nhằm mục đích giữ hòa khí trong gia đình.
“Mẹ làm trứng rán cho con đấy”, cô bảo con gái khi thấy Allison bước chân vào cửa bếp.
“Con ghét ăn trứng lắm mẹ ơi”. Allison đáp, lẳng chiếc ba lô lên bàn.
“Con ghét trứng từ bao giờ thế hả?”
Con gái cô ngước mắt nhìn Rosie như thể mẹ nó có vấn đề về thần kinh. “Từ lâu rồi mẹ ạ”.
“Ôi thế mà mẹ quên mất”, Rosie lờ mờ nhớ lại những cuộc tranh cãi xảy ra đã lâu về chuyện bữa sáng. “Thế còn thịt muối thì sao hả con?”.
“Cũng tàm tạm mẹ ạ”. Cô con gái mở tủ lạnh và lôi ra một chai sô đa.
“Con đừng dùng sô đa bây giờ”. Rosie hoảng sợ ngăn lại.
“Sao lại không ạ?”. Allison nhìn mẹ một cách khinh khỉnh. “Sáng nào con chẳng dùng. Sao bây giờ lại không được?”.
“Được thôi, nếu con muốn”. Thật không đáng để tranh luận một chuyện cỏn con như vậy. Rosie đã đọc rất nhiều sách về việc nuôi dạy con ở tuổi dậy thì và cô rất cẩn thận khi có xích mích xảy ra. Đầu hàng một chai sô đa thì có đáng gì đâu so với việc để Allison được có cảm giác đã xỏ mũi mẹ.
Rosie tắt bếp lò và đổ những quả trứng đã rán ra hai cái đĩa ăn và đặt cùng với những lát thịt muối nguội. Bước chân xuống sảnh cô gõ cửa và mở phòng ngủ của Eddie. Phòng nó đúng là một khu thảm hoạ. Cô ngoảnh đi để khỏi phải nhìn sự bừa bộn ấy. Thằng con trai đang năm ườn ra cạnh giường trong chiếc chăn bông trên nền nhà.
“Con có muốn ăn sáng không?”, cô hỏi.
Eddie ngóc đầu dậy và chớp mắt nhìn mẹ. “Mẹ đấy à?”.
“Con có định ăn sáng không thế?”, cô lặp lại.
Nó ngồi dậy, bất ngờ mở bùng mắt “Có chứ mẹ”, nó nói với vẻ rất hào hứng.
“Con thích sô-cô-la mẹ ạ”.
“Sô-cô-la gì?”.
“Pop-Tarts”.
“Mẹ đã rán trứng và thịt muối cho con rồi”.
Eddie nhăn mũi lại cứ như thể mẹ nó vừa bảo nó ăn cám vậy. “Không, cám ơn mẹ, con không ăn đâu”.
Nó lại lăn ra gối và với tay kéo chiếc chăn bông trên nền nhà. Được thôi, thế là quá đủ rồi. Rosie rảo bước về phòng ngủ lớn, cô thấy Zach đang sắp sửa bước ra khỏi cửa phòng. Anh đã mặc xong veston và thắt ca-vát.
“Em đã nấu xong bữa sáng rồi”, Rosie nói, hơi ngượng ngập. Anh gật đầu ra ý đã biết.
“Thế anh có ăn không?”.
“Bây giờ thì anh không thể”, anh nói, nhìn xuống đồng hồ đeo tay. “Anh có một cuộc hẹn vào đầu giờ sáng nay”.
Điều đó thật tuyệt, trời đất! Chẳng ai thèm mảy may để tâm hay biết ơn vì những nỗ lực của cô, hoặc ít ra hiểu được rằng cô đã phải lao động quần quật mà chỉ ngủ chưa được nổi năm tiếng đồng hồ mỗi ngày. Quanh quẩn một lúc, cô quay lại phòng bếp và đổ hết cả thịt muối đông lạnh và trứng vào thùng rác. Rồi vùng vằng mở máy rửa bát. Cô ấn hết chỗ đĩa vào máy.
Zach đã bước vào phòng bếp. “Anh phải đi đây”.
“Chúc anh một ngày tốt lành”, cô làu bàu trong hơi thở dồn dập vì bực tức.
“Em cũng thế nhé”.
Chồng cô đã dừng lại ở cửa trước dẫn ra ga ra để xe. “Trưa nay em có muốn bọn mình đi ăn trưa không?”.
