Mọi người vượt hàng rào, biến vào rừng. Xích-Hầu, Cu Bò vọt lên cây. Mỗi người cắp một tù nhân, đu từ cành này qua cành kia nhanh như vượn. Còn Đào Quí-Minh với công chúa Vĩnh-Hòa phải men theo gốc cây mà đi. Thoắt một cái, đã tới bản dinh Xích-Hầu. Quí-Minh ra lệnh:
– Trâu Xanh, em lên ngọn cây sai Thần-ưng theo dõi thủy quân của Mã Viện, khi thấy chúng khởi hành, báo cho anh biết.
Ông gọi Trâu Trắng:
– Em sai Thần-ưng trinh sát. Khi đoàn bộ binh, kị binh trong trại Hán xuất hết. Báo cho anh biết.
Hai thằng Trâu vâng lệnh đứng lên. Chúng không quên nhắc theo mấy nải chuối hương. Chúng hú lên một tiếng, truyền từ cành cây đu như vượn. Phút chốc, chúng đã đứng trên cây cao chót vót, huýt sáo sai Thần- ưng.
Đào Quí-Minh bảo Cu Bò:
– Em thẩm vấn hai tên tù binh này đi.
Cu Bò vâng lệnh. Nó cởi trói cho hai tên quân Hán. Vừa được tự do. Cả hai tên đồng xuất chưởng đánh nó. Kinh hoảng, nó lăn người đi tránh khỏi. Hai tên quân Hán lại hướng Đào Quí-Minh tấn công. Ông lạng người đi một cái, chụp hai tên liệng xuống đất. Chúng đau quá, nằm rên rỉ.
Cu Bò nổi quạu chửi tục om sòm. Nó dùng dây trói hai tên binh Hán vào gốc cây, rồi mở túi lấy ra hai con rắn lục, nhỏ bằng ngón tay. Nó tung rắn vào người hai tên Hán. Hai con rắn táp vào má hai tên này liền. Máu rỉ rỉ nhỏ xuống thành giọt. Cu Bò cất rắn đi nói:
– Tao nói cho tụi bay rõ: Con rắn táp chúng mày vừa rồi, thuộc loại kịch độc ở đất Lĩnh-Nam. Nếu không có thuốc giải, chỉ một giờ sau, chúng mày sẽ được yết kiến Lưu Bang. Chúng mày chắc biết Lưu Bang chứ? Vậy tao hỏi câu nào, chúng bay phải khai cho đúng. Bây giờ, hai đứa nghe cho rõ. Lưu Bang là ai?
Tên béo mập đáp:
– Thưa biết! Lưu Bang là Cao tổ nhà Hán.
Nó hỏi tên béo mập:
– Mi tên gì? Chức vụ của mi ra sao?
Tên béo mập đáp:
- Tôi họ Hoàng tên Qui. Tôi nguyên giữ chức lữ trưởng, được Mã Viện gọi về làm vệ sĩ.
Cu Bò cười hô hố:
– Con bà mi! Thiếu gì tên mà cha mi không đặt, lại đặt là rùa. Con rùa thì có gì hay ho đâu?
Nó hỏi tên cao, gầy:
– Còn mi?
– Tôi tên Vũ Chế. Hiện giữ chức lữ trưởng bộ binh.
Cu Bò nói lớn:
– Tao hỏi, đứa nào nói đúng, sẽ được tha tội chết. Mã Viện để lại bao nhiêu kị binh, bộ binh, thủy binh. Ai chỉ huy hậu cứ?
Vũ Chế trả lời trước.
– Hai ngàn kị binh, ba vạn bộ binh, hai ngàn thủy binh. Tất cả do Mã Anh chỉ huy. Mã Anh trước kia là Thái thú Trường-sa. Sau khi Trường-sa thất thủ, bị giáng xuống còn sư trưởng. Hiện này y được phục hồi chức vị Hổ-oai đại tướng quân.
Hoàng Qui xen vào:
– Tiểu nhân biết hơn Vũ Chế: Ở bên kia sông còn ba vạn kị binh, sáu vạn bộ binh, ba vạn thủy binh nữa.
Đào Quí-Minh hỏi chi tiết quân tình Mã Viện, rồi viết thư thuật tỷ mỉ, sai Thần-ưng mang tin cho Phật-Nguyệt. Ông bảo Xích-Hầu, Cu Bò:
– Nào! Chúng ta chuẩn bị đánh phá trại Hán. Trước hết Cu Bò trách nhiệm chỉ huy trăm Thần-hầu, hai trăm Thần-ưng, trấn ở bờ hồ. Không cho Thủy-quân lên bờ.
Cu Bò hỏi:
– Em có trăm Thần-hầu, hai trăm Thần-ưng mà đánh với hai ngàn thủy quân, làm sao đương nổi?
Quí Minh cười:
– Anh có bảo em giết hết hai ngàn đứa đâu. Chỉ cần làm cho thủy quân tê liệt, không thể lên bờ cứu trại Hán mà thôi. Chúng để lại hai mươi chiến thuyền. Em cứ nhè chiến thuyền nào bơi gần bờ, cho Thần-ưng đánh. Trong đêm tối Thần-ưng thấy lính Hán. Lính Hán không thấy Thần-ưng, thực quá dễ dàng.
Ông hỏi Xích-Hầu:
– Nhiệm vụ của em rất khó khăn: Em cho Thần-hầu cắt dây leo ở rừng thực nhiều. Canh ba đêm nay, em cùng Thần-hầu đột nhập khu chuồng ngựa, lấy cỏ cột lên lưng ngựa sẵn sàng. Khi thấy lửa cháy ở kho lương. Lập tức cắt dây cột ngựa, dùng lửa đốt các bó cỏ trên lưng chúng. Ngựa bị nóng, chạy náo loạn trong trại. Như vậy không những làm tê liệt hết kị binh giữ trại, mà dùng ngựa đốt trại Hán. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lập tức chiếm lĩnh khu bắc trại. Em cần dùng bao nhiêu Thần-ưng để bảo vệ Thần-hầu thi hành nhiệm vụ.
Xích-Hầu đáp:
– Hai ngàn kị binh, em cần hai trăm Thần-hầu. Mỗi Thần-hầu đốt mười con ngựa. Xin cho em một trăm Thần-ưng phòng vệ.
Đào Quí-Minh gọi Trâu Xanh, Trâu Trắng:
– Chúng ta còn ba trăm Thần-ưng. Mỗi em lĩnh một trăm năm mươi. Các em kiếm các cây cao, chỉ huy Thần-ưng. Nhớ đừng để lộ chỗ ẩn núp. Trâu Xanh đánh mặt đông, Trâu Trắng đánh mặt tây. Ta đánh mặt nam. Ta chỉ huy ba trăm Thần-hầu, xung phá mặt nam, đốt kho lương.
Phân phối xong, ông viết thư, sai Thần-ưng báo cho Đào vương phi:
Khi thấy trại Hán có khói bốc lên, xin khởi sự.
Trời bắt đầu về khuya. Quí-Minh, Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng ngồi truyện trò. Trâu Xanh, Trâu Trắng tuy nói truyện, song chúng không quên nhìn lên không theo dõi đám Thần-ưng trinh sát. Cu Bò hỏi Đào Quí-Minh:
– Anh Quí-Minh này! Em nghe nói phái Cửu-chân, người nào cũng đầy lòng yêu nước. Ai cũng muốn được chết cho Lĩnh-Nam có đúng không?
Quí-Minh nhìn Cu Bò, mặt mũi khôi ngô, nói năng lễ phép. Chỉ hiềm cái nó dơ bẩn quá, tuy vậy nghe nó hỏi một câu đúng đạo nghĩa. Ông ngồi ngay ngắn lại trả lời:
– Đúng đó! Từ hôm khởi binh đến giờ, Đào gia tuẫn quốc đã nhiều. Bác cả vì vui mà qua đời không kể. Sún Cao tự nguyện tuẫn quốc. Bố anh tuẫn quốc cùng một lúc với chị Hồng-Thanh. Chị Hồng-Thanh tuẫn quốc, làm cho anh Hiển-Hiệu ưu sầu không nguôi.
Cu Bò hỏi:
– Em nghĩ anh Hiển-Hiệu tước phong tới quốc công, thân làm đại tướng trấn ngự biên cương. Chị Hồng-Thanh tuẫn quốc, anh í có thể lấy vợ khác. Thiếu gì con gái trong thiên hạ, đàn ông năm thê bảy thiếp là truyện thường mà. Việc gì mà ưu sầu cho nó khổ thân.
Đào Quí-Minh cười:
– Em không hiểu đấy thôi. Để anh nói cho mà nghe. Thời Hùng-vương, quốc phong nước ta, trai gái đều được trọng, tuy không đặt thành luật, nhưng trong dân gian vẫn chỉ có chế độ một vợ một chồng. Đến đời vua An-Dương vương, văn hóa Trung-nguyên truyền vào, mới có tục vua, quan, nhà giàu lấy nhiều vợ. Luân lý Khổng-Mạnh cho rằng: Con gái là con người ta. Đàn bà không có quyền gì cả. Thậm chí một ông quan ngoài vợ lớn, còn có hàng chục vợ nhỏ, nàng hầu. Vợ chồng lấy nhau như vậy, còn đâu là tình yêu nữa.
Cu Bò không hiểu gì về tình yêu, nó ngắt lời:
– Tình yêu là gì? Em không hiểu. Tại sao vợ chồng lấy nhau phải có tình yêu? Chị Hồ Đề dạy bọn em phải yêu Lĩnh-Nam. Yêu sư phụ, và yêu bạn hữu. Chị ấy đâu có dạy yêu vợ? Thế sau này em lấy vợ cũng phải yêu vợ à?
Quí-Minh không biết rả lời sao. Ông nói lảng:
– Khi xa bạn bè em có nhớ chúng không? Khi nó đau yếu em có tội nghiệp nó không? Đó là tình yêu. Sau này lớn lên, em sẽ biết tình yêu vợ chồng là gì. Thôi để anh nói tiếp: Trong suốt hai trăm năm nội thuộc Hán, đất Lĩnh-Nam cũng bị ảnh hưởng của họ trong vấn đề vợ chồng. Bây giờ Lĩnh-Nam phục hồi chị Phương-Dung làm tể tướng, soạn luật, khẳng định: Duy trì chế độ một vợ một chồng. Khi vợ hay chồng chết, hết thời gian cư tang, mới được lấy người khác.
Cu Bò không chịu:
– Em biết rồi! Thì chị Hồng-Thanh chết đã một năm. Anh Hiển-Hiệu có quyền lấy vợ khác mà?
Quí-Minh lắc đầu:
– Trên thế gian, ái tình là cái chi chi, không ai định nghĩa được. Đại ca Trần Tự-Sơn, gặp sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, là yêu nhau ngay. Gần mười lăm năm qua, đại ca sủng ái sư tỷ cùng cực. Đại ca sẵn sàng bỏ địa vị quốc công, bỏ hết tất cả để đổi lấy sư tỷ. Cho đến khi có thể làm Hoàng Đế, người cũng bỏ hết, cùng sư tỷ ngao du mây nước. Lại như sư huynh Đô Dương, đang làm Thái-thú, tước phong tới hầu. Thấy sư tỷ Giao-Chi, người bỏ tất cả, để được mối nhu tình. Bây giờ anh Hiển-Hiệu thấy trên thế gian không còn người đàn bà nào, khiến anh ấy có thể thương được nữa.
Trâu Xanh xen vào:
– Hôm trước nghe chị Đào Phương-Dung nói rằng: Lĩnh-Nam không hãnh diện vì có ba nhân tài Trần Tự-Sơn, Đô Dương, Đào Hiển-Hiệu, mà hãnh diện vì có ba người thuộc giống đa tình. Bây giờ em mới hiểu.
Cu Bò hỏi công chúa Vĩnh-Hòa:
– Em hiểu rồi! Chắc vì vua quan người Hán, năm thê bảy thiếp, không có giống đa tình vì vậy công chúa mới ưng anh Quí-Minh phải không? À anh Quí-Minh, anh cũng phải đối đáp lại với công chúa sao cho phải đạo đấy nghe!
Quí-Minh nắm tay công chúa Vĩnh-Hòa:
– Anh chỉ là một tên nhà quê ở đất Cửu-chân, văn không giỏi, võ không cao. Được công chúa đoái tưởng đến anh, chẳng qua vì anh thuộc loại đa tình. Anh có thể vì nàng mà hy sinh. Anh làm tất cả những gì, trên thế gian này, mà người đàn ông có thể làm cho người đàn bà, để đền đáp mối nhu tình của nàng.
Cu Bò cười:
– Anh xạo rồi! Em biết anh còn yêu nhiều người đàn bà hơn công chúa nữa. Chứng cớ rành rành ra đấy. Ít nhất ba người. Phải rồi ba người.
Công chúa Vĩnh-Hòa ngước mắt phượng nhìn Quí-Minh, tay run run. Quí-Minh không quen với tính đùa nghịch của đám đệ tử Tây-vu. Ông nghiêm nghị:
– Em đừng nói đùa. Ta chỉ biết có nàng mà thôi.
Cu Bò cười khoái trá:
– Hư ! Em không đùa đâu !
Công-chúa Vĩnh-Hòa cảm thấy lạnh ở trên lưng, tay nàng run trun. Cu Bò càng trêu :
– Nếu em nêu ra được tên những người đàn bà mà anh sủng ái. Anh đã hy sinh, đang hy sinh và sắp hy sinh. Anh thưởng cho em cái gì nào? Em nhắc lại em biết rõ tên, tuổi, hiện các nàng ở đâu nữa.
Quí-Minh gật đầu:
– Ta sẽ nhận em là sư đệ, truyền hết võ công cho em.
Cu Bò nói với công chúa Vĩnh-Hòa:
– Công chúa làm chứng cho em nghe.
Công chúa Vĩnh-Hòa mặt nhợt nhạt, gật đầu. Cu Bò nói:
– Anh nói: Công chúa bảo gì anh cũng nghe. Ví thử công chúa bảo anh bỏ Lĩnh-Nam đầu hàng Hán anh có nghe không?
Quí-Minh lắc đầu. Cu Bò cười:
– Vậy có phải anh yêu Lĩnh-Nam hơn công chúa không?
Quí-Minh cãi:
– Lĩnh-Nam là sơn hà, chứ có phải là đàn bà đâu.
Cu Bò không chịu:
– Sao lại không? Hôm tế Quốc-tổ ở hồ Động-đình, bác Đào Thế-Kiệt đã hô lớn: Hỡi con yêu đất Việt, hãy đứng lên đáp lời kêu gọi của bà mẹ Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam là bà mẹ, tức là một người đàn bà vậy.
Quí-Minh thấy đứa bé chỉ biết đùa, ở dơ nhất thiên hạ, không ngờ nó lý lắc đến thế. Ông gật đầu:
– Được, anh thua. Ban nãy em nói mấy người đàn bà. Mấy không phải là một. Đâu, những người khác tên gì?
Cu Bò gật đầu:
– Còn! Một người đàn bà tối quan trọng nữa. Người đó bảo anh quì gối, anh quì gối liền. Bảo anh ưng cô gái nào, anh ưng liền. Bảo anh nằm xuống, để đánh đòn, anh nằm xuống liền. Anh xa nàng một lúc thì ôi thôi, nhớ thương chồng chất đến đứt ruột được. Xa nhau nàng khóc, anh cũng khóc nữa.
Quí-Minh lắc đầu:
– Ta chả yêu ai đến độ đó. Ngoại trừ công chúa. Em bịa ra để trêu anh. Người mà em nói đó, hiện ở đâu, tên gì?
Cu Bò cười:
– Em không biết tên. Chỉ biết nàng hiện ở Đăng-châu. Nàng chính là phu nhân của nhân vật khét tiếng, được Trưng đế phong làm Đăng-châu đại vương. Nàng đẻ ra ba người con anh hùng: Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Phương-Dung.
Quí-Minh bật cười:
– Thì ra em muốn nói mẫu thân anh?
Cu Bò lắc vai, nheo mắt khoái chí:
– Có đúng không? Bác gái bảo anh quì, anh quì. Bảo anh nằm cho bác đánh đòn, anh nằm. Xa nhau thì bác lẫn anh đều khóc. Có sai đâu?
Quí-Minh gật đầu:
– Anh thua keo thứ nhì.
Cu Bò tiếp:
– Còn nữa! Người đàn bà này xinh đẹp vô cùng, võ công cao, chí muốn nuốt cả sao Ngưu, sao Đẩu vào lòng, đó là Trưng hoàng-đế. Trưng hoàng-đế bảo anh chết, anh cũng chết. Bảo anh làm bất cứ việc gì, anh có dám chối không? Thế là đủ rồi nhé: Nhất định anh yêu ba người đó hơn công chúa. Công chúa đứng hàng thứ tư.
Công chúa Vĩnh-Hòa như trút được gánh nặng. Nàng cất tiếng ôn nhu nói:
– Thôi! Anh Quí-Minh, anh phải nhận Cu Bò là sư đệ, truyền thụ võ công cho em đi.
Quí-Minh quì xuống hướng về phương nam lễ bốn lễ, khấn:
– Con là Quí-Minh, kính xin anh hồn bố ở dưới suối vàng chứng cho. Bố tuy đã tuẫn quốc, song con xin thay bố nhận Cu Bò làm sư đệ. Con nguyện truyền hết võ công cho nó.
Cu Bò cùng hướng về nam lạy đủ tám lạy.
Đến đó, Trâu Xanh, Trâu Trắng truyền từ trên cành cây xuống nói:
– Thủy quân Mã Viện nhổ neo hướng về nam. Kị binh, bộ binh Hán đã xuất khỏi trại rồi.
Ngoài trời sương mù dăng kín mít. Đến độ dơ bàn tay ra không nhìn thấy gì. Đào Quí-Minh mừng lắm:
– Như vậy càng hay. Sương mù thế này, ta đốt trại Hán, Mã Viện, Chu Long ở xa, không biết được.
Đào Quí-Minh sai Thần-ưng truyền tin cho Phật-Nguyệt với Đào vương phi. Ông truyền lệnh các đạo quân xuất phát.
Xích-Hầu âm thầm dẫn đoàn Thần-hầu, truyền trên cành cây tiến đến phía Bắc trại Hán. Cả khu Bắc, chỉ có bốn vọng canh. Chàng gọi bốn tráng sĩ Tây-vu dặn:
– Các em dẫn Thần-hầu tới chân vọng canh, leo lên giết quân canh, sau đó đứng trấn tại đấy. Nhiệm vụ xong, huýt sáo báo hiệu cho anh biết.
Bốn tráng sĩ, mỗi người dẫn mười Thần-hầu, bò sát đến chân vọng canh. Xích Hầu ngồi chờ tin tức. Mỗi khắc thời gian qua, đối với chàng lâu bằng một năm. Chờ đã khá lâu, vẫn không tin tức gì. Chàng ngửa mặt lên trời nhìn Thần-ưng tuần thám. Chúng vẫn lượn bình thản, khiến chàng yên tâm.
Bỗng Thần-ưng ré lên một tiếng, rồi lao thẳng xuống một chòi canh. Lập tức năm Thần-ưng khác cũng lao xuống theo. Có tiếng người kêu ú ớ tại chòi canh đó, một lát, lại im lìm. Mấy Thần-ưng bay lên.
Bây giờ mới có tiếng huýt sáo ở trên các vọng canh vọng lại. Xích Hầu mừng quá, ra lệnh cho các đội Thần-hầu, vào trại Hán.
Chàng đến vọng canh chỗ Thần-ưng lao xuống, hỏi tráng sĩ tại đó:
– Có gì lạ không?
Tráng sĩ trả lời:
– Em leo lên, tung trăn quấn tên lính canh. Tên này rơi xuống dưới. Em đến định giết nó, thì một toán ba tên tuần tiễu đi tới. May nhờ Thần-ưng nhào xuống mổ mắt tụi nó. Bọn nó chưa kịp kêu một tiếng. Em đã giết hết.
Xích-Hầu dặn bốn tráng sĩ:
– Ta vào khu chuồng ngựa. Khi thấy lửa cháy, các em cho Thần-ưng xuất trận. Ba em chỉ huy Thần-ưng đánh địch. Một em chỉ huy Thần-ưng tuần phòng, chính các em, bảo vệ bọn ta.
Chàng dẫn đoàn Thần-hầu nhập khu chuồng ngựa. Trong lịch sử loài thú rừng. Có một điều lạ lùng nhất: Ngựa thấy khỉ, thường sợ hãi, co rúm lại, kêu không thành tiếng. Đoàn Thần-hầu vào chuồng ngựa, lấy cỏ khô cột thành đống trên lưng từng con. Chỉ trong chốc lát, trên hai ngàn chiến mã, bị hai mươi tráng sĩ Tây-vu chỉ huy Thần-hầu cột cỏ khô lên lưng như những bao hàng lớn.
Công việc hoàn tất. Xích Hầu dặn các tráng sĩ:
– Các em nhớ, khi thấy lửa cháy ở kho lương. Lập tức đánh lửa lên, cắt dây buộc ngựa, đốt cỏ trên lưng chúng. Cần làm cho nhanh. Một Thần-hầu phải đốt tới mười con ngựa.
Bỗng lửa cháy bừng lên một loạt khắp khu chứa lương thảo. Lửa đã bốc lên cao, mà trong trại chưa thấy quân Hán báo động.
Xích Hầu sai đánh lửa, mười đệ tử Tây-vu đồng đốt đuốc lên, dẫn Thần-hầu, châm lửa vào cỏ trên lưng ngựa, cắt đứt dây buộc. Đàn ngựa hí lên inh ỏi, chạy náo loạn trong trại. Chúng bị lửa đốt nóng, cứ lao đầu chạy hết chỗ nọ đến chỗ kia, làm các trại khác bị lửa lan vào cháy lên ngút trời.
