Mặt trời vuốt ve những viên đá lát trong sân Belvedere khi cha Nil và Leeland bước vào. Nhẹ nhõm vì dốc được bầu tâm sự, tu sĩ người Mỹ đã lấy lại tâm trạng vui vẻ, và trong suốt đoạn đường ông chỉ nói về tuổi trẻ của họ khi là sinh viên ở Roma. Mười giờ, họ có mặt trước cửa kho sách.
Một giờ trước đây, một linh mục mặc áo dòng đã đến trước họ. Khi nhìn thấy giấy phép ra vào do đích thân Hồng y Catzinger ký, viên cảnh sát nghiêng mình và kính cẩn dẫn người đó đến tận cánh cửa bọc sắt, nơi Breczinsky đang chờ đợi với vẻ lo lắng. Lần gặp gỡ thứ hai này cũng chóng vánh như lần đầu. Khi đi ra, vị linh mục đã nhìn chăm chú hồi lâu vào người đàn ông Ba Lan bằng đôi mắt đen của mình, môi dưới ông này run run.
Cha Nil không để ý đến sắc mặt rất nhợt nhạt, gần như bợt ra của ông; khi đến kho, cha Nil không nhận thấy sự bối rối trong ông, và đặt thiết bị lên bàn của họ trong khi Leeland đi tìm những bản thảo mà họ phải xem xét.
Sau khoảng một giờ làm việc, ông tháo găng tay và thì thầm:
- Cứ tiếp tục làm một mình đi nhé, tớ sẽ đi thử vận may với Breczinsky.
Leeland im lặng gật đầu, và cha Nil đi đến gõ của văn phòng viên thủ thư.
- Mời cha vào, mời cha ngồi.
Breczinsky có vẻ sung sướng khi gặp ông.
- Cha đã không nói gì với tôi về những nghiên cứu của cha trong kệ các Hiệp sĩ hôm trước: cha có phát hiện được điều gì hữu ích không?
- Còn hơn thế nữa, cha ạ: tôi đã tìm lại được văn tự mà cha Andrei từng xem xét và ghi lại chỉ dẫn trong sổ tay.
Ông hít một hơi và thử liều:
- Nhờ có đạo hữu đã mất, tôi đang đi theo hướng dẫn đến tài liệu quan trọng nhất, nó có thể khiến ta phải xem xét lại những cơ sở của đức tin Cơ Đốc. Xin thứ lỗi cho tôi không thể nói nhiều hơn. Từ khi tôi đến Roma, vì tôi, Đức ông Leeland đã phải chịu những áp lực đáng kể, nên bằng cách im lặng tôi muốn tránh cho cha mọi điều phiền toái.
Breczinsky lặng lẽ nhìn ông, rồi khẽ khàng hỏi:
- Nhưng… những áp lực như vậy đối với một Giám mục làm việc ở Vatican có thể xuất phát từ ai?
Cha Nil quyết định được ăn cả ngã về không. Ông nhớ lại một nhận xét của người Ba Lan này khi họ gặp nhau lần đầu tiên “Còn tôi thì tin rằng cha là người của Catzinger!”
- Từ Cơ quan truyền bá đức tin, và chính xác hơn là từ chính Hồng y đứng đầu cơ quan này.
- Catzinger!
Người Ba Lan lau mồ hôi trán, tay run nhè nhẹ.
- Cha không biết qua khứ của người này, cũng không biết điều ông ta từng trải qua!
Cha Nil giấu sự ngạc nhiên.
- Đúng là tôi không biết gì về ông ấy, trừ việc ông ấy là nhân vật thứ ba trong Giáo hội, sau bộ trưởng Ngoại giao và Giáo hoàng.
Breczinsky ngước nhìn ông bằng đôi mắt của một con chó bị đòn.
- Cha Nil ạ, cha đã đi quá xa, giờ đây cha cần phải biết. Điều tôi sắp nói với cha, tôi chỉ mới tâm sự với cha Andrei thôi, vì chỉ cha ấy mới có thể hiểu được. Gia đình cha ấy đã cùng gánh chịu những đau khổ như gia đình tôi. Tôi không phải giải thích gì, cha ấy hiểu ngay mọi chuyện.