Chắc là Zach đã nhận ra rằng Rosie đã cố gắng thể hiện thiện chí bằng những việc làm của cô. Thế nên anh cũng muốn nhượng bộ. “Em nghĩ đó là một ý kiến tuyệt vời anh ạ”. Và cô nở một nụ cười vẻ biết ơn. Anh cũng mỉm cười với cô.
“Lúc mười một rưỡi em nhé?”.
Rosie gật đầu tán thành và anh bước về phía vợ, hôn lên má cô. “Bố ơi”. Tiếng Allison gọi lớn, nó chạy bổ vào bếp. “Bố cho con đi cùng xe nhé?”.
“Nếu như con đã muộn thì có thể đi cùng”.
“Bố đợi con một phút nhé”.
“Ừ, bố đợi con ở chỗ để xe”.
Allison nhảy bổ vào phòng ngủ của nó và quay trở lại chỉ sau hai giây, trên tay cầm chiếc áo len, nó chộp lấy chiếc ba lô trên bàn và chạy đi.
“Con đã có tiền ăn trưa chưa đấy?” Rosie hỏi.
“Gì ạ? À, tất nhiên là con có rồi”. Allison hôn lên má mẹ tạm biệt giống như Zach đã làm và biến mất sau cánh cửa.
Họ đi được một lát thì Eddie xuất hiện trước cửa bếp. “Mẹ ơi, món sô-cô-la Pop-Tart của con xong chưa ạ?”
“Gần xong rồi con ạ”, cô lẩm bẩm và với tay mở tủ bếp tìm cho đến khi sờ thấy hộp đồ ăn sáng yêu thích của con trai.
Một tiếng sau thì Eddie đã ngồi trên xe buýt đến trường. Còn Rosie thì dọn dẹp phòng bếp, bật chiếc máy rửa bát. Vẫn đeo chiếc tạp dề cũ đã dùng mười năm, cô đi vào phòng ngủ và mở ngăn kéo tủ quần áo để lấy ra bộ đồ lót sạch. Sau khi vào phòng tắm một lúc, cô bỗng nhớ ra hôm nay phải đến trường Eddie để dự một bữa trưa tình nguyện ở lớp của nó. Cô lầm bầm và ngửa mặt lên để mặc nước chảy trên khuôn mặt một lúc. Tối nay cô cũng phải đi nữa. Zach chẳng bao giờ tán thành việc cô làm hội trưởng hội phụ huynh cả. Cô mới chỉ đảm đương cương vị này được hơn một năm nay và đã hứa sẽ phục vụ không quá một nhiệm kỳ. Nhưng tháng sáu năm ngoái, chẳng có ông bố bà mẹ nào xung phong làm cả. Thế là Rosie chẳng còn sự lựa chọn nào khác là phải nhận tiếp nhiệm vụ này.
Cô mặc quần áo vào và chuẩn bị gọi điện cho Zach thì nghe tiếng chuông điện thoại. Nửa tiếng sau, cô lao như bay ra cửa, giải quyết một việc khẩn cấp liên quan đến bộ áo choàng đồng phục mới của dàn hợp xướng ở nhà thờ. Đơn đặt hàng của họ bị tráo đổi với đơn đặt hàng của nhà thờ khác ở đâu đó trong bang Florida. Những chiếc áo choàng bắt buộc phải có trong buổi trình diễn trước ngày cuối tháng. Tới nhà thờ, cô bực bội tháo bỏ những chiếc áo choàng đó, nhấc điện thoại gọi đen gần chục cú và chuyển những hộp đựng áo đến bưu điện để trả lại cho công ty may. Mãi đến mười một rưỡi cô mới nhận ra là chưa gọi lại cho Zach. Lôi điện thoại di động ra, cô bấm số máy văn phòng của chồng.
“Công ty Smith, Cox và Jefferson nghe đây ạ”, tiếng một giọng phụ nữ trẻ và lạ ở đầu dây bên kia.
Rosie dừng lại chỗ đèn đỏ. “Alô, tôi là Rosie Cox. Làm ơn cho tôi nói chuyện với chồng tôi một chút”.
“Chào bà Cox. Tôi là Janice Lamond. Có lẽ chúng ta chưa gặp nhau nhỉ?”.
“Chắc là chưa đâu”, cô nói. Đèn đã chuyển sang tính hiệu xanh và cô tăng tốc lao về phía trước.
“Xin lỗi bà nhưng ông Cox đã rời văn phòng rồi ạ. Tôi tưởng là ông đi gặp bà cơ mà?