Quân Hán vừa choàng tỉnh giấc, thấy lửa dậy khắp nơi. Hiện tượng quái gở: Trên lưng ngựa, một đám cỏ cháy rực. Ngựa nóng quá, đâm quàng, đâm xiên. Đám quân Hán náo loạn hàng ngũ. Lúc chúng định thần lại, mới thấy đàn đười ươi, đang cầm đuốc, châm lửa ở các trại.
Mã Anh chỉ huy hậu cứ, tay y cầm vũ khí, tập hợp binh tướng, chia làm hai đoàn, một đoàn cứu hỏa kho lương thực. Một đoàn đánh đuổi bọn đười ươi. Song đười ươi nhanh nhẹn, chạy vào rừng mất. Dinh trại Hán biến thành một biển lửa.
Giữa lúc Mã Anh điều khiển binh tướng chữa lửa, thì trên trời, từng đợt Thần-ưng lao xuống tấn công. Đợt đầu, gần ba trăm binh hán bị mù mắt. Chúng ôm đầu hét la inh ỏi.
Mã Anh đã nghe nói về đoàn Thần-ưng Lĩnh-Nam. Y kinh hãi, nói lớn:
– Bọn Lĩnh-Nam đột nhập trại. Phải đề phòng.
Nhưng tuyệt nhiên không thấy một bóng người. Trên trời Thần-ưng từng đợt một lao xuống tấn công. Trong đêm tối, bọn lính Hán không nhìn rõ Thần-ưng. Khi nhìn rõ, không còn kịp nữa.
Mã Anh là tướng giỏi. Anh cầm gươm quát lớn:
– Hãy tập hợp lại thành từng đội, chia một nửa phòng vệ Thần-ưng. Một nửa cứu hỏa.
Song đã quá trễ, kho lương lửa bốc lên tới trời.
Quân Hán rối loạn một lúc, mới tập hợp lại được. Song doanh trại đã cháy sạch. Mã Anh ra lệnh:
– Ai lui lại, náo loạn, ta chém liền. Chỉ có mấy con chim ưng thì sợ gì?
Y truyền quân sĩ, ra trấn ở hàng rào trại. Cứ một người phòng Thần-ưng, một người canh giữ, vì sợ quân ở ngoài đột nhập vào. Y muốn tìm một con ngựa, chạy đi gọi đạo binh mới xuất trại trở về cứu viện, mà không còn một con nào. Điều y thắc mắc: Tại sao không thấy thủy quân lên cứu viện? Khổ cho y là quân địch bao nhiêu người, đóng ở đâu y cũng không biết. Chỉ thấy một đoàn đười ươi đốt trại, rồi biến mất. Bây giờ thấy chim ưng từ trên trời lao xuống đánh. Y cũng không tìm ra người chỉ huy chim ưng nốt. Y lên vọng đài giữa trại quan sát phía bên thủy quân. Chợt y chửi thầm:
– Mình đáng chết thực. Thì ra thủy quân cũng đang bị chim ưng đánh.
Y yên tâm phần nào: Giỏi lắm địch chỉ có mấy trăm tên chỉ huy Thần-ưng mà thôi, phải diệt mấy tên này mới mong sống còn.
Y truyền bốn đại tướng, mỗi ngừơi dẫn năm trăm quân, chia ra bốn ngả trại, vào rừng tìm giết bọn chỉ huy Thần-ưng.
Bốn tướng dẫn binh đi liền. Trong đêm tối, chúng vừa vào rừng, bị đoàn Thần-hầu bất thần tấn công. Chúng ôm đầu la hoảng. Vì chúng không biết người đánh là ai. Song lệnh Mã Anh rất nghiêm. Chúng không dám lui.
Mã Anh tuyệt vọng, điểm lại, toàn bộ trên hai nghìn ngựa bị chết, hoặc bị thương, không xử dụng được nữa. Lương thực cháy hết tám phần mười. Ba vạn bộ binh, bị thương, bị chết do Thần-ưng, do lửa cháy mất hơn vạn. Tuy vậy y vẫn còn hai vạn bộ binh với hai ngàn kị binh, không ngựa.
Mã Anh truyền lệnh:
– Cầm cự tới sáng, sẽ xuất trại, đánh tụi chỉ huy chim ưng.
Giữa lúc đó, tiếng reo hò, lẫn tiếng gầm gừ vang động trời đất. Rồi không biết hổ, voi ở đâu tràn vào trại. Binh sĩ náo loạn, bỏ chạy. Y kinh hoảng cùng đám vệ sĩ vừa chiến đấu, vừa lui về Tam-sơn.
Trời dần dần sáng.
Mã Anh kiểm điểm lại: Trại Tam-sơn còn nguyên. Đám thủy quân đã đổ bộ lên trại, bỏ thuyền không dưới hồ. Tế tác các nơi báo cáo: Đêm qua lực lượng đánh trại lúc đầu chỉ có một trăm người, chỉ huy sáu trăm đười ươi. Sáu trăm mười hai Thần-ưng tấn công trại trung ương, đốt lương thảo. Riêng đánh trại Tam-sơn, chỉ có một thằng bé tuổi chưa quá mười lăm, chỉ huy trăm đười ươi cắt dây cột chiến thuyền, làm chiến thuyền trôi ra xa, rồi dùng hai trăm chim ưng đánh. Đám thủy thủ kinh hoàng, bỏ chiến thuyền bơi vào bờ.
Một lát tế tác báo: Đêm qua, giữa lúc hỗn loạn, một trăm con voi, ba trăm con hổ, tấn công, cướp mất trại trung ương. Bộ binh khoảng bốn vạn, kị binh khoảng một vạn, hiện đã chiếm trại trung ương. Tất cả đang tiến đến đánh trại Tam-sơn.
...
Về phía Lĩnh-Nam. Đào vương phi chiếm trọn trại trung ương Hán. Bà khẩn cấp tập hợp các tướng soái nghe lệnh.
Đào-quí-Minh, công chúa Vĩnh-Hòa, cùng đám Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng suốt đêm qua đột kích trại Hán. Người chỉ huy Thần-ưng, kẻ chỉ huy Thần-hầu phục trong rừng đánh đám quân Hán bỏ chạy. Bây giờ, kéo nhau về trại trình diện.
Đào vương phi thấy công chúa Vĩnh-Hòa, bà cầm lấy tay nàng, dắt vào ngồi bên cạnh nói:
– Thân thể cháu thuộc cành vàng lá ngọc, mà lam lũ trong rừng thế này, Lĩnh-Nam ta không bao giờ quên ơn cháu.
Đào vương phi bảo Đào Quí-Minh:
– Trận đánh đêm qua, công đầu do cháu với Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng. Tuy nhiên, cháu chỉ biết thắng người, mà quên mất một điều?
Đào Quí-Minh hỏi:
– Cháu xin nghe bá mẫu dạy.
Đào vương phi nói:
– Khi cháu thiết kế, thì cháu cầm chắc cái thắng trong tay. Đã biết thắng trong tay, phải biết mình được hưởng gì sau chiến thắng? Cháu chỉ việc dùng Thần-hầu đốt trại, Thần-ưng tấn công cũng đủ. Nếu cháu biết lợi dụng, chỉ cắt cương, cho ngựa chạy loạn lên, đừng đốt kho lương. Có phải bây giờ chúng ta có thêm hai ngàn con ngựa, một núi lương thảo không? Thôi đây là kinh nghiệm, lần sau, cháu sẽ tính kỹ hơn.
Bà nói với các tướng sĩ:
– Chúng ta đã chiếm được trại trung ương. Mã Anh còn một vạn bộ binh, hai ngàn thủy quân, y đang cố thủ ở Tam-sơn chờ quân cứu viện. Ta phải đánh y thực nhanh, trước khi viện quân tới. Ngặt vì trại Tam-sơn đóng trên núi rất khó đánh. Nhưng dù gì, chúng ta cũng phải đánh cho được ngay sáng hôm nay. Nếu không, đạo binh năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh sẽ quay trở về, hợp với sáu vạn thủy binh của chúng, thì chúng ta không còn đất sống.
Lê Thị Lan thêm:
– Ấy là chưa kể, bên kia sông còn ba vạn kị binh, sáu vạn bộ binh, ba vạn thủy binh sẵn sàng qua sông tiếp viện. Đạo này do Lưu Long và người đứng thứ nhì trong Liêu-đông tứ ma tên Ngô Phùng chỉ huy.
Tiên-yên nữ hiệp nói:
– Giờ này, Phật-Nguyệt đang giao chiến với Mã Viện rồi đây. Song chúng ta chưa được tin tức gì cả. Chắc hơn hết, Vương phi viết thư sai Thần-ưng đến Linh-lăng gọi đạo binh của Đào Phương-Dung tới trợ chiến cho chắc ăn.
Đào vương phi quyết định:
– Được ! Chúng ta chia lực lượng làm hai: Một phần đánh trại Tam-sơn, một phần chặn đường rút quân của Chu Long. Tôi viết thư cho Đào Phương-Dung liền. Nếu như chúng ta chưa đánh xong Tam-sơn, mà phía bắc có quân Hán tới, rồi Chu Long đánh ép phía sau, Mã Viện ngoài khơi kéo về, các vị cứ bình tĩnh cố thủ một ngày… Đạo quân Đào Phương-Dung sẽ tới trợ chiến. Dù trong trường hợp nào, trận chiến chúng rất khốc liệt.
Bà cầm binh phù gọi Lê Thị Lan truyền lệnh:
– Phía tây hồ Động-đình, nằm trên đường rút quân của Chu Long có khu rừng rậm rạp. Cháu hãy đem Xích Hầu, Hắc Hổ dẫn sư Thần-hầu, sư Thần-hổ phục trong rừng. Khi thấy quân Chu Long trở về, thì đốt lửa khắp nơi, làm nghi binh. Ít Như vậy y không dám tiến mau. Ta có thể cầm chân chúng được vài giờ nữa. Sau đó khi chúng vượt qua, cháu dùng Thần-hầu, Thần-hổ đánh nhau với chúng.
Lê Thị Lan hỏi:
– Trường hợp chúng đánh mạnh quá, hầu, hổ không cản nổi thì sao?
Đào vương phi đáp:
– Cháu rút quân vào rừng. Chờ chúng đi qua, đánh tập hậu. Hoặc chúng phải chia quân đóng giữ mặt hậu cũng được.
Bà nói với Tiên-yên nữ hiệp:
– Xin sư tỷ theo giúp cháu Lê Thị Lan.
Bà gọi Trâu Xanh:
– Cháu giữ nhiệm vụ tối quan trọng. Cháu đem hai trăm Thần-ưng phục ở phía bờ sông Trường-giang. Hễ thấy quân Hán từ bên sông đánh sang, thì dùng Thần-ưng đánh cản bước tiến của chúng. Nhất nhất diễn biến phải báo cho ta biết.
Bà chỉ vào tấm lụa vẽ bản đồ trại Tam-sơn:
– Trại Tam-sơn rất khó đánh. Một mặt dựa vào chân núi, một mặt quay quay ra hồ. Mặt hồ ta không cần đánh. Ta đánh ba mặt là đủ rồi. Cháu Quí-Minh đánh mặt đông, có Cu Bò đem theo hai trăm Thần-ưng trợ chiến. Cháu Hồ Nam đánh mặt bắc với hai trăm thớt voi. Ta đánh mặt tây, có Trâu Trắng mang theo hai trăm Thần-ưng trợ chiến. Nào chúng ta lên đường.
Giữa lúc mọi người sắp sửa lên đường, Thần-ưng đem tin đến. Đào vương phi mở thư ra đọc, nói:
Phật-Nguyệt sắp giao chiến với Mã Viện.
Cu Bò cười khoái trá:
– Sư bá! Như vậy Mã Viện, Chu Long chưa biết tin hậu cứ bị chiếm. Cháu đề nghị sư bá kêu một số tù binh bị bắt, thả một số đi ngựa, một số xuống thuyền để chúng báo cho Chu Long, Mã Viện biết. Như vậy quân của Mã, Chu sẽ rối loạn. Ngặt một điều, chúng ta ắt gặp hung hiểm, vì chúng ào trở về, đánh xả láng, mở đường máu rút lui.
Đào vương phi gật đầu. Bà truyền thả hơn trăm tù binh bị bắt tại trại trung ương, cấp ngựa cho đi. Một mặt thả trăm thủy thủ trên một chiến thuyền.
...
Phía nam hồ Động-đình, Phật-Nguyệt, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương cho các chiến sĩ chuẩn bị sẵn sàng. Bà truyền Sún Hô leo lên chót vót cột buồm soái thuyền chỉ huy Thần-ưng tuần thám. Đạo binh Đào vương phi, Quách Lãng đi đã năm hôm. Thần-ưng báo tin hàng ngày bước tiến quân của hai đạo binh này. Bà chú ý nhất đến đạo Xích Hầu. Nếu Xích Hầu không thành công, e đạo binh của Đào vương phi sẽ gặp hung hiểm.
Sang ngày thứ sáu, có Thần-ưng báo tin sự xuất hiện đột ngột của Đào Quí-Minh với công chúa Vĩnh-Hòa. Bà mừng lắm. Đinh Bạch-Nương nói:
– Có thêm anh Quí-Minh, chắc chắn Xích Hầu thành công. Chúng ta kiên nhẫn chờ thêm mấy ngày nữa.
Chiều hôm đó có tin Thần-ưng của Cu Bò báo về: Đạo kị binh, bộ binh Chu Long đã xuất phát vòng phía tây hồ Động-đình xuống đánh Trường-sa.
Phật-Nguyệt truyền cho đạo thủy quân Đinh, Tĩnh-Nương khởi hành, đóng trên bờ tây bắc hồ, chặn tiếp viện của thủy quân LưuLong.
Đinh Tĩnh-Nương nhận lệnh, xuất binh.
Canh ba đêm ấy, trời tối đen như mực, xoè bàn tay ra không thấy gì. Có tin Thần-ưng của Cu Bò báo về: Thủy quân Mã Viện đang lên đường.
Phật-Nguyệt reo lên:
– Ta biết ý định của Mã Viện rồi. Y tiến quân đúng như ta ước tính. Y để đạo binh Chu Long đi trước hai ngày. Sau đó y cho thủy quân băng ngang hồ, họp nhau bên bờ Tương-giang rồi cùng đánh thành Trường-sa.
Quách A hỏi:
– Sư tỷ! Em nghe Mã Viện có tài dùng binh không thua Mã Vũ, Ngô Hán, Đặng Vũ. Tại sao y không lo bảo vệ hậu quân cho chắc?
Phật-Nguyệt cười:
– Sư muội không biết đấy thôi. Mã quá cẩn thận chứ không phải y thiếu thận trọng đâu. Khi khởi binh, y sai Vương Hùng điều khiển đạo quân tế tác dò thám. Vương báo về rằng ta ở trong thành Trường-sa. Còn tại hồ Động-đình, chỉ có một đạo thủy quân. Ta cầm tù bắt được Vương Hùng, khiền cho y một trận. Bắt y phải tiếp tục gửi tin tức do ta bịa đặt cho Mã Viện. Hằng ngày Mã Viện nhận được tin Vương Hùng báo cáo y tin là thực. Y bị mắc mưu ta.
Sún Hô hỏi:
– Sư tỷ! Vụ Vương Hùng bị bắt. Mã Viện biết rồi mà.
Phật-Nguyệt cười:
– Không, y không hề biết tý gì cả.
Cao Cảnh-Khê cười:
– Vì vậy cho đến giờ này, Mã Viện vẫn tưởng ta dồn quân ở phía nam Trường-sa. Y yên tâm, tiến quân.
Phật-Nguyệt cười:
– Y đâu có yên tâm. Tuy được tin tức của Vương báo như thế. Nhưng Viện vẫn để Mã Anh chỉ huy ba vạn bộ binh, hai ngàn kị binh, hai ngàn thủy binh giữ trấn hậu quân. Y vẫn chưa cho là đủ. Y đặt ở bờ phía bắc Trường-giang tới sáu vạn bộ binh, ba vạn kị binh, ba vạn thủy binh, để phòng khi ta đánh chặn đường về, chúng sẽ đổ bộ sang tiếp viện. Mặt khác Mã cho Lưu Long đem quân tới đóng ở Quân-sơn, tiến theo mặt đông hồ Động-đình.
Đinh Bạch-Nương gật đầu:
– Em hiểu rồi. Sư tỷ thấy y quá cẩn thận. Nếu mình cũng quá cẩn thận, mình thua. Vì quân số mình chỉ bằng một phân nửa quân Mã Viện. Sư tỷ mới dùng lối đánh cảm tử, cho đạo binh Đào sư bá đánh chiếm trại Hán, sẵn sàng chấp nhận ba mũi dùi: Bên bờ bắc sông, Chu Long, Mã Viện trở lại bao vây.
Phật-Nguyệt gật đầu:
– Đạo này ngoài người can đảm, tài trí như Đào vương phi không ai làm nổi.
Phật-Nguyệt truyền lệnh xuất quân. Trên trời Thần-ưng hướng dẫn đường. Đến giữa hồ, Phật-Nguyệt truyền ngưng lại chờ đợi.
Trời tảng sáng.
Xa xa đoàn thuyền của Mã Viện dần dần hiện ra dưới sương mù. Mã dàn quân làm hai cánh: phải, trái. Phía sau có đoàn thuyền trừ bị.
Mã Viện tin vào thư báo cáo của Vương Hùng: Phật-Nguyệt dồn quân ở Trường-sa. Trên hồ chỉ có một đoàn chiến thuyền. Y yên tâm tiến binh. Mới chiều hôm qua thám mã còn báo tin cho biết, binh Lĩnh-Nam vẫn án binh ở phía nam hồ. Y mừng chi siết kể, định đánh úp Trường-sa, tạo bất ngờ, khi Lĩnh-Nam biết y đánh xuống, có muốn phản công, cũng không kịp.
Bây giờ, y thấy hai đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam, dàn trận giữa hồ. Cờ xí rợp trời. Trên khoang thuyền không một bóng người. Y chột dạ nghĩ:
– Không lẽ mới chiều hôm qua đến giờ mà Phật-Nguyệt đã điều được một đạo thủy quân phòng ngự mau đến như vậy?
Lòng Mã Viện đầy nghi hoặc. Y đứng trên mặt chiến thuyền quan sát: Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam dàn trận uy nghiêm. Song không thấy một bóng người trên mặt thuyền là tại sao? Y nhìn lên trời: Chỉ có năm Thần-ưng bay lượn.
Lòng Mã Viện đầy nghi hoặc. Y đứng trên mặt chiến thuyền quan sát: Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam dàn trận uy nghiêm. Song không thấy một bóng người trên mặt thuyền là tại sao? Y nhìn lên trời: Chỉ có năm Thần-ưng bay lượn.
Mã Viện đã từng chiến đấu chung với Phật-Nguyệt trong trận đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế, tiến vào Thục. Hồi ấy Phật-Nguyệt mới từ Lĩnh-Nam sang Trung-nguyên. Tuổi bà còn trẻ, tính tình nhu nhã, dáng người mảnh khảnh, xinh đẹp, cả ngày không nói một câu. Song kiếm pháp Phật-Nguyệt thực kinh người. Trong trận đánh Xuyên-khẩu, tuy Đặng Vũ giao cho Phật-Nguyệt chỉ huy thủy quân. Song bà chưa biết một chút nào về hành binh bố trận. Mọi việc do Lưu Long, Đoàn Chí cả. Vì vậy, khi tiến đánh Trường-sa, y yên tâm rằng Phật-Nguyệt chỉ có bản lĩnh kiếm thuật. Còn tài dùng binh, thì không có gì.
Mã Viện quên mất lẽ biến động của thời gian. Phật-Nguyệt gần Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa lâu ngày, đã học được bản lĩnh của ba người này. Bà lại dự nhiều cuộc họp luận bàn quân sự, nên hiểu hầu hết chiến thuật, tổ chức binh lực Hán. Cũng như Tây-vu Thiên-ưng lục tướng. Bà được Mã Vũ, chú tâm đặc biệt, hàng ngày dạy về hành binh bố trận, tổ chức quân đội. Hóa cho nên bà có bản lĩnh cao hơn Mã. Mà Mã không ngờ tới.
Điều thứ nhì Mã quên mất là bà xuất thân từ phái Long-biên. Kiếm pháp phái này khi hư khi thực. Hư nhiều hơn thực. Bà ém quân, đánh lừa Mã đổ quân sang phía bắc hồ là hư. Mã đổ quân, bà cho xuất hai đạo của Đào vương phi, Quách Lãng, dàn thủy quân ở nam hồ là thực. Bây giờ trong cái thực, bà dàn chiến thuyền, không cho một người lính trên mặt thuyền, là trong hư có thực, trong thực có hư đúng như kiếm pháp Long-biên. Trong đạo dùng binh thì kị nhất là nghi hoặc. Nghi hoặc dễ loạn tâm thần. Tâm thần loạn, quyết định sẽ sai., rồi đưa đến bại vong. Phật-Nguyệt biết Mã Viện đã lầu thông binh pháp, bà mới dùng hư hư, thực thực lừa y.
Mã Viện dàn quân làm hai cánh. Y chỉ huy một cánh. Liêu-đông đệ tam ma Trịnh Sư chỉ huy một cánh. Thấy cảnh quái gở trên mặt hồ. Y truyền thủy quân tiến chậm rồi y sang thuyền Trịnh Sư bàn:
– Cái gì đã xảy ra? Rõ ràng Vương tứ gia báo cho ta biết: Phật-Nguyệt không ngờ ta tiến đánh Trường-sa. Thủy quân dàn ở Tương-giang. Trên hồ không có lực lượng phòng vệ. Sao bây giờ lại có hai cánh thủy quân hùng tráng thế kia? Ý kiến tướng quân thế nào?
Trịnh Sư trả lời bằng cái lắc đầu.
Từ chiến thuyền Lĩnh-Nam vọng lại tiếng tiêu cao vút tận mây xanh, hòa lẫn tiếng đàn bầu. Mã Viện càng thêm bối rối. Y đứng trên mũi chiến thuyền ngắm nhìn, tự hỏi:
– Bọn Lĩnh-Nam làm gì thế này?