Cha Nil nín thở.
- Khi người Đức phá vỡ hiệp ước Đức-Xô, quân đội Wehrmacht đã ồ ạt kéo đến nơi trước đây là đất nước Ba Lan. Trong vài tháng, sư đoàn Anschluss đảm bảo công tác hậu cần xung quanh Brest-Litovsk cho quân đội xâm lược, và vào tháng Tư năm 1940, một trong số các sĩ quan cao cấp của sư đoàn này, một người tên là Oberstleutnant đã đến vét hết đàn ông trong làng tôi. Cha tôi bị đưa vào rừng cùng họ, và chúng tôi không bao giờ gặp lại ông nữa.
- Đúng, cha đã kể chuyện này với tôi…
- Sau đó sư đoàn Anschluss gia nhập mặt trận phía Đông, và mẹ tôi đã cùng tôi cố gắng sống sót tại làng, nhờ vào sự giúp đỡ của gia đình cha Andrei. Hai năm sau, chúng tôi thấy những tàn quân cuối cùng của quân đội Đức quay ngược lại chạy trốn quân Nga. Không còn là quân đội Wehrmacht thắng lợi nữa, mà là một băng kẻ cướp hãm hiếp và đốt cháy mọi thứ trên đường chúng đi qua. Khi đó tôi năm tuổi: một hôm, mẹ tôi cầm tay tôi, bà rất hoảng sợ: “Con hãy trốn vào trong hầm, chính là tên sĩ quan đã dẫn cha con đi, hắn lại quay lại đấy!” Qua khe cửa bị lỏng ra, tôi nhìn thấy một sĩ quan Đức bước vào. Không nói lời nào, hắn mở móc thắt lưng, chồm lên mẹ tôi và hãm hiếp bà ngay trước mắt tôi.
Cha Nil kinh hoàng.
- Cha có biết tên sĩ quan đó không?
- Như cha có thể thấy, tôi không bao giờ quên được hắn, và không ngừng tìm kiếm dấu vết hắn: hắn chết sau đó ít lâu, bị những người kháng chiến Ba Lan giết. Hắn là Obersleutnant Herbert von Catzinger, cha của Hồng y đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin hiện nay.
Cha Nil mở miệng nhưng không thể thốt ra lời nào. Trước mặt cha Nil, Breczinsky dường như bị phá hủy. Ông cố gắng nói tiếp.
- Sau chiến tranh, trở thành Hồng y tại Viên, Catzinger đã yêu cầu một người Tây Ba Nha thuộc nhóm Opus Dei tìm kiếm trong các hồ sơ lưu của Áo và Ba Lan, và đã phát hiện ra rằng cha ông ta, người mà ông ta ngưỡng mộ vô bờ bến, đã bị quân du kích Ba Lan giết chết. Từ đó ông ta căm thù tôi, cũng như căm thù tất cả những người Ba Lan.
- Nhưng… Giáo hoàng là người Ba Lan kia mà!
- Cha không thể hiểu được: tất cả những ai phải chịu đựng chủ nghĩa phát xít, mặc dù không muốn, đều giữ lại một dấu ấn sâu sắc. Từng tham gia đội Thiếu niên Hitler, con trai của viên chiến binh thuộc quân đội Wehrmacht bị quân kháng chiến Ba Lan giết chết này vứt bỏ quá khứ của mình nhưng không lãng quên nó: không ai ra khỏi địa ngục đó mà vẫn còn nguyên vẹn. Đối với Giáo hoàng người Ba Lan mà hiện nay ông ta là cánh tay phải, tôi tin chắc rằng ông ta đã vượt qua được nỗi căm ghét trong thâm tâm, ông ta sùng kính ngài một cách chân thành. Nhưng ông ta biết rằng tôi sinh ra ở một làng nơi sư đoàn Anschluss từng đóng, ông ta biết về cái chết của cha tôi.
- Và…về mẹ của cha?
Breczinsky đưa mu bàn tay lau nước mắt.
- Không, ông ta không thể biết được, tôi là nhân chứng duy nhất, ký ức về cha ông ta vẫn nguyên vẹn. Nhưng tôi, tôi biết. Tôi không thể… tôi không thể tha thứ được, cha Nil ạ.