Họ đã không hẹn trước là sẽ gặp nhau ở đâu, ít nhất là không theo như cô nhớ. Thế thì Zach đi quái đâu được nhỉ? Nghĩ đi, nghĩ đi cô ra lệnh cho mình.
“Thế anh ấy có mang theo điện thoại di động không?”.
“Ồ, rất tiếc là ông ấy lại không mang rồi”.
Rosie lầm bầm. “Thế anh ấy có nói với cô là đi đâu không?”.
Người đàn bà do dự một lúc rồi trả lời. “Tôi tin là ông ấy đến nhà hàng D.D ở khu vịnh”.
Tất nhiên rồi. Đó là nhà hàng mà cô thích nhất và Zach luôn dẫn cô tới đó để kỷ niệm sinh nhật cô.
“Bà sẽ đến muộn ạ?”. Janice hỏi. “Để tôi gọi điện cho nhà hàng và báo cho ông ấy biết nếu bà muốn”.
“Tôi không thể đến ăn trưa với anh ấy được”, Rosie nói, trong lòng thực sự thấy tiếc. Zach chắc sẽ không tha thứ cho cô. Đặc biệt là nếu anh biết cô hủy cuộc gặp với anh chỉ vì một bữa trưa với nhóm tình nguyện.
“Tôi có giúp gì được bà nữa không?”. Zach không bao giờ đề cập với cô về người nhân viên mới này nhiệt tình với công việc đến mức độ nào. Rosie thấy thích cô gái này. Cô lao xe vào khu đỗ xe của trường và tắt máy.
“Cô không thấy phiền khi gọi điện cho anh ấy giúp tôi chứ?”.
“Rất sẵn lòng, thưa bà”.
“Cảm ơn cô rất nhiều”.
“Bà có muốn tôi nói cho ông ấy biết là ông ấy có thể tìm bà ở đâu không ạ?”. “Không cần đâu”, cô nói nhanh, không mong Zach gọi điện cho cô vào giữa lúc đang diễn ra hoạt động tình nguyện. “Cô chỉ cần bảo anh ấy là tôi sẽ giải thích mọi chuyện sau khi tôi về nhà”.
“Tôi sẽ làm ngay đây”. Janice đáp.
Rosie rất biết ơn cô trợ lý mới của công ty đã tỏ ra gần gũi thân thiện và sẵn sàng giúp đỡ cô như vậy.
Nếu như Zach có thực sự thất vọng bởi vợ đã trốn không ăn trưa với mình thì anh cũng sẽ không tỏ vẻ gì khi anh bước chân vào nhà tối hôm ấy. Rosie đang làm nóng ham bơ gơ trong lò vi sóng để làm món mì ống spageti, món ăn mà Eddie rất thích cho bữa tối thì chồng cô trở về. Như thường lệ, cô chạy ngay ra cửa đón anh.
Cô cố gắng đoán tâm trạng của chồng. “Em rất xin lỗi vì bữa trưa”, cô nói.
Zach nhún vai và búng ngón tay vào phong thư. “Không sao đâu”.
“Lẽ ra em nên kiểm tra lịch của em nhưng em quên mất. Thế cô trợ lý có gọi được cho anh không?”.
“Thực ra cô ấy đã đến ăn cùng anh”.
“Anh ăn trưa với thư ký của anh à?”. Rosie không chắc là mình thích nghe điều này.
“Janice không phải là thư ký. Cô ấy là trợ lý của anh”, Zach quay lưng đi và nhẹ nhàng giải thích. “Anh rời văn phòng sớm bởi vì anh muốn chọn một bàn cạnh cửa số. Khi Janice gọi điện báo tin cho anh là em không đến được, anh bèn nói nếu hủy cái bàn ấy thì cũng hơi ngượng. Anh cũng chỉ gợi ý đùa, bảo cô ấy đến cùng vì em không đến dược. Thế mà cô ấy đến thật”.
“Ôi thế à”. Rosie lặng yên một lúc. “Thế anh đã có một bữa trưa ngon lành chứ?”. Cô nhai một thanh kẹo và hỏi anh.
“Bình thường thôi”, Zach nói nhỏ và lao về phòng ngủ để chuẩn bị tắm, thế nhưng vợ anh đã nhận ra rằng anh huýt sáo rất vui vẻ.
“Tuần sau em có thể đi ăn trưa với anh vào ngày nào cũng được”, cô nói với theo chồng.
“Xin lỗi em yêu”, anh đáp khi đi ngang qua cô. “Anh đã có lịch hết cả rồi”.
/19
|