Trong đầu y hiện lên không biết bao nhiêu nghi vấn: Hay Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa đã tới? Chứ Phật-Nguyệt đâu có bản lĩnh thế này?
Tiếng tiêu, tiếng đàn vẫn từ phía chiến thuyền Lĩnh-Nam vọng lại.
Trịnh Sư cũng không quyết đoán được. Y nói:
– Không chừng chúng ta trúng kế hư binh của Phật-Nguyệt cũng nên. Nếu đúng như vậy, tôi sợ giờ này sư huynh Chu Long cũng gặp hung hiểm. Thôi thì một liều ba bảy cũng liều. Chúng ta tiến lên quyết chiến một trận, dù sao quân chúng ta cũng đông gấp ba quân địch. Chúng ta há sợ đứa con gái Phật-Nguyệt sao?
Mã Viện lắc đầu:
– Trịnh tướng quân phải cẩn thận. Bọn Việt khác với người Hán. Con gái Việt có tài như con trai. Tài dùng binh đến như Lĩnh-nam vương, Mã Vũ, Đặng Vũ, Ngô Hán mà còn thua Trưng Nhị, Phương-Dung, Phùng Vĩnh-Hoa. Kiếm pháp như Hoài-nam vương còn bị bại về tay Phật-Nguyệt. Trần Năng, Hoàng Thiều-Hoa chưởng lực mạnh kinh nhân.
Tuy nói vậy, Mã Viện vẫn quyết định:
– Chúng ta cứ đánh trống tiến lên.
Hai đạo quân Hán khua trống, chiêng, tiến lên. Chỉ còn một dặm, vẫn không thấy bóng người Lĩnh-Nam xuất hiện. Lòng Mã rối như tơ vò, y truyền quân tiến gấp. Có tiếng đàn, tiếng sáo nhịp nhàng tấu bản Động-Đình ca vọng lại. Bản này Mã Viện được nghe Lê Chân tấu cho nhiều lần, khi bà cùng Mã theo đạo quân Đặng Vũ đánh Kinh-châu.
Còn nửa dặm… rồi năm trăm trượng. Phía Lĩnh-Nam vẫn im lìm. Tim Mã Viện càng đập mạnh hơn, muốn nổ tung lồng ngực y ra.
Còn bốn trăm trượng… rồi hai trăm trượng…. Bỗng tiếng tù và thổi lên tu... tu... dài. Từ trong các chiến thuyền, hai thiếu niên, một thiếu nữ xuất hiện. Chỉ nháy mắt, đã leo lên đỉnh cột buồm. Tiếp theo Thần-ưng từ Nam hồ bay lên rợp trời.
Mã Viện đã quen với lối đánh của Tây-vu Thiên-ưng lục tướng. Y nhìn lên trời: Thần-ưng chia thành từng tốt trăm con một. Y đếm được ba cánh. Mỗi cánh ba tốt. Như vậy có sáu trăm Thần-ưng. Song Thần-ưng chỉ bay lượn trên trời mà không nhào xuống đánh.
Hai đoàn chiến thuyền chỉ còn cách nhaucó…trăm trượng. Ba tiếng trống nổi dậy. Thủy thủ Lĩnh-Nam đồng xuất hiện trên khoang. Gươm đao sáng choang. Khí thế nghiêng trời lệch đất. Cánh trái Đinh Bạch-Nương. Cánh phải Phật-Nguyệt. Hai người đứng trên đài chỉ huy. Gió hồ thổi vào y phục hai người, trông như hai tiên nữ.
Mã Viện kinh hoàng nghĩ:
– Hai người con gái mảnh mai xinh đẹp thế kia, mà ai ngờ có tài nuốt mặt trăng mặt trời.
Hai đoàn thuyền chỉ còn cách nhau có năm mươi trượng. Quân sĩ chuẩn bị tác chiến. Bỗng tiếng tù và thổi lên tu tu... Đoàn Thần-ưng từ trên không đồng lao xuống một loạt tấn công.
Mã Viện hô lớn:
– Một nửa chống Thần-ưng, một nửa chiến đấu.
Y vừa hô, có tiếng rú trên không. Cao Cảnh-Khê đã bắn tên. Ông buông một lúc bốn mũi. Một hướng ngực Mã Viện, một hướng ngực Trịnh Sư. Hai người dùng kiếm gạt. Hai mũi còn lại cắt đưt dây treo soái kỳ. Hai soái kỳ theo gió, rơi xuống mặt hồ.
Từ chiến thuyền Lĩnh-Nam, tiếng sáo du dương vọng lại. Trên trời, bầy ong bầu bay đen nghịt, nhào xuống trận Hán. Mã Viện hô lớn:
– Đốt lửa lên mau!
Nhưng giữa hồ, lấy đâu ra cỏ, ra dầu mà đốt? Mã kinh hoàng. Y chỉ còn một đường: Xua quân tiến lên. Để hai đạo lẫn lộn vào nhau, Thần- phong không phân biệt được.
Song đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam đã lui lại, giữ khoảng cách hai bên ước năm mươi trượng. Quân Hán muốn dùng cung tên cũng không được. Trên trời đoàn Thần-ưng đổi mục tiêu: Chúng tấn công vào các chiến thuyền phía sau. Các chiến thuyền phía trước, Thần-phong tấn công. Binh Hán ôm đầu, người nhảy xuống hồ. Kẻ trốn xuống dưới khoang thuyền. Mã Viện, Trịnh Sư chém đến mười người, mới giữ được trận tuyến. Mã truyền lệnh đem bất cứ vật gì trong thuyền như quần áo v.v. lên đốt. Chốc lát, khói bốc mù mịt.
Từ bên phía Lĩnh-Nam, có tiếng nhạc dìu dặt nhẹ nhàng đưa ra. Đoàn Thần-phong đang tấn công, từ từ bay lên cao, trở về thuyền. Trong khi đó đoàn Thần-ưng vẫn nhịp nhàng đánh.
Mã Viện đã cùng ở chung với Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, y đã biết lợi hại của của đàn Thần-ưng. Y nghĩ, muốn làm tê liệt đoàn Thần-ưng, phải bắt cho được mấy thằng nhãi ranh chỉ huy. Y đưa mắt nhìn lên các cột buồm trên chiến thuyền Lĩnh-Nam. Không khó nhọc, y nhìn ra Sún Hô đang đứng trên chót vót cột chiến thuyền, tay cầm cờ xanh, đỏ phất lia lịa. Dù cách nhau đã mấy năm, Sún Hô từ một thiếu niên mười lăm, mười sáu., bây giờ chàng đã thành một thanh niên phong lưu tiêu sái, song y vẫn nhận được chàng. Y nhìn sang khu đối diện với Trịnh Sư, lại một thiếu niên, oắt con như Lục Sún ngày nào. Người đen như cục than, đang cầm cờ trắng, đỏ phất chỉ huy. Phía sau, trên cột buồm soái thuyền, một thiếu nữ tuổi mười tám, mười chín, nhan sắc xinh tươi, một tay cầm cờ phất, một tay cầm ống tiêu thổi, nàng chính là Quách A. Mã Viện không biết mặt nàng. Kinh nghiệm giúp y giải đoán:
– Con lỏi kia mới thực là quan trọng. Chính nó phối hợp Thần-ưng, Thần-phong. Muốn mất sự phối hợp, cần giết nó.
Trong nhất thời, không nghĩ được kế gì. Y nói với Trịnh Sư:
– Tướng quân có công lực mạnh. Hãy dùng tên bắn chết con nhỏ kia ngay.
Trịnh Sư rút tên, nạp vào cung. Y ngắm Quách A buông tên. Tên xé gió bay tới. Tên đang đi, thình lình có tiếng rú lên, một mũi tên khác, phát sau, mà bay nhanh hơn tên của y. Mũi tên này đuổi kịp mũi của y. Chát một tiếng. Mũi tên của y gẫy làm đôi.
Y dương cung định bắn nữa. Thì người bắn, chặt gẫy tên y cũng dương cung, ba mũi tên cùng hướng y. Một mũi tiện đứt mũi tên của y vừa bay ra. Một mũi đánh gẫy cung. Một mũi đánh bay cái mũ trên đầu. Y kinh hoảng, lui lại. Một tham tướng đứng cạnh y nói:
– Người bắn tên vào tướng quân, họ Cao tên Cảnh-Khê. Trước đây y đã từng theo Hán đánh Thục. Tiễn thủ của y kinh người. Tướng quân phải cẩn thận.
Mã Viện nhìn đoàn Thần-ưng đánh vào quân mình. Y nghĩ:
– Ngày nào, bọn Lục Sún chỉ huy Thần-ưng chỉ biết đưa thư, nhào xuống đánh, cấu mặt, mổ mắt. Bây giờ đoàn Thần-ưng khác hẳn. Toán thì bay lượn, toán thì nhào xuống đánh phía trước. Có toán đánh phía trên. Thủy thủ Hán dồn hết sức ngửa mặt lên trời đề phòng. Sơ hở một chút, lập tức Thần-ưng xông qua lưới phòng thủ, tấn công vào bọn chèo thuyền. Mỗi lần như thế, một thuyền quay ngang. Thành ra trận tuyến Hán rối loạn.
Mã Viện đuổi theo chiến thuyền Lĩnh-Nam trên ba dặm, mà không sao bắt kịp. Hễ y ngưng lại, chiến thuyền Lĩnh-Nam cũng ngưng lại. Trong khi trên trời, Thần-ưng đánh liên tiếp.
Bỗng chiến thuyền Lĩnh-Nam rẽ ra, từ từ dừng lại. Từ phía sau, mười chiến thuyền tiến lên như cá kình xé sóng. Khi gần chiến thuyền Hán, thì tên từ trên mặt thuyền hàng loạt bắn ra.
Mã Viện chợt nhớ lại trận Trường-an: Bên Hán hơn hai mươi vạn quân, bị liên quân Việt, Thục có mười vạn đánh tan, vì các dàn Nỏ thần. Viện đã nghe Trần Tự-Sơn kể về sự lợi hại của dàn nỏ do Cao-cảnh hầu Cao Nỗ chế ra. Chính Nỏ-thần này khiến năm mươi vạn quân Tần chôn thây ở Lĩnh-Nam. Trong trận Trường-an, Hán bại vì Nỏ-thần xuất hiện.
Mã Viện chưa kịp phản ứng, thì mười dàn Nỏ-thần tiếp tục bắn sang. Thủy thủ trên mười chiến thuyền Hán, đã bị tiêu diệt trọn vẹn. Chiến thuyền không người điều khiển quay ngang. Hàng ngũ trận Hán rối loạn.
Mã Viện, Trịnh Sư muốn điên lên. Vì từ lúc hai bên giáp chiến., bên Hán hết bị chim ưng, ong bầu đánh, hao hụt trên vạn người, mà trước sau bên Hán chưa bắn được mũi tên, chưa xử dụng được một chiêu võ nghệ.
Bây giờ đến mười dàn Nỏ-thần bắn sang như mưa. Chỉ loạt đầu, mười chiến thuyền, hơn ba ngàn thủy thủ bị chết. Mã Viện hô lớn:
– Đem lá chắn ra.
Y vừa dứt lời, Thần-nỏ bắn loạt thứ nhì. Lại mười chiến thuyền bị loại khỏi vòng chiến.
Thủy thủ lấy mộc, lá chắn, đứng sát vào nhau, hướng về trước đỡ tên, thì Thần-ưng lại nhào xuống tấn công. Giữa Thần-ưng với Nỏ-thần phối hợp nhịp nhàng. Hễ thủy thủ hướng về trước đỡ tên, thì Thần-ưng lao xuống tấn công. Thủy thủ hướng lên trời đối phó với Thần-ưng, thì Nỏ-thần lại bắn sang. Trận chiến cứ thế kéo dài hơn giờ. Bên Hán có đến năm mươi chiến thuyền, thủy thủ bị tiêu diệt hết. Thuyền trôi lênh bênh không hàng ngũ nào cả.
Mã Viện nói với Trịnh Sư:
– Trịnh tướng quân. Bây giờ chúng ta rút lui cũng chết hết. Chi bằng nhất tề đánh lên. Hy vọng sống sót. Tôi thấy bên Lĩnh-Nam giỏi lắm có ba vạn người. Bên mình tới sáu vạn, tuy chết hơn một vạn, ta vẫn có thể thắng.
Trịnh Sư, Mã Viện hô thủy thủ cố sức chèo lên. Đoàn thuyền Lĩnh-Nam chia làm hai, rút lui về phương nam. Trong khi Thần-ưng đánh cản đường.
Trời đã về trưa, sương mù trên mặt hồ tan dần dần. Bỗng binh sĩ Hán la hoảng, họ cùng hướng nhìn về phía trại đóng ở núi Tam-sơn. Trên núi, khói bốc mịt mù, lửa ngất trời.
Mã Viện rút kiếm quát lớn:
– Ai ngừng chèo, lui một bước, ta chém liền.
Mã Viện, Trịnh Sư chém đến hai tên lữ trưởng, thuyền Hán mới giữ vững được trận tuyến. Trận tuyến vừa vững, tiếng nhạc du dương bên thuyền Lĩnh-Nam lại nổi lên. Đoàn ong bầu lại bay rợp trời sang đánh. Bên Hán không còn gì để đốt nữa. Thủy thủ bỏ mộc ôm đầu, lấy quần áo đuổi ong. Thì Nỏ-thần bắn sang một loạt nữa. Ong đốt, chim ưng nhào xuống mổ mắt, cào mặt, Nỏ-thần bắn. Mỗi dàn bắn một loạt, trọn vẹn một chiến thuyền hơn ba trăm thủy thủ vừa chết vừa bị thương. Mười dàn bắn một lúc. Nỏ bắn ra, sức đã mạnh, tầm bắn rất xa. Tên trúng người, bị xuyên qua thân. Trúng đầu, xuyên vào tới óc.
Từ bên chiến thuyền Lĩnh-Nam tiếng loa gọi:
– Binh tướng Hán nghe đây. Toàn bộ trại Tam-sơn đã bị đánh chiếm. Kho lương thảo bị đốt cháy sạch. Đường về bị cắt. Phía trước Thần-ưng, Thần-phong, Nỏ-thần. Hãy mau mau bỏ thuyền, nhảy xuống hồ bơi lại thuyền Lĩnh-Nam sẽ được tha mạng sống.
Đám binh tướng Hán nghe tiếng loa gọi, có người vừa định nhảy xuống nước lập tức Mã Viện rút kiếm chặt đầu.
Vì quân Hán sơ hở một chút, đoàn ong bầu tấn công nườm nượp. Binh Hán không còn chịu nổi nữa. Hàng vạn người nhảy xuống nước.
Mã Viện, Trịnh Sư đành truyền lệnh lui quân. Bấy giờ thuyền Lĩnh-Nam mới tiến lên, Nỏ-thần, Thần-ưng phối hợp nhịp nhàng, trống trận Lĩnh-Nam đánh rộn rã.
Mã Viện bảo Trịnh-Sư:
– Ta là chúa tướng. Ta ở lại cản hậu. Trịnh tướng quân hãy đem binh mã trở về, mở đường máu, chiếm lại trại Tam-sơn. Có lẽ giờ này tướng quân Chu Long đang trở về cứu Tam-sơn. Nhớ, lên tới Tam-sơn đốt lửa làm hiệu gọi Lưu Long, Ngô Phùng đem quân từ bắc sang tiếp viện.
Trọn đời chinh chiến. Chưa bao giờ Mã Viện gặp cảnh này. Suốt từ sáng đến giờ, một mũi tên, một chiêu võ cũng không được sử dụng. Trong sáu vạn thủy quân thì bị chết, bị bắt, đầu hàng hơn ba vạn. Bây giờ y phải cầm cự, cản hậu cho Trịnh Sư về giải cứu Tam-sơn, mở đường máu hầu rút lui.
Đoàn chiến thuyền Trịnh Sư đi rồi. Phật-Nguyệt nói với Đinh Bạch-Nương:
– Chúng ta hãy tiêu diệt đoàn thuyền Mã Viện càng mau càng tốt. Nếu chậm trễ, đạo quân Đào vương phi gặp nguy mất.
Cờ phất lên. Trâu Đen, Sún Hô đồng cho Thần-ưng đánh xả láng, đánh không cần ước lượng tổn thất. Đoàn Thần-phong như một đám mây đáp xuống. Hàng ngũ quân Hán rối loạn lên. Tráng sĩ Lĩnh-Nam dùng đoản đao, từ các con thuyền nhỏ, nhảy sang chiến thuyền Hán, đao vung lên, phụp, phụp, đầu rơi xuống. Quân Hán gặp đường cùng. Chúng quyết tử chiến. Trận chiến diễn ra kinh khủng.
Độ hơn giờ, Phật-Nguyệt đã tìm ra chỗ đứng của Mã Viện. Bà chỉ cho Quách A:
– Em dùng Thần-ưng đánh mở đường. Để chị giết tên Mã Viện.
Bà cầm kiếm nhảy sang thuyền Hán. Thần-ưng từng tốt trăm con, nhào xuống đánh vào đội hình quân Hán. Chỉ phút chốc bà đã vượt qua ba dãy chiến thuyền, tới trước mặt Mã Viện. Mã Viện thấy bóng một nữ tướng dáng thanh nhã, mặc quần áo trắng, dây lưng hồng đang tiến về phía mình. Bóng đó tiến đến đâu, đầu rơi, thây đổ đến đó. Phút chốc đã tới trước mặt y. Y vung kiếm đâm liền. Ánh kiếm chớp lên, choang một tiếng. Cái chỏm mũ đội trên đầu y rơi xuống. Xoẹt, xoẹt hai tiếng, hai tướng đứng cạnh y, đầu một nơi mình một nẻo. Choang một tiếng, y bị trúng một kiếm giữa ngực. May miếng hộ tâm kính bằng thép, che chở cho y, lửa tóe ra, làm y kinh hồn động phách. Y nhảy vọt về phía sau, xuống con thuyền nhỏ, truyền thủy thủ chèo thực mau về bắc hồ Động-đình, bỏ hơn vạn thủy thủ với chiến thuyền.
Phật-Nguyệt, Đinh Bạch-Nương truyền bao vây số chiến thuyền còn lại. Đám thủy thủ Hán thấy Mã Viện bỏ chạy, đồng quăng vũ khí xin hàng. Phật-Nguyệt truyền trói lại, cho xuống các chiến thuyền Hán. Truyền một đội dũng sĩ, giải về bản dinh phía Nam.
Phật-Nguyệt đứng trên đài cao hô lớn:
– Chúng ta chỉ có bốn vạn thủy binh, đã đánh tan bốn vạn rưỡi thủy binh Hán. Còn một vạn rưỡi, do Trịnh Sư dẫn chạy về Tam-sơn. Chúng ta mau tiến lên lấy Tam-sơn.
Tướng sĩ Lĩnh-Nam reo hò rung động mặt hồ. Chiến thuyền chia làm hai đoàn, tiến về phía bắc. Đoàn thuyền gần đến Tam-sơn, thì nghe tiếng voi rống, hổ gầm, tiếng vũ khí chạm nhau, thì biết trên bờ đang có cuộc giao chiến khốc liệt. Phật-Nguyệt sai Quách A lên cột buồm, chỉ huy Thần-ưng trinh sát.
Quách A đứng trên cột buồm nói vọng xuống:
– Trên bờ chia làm ba khu vực giao chiến. Phía tây, Thần-hổ, Thần- hầu chạm phải cường địch. Hàng ngũ rối loạn. Hai bên đã lẫn vào nhau, không phân biệt được nữa.
Phật-Nguyệt nói với Sún Hô:
– Theo kế hoạch của Đào vương phi. Mặt tây hồ, do Tiên-Yên nữ hiệp, Lê Thị Lan. Yểm trợ có Xích Hầu chỉ huy sư Thần-hầu. Hắc Hổ chỉ huy sư Thần-hổ. Cánh này chặn không cho đoàn quân của Chu Long về cứu viện Tam-sơn.
Quách A lo ngại:
– Lực lượng Chu Long tới bốn vạn bộ binh, năm vạn kị binh. Mà mình chỉ có hai sư Thần-hổ với Thần-hầu, nguy quá.
Quách A quan sát một lúc tiếp:
– Phía bờ Bắc sông địch đông vô cùng. Chỉ có mình Trâu Xanh, với hai trăm Thần-ưng đánh cầm chừng. Có lẽ đạo quân của Hán từ bên kia sông đang đổ sang cứu viện. Kìa! Thần-ưng của Trâu Xanh đánh ở trên bờ sông, rõ ràng địch đã lên bờ được rồi.
Nàng nhìn lên núi Tam-sơn nói:
– Trên núi Tam-sơn, lực lượng mình thắng. Đã lọt vào trại giặc rồi. Hai bên lẫn lộn với nhau. Thần-ưng bay lượn trên cao, không xuống yểm trợ được.
Phật-Nguyệt vui mừng:
– Cánh quân đánh Tam-sơn gồm Đào sư bá, Đào Quí-Minh, Cu Bò, Trâu Trắng, Hồ Nam với sư Thần-tượng. Lực lượng giặc có vạn bộ, hai ngàn thủy, hai ngàn kị. Tuy đánh được Tam-sơn, nhưng cũng mệt lắm rồi.
Bà quyết định:
– Sư muội Đinh Bạch-Nương, Trâu Đen, Cao Cảnh Khê đổ bộ lên phía tây của hồ, tiếp cứu sư bá Tiên-yên. Ta với Hắc Phong, Sún Hô đánh tiêu diệt đoàn bại binh Mã-Viện, Trịnh Sư rồi cùng đạo binh Đào vương phi đánh với đạo Ngô Anh mới đổ bộ qua. Sư muội chỉ cần cầm cự khoảng nửa ngày, thì đạo binh Đào Phương-Dung sẽ tiếp cứu kịp.