Một nỗi thương cảm tràn ngập trong lòng cha Nil.
- Cha không thể tha thứ cho người cha… hay người con?
Breczinsky trả lời trong một hơi thở:
- Cả người này lẫn người kia. Từ nhiều năm nay, bệnh tật của Thánh Cha đã cho phép Hồng y làm hoặc để người khác làm những điều đi ngược lại với tinh thần của kinh Phúc âm. Ông ta muốn khôi phục Giáo hội của những thế kỷ trước bằng mọi giá, ông ta bị ám ảnh bởi cái mà ông ta gọi là “trật tự của thế giới”. Dưới vẻ bề ngoài hiện đại, đó chính là sự quay lại thời kỳ đồ sắt. Tôi đã thấy những nhà thần học, những linh mục, những tu sĩ bị phá hủy đến con số không, bị nghiền nát bởi một Vatican không chút tình thương giống như trước đây cha ông ta từng thể hiện đối với những dân tộc bị Reich biến thành nô lệ. Cha nói rằng ông ta gây áp lực với Đức ông Leeland? Giá như bạn của cha là người duy nhất… Tôi chỉ là một viên sỏi nhỏ vô nghĩa, nhưng cũng như những người khác tôi phải bị nghiền nhỏ để cái đế của Giáo lý và Đức tin không nứt vỡ.
- Tại sao lại là cha? Giam mình trong sự im lặng của kho sách này, cha không làm phiền đến ai, cha không đe dọa bất cứ quyền lực nào!
- Nhưng tôi là người của Giáo hoàng, và chức vụ mà tôi đảm nhận ở đây nhạy cảm hơn cha nghĩ nhiều. Tôi… tôi không thể nói gì thêm với cha.
Vai ông rung lên nhè nhẹ. Ông cố gắng tiếp tục:
- Tôi chưa bao giờ nguôi ngoai được sau những đau khổ mà tội lỗi của Herbert von Catzinger đã gây ra, vết thương chưa khép lại và Hồng y biết điều đó. Mỗi đêm tôi tỉnh dậy người đẫm mồ hôi, bị ám ảnh bởi hình ảnh cha tôi bị dẫn vào rừng dưới sự đe dọa của những họng súng tiểu liên, và bởi hình ảnh thân thể mẹ tôi bị những gót giày đạp sát vào chiếc bàn trong bếp. Người ta có thể trói buộc một người bằng sự đe dọa, nhưng cũng có thể biến người đó thành nô lệ bằng cách nuôi dưỡng sự đau khổ của anh ta: chỉ cần làm nó sống lại, làm cho vết thương chảy máu. Chỉ ai đó biết về những con người bằng đồng này mới có thể hiểu được, và đó là trường hợp của cha Andrei. Từ khi tôi vào phụng sự Giáo hoàng, tôi luôn bị chà đạp bởi hai gót giày sáng bóng, Catzinger khoác áo choàng tía cai trị tôi, giống như ngày xưa cha ông ta đã cai trị mẹ tôi và những người nô lệ Ba Lan khác trong bộ quân phục bó chẽn.
Cha Nil bắt đầu hiểu ra. Breczinsky chưa bao giờ có thể rời khỏi căn hầm thời ấu thơ của ông, nơi ông nép sát vào cánh cửa mà bên ngoài đó người ta hãm hiếp mẹ mình. Chưa bao giờ ông ra khỏi con đường rừng nào đó, nơi ông bước đi trong giấc mơ, phía sau người cha sắp chết dưới một loạt đạn tiểu liên. Ngày cũng như đêm ông bị ám ảnh bởi hai gót giày đánh xi đạp vào một chiếc bàn, tai ù đi bởi tiếng vọng của mệnh lệnh gầm gừ trong họng Herbert von Catzinger: Feuer![[50]]
Cha ông bị đạn Đức giết chết, nhưng ông cũng không ngừng gục ngã, rơi xuống quay cuồng trong một cái giếng đen tối và không có đáy. Người đàn ông này là một người sống mà như chết. Cha Nil ngập ngừng:
- Có phải… Hồng y đích thân đến đây, tra tấn cha bằng cách nhắc lại quá khứ của cha? Tôi không thể tin được.
- Ồ không, ông ta không hành động trực tiếp. Ông ta cử người Tây Ban Nha, người đã thực hiện việc tìm kiếm các hồ sơ lưu trữ ở Viên cho ông ta. Lúc này người đó đang ở Roma, mấy hôm nay anh ta đến gặp tôi hai lần, anh ta…anh ta tra tấn tôi. Anh ta mặc áo linh mục: nhưng nếu đó thực sự là một linh mục của Jesus- Christ, thì cha Nil ạ, điều đó có nghĩa là Giáo hội đã kết thúc rồi. Anh ta không có tâm hồn, không có tình cảm của con người.
Im lặng một lúc lâu, và cha Nil để Breczinsky nói tiếp:
- Cha hiểu tại sao tôi đã giúp cha Andrei, tại sao tôi giúp cha. Cũng như cha, ông ấy đã nói rằng ông ấy tìm một tài liệu quan trọng: ông ấy tuyệt đối muốn lấy cắp nó khỏi Catzinger, và đưa lại tận tay Giáo hoàng.
Cha Nil nghĩ nhanh: chưa khi nào ông nghĩ đến việc sẽ làm gì nếu tìm thấy bức thư của tông đồ thứ mười ba. Đúng là Giáo hoàng sẽ là người phán xét xem tương lai của Giáo hội có bị ảnh hưởng bởi một nội dung bức thư này không, và tùy ý sử dụng nó.
- Cha Andrei có lý. Tôi chưa biết tại sao, nhưng rõ ràng thứ tôi đã phát hiện ra là điều rất nhiều người thèm muốn. Nếu tìm lại được tài liệu đã mất từ nhiều thế kỷ nay, tôi có ý định thông báo cho Giáo hoàng và chỉ cho ngài biết vị trí của nó. Chỉ có người đứng đầu Giáo hội mới có thể là người nắm giữ bí mật này, giống như ngài đã là người nắm giữ những bí mật về Fatima. Tôi vừa biết được rằng có thể nó đang bị vùi lấp đâu đó ở Vatican: rất mong manh!
- Vatican rộng lớn lắm: cha không có chỉ dẫn nào ư?
- Chỉ có một chỉ dẫn duy nhất, rất nhỏ nhoi. Nếu đúng là nó đã đến Roma, theo như tôi nghĩ, thì nó phải lẫn trong những bản thảo cùng biển Chết. Vatican có thể đã tiếp nhận nó sau cuộc chiến giành độc lập của người Do Thái, vào khoảng năm 1948. Cha có ý tưởng gì về nơi cất giữ những bản thảo chưa được khai thác của người Esseni ở Qumran không?
Breczinsky đứng dậy, ông có vẻ mệt mỏi.
- Tôi không thể trả lời cha ngay được, tôi cần phải suy nghĩ. Chiều mai cha hãy đến văn phòng này gặp tôi: sẽ không có ai khác ngoài cha và Đức ông Leeland. Nhưng tôi xin cha, đừng nói với ông ấy về cuộc nói chuyện giữa chúng ta, lẽ ra tôi không nên nói với cha tất cả chuyện này.
Cha Nil trấn an ông: ông ấy có thể tin tưởng ở ông như đã tin tưởng cha Andrei. Mục đích của họ chỉ là một: thông báo cho Giáo hoàng.
Một giờ trước đây, một linh mục mặc áo dòng đã đến trước họ. Khi nhìn thấy giấy phép ra vào do đích thân Hồng y Catzinger ký, viên cảnh sát nghiêng mình và kính cẩn dẫn người đó đến tận cánh cửa bọc sắt, nơi Breczinsky đang chờ đợi với vẻ lo lắng. Lần gặp gỡ thứ hai này cũng chóng vánh như lần đầu. Khi đi ra, vị linh mục đã nhìn chăm chú hồi lâu vào người đàn ông Ba Lan bằng đôi mắt đen của mình, môi dưới ông này run run.
Cha Nil không để ý đến sắc mặt rất nhợt nhạt, gần như bợt ra của ông; khi đến kho, cha Nil không nhận thấy sự bối rối trong ông, và đặt thiết bị lên bàn của họ trong khi Leeland đi tìm những bản thảo mà họ phải xem xét.