Phật-Nguyệt cầm loa nói lớn:
– Hỡi các anh hùng Lĩnh-Nam, hỡi những con Rồng, cháu Tiên. Lĩnh-Nam đất rộng người thưa. Trung-nguyên người nhiều. Họ cai trị chúng ta như trâu, như chó hơn hai trăm năm nhục nhã. Chúng ta vừa phục hồi. Họ lại sang cướp nước. Hãy tiến lên, giết giặc, bảo vệ Lĩnh-Nam.
Binh tướng cùng hô lên quyết chiến. Đoàn thuyền tiến vào bờ.
Mã Viện, Trịnh Sư đã đem được hơn vạn thủy quân lên bờ Tam-sơn, bầy thành trận, tỏ ý quyết chiến, đợi viện binh từ bắc Trường-giang tới.
Quân Hán sợ Thần-phong, chúng cắt cỏ đốt lên, khói mịt mờ. Phật-Nguyệt nhìn trận Hán, nói với Sún Hô:
– Mã Viện quả thực là đại tướng có tài. Sáng nay y xuất phát sáu vạn thủy quân. Ta tiêu diệt gần hết. Chỉ còn hơn vạn, mà y vẫn bày được trận thế vững trãi như thế kia, để cố thủ.
Quách A nhìn trận Hán nói:
– Chúng đốt lửa, Thần-phong không dùng được. Chúng lại núp trong các ụ đất, mô đá, khó mà dùng Thần-nỏ. Bây giờ chỉ có một cách duy nhất dùng Thần-ưng đánh từ trên không. Còn sư tỷ cho thủy quân đổ bộ, tiêu diệt chúng, càng mau càng tốt. Nếu không, đạo binh mới đổ bộ từ bắc sang tiếp cứu, nguy lắm.
Sún Hô đứng trên cột buồm, chỉ huy Thần-ưng. Hơn ba trăm Thần-ưng đồng loạt tấn công. Phật-Nguyệt ra lệnh cho các dàn Nỏ-thần bắn tà tà trên đầu trận tuyến Hán. Trong khi thủy quân đổ bộ.
Cuộc chiến diễn ra cực kỳ ác liệt. Mã Viện, Trịnh Sư, cùng các tướng Hán xúm vào bao vây Phật-Nguyệt.
Thông thường, tính tình Phật-Nguyệt khoan hòa, ít khi xử dụng hết khả năng kiếm pháp. Nhưng hôm nay, đứng trước sự an nguy của đạo quân Lĩnh-Nam, bà xử dụng những chiêu kiếm hiểm ác nhất. Kiếm chiêu lấp lánh như quả cầu bạc, bao phủ lấy người bà. Cứ mỗi chiêu vung lên, lại một đầu tướng Hán rơi xuống.
Trịnh Sư là một cao thủ bậc nhất Trung-nguyên. Võ công của y còn cao hơn bọn Sầm Bành, Phùng Dị nhiều. Cạnh y còn Mã Viện, bản lĩnh ngang với đám Phong-Châu song quái. Phật-Nguyệt đã xử dụng hết khả năng kiếm pháp, mà vẫn không thắng được hai người. Ngoài ra còn đến hơn mười tướng Hán bao vây xung quanh bà.
Bà vừa đánh vừa nhìn trận tuyến. Quân Lĩnh-Nam đang giao chiến ác liệt với quân Hán. Thắng bại chưa phân. Thì từ phía sau một giọng trẻ con la lớn:
– Mã Viện! ta cho ngươi cái này. Hãy đón lấy.
Một vật bay vèo đến trước mặt Mã-Viện. Y dùng đao gạt, nhưng không kịp. Vật đó đã trúng giữa mặt y đến bốp một cái. Một mùi hôi thối nồng nặc xông lên, làm Mã-Viện hắt xì liền ba tiếng. Y nhảy lui lại nhìn xem đó là vật gì? Thì ra một chiếc dầy vải.
Y nhìn người ném mình, chỉ là một thằng bé khôi ngô, mặt mũi lem luốc. Y cảm thấy mặt ngứa ngáy khó chịu. Y đưa tay lên gãi. Càng gãi càng thấy ngứa. Y nhìn lại kẻ phóng ám khí, thằng bé nói:
– Mã Viện! Mày bị trúng ám khí kịch độc của tao rồi. Mau quì xuống qui hàng, tao sẽ ban thuốc giải cho. Bằng không chỉ nội một giờ, mi sẽ hộc máu ra mà chết.
Nghe nói Mã kinh hãi. Y bỏ Phật-Nguyệt, rượt theo thằng bé. Nguyên thằng bé đó là Cu Bò. Sau khi Đào vương phi, Đào Quí-Minh, Trâu Trắng, Cu Bò, Hồ-Nam đánh được đồn Tam-sơn. Bà giao cho Đào Quí-Minh tiếp thu danh trại, kiểm điểm tù binh. Bà cùng với Cu Bò, Trâu Trắng, Hồ-Nam tiến ra bờ hồ Tam-sơn tiếp chiến với Phật-Nguyệt.
Cu Bò không chịu cỡi voi, vì vướng vít. Nó bám cành cây truyền như khỉ, đu từ cành này tới cành kia. Vì vậy nó tới trước. Thấy Phật-Nguyệt đang bị Mã Viện với các tướng Hán bổ vây. Nó cầm tù và gọi Thần-ưng. Trong khi Thần-ưng chưa tới kịp, tính tinh nghịch tuổi trẻ nổi dậy, nó cởi chiếc dầy móc túi lấy chiếc bình chứa chất độc nọc rắn, nhỏ mấy giọt vào, lại móc túi khác lấy ít phấn trái Móc-mèo rắc lên dầy.
Nó đứng lược trận, thình lình ném Mã Viện. Nó là đứa ở dơ nhất, bất cứ dầy, dép, quần áo nào, nó mang từ lúc mới cho tới lúc rách, không bao giờ giặt giũ. Đôi dầy của nó hôi thối không ai chịu nổi. Nó dùng dầy ném Mã Viện. Y thấy mùi hôi thối kỳ lạ, lại tưởng là ám khí. Y bỏ Phật-Nguyệt, đuổi theo nó. Nó bám cành cây, đu như khỉ. Phút chốc đã lên đến chót vót một cổ thụ. Nó cầm tù và rúc lên mấy hồi gọi Thần-ưng. Đoàn Thần-ưng của nó bay đến rợp trời. Chúng thấy Mã Viện cùng một số tướng Hán đang bao vây chúa tướng, chúng đồng ré lên nhào xuống tấn công. Mã Viện vội dùng đao múa tít bảo vệ thân mình. Vừa lúc đó, đoàn Thần-tượng với Đào vương phi tới.
Mã Viện chưa biết Đào vương phi. Y hất hàm hỏi:
– Nữ tướng kia tên gì. Hãy nói cho ta biết.
Đào vương phi tuy làm đại tướng. Song tính nhu nhã, cao sang của bậc vương giả không bị mất. Bà lễ phép trả lời:
– Người có phải Phục ba tướng quân Mã Viện đó chăng? Người chưa gặp ta, nên chưa biết. Song ngươi đã biết con trai ta là Đào Kỳ. Con dâu ta là Phương-Dung chứ?
Mã Viện bật lên tiếng úi chà. Y tỏ vẻ sợ hãi:
– Thì ra Đào vương phi đất Cửu-chân đây. Tiểu tướng muốn được lĩnh giáo mấy cao chiêu của Vương phi.
Y vung chưởng tấn công liền. Chưởng của y bao hàm sát thủ cực mạnh. Đào vương phi phát chiêu Thiết-kình phi chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cánh tay bà cảm thấy tê dại. Trong khi Mã Viện lùi hai bước.
Đào vương phi nghĩ:
– Chưởng lực tên này khá mạnh. Có lẽ hơn Phong-châu Song quái. Nếu Đào Kỳ không truyền bí quyết võ công trong bộ Văn-lang võ học kỳ thư cho ta, e rằng ta không phải đối thủ của y.
Hai người đấu được trên ba mươi chiêu. Công lực Đào vương phi thấp hơn Mã Viện. Song võ công của bà là võ công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên vì vậy bà cầm cự được.
Bỗng từ trên cao, một tia nước rót trúng đầu Mã. Y lui lại nhìn lên: Cu Bò đang cầm cò đái vào đầu y. Mùi nước đái khai không chịu được.
Y chửi:
– Đồ con nít mọi rợ! Đất Lĩnh-Nam sinh sản toàn đồ mất dậy.
Về võ công Cu Bò thua xa Mã Viện. Song bản lĩnh chửi nhau, nó bỏ xa Mã. Nó ngoác mồm ra chửi:
– Mất dậy cái con mẹ mi ấy. Đất nước của ông, chúng mày kéo sang đánh phá. Đó mới chính là mất dậy. Ông cho mày uống nước đái, lại ném vào người mày một ám khí kịch độc. Mày chết đến nơi rồi con ạ!
Nó ngừng lại cười lớn:
– Sư bá mau lui lại. Mã Viện đã trúng phải phấn Hủ tâm của cháu. Trong một giờ tim sẽ nát ra mà chết. Đằng nào trong một giờ, y cũng chết. Sư bá khỏi cần giết y.
Đào vương phi nhận Lục Sún làm đệ tử, biết bản lĩnh phá phách của chúng. Bà tưởng Cu Bò nói thực. Bà nói với Mã Viện:
– Phục ba tướng quân. Ta lấy nhân nghĩa trị người. Tướng quân bị trúng độc rồi. Ta không làm khó dễ người đâu. Ngươi đầu hàng đi thôi.
Mã Viện nhìn lại. Phật-Nguyệt đã đánh rơi kiếm của Trịnh Sư. Trận tuyến Hán tan vỡ. Y có cố gắng đốc chiến, cũng đến bại mà thôi. Y xuống nước nói với Đào vương phi:
– Vương phi! Tiểu tướng đã từng ở dưới trướng con rể người là Lĩnh-nam vương. Xin vương phi nghĩ tình Lĩnh-nam vương, ban cho tiểu tướng một liều thuốc giải. Tiểu tướng không bao giờ quên ơn.
Đào vương phi hướng mặt lên cây gọi Cu Bò:
– Bò ơi! Cháu cho Mã tướng quân một viên thuốc giải.
Cu Bò làm bộ sờ túi nọ, mò túi kia. Nó thục tay vào túi quần. Túi quần bị lủng từ hồi nào. Tay nó đụng phải cò. Nó mỉm cười, nhìn Mã Viện, rồi dùng tay chà vào cò mấy cái. Người nó đầy ghét. Đừng nói chà mấy cái, chỉ chà sơ, cũng lấy ra được một tảng ghét. Nó vê thành viên, cầm trong tay. Nó truyền cành cây xuống thấp, nói với Mã Viện:
– Mi hãy há miệng ra. Ta ném thuốc xuống cho.
Mã Viện há miệng. Cu Bò ném viên thuốc vào miệng. Y nuốt trửng. Cu Bò nói:
– Này Mã Viện, mi hãy nhớ: Sau khi uống thuốc giải, trong mười ngày không được dụng võ. Nếu trong mười ngày, mà mi dùng võ, thì đừng chê thuốc của ta không hiệu nghiệm. Thuốc này chỉ làm cho mi không bị nát tim chết. Còn loại thuốc thứ nhì nữa, mới chữa dứt hẳn bệnh.
Nó tiến đến Sún Hô nói:
– Sư huynh cho Mã tướng quân ba viên thuốc trị độc.
Miệng nói, mắt nó nháy lia lịa. Sún Hô làm gì có thuốc giải? Trong túi chàng chỉ có bình thuốc chữa khỉ. Nguyên khỉ từ vùng Giao-chỉ tới đây tham chiến, thường bị bệnh táo bón. Chàng cho chúng uống một thứ thuốc để dễ đi đại tiện. Chàng móc túi đưa ra ba viên thuốc trao cho Cu Bò. Cu Bò đưa cho Mã Viện:
– Tướng quân nuốt mau đi.
Mã Viện do dự một chút, rồi bỏ vào miệng nuốt trửng.
Đám binh sĩ Hán thấy Mã Viện bị khống chế, đồng buông vũ khí đầu hàng.
Cu Bò làm mặt nhân đạo nói với Phật-Nguyệt:
– Chị Phật-Nguyệt! Xin chị sinh phúc tha cho tên Mã Viện một lần. Y đã trúng độc của em. Tuy được uống thuốc giải, nhưng trong mười ngày, y không dám dùng võ đâu. Con sâu, cái kiến còn muốn sống, huống hồ con người. Sư tỷ ơi! Sư tỷ hãy tha mạng cho Mã tướng quân.
Nó nói với Mã Viện:
– Mã tướng quân. Đại ca Xích Hầu chỉ có Trâu Trắng, Trâu Xanh với ta dẫn Thần-hầu, Thần-ưng mà đánh tan trại Tam-sơn đốt hết lương thảo. Hơn sáu vạn thủy quân của ngươi bị sư tỷ Phật-Nguyệt đánh tan. Đạo quân năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh của Chu Long đang bị vây ở phía tây hồ Động-đình. Không chừng giờ này đã bị tiêu diệt hết rồi cũng nên.
Mã Viện liếc mắt nhìn về phía tây, ở đó có Thần-ưng đang bay rợp trời. Tiếng quân reo, tiếng hổ gầm rung động. Y tin lời nó. Nó được thể dọa tiếp:
– Bây giờ, Mã tướng quân hãy về thành Trường-sa yết kiến Lĩnh-nam vương với Hán-trung vương. Lĩnh-nam vương thường nhắc đến tướng quân luôn. Đại quân Lĩnh-Nam đóng dài từ Trường-sa đến Linh-lăng, gồm năm mươi vạn người, chia làm mười đạo. Mỗi đạo có một quân đoàn Tây-vu. Mỗi quân đoàn Tây-vu có tám sư đoàn. Tướng quân có biết là những sư đoàn gì không?
Trên đời Mã Viện, y sợ nhất là Trần Tự-Sơn, sau này tới Trưng Nhị, Phùng Vĩnh-Hoa, Đào Kỳ, Phương-Dung. Bây giờ nghe năm người đóng đại quân ở Trường-sa. Y không còn hồn vía nào nữa. Trong lòng tự nghĩ:
– Cũng may mình gặp đạo quân Phật-Nguyệt ở đây. Chứ mình kéo quân đến Trường-sa, e rằng mất mạng.
Y đánh trống lảng:
– Tôi không biết.
Cu Bò cười:
– Đó là Thần-tượng, hầu, phong, ưng, ngao, hổ, báo, long.
Mã Viện kinh hoàng. Hồi giúp Hán đánh Thục, Lĩnh-Nam chỉ mang có một quân, mà đã làm cho Thục đại bại. Huống hồ nay tới mười quân.
Thuốc đã ngấm. Mã Viện ôm bụng nhăn nhó, mặt tái mét. Cu Bò nói với Đào vương phi:
– Đệ tử biết Mã tướng quân bị trúng độc. Chắc không dám đem quân đánh Lĩnh-Nam nữa đâu. Xin sư bá đại ân đức tha cho Mã tướng quân về bắc.
Nó quay lưng lại phía Mã Viện, mắt nháy liên tiếp, ngón tay trỏ giật giật, ra hiệu cho Đào vương phi. Bà biết nó mưu kế gì đây. Bà nói với Mã Viện:
– Thôi, Mã tướng quân, ngươi hãy về đi.
Mã Viện bái tạ. Y cầm đao, hú lên một tiếng, biến vào rừng.
Phật-Nguyệt nhìn theo bóng Mã Viện. Bà quay lại khen Cu Bò:
– Em tôi giỏi quá. Nếu không có em ném ám khí vào Mã Viện, chị e giờ phút này cũng chưa thắng được y với Trịnh Sư. Y bị khống chế, thành ra hơn vạn quân Hán đều đầu hàng. Nếu chúng không đầu hàng, Lĩnh-Nam có diệt được, cũng hao đến bảy tám ngàn người.
Sún Hô, Cu Bò cùng ôm bụng cười rũ rượi. Đào vương phi nghiêm nghị:
– Các con không được vô phép. Sư tỷ Phật-Nguyệt tuy hiền hậu, nhưng cũng là chúa tướng. Các con cười như vậy, là thiếu lễ độ, không phải tác phong đệ tử danh gia.
Sún Hô chắp tay tạ lỗi với Phật-Nguyệt. Chàng nói:
– Chúng em cười vì Mã Viện mắc mưu Cu Bò. Nó làm gì có ám khí với độc dược? Chẳng qua đôi dầy của nó, từ lúc mới đan đến giờ hơn hai tháng chưa giặt. Hôi thối kinh khiếp. Nó bôi phấn mốc mèo vào. Mã Viện thấy ngứa, tưởng ám khí, đâm hoảng. Cu Bò được thể dọa già. Nó xin em thuốc táo bón chữa khỉ cho Mã uống. Sau khi uống một giờ, y sẽ đau bụng, đại tiện chảy ít ra đến mười ngày mới khỏi.
Đào Quí-Minh cũng đã tới. Ông nói:
– Cu Bò giỏi thực. Dù em ném ám khí, dù em đánh lừa Mã Viện, cũng khiến cho hơn vạn quân Hán đầu hàng.
Phật-Nguyệt gọi một tướng Lĩnh-Nam:
– Sư huynh dùng chiến thuyền giải đám tù binh này về Trường-sa chờ tôi về phát lạc. Nhớ cho ăn uống tử tế, để giữ tình với nhau. Chủ trương đánh chúng ta là bọn Quang-Vũ, chứ họ vô tội.
Bà quay lại nói với Đào vương phi:
– Chúng ta trở lại trợ chiến với sư bá Tiên-yên, Đinh Bạch-Nương:
Bà ra lệnh:
– Các em Trần Quốc-Dũng, Hắc Phong, trấn giữ Tam-sơn, cùng với một vạn thủy quân. Bảo vệ mặt hậu cho chúng ta. Còn lại, tất cả cùng theo Đào sư bá với tôi đánh tiêu diệt quân Chu Long.
Bà nói với Đào vương phi:
– Đinh Bạch-Nương đã mang hơn vạn thủy quân, đổ bộ đánh vào sườn phải Chu Long. Phía trước mặt y có Tiên-yên nữ hiệp, sư muội Lê Thị Lan, Hắc Hổ. Sư bá dẫn toàn bộ kị binh, bộ binh đánh vào phía trái. Theo giúp sư bá có Quí-Minh, Trâu Trắng, Trâu Xanh, Hồ Nam. Tôi với Quách A, Sún Hô, Cu Bò đánh vào trước mặt chúng.
Phật-Nguyệt nhảy lên ngựa đi trước. Khoảng nửa giờ sau, đã nghe tiếng hổ gầm, voi rống. Tiếng ngựa hí, quân reo. Bà cỡi ngựa đi giữa. Bên phải có Cu Bò, bên trái có Quách A. Phía sau có Sún Hô chỉ huy hơn vạn thủy quân. Trước mặt bà, xa xa hiện ra, một chiến trường. Tiên-yên nữ hiệp cầm kiếm đứng trên ngọn đồi nhỏ dốc chiến. Xung quanh bà, đoàn Thần- hầu, Thần-hổ phục dài trên sườn đồi. Phía dưới kị binh, bộ binh bao vây kín như thành đồng vách sắt. Xích Hầu mặt đầy máu. Vai Hắc Hổ băng vải đẫm máu. Chắc hai người đã bị thương.
Ngoài bờ hồ: Đinh Bạch-Nương, Cao Cảnh-Khê đang đốc thủy quân đánh với quân Hán. Cuộc xung sát chưa ngã ngũ. Quân Đinh Bạch-Nương, là quân thiện chiến, can đảm, nhưng phải dựa vào năm dàn Thần-nỏ, thành ra không dám tiến xa chiến thuyền. Còn quân Hán tuy đông, cũng không thể nào tiến được, vì bị thủy quân Lĩnh-Nam chắn phía trước.
Phật-Nguyệt cầm cờ xanh phất về phía Tiên-yên nữ hiệp mấy cái. Đó là biểu hiệu: Phá vòng vây tiến lên. Bà cầm cờ đỏ hướng về phía Đinh Bạch-Nương phất mấy cái. Đó là biểu hiệu, giữ nguyên trận tuyến.
Tiên-yên nữ hiệp, Hắc Hổ, Xích Hầu xua quân đổ đồi. Hổ gầm lên đồng xung vào trận Hán. Quân Hán đang vây cứng đoàn Thần-hổ, Thần-hầu. Bỗng thấy quân Lĩnh-Nam có viện binh, vội lui trở xuống.
Quách A bảo Cu Bò:
– Em cho Thần-ưng đánh vào đội hình quân Hán, yểm trợ sư bá Tiên-yên. Đánh xả láng. Đánh không thương xót.
Hàng ngũ quân Hán bị Thần-hổ, ưng, hầu, thủy quân đồng vây. Hàng ngũ rối loạn, lui trở lại. Hai đạo quân Lĩnh-Nam đã bắt liên lạc được với nhau.
Tiên-yên nữ hiệp nói:
– Thằng Chu Long võ công cao không thể tưởng được. Khi y đem quân trở lại. Ta dùng Thần-hầu, đốt cỏ trong rừng làm nghi binh. Nó dừng quân lại, cho tế tác dọ thám. Tên tế tác nào vào rừng, cũng bị Thần-hầu đập chết. Được mấy giờ, Chu Long đã nhận ra chủ ý của ta. Nó xua binh tiến lên. Ta dùng Thần-hổ cản đường. Lúc đầu kị binh Hán rối loạn. Sau bộ binh tiến lên. Chúng bao vây, định diệt ta. May nhờ Đinh Bạch-Nương tới kịp. Song binh sĩ của Bạch-Nương ít quá. Thành ra chỉ cản trở không cho chúng về cứu Tam-sơn mà thôi, không giải vây được cho ta. Cháu tới vừa lúc.
Phật-Nguyệt dàn quân: Phía phải, đội Thần-hổ, Thần-hầu do Hắc Hổ, Xích Hầu chỉ huy, thêm Cu Bò. Phía trái Đinh Bạch-Nương, Cao Cảnh-Khê, Trâu Đen. Chính giữa, bà với Tiên-yên, Quách A, Sún Hô. Tuy quân Lĩnh-Nam chỉ hơn vạn, song uy thế như hàng chục vạn. Trên trời Thần-ưng bay lượn, trong tư thế sẵn sàng xung trận.