Sau khoảng một giờ làm việc, ông tháo găng tay và thì thầm:
- Cứ tiếp tục làm một mình đi nhé, tớ sẽ đi thử vận may với Breczinsky.
Leeland im lặng gật đầu, và cha Nil đi đến gõ của văn phòng viên thủ thư.
- Mời cha vào, mời cha ngồi.
Breczinsky có vẻ sung sướng khi gặp ông.
- Cha đã không nói gì với tôi về những nghiên cứu của cha trong kệ các Hiệp sĩ hôm trước: cha có phát hiện được điều gì hữu ích không?
- Còn hơn thế nữa, cha ạ: tôi đã tìm lại được văn tự mà cha Andrei từng xem xét và ghi lại chỉ dẫn trong sổ tay.
Ông hít một hơi và thử liều:
- Nhờ có đạo hữu đã mất, tôi đang đi theo hướng dẫn đến tài liệu quan trọng nhất, nó có thể khiến ta phải xem xét lại những cơ sở của đức tin Cơ Đốc. Xin thứ lỗi cho tôi không thể nói nhiều hơn. Từ khi tôi đến Roma, vì tôi, Đức ông Leeland đã phải chịu những áp lực đáng kể, nên bằng cách im lặng tôi muốn tránh cho cha mọi điều phiền toái.
Breczinsky lặng lẽ nhìn ông, rồi khẽ khàng hỏi:
- Nhưng… những áp lực như vậy đối với một Giám mục làm việc ở Vatican có thể xuất phát từ ai?
Cha Nil quyết định được ăn cả ngã về không. Ông nhớ lại một nhận xét của người Ba Lan này khi họ gặp nhau lần đầu tiên “Còn tôi thì tin rằng cha là người của Catzinger!”
- Từ Cơ quan truyền bá đức tin, và chính xác hơn là từ chính Hồng y đứng đầu cơ quan này.
- Catzinger!
Người Ba Lan lau mồ hôi trán, tay run nhè nhẹ.
- Cha không biết qua khứ của người này, cũng không biết điều ông ta từng trải qua!
Cha Nil giấu sự ngạc nhiên.
- Đúng là tôi không biết gì về ông ấy, trừ việc ông ấy là nhân vật thứ ba trong Giáo hội, sau bộ trưởng Ngoại giao và Giáo hoàng.
Breczinsky ngước nhìn ông bằng đôi mắt của một con chó bị đòn.
- Cha Nil ạ, cha đã đi quá xa, giờ đây cha cần phải biết. Điều tôi sắp nói với cha, tôi chỉ mới tâm sự với cha Andrei thôi, vì chỉ cha ấy mới có thể hiểu được. Gia đình cha ấy đã cùng gánh chịu những đau khổ như gia đình tôi. Tôi không phải giải thích gì, cha ấy hiểu ngay mọi chuyện.
Cha Nil nín thở.
- Khi người Đức phá vỡ hiệp ước Đức-Xô, quân đội Wehrmacht đã ồ ạt kéo đến nơi trước đây là đất nước Ba Lan. Trong vài tháng, sư đoàn Anschluss đảm bảo công tác hậu cần xung quanh Brest-Litovsk cho quân đội xâm lược, và vào tháng Tư năm 1940, một trong số các sĩ quan cao cấp của sư đoàn này, một người tên là Oberstleutnant đã đến vét hết đàn ông trong làng tôi. Cha tôi bị đưa vào rừng cùng họ, và chúng tôi không bao giờ gặp lại ông nữa.
- Đúng, cha đã kể chuyện này với tôi…
- Sau đó sư đoàn Anschluss gia nhập mặt trận phía Đông, và mẹ tôi đã cùng tôi cố gắng sống sót tại làng, nhờ vào sự giúp đỡ của gia đình cha Andrei. Hai năm sau, chúng tôi thấy những tàn quân cuối cùng của quân đội Đức quay ngược lại chạy trốn quân Nga. Không còn là quân đội Wehrmacht thắng lợi nữa, mà là một băng kẻ cướp hãm hiếp và đốt cháy mọi thứ trên đường chúng đi qua. Khi đó tôi năm tuổi: một hôm, mẹ tôi cầm tay tôi, bà rất hoảng sợ: “Con hãy trốn vào trong hầm, chính là tên sĩ quan đã dẫn cha con đi, hắn lại quay lại đấy!” Qua khe cửa bị lỏng ra, tôi nhìn thấy một sĩ quan Đức bước vào. Không nói lời nào, hắn mở móc thắt lưng, chồm lên mẹ tôi và hãm hiếp bà ngay trước mắt tôi.