– Trâu Xanh, em lên ngọn cây sai Thần-ưng theo dõi thủy quân của Mã Viện, khi thấy chúng khởi hành, báo cho anh biết.
Ông gọi Trâu Trắng:
– Em sai Thần-ưng trinh sát. Khi đoàn bộ binh, kị binh trong trại Hán xuất hết. Báo cho anh biết.
Hai thằng Trâu vâng lệnh đứng lên. Chúng không quên nhắc theo mấy nải chuối hương. Chúng hú lên một tiếng, truyền từ cành cây đu như vượn. Phút chốc, chúng đã đứng trên cây cao chót vót, huýt sáo sai Thần- ưng.
Đào Quí-Minh bảo Cu Bò:
– Em thẩm vấn hai tên tù binh này đi.
Cu Bò vâng lệnh. Nó cởi trói cho hai tên quân Hán. Vừa được tự do. Cả hai tên đồng xuất chưởng đánh nó. Kinh hoảng, nó lăn người đi tránh khỏi. Hai tên quân Hán lại hướng Đào Quí-Minh tấn công. Ông lạng người đi một cái, chụp hai tên liệng xuống đất. Chúng đau quá, nằm rên rỉ.
Cu Bò nổi quạu chửi tục om sòm. Nó dùng dây trói hai tên binh Hán vào gốc cây, rồi mở túi lấy ra hai con rắn lục, nhỏ bằng ngón tay. Nó tung rắn vào người hai tên Hán. Hai con rắn táp vào má hai tên này liền. Máu rỉ rỉ nhỏ xuống thành giọt. Cu Bò cất rắn đi nói:
– Tao nói cho tụi bay rõ: Con rắn táp chúng mày vừa rồi, thuộc loại kịch độc ở đất Lĩnh-Nam. Nếu không có thuốc giải, chỉ một giờ sau, chúng mày sẽ được yết kiến Lưu Bang. Chúng mày chắc biết Lưu Bang chứ? Vậy tao hỏi câu nào, chúng bay phải khai cho đúng. Bây giờ, hai đứa nghe cho rõ. Lưu Bang là ai?
Tên béo mập đáp:
– Thưa biết! Lưu Bang là Cao tổ nhà Hán.
Nó hỏi tên béo mập:
– Mi tên gì? Chức vụ của mi ra sao?
Tên béo mập đáp:
- Tôi họ Hoàng tên Qui. Tôi nguyên giữ chức lữ trưởng, được Mã Viện gọi về làm vệ sĩ.
Cu Bò cười hô hố:
– Con bà mi! Thiếu gì tên mà cha mi không đặt, lại đặt là rùa. Con rùa thì có gì hay ho đâu?
Nó hỏi tên cao, gầy:
– Còn mi?
– Tôi tên Vũ Chế. Hiện giữ chức lữ trưởng bộ binh.
Cu Bò nói lớn:
– Tao hỏi, đứa nào nói đúng, sẽ được tha tội chết. Mã Viện để lại bao nhiêu kị binh, bộ binh, thủy binh. Ai chỉ huy hậu cứ?
Vũ Chế trả lời trước.
– Hai ngàn kị binh, ba vạn bộ binh, hai ngàn thủy binh. Tất cả do Mã Anh chỉ huy. Mã Anh trước kia là Thái thú Trường-sa. Sau khi Trường-sa thất thủ, bị giáng xuống còn sư trưởng. Hiện này y được phục hồi chức vị Hổ-oai đại tướng quân.
Hoàng Qui xen vào:
– Tiểu nhân biết hơn Vũ Chế: Ở bên kia sông còn ba vạn kị binh, sáu vạn bộ binh, ba vạn thủy binh nữa.
Đào Quí-Minh hỏi chi tiết quân tình Mã Viện, rồi viết thư thuật tỷ mỉ, sai Thần-ưng mang tin cho Phật-Nguyệt. Ông bảo Xích-Hầu, Cu Bò:
– Nào! Chúng ta chuẩn bị đánh phá trại Hán. Trước hết Cu Bò trách nhiệm chỉ huy trăm Thần-hầu, hai trăm Thần-ưng, trấn ở bờ hồ. Không cho Thủy-quân lên bờ.
Cu Bò hỏi:
– Em có trăm Thần-hầu, hai trăm Thần-ưng mà đánh với hai ngàn thủy quân, làm sao đương nổi?
Quí Minh cười:
– Anh có bảo em giết hết hai ngàn đứa đâu. Chỉ cần làm cho thủy quân tê liệt, không thể lên bờ cứu trại Hán mà thôi. Chúng để lại hai mươi chiến thuyền. Em cứ nhè chiến thuyền nào bơi gần bờ, cho Thần-ưng đánh. Trong đêm tối Thần-ưng thấy lính Hán. Lính Hán không thấy Thần-ưng, thực quá dễ dàng.
Ông hỏi Xích-Hầu:
– Nhiệm vụ của em rất khó khăn: Em cho Thần-hầu cắt dây leo ở rừng thực nhiều. Canh ba đêm nay, em cùng Thần-hầu đột nhập khu chuồng ngựa, lấy cỏ cột lên lưng ngựa sẵn sàng. Khi thấy lửa cháy ở kho lương. Lập tức cắt dây cột ngựa, dùng lửa đốt các bó cỏ trên lưng chúng. Ngựa bị nóng, chạy náo loạn trong trại. Như vậy không những làm tê liệt hết kị binh giữ trại, mà dùng ngựa đốt trại Hán. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lập tức chiếm lĩnh khu bắc trại. Em cần dùng bao nhiêu Thần-ưng để bảo vệ Thần-hầu thi hành nhiệm vụ.
Xích-Hầu đáp:
– Hai ngàn kị binh, em cần hai trăm Thần-hầu. Mỗi Thần-hầu đốt mười con ngựa. Xin cho em một trăm Thần-ưng phòng vệ.
Đào Quí-Minh gọi Trâu Xanh, Trâu Trắng:
– Chúng ta còn ba trăm Thần-ưng. Mỗi em lĩnh một trăm năm mươi. Các em kiếm các cây cao, chỉ huy Thần-ưng. Nhớ đừng để lộ chỗ ẩn núp. Trâu Xanh đánh mặt đông, Trâu Trắng đánh mặt tây. Ta đánh mặt nam. Ta chỉ huy ba trăm Thần-hầu, xung phá mặt nam, đốt kho lương.
Phân phối xong, ông viết thư, sai Thần-ưng báo cho Đào vương phi:
Khi thấy trại Hán có khói bốc lên, xin khởi sự.
Trời bắt đầu về khuya. Quí-Minh, Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng ngồi truyện trò. Trâu Xanh, Trâu Trắng tuy nói truyện, song chúng không quên nhìn lên không theo dõi đám Thần-ưng trinh sát. Cu Bò hỏi Đào Quí-Minh:
– Anh Quí-Minh này! Em nghe nói phái Cửu-chân, người nào cũng đầy lòng yêu nước. Ai cũng muốn được chết cho Lĩnh-Nam có đúng không?
Quí-Minh nhìn Cu Bò, mặt mũi khôi ngô, nói năng lễ phép. Chỉ hiềm cái nó dơ bẩn quá, tuy vậy nghe nó hỏi một câu đúng đạo nghĩa. Ông ngồi ngay ngắn lại trả lời:
– Đúng đó! Từ hôm khởi binh đến giờ, Đào gia tuẫn quốc đã nhiều. Bác cả vì vui mà qua đời không kể. Sún Cao tự nguyện tuẫn quốc. Bố anh tuẫn quốc cùng một lúc với chị Hồng-Thanh. Chị Hồng-Thanh tuẫn quốc, làm cho anh Hiển-Hiệu ưu sầu không nguôi.
Cu Bò hỏi:
– Em nghĩ anh Hiển-Hiệu tước phong tới quốc công, thân làm đại tướng trấn ngự biên cương. Chị Hồng-Thanh tuẫn quốc, anh í có thể lấy vợ khác. Thiếu gì con gái trong thiên hạ, đàn ông năm thê bảy thiếp là truyện thường mà. Việc gì mà ưu sầu cho nó khổ thân.
Đào Quí-Minh cười:
– Em không hiểu đấy thôi. Để anh nói cho mà nghe. Thời Hùng-vương, quốc phong nước ta, trai gái đều được trọng, tuy không đặt thành luật, nhưng trong dân gian vẫn chỉ có chế độ một vợ một chồng. Đến đời vua An-Dương vương, văn hóa Trung-nguyên truyền vào, mới có tục vua, quan, nhà giàu lấy nhiều vợ. Luân lý Khổng-Mạnh cho rằng: Con gái là con người ta. Đàn bà không có quyền gì cả. Thậm chí một ông quan ngoài vợ lớn, còn có hàng chục vợ nhỏ, nàng hầu. Vợ chồng lấy nhau như vậy, còn đâu là tình yêu nữa.
Cu Bò không hiểu gì về tình yêu, nó ngắt lời:
– Tình yêu là gì? Em không hiểu. Tại sao vợ chồng lấy nhau phải có tình yêu? Chị Hồ Đề dạy bọn em phải yêu Lĩnh-Nam. Yêu sư phụ, và yêu bạn hữu. Chị ấy đâu có dạy yêu vợ? Thế sau này em lấy vợ cũng phải yêu vợ à?
Quí-Minh không biết rả lời sao. Ông nói lảng:
– Khi xa bạn bè em có nhớ chúng không? Khi nó đau yếu em có tội nghiệp nó không? Đó là tình yêu. Sau này lớn lên, em sẽ biết tình yêu vợ chồng là gì. Thôi để anh nói tiếp: Trong suốt hai trăm năm nội thuộc Hán, đất Lĩnh-Nam cũng bị ảnh hưởng của họ trong vấn đề vợ chồng. Bây giờ Lĩnh-Nam phục hồi chị Phương-Dung làm tể tướng, soạn luật, khẳng định: Duy trì chế độ một vợ một chồng. Khi vợ hay chồng chết, hết thời gian cư tang, mới được lấy người khác.
Cu Bò không chịu:
– Em biết rồi! Thì chị Hồng-Thanh chết đã một năm. Anh Hiển-Hiệu có quyền lấy vợ khác mà?
Quí-Minh lắc đầu:
– Trên thế gian, ái tình là cái chi chi, không ai định nghĩa được. Đại ca Trần Tự-Sơn, gặp sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, là yêu nhau ngay. Gần mười lăm năm qua, đại ca sủng ái sư tỷ cùng cực. Đại ca sẵn sàng bỏ địa vị quốc công, bỏ hết tất cả để đổi lấy sư tỷ. Cho đến khi có thể làm Hoàng Đế, người cũng bỏ hết, cùng sư tỷ ngao du mây nước. Lại như sư huynh Đô Dương, đang làm Thái-thú, tước phong tới hầu. Thấy sư tỷ Giao-Chi, người bỏ tất cả, để được mối nhu tình. Bây giờ anh Hiển-Hiệu thấy trên thế gian không còn người đàn bà nào, khiến anh ấy có thể thương được nữa.
Trâu Xanh xen vào:
– Hôm trước nghe chị Đào Phương-Dung nói rằng: Lĩnh-Nam không hãnh diện vì có ba nhân tài Trần Tự-Sơn, Đô Dương, Đào Hiển-Hiệu, mà hãnh diện vì có ba người thuộc giống đa tình. Bây giờ em mới hiểu.
Cu Bò hỏi công chúa Vĩnh-Hòa:
– Em hiểu rồi! Chắc vì vua quan người Hán, năm thê bảy thiếp, không có giống đa tình vì vậy công chúa mới ưng anh Quí-Minh phải không? À anh Quí-Minh, anh cũng phải đối đáp lại với công chúa sao cho phải đạo đấy nghe!
Quí-Minh nắm tay công chúa Vĩnh-Hòa:
– Anh chỉ là một tên nhà quê ở đất Cửu-chân, văn không giỏi, võ không cao. Được công chúa đoái tưởng đến anh, chẳng qua vì anh thuộc loại đa tình. Anh có thể vì nàng mà hy sinh. Anh làm tất cả những gì, trên thế gian này, mà người đàn ông có thể làm cho người đàn bà, để đền đáp mối nhu tình của nàng.
Cu Bò cười:
– Anh xạo rồi! Em biết anh còn yêu nhiều người đàn bà hơn công chúa nữa. Chứng cớ rành rành ra đấy. Ít nhất ba người. Phải rồi ba người.
Công chúa Vĩnh-Hòa ngước mắt phượng nhìn Quí-Minh, tay run run. Quí-Minh không quen với tính đùa nghịch của đám đệ tử Tây-vu. Ông nghiêm nghị:
– Em đừng nói đùa. Ta chỉ biết có nàng mà thôi.
Cu Bò cười khoái trá:
– Hư ! Em không đùa đâu !
Công-chúa Vĩnh-Hòa cảm thấy lạnh ở trên lưng, tay nàng run trun. Cu Bò càng trêu :
– Nếu em nêu ra được tên những người đàn bà mà anh sủng ái. Anh đã hy sinh, đang hy sinh và sắp hy sinh. Anh thưởng cho em cái gì nào? Em nhắc lại em biết rõ tên, tuổi, hiện các nàng ở đâu nữa.
Quí-Minh gật đầu:
– Ta sẽ nhận em là sư đệ, truyền hết võ công cho em.
Cu Bò nói với công chúa Vĩnh-Hòa:
– Công chúa làm chứng cho em nghe.
Công chúa Vĩnh-Hòa mặt nhợt nhạt, gật đầu. Cu Bò nói:
– Anh nói: Công chúa bảo gì anh cũng nghe. Ví thử công chúa bảo anh bỏ Lĩnh-Nam đầu hàng Hán anh có nghe không?
Quí-Minh lắc đầu. Cu Bò cười:
– Vậy có phải anh yêu Lĩnh-Nam hơn công chúa không?
Quí-Minh cãi:
– Lĩnh-Nam là sơn hà, chứ có phải là đàn bà đâu.
Cu Bò không chịu:
– Sao lại không? Hôm tế Quốc-tổ ở hồ Động-đình, bác Đào Thế-Kiệt đã hô lớn: Hỡi con yêu đất Việt, hãy đứng lên đáp lời kêu gọi của bà mẹ Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam là bà mẹ, tức là một người đàn bà vậy.
Quí-Minh thấy đứa bé chỉ biết đùa, ở dơ nhất thiên hạ, không ngờ nó lý lắc đến thế. Ông gật đầu:
– Được, anh thua. Ban nãy em nói mấy người đàn bà. Mấy không phải là một. Đâu, những người khác tên gì?
Cu Bò gật đầu:
– Còn! Một người đàn bà tối quan trọng nữa. Người đó bảo anh quì gối, anh quì gối liền. Bảo anh ưng cô gái nào, anh ưng liền. Bảo anh nằm xuống, để đánh đòn, anh nằm xuống liền. Anh xa nàng một lúc thì ôi thôi, nhớ thương chồng chất đến đứt ruột được. Xa nhau nàng khóc, anh cũng khóc nữa.
Quí-Minh lắc đầu:
– Ta chả yêu ai đến độ đó. Ngoại trừ công chúa. Em bịa ra để trêu anh. Người mà em nói đó, hiện ở đâu, tên gì?
Cu Bò cười:
– Em không biết tên. Chỉ biết nàng hiện ở Đăng-châu. Nàng chính là phu nhân của nhân vật khét tiếng, được Trưng đế phong làm Đăng-châu đại vương. Nàng đẻ ra ba người con anh hùng: Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Phương-Dung.
Quí-Minh bật cười:
– Thì ra em muốn nói mẫu thân anh?
Cu Bò lắc vai, nheo mắt khoái chí:
– Có đúng không? Bác gái bảo anh quì, anh quì. Bảo anh nằm cho bác đánh đòn, anh nằm. Xa nhau thì bác lẫn anh đều khóc. Có sai đâu?
Quí-Minh gật đầu:
– Anh thua keo thứ nhì.
Cu Bò tiếp:
– Còn nữa! Người đàn bà này xinh đẹp vô cùng, võ công cao, chí muốn nuốt cả sao Ngưu, sao Đẩu vào lòng, đó là Trưng hoàng-đế. Trưng hoàng-đế bảo anh chết, anh cũng chết. Bảo anh làm bất cứ việc gì, anh có dám chối không? Thế là đủ rồi nhé: Nhất định anh yêu ba người đó hơn công chúa. Công chúa đứng hàng thứ tư.
Công chúa Vĩnh-Hòa như trút được gánh nặng. Nàng cất tiếng ôn nhu nói:
– Thôi! Anh Quí-Minh, anh phải nhận Cu Bò là sư đệ, truyền thụ võ công cho em đi.
Quí-Minh quì xuống hướng về phương nam lễ bốn lễ, khấn:
– Con là Quí-Minh, kính xin anh hồn bố ở dưới suối vàng chứng cho. Bố tuy đã tuẫn quốc, song con xin thay bố nhận Cu Bò làm sư đệ. Con nguyện truyền hết võ công cho nó.
Cu Bò cùng hướng về nam lạy đủ tám lạy.
Đến đó, Trâu Xanh, Trâu Trắng truyền từ trên cành cây xuống nói:
– Thủy quân Mã Viện nhổ neo hướng về nam. Kị binh, bộ binh Hán đã xuất khỏi trại rồi.
Ngoài trời sương mù dăng kín mít. Đến độ dơ bàn tay ra không nhìn thấy gì. Đào Quí-Minh mừng lắm:
– Như vậy càng hay. Sương mù thế này, ta đốt trại Hán, Mã Viện, Chu Long ở xa, không biết được.
Đào Quí-Minh sai Thần-ưng truyền tin cho Phật-Nguyệt với Đào vương phi. Ông truyền lệnh các đạo quân xuất phát.
Xích-Hầu âm thầm dẫn đoàn Thần-hầu, truyền trên cành cây tiến đến phía Bắc trại Hán. Cả khu Bắc, chỉ có bốn vọng canh. Chàng gọi bốn tráng sĩ Tây-vu dặn:
– Các em dẫn Thần-hầu tới chân vọng canh, leo lên giết quân canh, sau đó đứng trấn tại đấy. Nhiệm vụ xong, huýt sáo báo hiệu cho anh biết.
Bốn tráng sĩ, mỗi người dẫn mười Thần-hầu, bò sát đến chân vọng canh. Xích Hầu ngồi chờ tin tức. Mỗi khắc thời gian qua, đối với chàng lâu bằng một năm. Chờ đã khá lâu, vẫn không tin tức gì. Chàng ngửa mặt lên trời nhìn Thần-ưng tuần thám. Chúng vẫn lượn bình thản, khiến chàng yên tâm.
Bỗng Thần-ưng ré lên một tiếng, rồi lao thẳng xuống một chòi canh. Lập tức năm Thần-ưng khác cũng lao xuống theo. Có tiếng người kêu ú ớ tại chòi canh đó, một lát, lại im lìm. Mấy Thần-ưng bay lên.
Bây giờ mới có tiếng huýt sáo ở trên các vọng canh vọng lại. Xích Hầu mừng quá, ra lệnh cho các đội Thần-hầu, vào trại Hán.
Chàng đến vọng canh chỗ Thần-ưng lao xuống, hỏi tráng sĩ tại đó:
– Có gì lạ không?
Tráng sĩ trả lời:
– Em leo lên, tung trăn quấn tên lính canh. Tên này rơi xuống dưới. Em đến định giết nó, thì một toán ba tên tuần tiễu đi tới. May nhờ Thần-ưng nhào xuống mổ mắt tụi nó. Bọn nó chưa kịp kêu một tiếng. Em đã giết hết.
Xích-Hầu dặn bốn tráng sĩ:
– Ta vào khu chuồng ngựa. Khi thấy lửa cháy, các em cho Thần-ưng xuất trận. Ba em chỉ huy Thần-ưng đánh địch. Một em chỉ huy Thần-ưng tuần phòng, chính các em, bảo vệ bọn ta.
Chàng dẫn đoàn Thần-hầu nhập khu chuồng ngựa. Trong lịch sử loài thú rừng. Có một điều lạ lùng nhất: Ngựa thấy khỉ, thường sợ hãi, co rúm lại, kêu không thành tiếng. Đoàn Thần-hầu vào chuồng ngựa, lấy cỏ khô cột thành đống trên lưng từng con. Chỉ trong chốc lát, trên hai ngàn chiến mã, bị hai mươi tráng sĩ Tây-vu chỉ huy Thần-hầu cột cỏ khô lên lưng như những bao hàng lớn.
Công việc hoàn tất. Xích Hầu dặn các tráng sĩ:
– Các em nhớ, khi thấy lửa cháy ở kho lương. Lập tức đánh lửa lên, cắt dây buộc ngựa, đốt cỏ trên lưng chúng. Cần làm cho nhanh. Một Thần-hầu phải đốt tới mười con ngựa.
Bỗng lửa cháy bừng lên một loạt khắp khu chứa lương thảo. Lửa đã bốc lên cao, mà trong trại chưa thấy quân Hán báo động.
Xích Hầu sai đánh lửa, mười đệ tử Tây-vu đồng đốt đuốc lên, dẫn Thần-hầu, châm lửa vào cỏ trên lưng ngựa, cắt đứt dây buộc. Đàn ngựa hí lên inh ỏi, chạy náo loạn trong trại. Chúng bị lửa đốt nóng, cứ lao đầu chạy hết chỗ nọ đến chỗ kia, làm các trại khác bị lửa lan vào cháy lên ngút trời.
Quân Hán vừa choàng tỉnh giấc, thấy lửa dậy khắp nơi. Hiện tượng quái gở: Trên lưng ngựa, một đám cỏ cháy rực. Ngựa nóng quá, đâm quàng, đâm xiên. Đám quân Hán náo loạn hàng ngũ. Lúc chúng định thần lại, mới thấy đàn đười ươi, đang cầm đuốc, châm lửa ở các trại.