Cha Nil kinh hoàng.
- Cha có biết tên sĩ quan đó không?
- Như cha có thể thấy, tôi không bao giờ quên được hắn, và không ngừng tìm kiếm dấu vết hắn: hắn chết sau đó ít lâu, bị những người kháng chiến Ba Lan giết. Hắn là Obersleutnant Herbert von Catzinger, cha của Hồng y đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin hiện nay.
Cha Nil mở miệng nhưng không thể thốt ra lời nào. Trước mặt cha Nil, Breczinsky dường như bị phá hủy. Ông cố gắng nói tiếp.
- Sau chiến tranh, trở thành Hồng y tại Viên, Catzinger đã yêu cầu một người Tây Ba Nha thuộc nhóm Opus Dei tìm kiếm trong các hồ sơ lưu của Áo và Ba Lan, và đã phát hiện ra rằng cha ông ta, người mà ông ta ngưỡng mộ vô bờ bến, đã bị quân du kích Ba Lan giết chết. Từ đó ông ta căm thù tôi, cũng như căm thù tất cả những người Ba Lan.
- Nhưng… Giáo hoàng là người Ba Lan kia mà!
- Cha không thể hiểu được: tất cả những ai phải chịu đựng chủ nghĩa phát xít, mặc dù không muốn, đều giữ lại một dấu ấn sâu sắc. Từng tham gia đội Thiếu niên Hitler, con trai của viên chiến binh thuộc quân đội Wehrmacht bị quân kháng chiến Ba Lan giết chết này vứt bỏ quá khứ của mình nhưng không lãng quên nó: không ai ra khỏi địa ngục đó mà vẫn còn nguyên vẹn. Đối với Giáo hoàng người Ba Lan mà hiện nay ông ta là cánh tay phải, tôi tin chắc rằng ông ta đã vượt qua được nỗi căm ghét trong thâm tâm, ông ta sùng kính ngài một cách chân thành. Nhưng ông ta biết rằng tôi sinh ra ở một làng nơi sư đoàn Anschluss từng đóng, ông ta biết về cái chết của cha tôi.
- Và…về mẹ của cha?
Breczinsky đưa mu bàn tay lau nước mắt.
- Không, ông ta không thể biết được, tôi là nhân chứng duy nhất, ký ức về cha ông ta vẫn nguyên vẹn. Nhưng tôi, tôi biết. Tôi không thể… tôi không thể tha thứ được, cha Nil ạ.
Một nỗi thương cảm tràn ngập trong lòng cha Nil.
- Cha không thể tha thứ cho người cha… hay người con?
Breczinsky trả lời trong một hơi thở:
- Cả người này lẫn người kia. Từ nhiều năm nay, bệnh tật của Thánh Cha đã cho phép Hồng y làm hoặc để người khác làm những điều đi ngược lại với tinh thần của kinh Phúc âm. Ông ta muốn khôi phục Giáo hội của những thế kỷ trước bằng mọi giá, ông ta bị ám ảnh bởi cái mà ông ta gọi là “trật tự của thế giới”. Dưới vẻ bề ngoài hiện đại, đó chính là sự quay lại thời kỳ đồ sắt. Tôi đã thấy những nhà thần học, những linh mục, những tu sĩ bị phá hủy đến con số không, bị nghiền nát bởi một Vatican không chút tình thương giống như trước đây cha ông ta từng thể hiện đối với những dân tộc bị Reich biến thành nô lệ. Cha nói rằng ông ta gây áp lực với Đức ông Leeland? Giá như bạn của cha là người duy nhất… Tôi chỉ là một viên sỏi nhỏ vô nghĩa, nhưng cũng như những người khác tôi phải bị nghiền nhỏ để cái đế của Giáo lý và Đức tin không nứt vỡ.