Mã Anh chỉ huy hậu cứ, tay y cầm vũ khí, tập hợp binh tướng, chia làm hai đoàn, một đoàn cứu hỏa kho lương thực. Một đoàn đánh đuổi bọn đười ươi. Song đười ươi nhanh nhẹn, chạy vào rừng mất. Dinh trại Hán biến thành một biển lửa.
Giữa lúc Mã Anh điều khiển binh tướng chữa lửa, thì trên trời, từng đợt Thần-ưng lao xuống tấn công. Đợt đầu, gần ba trăm binh hán bị mù mắt. Chúng ôm đầu hét la inh ỏi.
Mã Anh đã nghe nói về đoàn Thần-ưng Lĩnh-Nam. Y kinh hãi, nói lớn:
– Bọn Lĩnh-Nam đột nhập trại. Phải đề phòng.
Nhưng tuyệt nhiên không thấy một bóng người. Trên trời Thần-ưng từng đợt một lao xuống tấn công. Trong đêm tối, bọn lính Hán không nhìn rõ Thần-ưng. Khi nhìn rõ, không còn kịp nữa.
Mã Anh là tướng giỏi. Anh cầm gươm quát lớn:
– Hãy tập hợp lại thành từng đội, chia một nửa phòng vệ Thần-ưng. Một nửa cứu hỏa.
Song đã quá trễ, kho lương lửa bốc lên tới trời.
Quân Hán rối loạn một lúc, mới tập hợp lại được. Song doanh trại đã cháy sạch. Mã Anh ra lệnh:
– Ai lui lại, náo loạn, ta chém liền. Chỉ có mấy con chim ưng thì sợ gì?
Y truyền quân sĩ, ra trấn ở hàng rào trại. Cứ một người phòng Thần-ưng, một người canh giữ, vì sợ quân ở ngoài đột nhập vào. Y muốn tìm một con ngựa, chạy đi gọi đạo binh mới xuất trại trở về cứu viện, mà không còn một con nào. Điều y thắc mắc: Tại sao không thấy thủy quân lên cứu viện? Khổ cho y là quân địch bao nhiêu người, đóng ở đâu y cũng không biết. Chỉ thấy một đoàn đười ươi đốt trại, rồi biến mất. Bây giờ thấy chim ưng từ trên trời lao xuống đánh. Y cũng không tìm ra người chỉ huy chim ưng nốt. Y lên vọng đài giữa trại quan sát phía bên thủy quân. Chợt y chửi thầm:
– Mình đáng chết thực. Thì ra thủy quân cũng đang bị chim ưng đánh.
Y yên tâm phần nào: Giỏi lắm địch chỉ có mấy trăm tên chỉ huy Thần-ưng mà thôi, phải diệt mấy tên này mới mong sống còn.
Y truyền bốn đại tướng, mỗi ngừơi dẫn năm trăm quân, chia ra bốn ngả trại, vào rừng tìm giết bọn chỉ huy Thần-ưng.
Bốn tướng dẫn binh đi liền. Trong đêm tối, chúng vừa vào rừng, bị đoàn Thần-hầu bất thần tấn công. Chúng ôm đầu la hoảng. Vì chúng không biết người đánh là ai. Song lệnh Mã Anh rất nghiêm. Chúng không dám lui.
Mã Anh tuyệt vọng, điểm lại, toàn bộ trên hai nghìn ngựa bị chết, hoặc bị thương, không xử dụng được nữa. Lương thực cháy hết tám phần mười. Ba vạn bộ binh, bị thương, bị chết do Thần-ưng, do lửa cháy mất hơn vạn. Tuy vậy y vẫn còn hai vạn bộ binh với hai ngàn kị binh, không ngựa.
Mã Anh truyền lệnh:
– Cầm cự tới sáng, sẽ xuất trại, đánh tụi chỉ huy chim ưng.
Giữa lúc đó, tiếng reo hò, lẫn tiếng gầm gừ vang động trời đất. Rồi không biết hổ, voi ở đâu tràn vào trại. Binh sĩ náo loạn, bỏ chạy. Y kinh hoảng cùng đám vệ sĩ vừa chiến đấu, vừa lui về Tam-sơn.
Trời dần dần sáng.
Mã Anh kiểm điểm lại: Trại Tam-sơn còn nguyên. Đám thủy quân đã đổ bộ lên trại, bỏ thuyền không dưới hồ. Tế tác các nơi báo cáo: Đêm qua lực lượng đánh trại lúc đầu chỉ có một trăm người, chỉ huy sáu trăm đười ươi. Sáu trăm mười hai Thần-ưng tấn công trại trung ương, đốt lương thảo. Riêng đánh trại Tam-sơn, chỉ có một thằng bé tuổi chưa quá mười lăm, chỉ huy trăm đười ươi cắt dây cột chiến thuyền, làm chiến thuyền trôi ra xa, rồi dùng hai trăm chim ưng đánh. Đám thủy thủ kinh hoàng, bỏ chiến thuyền bơi vào bờ.
Một lát tế tác báo: Đêm qua, giữa lúc hỗn loạn, một trăm con voi, ba trăm con hổ, tấn công, cướp mất trại trung ương. Bộ binh khoảng bốn vạn, kị binh khoảng một vạn, hiện đã chiếm trại trung ương. Tất cả đang tiến đến đánh trại Tam-sơn.
...
Về phía Lĩnh-Nam. Đào vương phi chiếm trọn trại trung ương Hán. Bà khẩn cấp tập hợp các tướng soái nghe lệnh.
Đào-quí-Minh, công chúa Vĩnh-Hòa, cùng đám Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng suốt đêm qua đột kích trại Hán. Người chỉ huy Thần-ưng, kẻ chỉ huy Thần-hầu phục trong rừng đánh đám quân Hán bỏ chạy. Bây giờ, kéo nhau về trại trình diện.
Đào vương phi thấy công chúa Vĩnh-Hòa, bà cầm lấy tay nàng, dắt vào ngồi bên cạnh nói:
– Thân thể cháu thuộc cành vàng lá ngọc, mà lam lũ trong rừng thế này, Lĩnh-Nam ta không bao giờ quên ơn cháu.
Đào vương phi bảo Đào Quí-Minh:
– Trận đánh đêm qua, công đầu do cháu với Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng. Tuy nhiên, cháu chỉ biết thắng người, mà quên mất một điều?
Đào Quí-Minh hỏi:
– Cháu xin nghe bá mẫu dạy.
Đào vương phi nói:
– Khi cháu thiết kế, thì cháu cầm chắc cái thắng trong tay. Đã biết thắng trong tay, phải biết mình được hưởng gì sau chiến thắng? Cháu chỉ việc dùng Thần-hầu đốt trại, Thần-ưng tấn công cũng đủ. Nếu cháu biết lợi dụng, chỉ cắt cương, cho ngựa chạy loạn lên, đừng đốt kho lương. Có phải bây giờ chúng ta có thêm hai ngàn con ngựa, một núi lương thảo không? Thôi đây là kinh nghiệm, lần sau, cháu sẽ tính kỹ hơn.
Bà nói với các tướng sĩ:
– Chúng ta đã chiếm được trại trung ương. Mã Anh còn một vạn bộ binh, hai ngàn thủy quân, y đang cố thủ ở Tam-sơn chờ quân cứu viện. Ta phải đánh y thực nhanh, trước khi viện quân tới. Ngặt vì trại Tam-sơn đóng trên núi rất khó đánh. Nhưng dù gì, chúng ta cũng phải đánh cho được ngay sáng hôm nay. Nếu không, đạo binh năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh sẽ quay trở về, hợp với sáu vạn thủy binh của chúng, thì chúng ta không còn đất sống.
Lê Thị Lan thêm:
– Ấy là chưa kể, bên kia sông còn ba vạn kị binh, sáu vạn bộ binh, ba vạn thủy binh sẵn sàng qua sông tiếp viện. Đạo này do Lưu Long và người đứng thứ nhì trong Liêu-đông tứ ma tên Ngô Phùng chỉ huy.
Tiên-yên nữ hiệp nói:
– Giờ này, Phật-Nguyệt đang giao chiến với Mã Viện rồi đây. Song chúng ta chưa được tin tức gì cả. Chắc hơn hết, Vương phi viết thư sai Thần-ưng đến Linh-lăng gọi đạo binh của Đào Phương-Dung tới trợ chiến cho chắc ăn.
Đào vương phi quyết định:
– Được ! Chúng ta chia lực lượng làm hai: Một phần đánh trại Tam-sơn, một phần chặn đường rút quân của Chu Long. Tôi viết thư cho Đào Phương-Dung liền. Nếu như chúng ta chưa đánh xong Tam-sơn, mà phía bắc có quân Hán tới, rồi Chu Long đánh ép phía sau, Mã Viện ngoài khơi kéo về, các vị cứ bình tĩnh cố thủ một ngày… Đạo quân Đào Phương-Dung sẽ tới trợ chiến. Dù trong trường hợp nào, trận chiến chúng rất khốc liệt.
Bà cầm binh phù gọi Lê Thị Lan truyền lệnh:
– Phía tây hồ Động-đình, nằm trên đường rút quân của Chu Long có khu rừng rậm rạp. Cháu hãy đem Xích Hầu, Hắc Hổ dẫn sư Thần-hầu, sư Thần-hổ phục trong rừng. Khi thấy quân Chu Long trở về, thì đốt lửa khắp nơi, làm nghi binh. Ít Như vậy y không dám tiến mau. Ta có thể cầm chân chúng được vài giờ nữa. Sau đó khi chúng vượt qua, cháu dùng Thần-hầu, Thần-hổ đánh nhau với chúng.
Lê Thị Lan hỏi:
– Trường hợp chúng đánh mạnh quá, hầu, hổ không cản nổi thì sao?
Đào vương phi đáp:
– Cháu rút quân vào rừng. Chờ chúng đi qua, đánh tập hậu. Hoặc chúng phải chia quân đóng giữ mặt hậu cũng được.
Bà nói với Tiên-yên nữ hiệp:
– Xin sư tỷ theo giúp cháu Lê Thị Lan.
Bà gọi Trâu Xanh:
– Cháu giữ nhiệm vụ tối quan trọng. Cháu đem hai trăm Thần-ưng phục ở phía bờ sông Trường-giang. Hễ thấy quân Hán từ bên sông đánh sang, thì dùng Thần-ưng đánh cản bước tiến của chúng. Nhất nhất diễn biến phải báo cho ta biết.
Bà chỉ vào tấm lụa vẽ bản đồ trại Tam-sơn:
– Trại Tam-sơn rất khó đánh. Một mặt dựa vào chân núi, một mặt quay quay ra hồ. Mặt hồ ta không cần đánh. Ta đánh ba mặt là đủ rồi. Cháu Quí-Minh đánh mặt đông, có Cu Bò đem theo hai trăm Thần-ưng trợ chiến. Cháu Hồ Nam đánh mặt bắc với hai trăm thớt voi. Ta đánh mặt tây, có Trâu Trắng mang theo hai trăm Thần-ưng trợ chiến. Nào chúng ta lên đường.
Giữa lúc mọi người sắp sửa lên đường, Thần-ưng đem tin đến. Đào vương phi mở thư ra đọc, nói:
Phật-Nguyệt sắp giao chiến với Mã Viện.
Cu Bò cười khoái trá:
– Sư bá! Như vậy Mã Viện, Chu Long chưa biết tin hậu cứ bị chiếm. Cháu đề nghị sư bá kêu một số tù binh bị bắt, thả một số đi ngựa, một số xuống thuyền để chúng báo cho Chu Long, Mã Viện biết. Như vậy quân của Mã, Chu sẽ rối loạn. Ngặt một điều, chúng ta ắt gặp hung hiểm, vì chúng ào trở về, đánh xả láng, mở đường máu rút lui.
Đào vương phi gật đầu. Bà truyền thả hơn trăm tù binh bị bắt tại trại trung ương, cấp ngựa cho đi. Một mặt thả trăm thủy thủ trên một chiến thuyền.
...
Phía nam hồ Động-đình, Phật-Nguyệt, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương cho các chiến sĩ chuẩn bị sẵn sàng. Bà truyền Sún Hô leo lên chót vót cột buồm soái thuyền chỉ huy Thần-ưng tuần thám. Đạo binh Đào vương phi, Quách Lãng đi đã năm hôm. Thần-ưng báo tin hàng ngày bước tiến quân của hai đạo binh này. Bà chú ý nhất đến đạo Xích Hầu. Nếu Xích Hầu không thành công, e đạo binh của Đào vương phi sẽ gặp hung hiểm.
Sang ngày thứ sáu, có Thần-ưng báo tin sự xuất hiện đột ngột của Đào Quí-Minh với công chúa Vĩnh-Hòa. Bà mừng lắm. Đinh Bạch-Nương nói:
– Có thêm anh Quí-Minh, chắc chắn Xích Hầu thành công. Chúng ta kiên nhẫn chờ thêm mấy ngày nữa.
Chiều hôm đó có tin Thần-ưng của Cu Bò báo về: Đạo kị binh, bộ binh Chu Long đã xuất phát vòng phía tây hồ Động-đình xuống đánh Trường-sa.
Phật-Nguyệt truyền cho đạo thủy quân Đinh, Tĩnh-Nương khởi hành, đóng trên bờ tây bắc hồ, chặn tiếp viện của thủy quân LưuLong.
Đinh Tĩnh-Nương nhận lệnh, xuất binh.
Canh ba đêm ấy, trời tối đen như mực, xoè bàn tay ra không thấy gì. Có tin Thần-ưng của Cu Bò báo về: Thủy quân Mã Viện đang lên đường.
Phật-Nguyệt reo lên:
– Ta biết ý định của Mã Viện rồi. Y tiến quân đúng như ta ước tính. Y để đạo binh Chu Long đi trước hai ngày. Sau đó y cho thủy quân băng ngang hồ, họp nhau bên bờ Tương-giang rồi cùng đánh thành Trường-sa.
Quách A hỏi:
– Sư tỷ! Em nghe Mã Viện có tài dùng binh không thua Mã Vũ, Ngô Hán, Đặng Vũ. Tại sao y không lo bảo vệ hậu quân cho chắc?
Phật-Nguyệt cười:
– Sư muội không biết đấy thôi. Mã quá cẩn thận chứ không phải y thiếu thận trọng đâu. Khi khởi binh, y sai Vương Hùng điều khiển đạo quân tế tác dò thám. Vương báo về rằng ta ở trong thành Trường-sa. Còn tại hồ Động-đình, chỉ có một đạo thủy quân. Ta cầm tù bắt được Vương Hùng, khiền cho y một trận. Bắt y phải tiếp tục gửi tin tức do ta bịa đặt cho Mã Viện. Hằng ngày Mã Viện nhận được tin Vương Hùng báo cáo y tin là thực. Y bị mắc mưu ta.
Sún Hô hỏi:
– Sư tỷ! Vụ Vương Hùng bị bắt. Mã Viện biết rồi mà.
Phật-Nguyệt cười:
– Không, y không hề biết tý gì cả.
Cao Cảnh-Khê cười:
– Vì vậy cho đến giờ này, Mã Viện vẫn tưởng ta dồn quân ở phía nam Trường-sa. Y yên tâm, tiến quân.
Phật-Nguyệt cười:
– Y đâu có yên tâm. Tuy được tin tức của Vương báo như thế. Nhưng Viện vẫn để Mã Anh chỉ huy ba vạn bộ binh, hai ngàn kị binh, hai ngàn thủy binh giữ trấn hậu quân. Y vẫn chưa cho là đủ. Y đặt ở bờ phía bắc Trường-giang tới sáu vạn bộ binh, ba vạn kị binh, ba vạn thủy binh, để phòng khi ta đánh chặn đường về, chúng sẽ đổ bộ sang tiếp viện. Mặt khác Mã cho Lưu Long đem quân tới đóng ở Quân-sơn, tiến theo mặt đông hồ Động-đình.
Đinh Bạch-Nương gật đầu:
– Em hiểu rồi. Sư tỷ thấy y quá cẩn thận. Nếu mình cũng quá cẩn thận, mình thua. Vì quân số mình chỉ bằng một phân nửa quân Mã Viện. Sư tỷ mới dùng lối đánh cảm tử, cho đạo binh Đào sư bá đánh chiếm trại Hán, sẵn sàng chấp nhận ba mũi dùi: Bên bờ bắc sông, Chu Long, Mã Viện trở lại bao vây.
Phật-Nguyệt gật đầu:
– Đạo này ngoài người can đảm, tài trí như Đào vương phi không ai làm nổi.
Phật-Nguyệt truyền lệnh xuất quân. Trên trời Thần-ưng hướng dẫn đường. Đến giữa hồ, Phật-Nguyệt truyền ngưng lại chờ đợi.
Trời tảng sáng.
Xa xa đoàn thuyền của Mã Viện dần dần hiện ra dưới sương mù. Mã dàn quân làm hai cánh: phải, trái. Phía sau có đoàn thuyền trừ bị.
Mã Viện tin vào thư báo cáo của Vương Hùng: Phật-Nguyệt dồn quân ở Trường-sa. Trên hồ chỉ có một đoàn chiến thuyền. Y yên tâm tiến binh. Mới chiều hôm qua thám mã còn báo tin cho biết, binh Lĩnh-Nam vẫn án binh ở phía nam hồ. Y mừng chi siết kể, định đánh úp Trường-sa, tạo bất ngờ, khi Lĩnh-Nam biết y đánh xuống, có muốn phản công, cũng không kịp.
Bây giờ, y thấy hai đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam, dàn trận giữa hồ. Cờ xí rợp trời. Trên khoang thuyền không một bóng người. Y chột dạ nghĩ:
– Không lẽ mới chiều hôm qua đến giờ mà Phật-Nguyệt đã điều được một đạo thủy quân phòng ngự mau đến như vậy?
Lòng Mã Viện đầy nghi hoặc. Y đứng trên mặt chiến thuyền quan sát: Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam dàn trận uy nghiêm. Song không thấy một bóng người trên mặt thuyền là tại sao? Y nhìn lên trời: Chỉ có năm Thần-ưng bay lượn.
Lòng Mã Viện đầy nghi hoặc. Y đứng trên mặt chiến thuyền quan sát: Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam dàn trận uy nghiêm. Song không thấy một bóng người trên mặt thuyền là tại sao? Y nhìn lên trời: Chỉ có năm Thần-ưng bay lượn.
Mã Viện đã từng chiến đấu chung với Phật-Nguyệt trong trận đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế, tiến vào Thục. Hồi ấy Phật-Nguyệt mới từ Lĩnh-Nam sang Trung-nguyên. Tuổi bà còn trẻ, tính tình nhu nhã, dáng người mảnh khảnh, xinh đẹp, cả ngày không nói một câu. Song kiếm pháp Phật-Nguyệt thực kinh người. Trong trận đánh Xuyên-khẩu, tuy Đặng Vũ giao cho Phật-Nguyệt chỉ huy thủy quân. Song bà chưa biết một chút nào về hành binh bố trận. Mọi việc do Lưu Long, Đoàn Chí cả. Vì vậy, khi tiến đánh Trường-sa, y yên tâm rằng Phật-Nguyệt chỉ có bản lĩnh kiếm thuật. Còn tài dùng binh, thì không có gì.
Mã Viện quên mất lẽ biến động của thời gian. Phật-Nguyệt gần Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa lâu ngày, đã học được bản lĩnh của ba người này. Bà lại dự nhiều cuộc họp luận bàn quân sự, nên hiểu hầu hết chiến thuật, tổ chức binh lực Hán. Cũng như Tây-vu Thiên-ưng lục tướng. Bà được Mã Vũ, chú tâm đặc biệt, hàng ngày dạy về hành binh bố trận, tổ chức quân đội. Hóa cho nên bà có bản lĩnh cao hơn Mã. Mà Mã không ngờ tới.
Điều thứ nhì Mã quên mất là bà xuất thân từ phái Long-biên. Kiếm pháp phái này khi hư khi thực. Hư nhiều hơn thực. Bà ém quân, đánh lừa Mã đổ quân sang phía bắc hồ là hư. Mã đổ quân, bà cho xuất hai đạo của Đào vương phi, Quách Lãng, dàn thủy quân ở nam hồ là thực. Bây giờ trong cái thực, bà dàn chiến thuyền, không cho một người lính trên mặt thuyền, là trong hư có thực, trong thực có hư đúng như kiếm pháp Long-biên. Trong đạo dùng binh thì kị nhất là nghi hoặc. Nghi hoặc dễ loạn tâm thần. Tâm thần loạn, quyết định sẽ sai., rồi đưa đến bại vong. Phật-Nguyệt biết Mã Viện đã lầu thông binh pháp, bà mới dùng hư hư, thực thực lừa y.
Mã Viện dàn quân làm hai cánh. Y chỉ huy một cánh. Liêu-đông đệ tam ma Trịnh Sư chỉ huy một cánh. Thấy cảnh quái gở trên mặt hồ. Y truyền thủy quân tiến chậm rồi y sang thuyền Trịnh Sư bàn:
– Cái gì đã xảy ra? Rõ ràng Vương tứ gia báo cho ta biết: Phật-Nguyệt không ngờ ta tiến đánh Trường-sa. Thủy quân dàn ở Tương-giang. Trên hồ không có lực lượng phòng vệ. Sao bây giờ lại có hai cánh thủy quân hùng tráng thế kia? Ý kiến tướng quân thế nào?
Trịnh Sư trả lời bằng cái lắc đầu.
Từ chiến thuyền Lĩnh-Nam vọng lại tiếng tiêu cao vút tận mây xanh, hòa lẫn tiếng đàn bầu. Mã Viện càng thêm bối rối. Y đứng trên mũi chiến thuyền ngắm nhìn, tự hỏi:
– Bọn Lĩnh-Nam làm gì thế này?
Trong đầu y hiện lên không biết bao nhiêu nghi vấn: Hay Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa đã tới? Chứ Phật-Nguyệt đâu có bản lĩnh thế này?
Tiếng tiêu, tiếng đàn vẫn từ phía chiến thuyền Lĩnh-Nam vọng lại.
Trịnh Sư cũng không quyết đoán được. Y nói:
– Không chừng chúng ta trúng kế hư binh của Phật-Nguyệt cũng nên. Nếu đúng như vậy, tôi sợ giờ này sư huynh Chu Long cũng gặp hung hiểm. Thôi thì một liều ba bảy cũng liều. Chúng ta tiến lên quyết chiến một trận, dù sao quân chúng ta cũng đông gấp ba quân địch. Chúng ta há sợ đứa con gái Phật-Nguyệt sao?
Mã Viện lắc đầu:
– Trịnh tướng quân phải cẩn thận. Bọn Việt khác với người Hán. Con gái Việt có tài như con trai. Tài dùng binh đến như Lĩnh-nam vương, Mã Vũ, Đặng Vũ, Ngô Hán mà còn thua Trưng Nhị, Phương-Dung, Phùng Vĩnh-Hoa. Kiếm pháp như Hoài-nam vương còn bị bại về tay Phật-Nguyệt. Trần Năng, Hoàng Thiều-Hoa chưởng lực mạnh kinh nhân.
Tuy nói vậy, Mã Viện vẫn quyết định:
– Chúng ta cứ đánh trống tiến lên.
Hai đạo quân Hán khua trống, chiêng, tiến lên. Chỉ còn một dặm, vẫn không thấy bóng người Lĩnh-Nam xuất hiện. Lòng Mã rối như tơ vò, y truyền quân tiến gấp. Có tiếng đàn, tiếng sáo nhịp nhàng tấu bản Động-Đình ca vọng lại. Bản này Mã Viện được nghe Lê Chân tấu cho nhiều lần, khi bà cùng Mã theo đạo quân Đặng Vũ đánh Kinh-châu.
Còn nửa dặm… rồi năm trăm trượng. Phía Lĩnh-Nam vẫn im lìm. Tim Mã Viện càng đập mạnh hơn, muốn nổ tung lồng ngực y ra.
Còn bốn trăm trượng… rồi hai trăm trượng…. Bỗng tiếng tù và thổi lên tu... tu... dài. Từ trong các chiến thuyền, hai thiếu niên, một thiếu nữ xuất hiện. Chỉ nháy mắt, đã leo lên đỉnh cột buồm. Tiếp theo Thần-ưng từ Nam hồ bay lên rợp trời.
Mã Viện đã quen với lối đánh của Tây-vu Thiên-ưng lục tướng. Y nhìn lên trời: Thần-ưng chia thành từng tốt trăm con một. Y đếm được ba cánh. Mỗi cánh ba tốt. Như vậy có sáu trăm Thần-ưng. Song Thần-ưng chỉ bay lượn trên trời mà không nhào xuống đánh.
Hai đoàn chiến thuyền chỉ còn cách nhaucó…trăm trượng. Ba tiếng trống nổi dậy. Thủy thủ Lĩnh-Nam đồng xuất hiện trên khoang. Gươm đao sáng choang. Khí thế nghiêng trời lệch đất. Cánh trái Đinh Bạch-Nương. Cánh phải Phật-Nguyệt. Hai người đứng trên đài chỉ huy. Gió hồ thổi vào y phục hai người, trông như hai tiên nữ.
Mã Viện kinh hoàng nghĩ:
– Hai người con gái mảnh mai xinh đẹp thế kia, mà ai ngờ có tài nuốt mặt trăng mặt trời.
Hai đoàn thuyền chỉ còn cách nhau có năm mươi trượng. Quân sĩ chuẩn bị tác chiến. Bỗng tiếng tù và thổi lên tu tu... Đoàn Thần-ưng từ trên không đồng lao xuống một loạt tấn công.
Mã Viện hô lớn:
– Một nửa chống Thần-ưng, một nửa chiến đấu.
Y vừa hô, có tiếng rú trên không. Cao Cảnh-Khê đã bắn tên. Ông buông một lúc bốn mũi. Một hướng ngực Mã Viện, một hướng ngực Trịnh Sư. Hai người dùng kiếm gạt. Hai mũi còn lại cắt đưt dây treo soái kỳ. Hai soái kỳ theo gió, rơi xuống mặt hồ.
Từ chiến thuyền Lĩnh-Nam, tiếng sáo du dương vọng lại. Trên trời, bầy ong bầu bay đen nghịt, nhào xuống trận Hán. Mã Viện hô lớn:
– Đốt lửa lên mau!
Nhưng giữa hồ, lấy đâu ra cỏ, ra dầu mà đốt? Mã kinh hoàng. Y chỉ còn một đường: Xua quân tiến lên. Để hai đạo lẫn lộn vào nhau, Thần- phong không phân biệt được.
Song đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam đã lui lại, giữ khoảng cách hai bên ước năm mươi trượng. Quân Hán muốn dùng cung tên cũng không được. Trên trời đoàn Thần-ưng đổi mục tiêu: Chúng tấn công vào các chiến thuyền phía sau. Các chiến thuyền phía trước, Thần-phong tấn công. Binh Hán ôm đầu, người nhảy xuống hồ. Kẻ trốn xuống dưới khoang thuyền. Mã Viện, Trịnh Sư chém đến mười người, mới giữ được trận tuyến. Mã truyền lệnh đem bất cứ vật gì trong thuyền như quần áo v.v. lên đốt. Chốc lát, khói bốc mù mịt.
Từ bên phía Lĩnh-Nam, có tiếng nhạc dìu dặt nhẹ nhàng đưa ra. Đoàn Thần-phong đang tấn công, từ từ bay lên cao, trở về thuyền. Trong khi đó đoàn Thần-ưng vẫn nhịp nhàng đánh.
Mã Viện đã cùng ở chung với Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, y đã biết lợi hại của của đàn Thần-ưng. Y nghĩ, muốn làm tê liệt đoàn Thần-ưng, phải bắt cho được mấy thằng nhãi ranh chỉ huy. Y đưa mắt nhìn lên các cột buồm trên chiến thuyền Lĩnh-Nam. Không khó nhọc, y nhìn ra Sún Hô đang đứng trên chót vót cột chiến thuyền, tay cầm cờ xanh, đỏ phất lia lịa. Dù cách nhau đã mấy năm, Sún Hô từ một thiếu niên mười lăm, mười sáu., bây giờ chàng đã thành một thanh niên phong lưu tiêu sái, song y vẫn nhận được chàng. Y nhìn sang khu đối diện với Trịnh Sư, lại một thiếu niên, oắt con như Lục Sún ngày nào. Người đen như cục than, đang cầm cờ trắng, đỏ phất chỉ huy. Phía sau, trên cột buồm soái thuyền, một thiếu nữ tuổi mười tám, mười chín, nhan sắc xinh tươi, một tay cầm cờ phất, một tay cầm ống tiêu thổi, nàng chính là Quách A. Mã Viện không biết mặt nàng. Kinh nghiệm giúp y giải đoán:
– Con lỏi kia mới thực là quan trọng. Chính nó phối hợp Thần-ưng, Thần-phong. Muốn mất sự phối hợp, cần giết nó.
Trong nhất thời, không nghĩ được kế gì. Y nói với Trịnh Sư:
– Tướng quân có công lực mạnh. Hãy dùng tên bắn chết con nhỏ kia ngay.
Trịnh Sư rút tên, nạp vào cung. Y ngắm Quách A buông tên. Tên xé gió bay tới. Tên đang đi, thình lình có tiếng rú lên, một mũi tên khác, phát sau, mà bay nhanh hơn tên của y. Mũi tên này đuổi kịp mũi của y. Chát một tiếng. Mũi tên của y gẫy làm đôi.
Y dương cung định bắn nữa. Thì người bắn, chặt gẫy tên y cũng dương cung, ba mũi tên cùng hướng y. Một mũi tiện đứt mũi tên của y vừa bay ra. Một mũi đánh gẫy cung. Một mũi đánh bay cái mũ trên đầu. Y kinh hoảng, lui lại. Một tham tướng đứng cạnh y nói:
– Người bắn tên vào tướng quân, họ Cao tên Cảnh-Khê. Trước đây y đã từng theo Hán đánh Thục. Tiễn thủ của y kinh người. Tướng quân phải cẩn thận.
Mã Viện nhìn đoàn Thần-ưng đánh vào quân mình. Y nghĩ:
– Ngày nào, bọn Lục Sún chỉ huy Thần-ưng chỉ biết đưa thư, nhào xuống đánh, cấu mặt, mổ mắt. Bây giờ đoàn Thần-ưng khác hẳn. Toán thì bay lượn, toán thì nhào xuống đánh phía trước. Có toán đánh phía trên. Thủy thủ Hán dồn hết sức ngửa mặt lên trời đề phòng. Sơ hở một chút, lập tức Thần-ưng xông qua lưới phòng thủ, tấn công vào bọn chèo thuyền. Mỗi lần như thế, một thuyền quay ngang. Thành ra trận tuyến Hán rối loạn.
Mã Viện đuổi theo chiến thuyền Lĩnh-Nam trên ba dặm, mà không sao bắt kịp. Hễ y ngưng lại, chiến thuyền Lĩnh-Nam cũng ngưng lại. Trong khi trên trời, Thần-ưng đánh liên tiếp.
Bỗng chiến thuyền Lĩnh-Nam rẽ ra, từ từ dừng lại. Từ phía sau, mười chiến thuyền tiến lên như cá kình xé sóng. Khi gần chiến thuyền Hán, thì tên từ trên mặt thuyền hàng loạt bắn ra.
Mã Viện chợt nhớ lại trận Trường-an: Bên Hán hơn hai mươi vạn quân, bị liên quân Việt, Thục có mười vạn đánh tan, vì các dàn Nỏ thần. Viện đã nghe Trần Tự-Sơn kể về sự lợi hại của dàn nỏ do Cao-cảnh hầu Cao Nỗ chế ra. Chính Nỏ-thần này khiến năm mươi vạn quân Tần chôn thây ở Lĩnh-Nam. Trong trận Trường-an, Hán bại vì Nỏ-thần xuất hiện.
Mã Viện chưa kịp phản ứng, thì mười dàn Nỏ-thần tiếp tục bắn sang. Thủy thủ trên mười chiến thuyền Hán, đã bị tiêu diệt trọn vẹn. Chiến thuyền không người điều khiển quay ngang. Hàng ngũ trận Hán rối loạn.
Mã Viện, Trịnh Sư muốn điên lên. Vì từ lúc hai bên giáp chiến., bên Hán hết bị chim ưng, ong bầu đánh, hao hụt trên vạn người, mà trước sau bên Hán chưa bắn được mũi tên, chưa xử dụng được một chiêu võ nghệ.
Bây giờ đến mười dàn Nỏ-thần bắn sang như mưa. Chỉ loạt đầu, mười chiến thuyền, hơn ba ngàn thủy thủ bị chết. Mã Viện hô lớn:
– Đem lá chắn ra.
Y vừa dứt lời, Thần-nỏ bắn loạt thứ nhì. Lại mười chiến thuyền bị loại khỏi vòng chiến.
Thủy thủ lấy mộc, lá chắn, đứng sát vào nhau, hướng về trước đỡ tên, thì Thần-ưng lại nhào xuống tấn công. Giữa Thần-ưng với Nỏ-thần phối hợp nhịp nhàng. Hễ thủy thủ hướng về trước đỡ tên, thì Thần-ưng lao xuống tấn công. Thủy thủ hướng lên trời đối phó với Thần-ưng, thì Nỏ-thần lại bắn sang. Trận chiến cứ thế kéo dài hơn giờ. Bên Hán có đến năm mươi chiến thuyền, thủy thủ bị tiêu diệt hết. Thuyền trôi lênh bênh không hàng ngũ nào cả.
Mã Viện nói với Trịnh Sư:
– Trịnh tướng quân. Bây giờ chúng ta rút lui cũng chết hết. Chi bằng nhất tề đánh lên. Hy vọng sống sót. Tôi thấy bên Lĩnh-Nam giỏi lắm có ba vạn người. Bên mình tới sáu vạn, tuy chết hơn một vạn, ta vẫn có thể thắng.
Trịnh Sư, Mã Viện hô thủy thủ cố sức chèo lên. Đoàn thuyền Lĩnh-Nam chia làm hai, rút lui về phương nam. Trong khi Thần-ưng đánh cản đường.
Trời đã về trưa, sương mù trên mặt hồ tan dần dần. Bỗng binh sĩ Hán la hoảng, họ cùng hướng nhìn về phía trại đóng ở núi Tam-sơn. Trên núi, khói bốc mịt mù, lửa ngất trời.
Mã Viện rút kiếm quát lớn:
– Ai ngừng chèo, lui một bước, ta chém liền.
Mã Viện, Trịnh Sư chém đến hai tên lữ trưởng, thuyền Hán mới giữ vững được trận tuyến. Trận tuyến vừa vững, tiếng nhạc du dương bên thuyền Lĩnh-Nam lại nổi lên. Đoàn ong bầu lại bay rợp trời sang đánh. Bên Hán không còn gì để đốt nữa. Thủy thủ bỏ mộc ôm đầu, lấy quần áo đuổi ong. Thì Nỏ-thần bắn sang một loạt nữa. Ong đốt, chim ưng nhào xuống mổ mắt, cào mặt, Nỏ-thần bắn. Mỗi dàn bắn một loạt, trọn vẹn một chiến thuyền hơn ba trăm thủy thủ vừa chết vừa bị thương. Mười dàn bắn một lúc. Nỏ bắn ra, sức đã mạnh, tầm bắn rất xa. Tên trúng người, bị xuyên qua thân. Trúng đầu, xuyên vào tới óc.
Từ bên chiến thuyền Lĩnh-Nam tiếng loa gọi:
– Binh tướng Hán nghe đây. Toàn bộ trại Tam-sơn đã bị đánh chiếm. Kho lương thảo bị đốt cháy sạch. Đường về bị cắt. Phía trước Thần-ưng, Thần-phong, Nỏ-thần. Hãy mau mau bỏ thuyền, nhảy xuống hồ bơi lại thuyền Lĩnh-Nam sẽ được tha mạng sống.
Đám binh tướng Hán nghe tiếng loa gọi, có người vừa định nhảy xuống nước lập tức Mã Viện rút kiếm chặt đầu.
Vì quân Hán sơ hở một chút, đoàn ong bầu tấn công nườm nượp. Binh Hán không còn chịu nổi nữa. Hàng vạn người nhảy xuống nước.
Mã Viện, Trịnh Sư đành truyền lệnh lui quân. Bấy giờ thuyền Lĩnh-Nam mới tiến lên, Nỏ-thần, Thần-ưng phối hợp nhịp nhàng, trống trận Lĩnh-Nam đánh rộn rã.
Mã Viện bảo Trịnh-Sư:
– Ta là chúa tướng. Ta ở lại cản hậu. Trịnh tướng quân hãy đem binh mã trở về, mở đường máu, chiếm lại trại Tam-sơn. Có lẽ giờ này tướng quân Chu Long đang trở về cứu Tam-sơn. Nhớ, lên tới Tam-sơn đốt lửa làm hiệu gọi Lưu Long, Ngô Phùng đem quân từ bắc sang tiếp viện.
Trọn đời chinh chiến. Chưa bao giờ Mã Viện gặp cảnh này. Suốt từ sáng đến giờ, một mũi tên, một chiêu võ cũng không được sử dụng. Trong sáu vạn thủy quân thì bị chết, bị bắt, đầu hàng hơn ba vạn. Bây giờ y phải cầm cự, cản hậu cho Trịnh Sư về giải cứu Tam-sơn, mở đường máu hầu rút lui.
Đoàn chiến thuyền Trịnh Sư đi rồi. Phật-Nguyệt nói với Đinh Bạch-Nương:
– Chúng ta hãy tiêu diệt đoàn thuyền Mã Viện càng mau càng tốt. Nếu chậm trễ, đạo quân Đào vương phi gặp nguy mất.
Cờ phất lên. Trâu Đen, Sún Hô đồng cho Thần-ưng đánh xả láng, đánh không cần ước lượng tổn thất. Đoàn Thần-phong như một đám mây đáp xuống. Hàng ngũ quân Hán rối loạn lên. Tráng sĩ Lĩnh-Nam dùng đoản đao, từ các con thuyền nhỏ, nhảy sang chiến thuyền Hán, đao vung lên, phụp, phụp, đầu rơi xuống. Quân Hán gặp đường cùng. Chúng quyết tử chiến. Trận chiến diễn ra kinh khủng.
Độ hơn giờ, Phật-Nguyệt đã tìm ra chỗ đứng của Mã Viện. Bà chỉ cho Quách A:
– Em dùng Thần-ưng đánh mở đường. Để chị giết tên Mã Viện.
Bà cầm kiếm nhảy sang thuyền Hán. Thần-ưng từng tốt trăm con, nhào xuống đánh vào đội hình quân Hán. Chỉ phút chốc bà đã vượt qua ba dãy chiến thuyền, tới trước mặt Mã Viện. Mã Viện thấy bóng một nữ tướng dáng thanh nhã, mặc quần áo trắng, dây lưng hồng đang tiến về phía mình. Bóng đó tiến đến đâu, đầu rơi, thây đổ đến đó. Phút chốc đã tới trước mặt y. Y vung kiếm đâm liền. Ánh kiếm chớp lên, choang một tiếng. Cái chỏm mũ đội trên đầu y rơi xuống. Xoẹt, xoẹt hai tiếng, hai tướng đứng cạnh y, đầu một nơi mình một nẻo. Choang một tiếng, y bị trúng một kiếm giữa ngực. May miếng hộ tâm kính bằng thép, che chở cho y, lửa tóe ra, làm y kinh hồn động phách. Y nhảy vọt về phía sau, xuống con thuyền nhỏ, truyền thủy thủ chèo thực mau về bắc hồ Động-đình, bỏ hơn vạn thủy thủ với chiến thuyền.
Phật-Nguyệt, Đinh Bạch-Nương truyền bao vây số chiến thuyền còn lại. Đám thủy thủ Hán thấy Mã Viện bỏ chạy, đồng quăng vũ khí xin hàng. Phật-Nguyệt truyền trói lại, cho xuống các chiến thuyền Hán. Truyền một đội dũng sĩ, giải về bản dinh phía Nam.
Phật-Nguyệt đứng trên đài cao hô lớn:
– Chúng ta chỉ có bốn vạn thủy binh, đã đánh tan bốn vạn rưỡi thủy binh Hán. Còn một vạn rưỡi, do Trịnh Sư dẫn chạy về Tam-sơn. Chúng ta mau tiến lên lấy Tam-sơn.
Tướng sĩ Lĩnh-Nam reo hò rung động mặt hồ. Chiến thuyền chia làm hai đoàn, tiến về phía bắc. Đoàn thuyền gần đến Tam-sơn, thì nghe tiếng voi rống, hổ gầm, tiếng vũ khí chạm nhau, thì biết trên bờ đang có cuộc giao chiến khốc liệt. Phật-Nguyệt sai Quách A lên cột buồm, chỉ huy Thần-ưng trinh sát.
Quách A đứng trên cột buồm nói vọng xuống:
– Trên bờ chia làm ba khu vực giao chiến. Phía tây, Thần-hổ, Thần- hầu chạm phải cường địch. Hàng ngũ rối loạn. Hai bên đã lẫn vào nhau, không phân biệt được nữa.
Phật-Nguyệt nói với Sún Hô:
– Theo kế hoạch của Đào vương phi. Mặt tây hồ, do Tiên-Yên nữ hiệp, Lê Thị Lan. Yểm trợ có Xích Hầu chỉ huy sư Thần-hầu. Hắc Hổ chỉ huy sư Thần-hổ. Cánh này chặn không cho đoàn quân của Chu Long về cứu viện Tam-sơn.
Quách A lo ngại:
– Lực lượng Chu Long tới bốn vạn bộ binh, năm vạn kị binh. Mà mình chỉ có hai sư Thần-hổ với Thần-hầu, nguy quá.
Quách A quan sát một lúc tiếp:
– Phía bờ Bắc sông địch đông vô cùng. Chỉ có mình Trâu Xanh, với hai trăm Thần-ưng đánh cầm chừng. Có lẽ đạo quân của Hán từ bên kia sông đang đổ sang cứu viện. Kìa! Thần-ưng của Trâu Xanh đánh ở trên bờ sông, rõ ràng địch đã lên bờ được rồi.
Nàng nhìn lên núi Tam-sơn nói:
– Trên núi Tam-sơn, lực lượng mình thắng. Đã lọt vào trại giặc rồi. Hai bên lẫn lộn với nhau. Thần-ưng bay lượn trên cao, không xuống yểm trợ được.
Phật-Nguyệt vui mừng:
– Cánh quân đánh Tam-sơn gồm Đào sư bá, Đào Quí-Minh, Cu Bò, Trâu Trắng, Hồ Nam với sư Thần-tượng. Lực lượng giặc có vạn bộ, hai ngàn thủy, hai ngàn kị. Tuy đánh được Tam-sơn, nhưng cũng mệt lắm rồi.
Bà quyết định:
– Sư muội Đinh Bạch-Nương, Trâu Đen, Cao Cảnh Khê đổ bộ lên phía tây của hồ, tiếp cứu sư bá Tiên-yên. Ta với Hắc Phong, Sún Hô đánh tiêu diệt đoàn bại binh Mã-Viện, Trịnh Sư rồi cùng đạo binh Đào vương phi đánh với đạo Ngô Anh mới đổ bộ qua. Sư muội chỉ cần cầm cự khoảng nửa ngày, thì đạo binh Đào Phương-Dung sẽ tiếp cứu kịp.
Phật-Nguyệt cầm loa nói lớn:
– Hỡi các anh hùng Lĩnh-Nam, hỡi những con Rồng, cháu Tiên. Lĩnh-Nam đất rộng người thưa. Trung-nguyên người nhiều. Họ cai trị chúng ta như trâu, như chó hơn hai trăm năm nhục nhã. Chúng ta vừa phục hồi. Họ lại sang cướp nước. Hãy tiến lên, giết giặc, bảo vệ Lĩnh-Nam.
Binh tướng cùng hô lên quyết chiến. Đoàn thuyền tiến vào bờ.
Mã Viện, Trịnh Sư đã đem được hơn vạn thủy quân lên bờ Tam-sơn, bầy thành trận, tỏ ý quyết chiến, đợi viện binh từ bắc Trường-giang tới.
Quân Hán sợ Thần-phong, chúng cắt cỏ đốt lên, khói mịt mờ. Phật-Nguyệt nhìn trận Hán, nói với Sún Hô:
– Mã Viện quả thực là đại tướng có tài. Sáng nay y xuất phát sáu vạn thủy quân. Ta tiêu diệt gần hết. Chỉ còn hơn vạn, mà y vẫn bày được trận thế vững trãi như thế kia, để cố thủ.
Quách A nhìn trận Hán nói:
– Chúng đốt lửa, Thần-phong không dùng được. Chúng lại núp trong các ụ đất, mô đá, khó mà dùng Thần-nỏ. Bây giờ chỉ có một cách duy nhất dùng Thần-ưng đánh từ trên không. Còn sư tỷ cho thủy quân đổ bộ, tiêu diệt chúng, càng mau càng tốt. Nếu không, đạo binh mới đổ bộ từ bắc sang tiếp cứu, nguy lắm.
Sún Hô đứng trên cột buồm, chỉ huy Thần-ưng. Hơn ba trăm Thần-ưng đồng loạt tấn công. Phật-Nguyệt ra lệnh cho các dàn Nỏ-thần bắn tà tà trên đầu trận tuyến Hán. Trong khi thủy quân đổ bộ.
Cuộc chiến diễn ra cực kỳ ác liệt. Mã Viện, Trịnh Sư, cùng các tướng Hán xúm vào bao vây Phật-Nguyệt.
Thông thường, tính tình Phật-Nguyệt khoan hòa, ít khi xử dụng hết khả năng kiếm pháp. Nhưng hôm nay, đứng trước sự an nguy của đạo quân Lĩnh-Nam, bà xử dụng những chiêu kiếm hiểm ác nhất. Kiếm chiêu lấp lánh như quả cầu bạc, bao phủ lấy người bà. Cứ mỗi chiêu vung lên, lại một đầu tướng Hán rơi xuống.
Trịnh Sư là một cao thủ bậc nhất Trung-nguyên. Võ công của y còn cao hơn bọn Sầm Bành, Phùng Dị nhiều. Cạnh y còn Mã Viện, bản lĩnh ngang với đám Phong-Châu song quái. Phật-Nguyệt đã xử dụng hết khả năng kiếm pháp, mà vẫn không thắng được hai người. Ngoài ra còn đến hơn mười tướng Hán bao vây xung quanh bà.
Bà vừa đánh vừa nhìn trận tuyến. Quân Lĩnh-Nam đang giao chiến ác liệt với quân Hán. Thắng bại chưa phân. Thì từ phía sau một giọng trẻ con la lớn:
– Mã Viện! ta cho ngươi cái này. Hãy đón lấy.
Một vật bay vèo đến trước mặt Mã-Viện. Y dùng đao gạt, nhưng không kịp. Vật đó đã trúng giữa mặt y đến bốp một cái. Một mùi hôi thối nồng nặc xông lên, làm Mã-Viện hắt xì liền ba tiếng. Y nhảy lui lại nhìn xem đó là vật gì? Thì ra một chiếc dầy vải.
Y nhìn người ném mình, chỉ là một thằng bé khôi ngô, mặt mũi lem luốc. Y cảm thấy mặt ngứa ngáy khó chịu. Y đưa tay lên gãi. Càng gãi càng thấy ngứa. Y nhìn lại kẻ phóng ám khí, thằng bé nói:
– Mã Viện! Mày bị trúng ám khí kịch độc của tao rồi. Mau quì xuống qui hàng, tao sẽ ban thuốc giải cho. Bằng không chỉ nội một giờ, mi sẽ hộc máu ra mà chết.
Nghe nói Mã kinh hãi. Y bỏ Phật-Nguyệt, rượt theo thằng bé. Nguyên thằng bé đó là Cu Bò. Sau khi Đào vương phi, Đào Quí-Minh, Trâu Trắng, Cu Bò, Hồ-Nam đánh được đồn Tam-sơn. Bà giao cho Đào Quí-Minh tiếp thu danh trại, kiểm điểm tù binh. Bà cùng với Cu Bò, Trâu Trắng, Hồ-Nam tiến ra bờ hồ Tam-sơn tiếp chiến với Phật-Nguyệt.
Cu Bò không chịu cỡi voi, vì vướng vít. Nó bám cành cây truyền như khỉ, đu từ cành này tới cành kia. Vì vậy nó tới trước. Thấy Phật-Nguyệt đang bị Mã Viện với các tướng Hán bổ vây. Nó cầm tù và gọi Thần-ưng. Trong khi Thần-ưng chưa tới kịp, tính tinh nghịch tuổi trẻ nổi dậy, nó cởi chiếc dầy móc túi lấy chiếc bình chứa chất độc nọc rắn, nhỏ mấy giọt vào, lại móc túi khác lấy ít phấn trái Móc-mèo rắc lên dầy.
Nó đứng lược trận, thình lình ném Mã Viện. Nó là đứa ở dơ nhất, bất cứ dầy, dép, quần áo nào, nó mang từ lúc mới cho tới lúc rách, không bao giờ giặt giũ. Đôi dầy của nó hôi thối không ai chịu nổi. Nó dùng dầy ném Mã Viện. Y thấy mùi hôi thối kỳ lạ, lại tưởng là ám khí. Y bỏ Phật-Nguyệt, đuổi theo nó. Nó bám cành cây, đu như khỉ. Phút chốc đã lên đến chót vót một cổ thụ. Nó cầm tù và rúc lên mấy hồi gọi Thần-ưng. Đoàn Thần-ưng của nó bay đến rợp trời. Chúng thấy Mã Viện cùng một số tướng Hán đang bao vây chúa tướng, chúng đồng ré lên nhào xuống tấn công. Mã Viện vội dùng đao múa tít bảo vệ thân mình. Vừa lúc đó, đoàn Thần-tượng với Đào vương phi tới.
Mã Viện chưa biết Đào vương phi. Y hất hàm hỏi:
– Nữ tướng kia tên gì. Hãy nói cho ta biết.
Đào vương phi tuy làm đại tướng. Song tính nhu nhã, cao sang của bậc vương giả không bị mất. Bà lễ phép trả lời:
– Người có phải Phục ba tướng quân Mã Viện đó chăng? Người chưa gặp ta, nên chưa biết. Song ngươi đã biết con trai ta là Đào Kỳ. Con dâu ta là Phương-Dung chứ?
Mã Viện bật lên tiếng úi chà. Y tỏ vẻ sợ hãi:
– Thì ra Đào vương phi đất Cửu-chân đây. Tiểu tướng muốn được lĩnh giáo mấy cao chiêu của Vương phi.
Y vung chưởng tấn công liền. Chưởng của y bao hàm sát thủ cực mạnh. Đào vương phi phát chiêu Thiết-kình phi chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cánh tay bà cảm thấy tê dại. Trong khi Mã Viện lùi hai bước.
Đào vương phi nghĩ:
– Chưởng lực tên này khá mạnh. Có lẽ hơn Phong-châu Song quái. Nếu Đào Kỳ không truyền bí quyết võ công trong bộ Văn-lang võ học kỳ thư cho ta, e rằng ta không phải đối thủ của y.
Hai người đấu được trên ba mươi chiêu. Công lực Đào vương phi thấp hơn Mã Viện. Song võ công của bà là võ công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên vì vậy bà cầm cự được.
Bỗng từ trên cao, một tia nước rót trúng đầu Mã. Y lui lại nhìn lên: Cu Bò đang cầm cò đái vào đầu y. Mùi nước đái khai không chịu được.
Y chửi:
– Đồ con nít mọi rợ! Đất Lĩnh-Nam sinh sản toàn đồ mất dậy.
Về võ công Cu Bò thua xa Mã Viện. Song bản lĩnh chửi nhau, nó bỏ xa Mã. Nó ngoác mồm ra chửi:
– Mất dậy cái con mẹ mi ấy. Đất nước của ông, chúng mày kéo sang đánh phá. Đó mới chính là mất dậy. Ông cho mày uống nước đái, lại ném vào người mày một ám khí kịch độc. Mày chết đến nơi rồi con ạ!
Nó ngừng lại cười lớn:
– Sư bá mau lui lại. Mã Viện đã trúng phải phấn Hủ tâm của cháu. Trong một giờ tim sẽ nát ra mà chết. Đằng nào trong một giờ, y cũng chết. Sư bá khỏi cần giết y.
Đào vương phi nhận Lục Sún làm đệ tử, biết bản lĩnh phá phách của chúng. Bà tưởng Cu Bò nói thực. Bà nói với Mã Viện:
– Phục ba tướng quân. Ta lấy nhân nghĩa trị người. Tướng quân bị trúng độc rồi. Ta không làm khó dễ người đâu. Ngươi đầu hàng đi thôi.
Mã Viện nhìn lại. Phật-Nguyệt đã đánh rơi kiếm của Trịnh Sư. Trận tuyến Hán tan vỡ. Y có cố gắng đốc chiến, cũng đến bại mà thôi. Y xuống nước nói với Đào vương phi:
– Vương phi! Tiểu tướng đã từng ở dưới trướng con rể người là Lĩnh-nam vương. Xin vương phi nghĩ tình Lĩnh-nam vương, ban cho tiểu tướng một liều thuốc giải. Tiểu tướng không bao giờ quên ơn.
Đào vương phi hướng mặt lên cây gọi Cu Bò:
– Bò ơi! Cháu cho Mã tướng quân một viên thuốc giải.
Cu Bò làm bộ sờ túi nọ, mò túi kia. Nó thục tay vào túi quần. Túi quần bị lủng từ hồi nào. Tay nó đụng phải cò. Nó mỉm cười, nhìn Mã Viện, rồi dùng tay chà vào cò mấy cái. Người nó đầy ghét. Đừng nói chà mấy cái, chỉ chà sơ, cũng lấy ra được một tảng ghét. Nó vê thành viên, cầm trong tay. Nó truyền cành cây xuống thấp, nói với Mã Viện:
– Mi hãy há miệng ra. Ta ném thuốc xuống cho.
Mã Viện há miệng. Cu Bò ném viên thuốc vào miệng. Y nuốt trửng. Cu Bò nói:
– Này Mã Viện, mi hãy nhớ: Sau khi uống thuốc giải, trong mười ngày không được dụng võ. Nếu trong mười ngày, mà mi dùng võ, thì đừng chê thuốc của ta không hiệu nghiệm. Thuốc này chỉ làm cho mi không bị nát tim chết. Còn loại thuốc thứ nhì nữa, mới chữa dứt hẳn bệnh.
Nó tiến đến Sún Hô nói:
– Sư huynh cho Mã tướng quân ba viên thuốc trị độc.
Miệng nói, mắt nó nháy lia lịa. Sún Hô làm gì có thuốc giải? Trong túi chàng chỉ có bình thuốc chữa khỉ. Nguyên khỉ từ vùng Giao-chỉ tới đây tham chiến, thường bị bệnh táo bón. Chàng cho chúng uống một thứ thuốc để dễ đi đại tiện. Chàng móc túi đưa ra ba viên thuốc trao cho Cu Bò. Cu Bò đưa cho Mã Viện:
– Tướng quân nuốt mau đi.
Mã Viện do dự một chút, rồi bỏ vào miệng nuốt trửng.
Đám binh sĩ Hán thấy Mã Viện bị khống chế, đồng buông vũ khí đầu hàng.
Cu Bò làm mặt nhân đạo nói với Phật-Nguyệt:
– Chị Phật-Nguyệt! Xin chị sinh phúc tha cho tên Mã Viện một lần. Y đã trúng độc của em. Tuy được uống thuốc giải, nhưng trong mười ngày, y không dám dùng võ đâu. Con sâu, cái kiến còn muốn sống, huống hồ con người. Sư tỷ ơi! Sư tỷ hãy tha mạng cho Mã tướng quân.
Nó nói với Mã Viện:
– Mã tướng quân. Đại ca Xích Hầu chỉ có Trâu Trắng, Trâu Xanh với ta dẫn Thần-hầu, Thần-ưng mà đánh tan trại Tam-sơn đốt hết lương thảo. Hơn sáu vạn thủy quân của ngươi bị sư tỷ Phật-Nguyệt đánh tan. Đạo quân năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh của Chu Long đang bị vây ở phía tây hồ Động-đình. Không chừng giờ này đã bị tiêu diệt hết rồi cũng nên.
Mã Viện liếc mắt nhìn về phía tây, ở đó có Thần-ưng đang bay rợp trời. Tiếng quân reo, tiếng hổ gầm rung động. Y tin lời nó. Nó được thể dọa tiếp:
– Bây giờ, Mã tướng quân hãy về thành Trường-sa yết kiến Lĩnh-nam vương với Hán-trung vương. Lĩnh-nam vương thường nhắc đến tướng quân luôn. Đại quân Lĩnh-Nam đóng dài từ Trường-sa đến Linh-lăng, gồm năm mươi vạn người, chia làm mười đạo. Mỗi đạo có một quân đoàn Tây-vu. Mỗi quân đoàn Tây-vu có tám sư đoàn. Tướng quân có biết là những sư đoàn gì không?
Trên đời Mã Viện, y sợ nhất là Trần Tự-Sơn, sau này tới Trưng Nhị, Phùng Vĩnh-Hoa, Đào Kỳ, Phương-Dung. Bây giờ nghe năm người đóng đại quân ở Trường-sa. Y không còn hồn vía nào nữa. Trong lòng tự nghĩ:
– Cũng may mình gặp đạo quân Phật-Nguyệt ở đây. Chứ mình kéo quân đến Trường-sa, e rằng mất mạng.
Y đánh trống lảng:
– Tôi không biết.
Cu Bò cười:
– Đó là Thần-tượng, hầu, phong, ưng, ngao, hổ, báo, long.
Mã Viện kinh hoàng. Hồi giúp Hán đánh Thục, Lĩnh-Nam chỉ mang có một quân, mà đã làm cho Thục đại bại. Huống hồ nay tới mười quân.
Thuốc đã ngấm. Mã Viện ôm bụng nhăn nhó, mặt tái mét. Cu Bò nói với Đào vương phi:
– Đệ tử biết Mã tướng quân bị trúng độc. Chắc không dám đem quân đánh Lĩnh-Nam nữa đâu. Xin sư bá đại ân đức tha cho Mã tướng quân về bắc.
Nó quay lưng lại phía Mã Viện, mắt nháy liên tiếp, ngón tay trỏ giật giật, ra hiệu cho Đào vương phi. Bà biết nó mưu kế gì đây. Bà nói với Mã Viện:
– Thôi, Mã tướng quân, ngươi hãy về đi.
Mã Viện bái tạ. Y cầm đao, hú lên một tiếng, biến vào rừng.
Phật-Nguyệt nhìn theo bóng Mã Viện. Bà quay lại khen Cu Bò:
– Em tôi giỏi quá. Nếu không có em ném ám khí vào Mã Viện, chị e giờ phút này cũng chưa thắng được y với Trịnh Sư. Y bị khống chế, thành ra hơn vạn quân Hán đều đầu hàng. Nếu chúng không đầu hàng, Lĩnh-Nam có diệt được, cũng hao đến bảy tám ngàn người.
Sún Hô, Cu Bò cùng ôm bụng cười rũ rượi. Đào vương phi nghiêm nghị:
– Các con không được vô phép. Sư tỷ Phật-Nguyệt tuy hiền hậu, nhưng cũng là chúa tướng. Các con cười như vậy, là thiếu lễ độ, không phải tác phong đệ tử danh gia.
Sún Hô chắp tay tạ lỗi với Phật-Nguyệt. Chàng nói:
– Chúng em cười vì Mã Viện mắc mưu Cu Bò. Nó làm gì có ám khí với độc dược? Chẳng qua đôi dầy của nó, từ lúc mới đan đến giờ hơn hai tháng chưa giặt. Hôi thối kinh khiếp. Nó bôi phấn mốc mèo vào. Mã Viện thấy ngứa, tưởng ám khí, đâm hoảng. Cu Bò được thể dọa già. Nó xin em thuốc táo bón chữa khỉ cho Mã uống. Sau khi uống một giờ, y sẽ đau bụng, đại tiện chảy ít ra đến mười ngày mới khỏi.
Đào Quí-Minh cũng đã tới. Ông nói:
– Cu Bò giỏi thực. Dù em ném ám khí, dù em đánh lừa Mã Viện, cũng khiến cho hơn vạn quân Hán đầu hàng.
Phật-Nguyệt gọi một tướng Lĩnh-Nam:
– Sư huynh dùng chiến thuyền giải đám tù binh này về Trường-sa chờ tôi về phát lạc. Nhớ cho ăn uống tử tế, để giữ tình với nhau. Chủ trương đánh chúng ta là bọn Quang-Vũ, chứ họ vô tội.
Bà quay lại nói với Đào vương phi:
– Chúng ta trở lại trợ chiến với sư bá Tiên-yên, Đinh Bạch-Nương:
Bà ra lệnh:
– Các em Trần Quốc-Dũng, Hắc Phong, trấn giữ Tam-sơn, cùng với một vạn thủy quân. Bảo vệ mặt hậu cho chúng ta. Còn lại, tất cả cùng theo Đào sư bá với tôi đánh tiêu diệt quân Chu Long.
Bà nói với Đào vương phi:
– Đinh Bạch-Nương đã mang hơn vạn thủy quân, đổ bộ đánh vào sườn phải Chu Long. Phía trước mặt y có Tiên-yên nữ hiệp, sư muội Lê Thị Lan, Hắc Hổ. Sư bá dẫn toàn bộ kị binh, bộ binh đánh vào phía trái. Theo giúp sư bá có Quí-Minh, Trâu Trắng, Trâu Xanh, Hồ Nam. Tôi với Quách A, Sún Hô, Cu Bò đánh vào trước mặt chúng.
Phật-Nguyệt nhảy lên ngựa đi trước. Khoảng nửa giờ sau, đã nghe tiếng hổ gầm, voi rống. Tiếng ngựa hí, quân reo. Bà cỡi ngựa đi giữa. Bên phải có Cu Bò, bên trái có Quách A. Phía sau có Sún Hô chỉ huy hơn vạn thủy quân. Trước mặt bà, xa xa hiện ra, một chiến trường. Tiên-yên nữ hiệp cầm kiếm đứng trên ngọn đồi nhỏ dốc chiến. Xung quanh bà, đoàn Thần- hầu, Thần-hổ phục dài trên sườn đồi. Phía dưới kị binh, bộ binh bao vây kín như thành đồng vách sắt. Xích Hầu mặt đầy máu. Vai Hắc Hổ băng vải đẫm máu. Chắc hai người đã bị thương.
Ngoài bờ hồ: Đinh Bạch-Nương, Cao Cảnh-Khê đang đốc thủy quân đánh với quân Hán. Cuộc xung sát chưa ngã ngũ. Quân Đinh Bạch-Nương, là quân thiện chiến, can đảm, nhưng phải dựa vào năm dàn Thần-nỏ, thành ra không dám tiến xa chiến thuyền. Còn quân Hán tuy đông, cũng không thể nào tiến được, vì bị thủy quân Lĩnh-Nam chắn phía trước.
Phật-Nguyệt cầm cờ xanh phất về phía Tiên-yên nữ hiệp mấy cái. Đó là biểu hiệu: Phá vòng vây tiến lên. Bà cầm cờ đỏ hướng về phía Đinh Bạch-Nương phất mấy cái. Đó là biểu hiệu, giữ nguyên trận tuyến.
Tiên-yên nữ hiệp, Hắc Hổ, Xích Hầu xua quân đổ đồi. Hổ gầm lên đồng xung vào trận Hán. Quân Hán đang vây cứng đoàn Thần-hổ, Thần-hầu. Bỗng thấy quân Lĩnh-Nam có viện binh, vội lui trở xuống.
Quách A bảo Cu Bò:
– Em cho Thần-ưng đánh vào đội hình quân Hán, yểm trợ sư bá Tiên-yên. Đánh xả láng. Đánh không thương xót.
Hàng ngũ quân Hán bị Thần-hổ, ưng, hầu, thủy quân đồng vây. Hàng ngũ rối loạn, lui trở lại. Hai đạo quân Lĩnh-Nam đã bắt liên lạc được với nhau.
Tiên-yên nữ hiệp nói:
– Thằng Chu Long võ công cao không thể tưởng được. Khi y đem quân trở lại. Ta dùng Thần-hầu, đốt cỏ trong rừng làm nghi binh. Nó dừng quân lại, cho tế tác dọ thám. Tên tế tác nào vào rừng, cũng bị Thần-hầu đập chết. Được mấy giờ, Chu Long đã nhận ra chủ ý của ta. Nó xua binh tiến lên. Ta dùng Thần-hổ cản đường. Lúc đầu kị binh Hán rối loạn. Sau bộ binh tiến lên. Chúng bao vây, định diệt ta. May nhờ Đinh Bạch-Nương tới kịp. Song binh sĩ của Bạch-Nương ít quá. Thành ra chỉ cản trở không cho chúng về cứu Tam-sơn mà thôi, không giải vây được cho ta. Cháu tới vừa lúc.
Phật-Nguyệt dàn quân: Phía phải, đội Thần-hổ, Thần-hầu do Hắc Hổ, Xích Hầu chỉ huy, thêm Cu Bò. Phía trái Đinh Bạch-Nương, Cao Cảnh-Khê, Trâu Đen. Chính giữa, bà với Tiên-yên, Quách A, Sún Hô. Tuy quân Lĩnh-Nam chỉ hơn vạn, song uy thế như hàng chục vạn. Trên trời Thần-ưng bay lượn, trong tư thế sẵn sàng xung trận.
/29
|