- Tại sao lại là cha? Giam mình trong sự im lặng của kho sách này, cha không làm phiền đến ai, cha không đe dọa bất cứ quyền lực nào!
- Nhưng tôi là người của Giáo hoàng, và chức vụ mà tôi đảm nhận ở đây nhạy cảm hơn cha nghĩ nhiều. Tôi… tôi không thể nói gì thêm với cha.
Vai ông rung lên nhè nhẹ. Ông cố gắng tiếp tục:
- Tôi chưa bao giờ nguôi ngoai được sau những đau khổ mà tội lỗi của Herbert von Catzinger đã gây ra, vết thương chưa khép lại và Hồng y biết điều đó. Mỗi đêm tôi tỉnh dậy người đẫm mồ hôi, bị ám ảnh bởi hình ảnh cha tôi bị dẫn vào rừng dưới sự đe dọa của những họng súng tiểu liên, và bởi hình ảnh thân thể mẹ tôi bị những gót giày đạp sát vào chiếc bàn trong bếp. Người ta có thể trói buộc một người bằng sự đe dọa, nhưng cũng có thể biến người đó thành nô lệ bằng cách nuôi dưỡng sự đau khổ của anh ta: chỉ cần làm nó sống lại, làm cho vết thương chảy máu. Chỉ ai đó biết về những con người bằng đồng này mới có thể hiểu được, và đó là trường hợp của cha Andrei. Từ khi tôi vào phụng sự Giáo hoàng, tôi luôn bị chà đạp bởi hai gót giày sáng bóng, Catzinger khoác áo choàng tía cai trị tôi, giống như ngày xưa cha ông ta đã cai trị mẹ tôi và những người nô lệ Ba Lan khác trong bộ quân phục bó chẽn.
Cha Nil bắt đầu hiểu ra. Breczinsky chưa bao giờ có thể rời khỏi căn hầm thời ấu thơ của ông, nơi ông nép sát vào cánh cửa mà bên ngoài đó người ta hãm hiếp mẹ mình. Chưa bao giờ ông ra khỏi con đường rừng nào đó, nơi ông bước đi trong giấc mơ, phía sau người cha sắp chết dưới một loạt đạn tiểu liên. Ngày cũng như đêm ông bị ám ảnh bởi hai gót giày đánh xi đạp vào một chiếc bàn, tai ù đi bởi tiếng vọng của mệnh lệnh gầm gừ trong họng Herbert von Catzinger: Feuer![[50]]
Cha ông bị đạn Đức giết chết, nhưng ông cũng không ngừng gục ngã, rơi xuống quay cuồng trong một cái giếng đen tối và không có đáy. Người đàn ông này là một người sống mà như chết. Cha Nil ngập ngừng:
- Có phải… Hồng y đích thân đến đây, tra tấn cha bằng cách nhắc lại quá khứ của cha? Tôi không thể tin được.
- Ồ không, ông ta không hành động trực tiếp. Ông ta cử người Tây Ban Nha, người đã thực hiện việc tìm kiếm các hồ sơ lưu trữ ở Viên cho ông ta. Lúc này người đó đang ở Roma, mấy hôm nay anh ta đến gặp tôi hai lần, anh ta…anh ta tra tấn tôi. Anh ta mặc áo linh mục: nhưng nếu đó thực sự là một linh mục của Jesus- Christ, thì cha Nil ạ, điều đó có nghĩa là Giáo hội đã kết thúc rồi. Anh ta không có tâm hồn, không có tình cảm của con người.
Im lặng một lúc lâu, và cha Nil để Breczinsky nói tiếp:
- Cha hiểu tại sao tôi đã giúp cha Andrei, tại sao tôi giúp cha. Cũng như cha, ông ấy đã nói rằng ông ấy tìm một tài liệu quan trọng: ông ấy tuyệt đối muốn lấy cắp nó khỏi Catzinger, và đưa lại tận tay Giáo hoàng.
Cha Nil nghĩ nhanh: chưa khi nào ông nghĩ đến việc sẽ làm gì nếu tìm thấy bức thư của tông đồ thứ mười ba. Đúng là Giáo hoàng sẽ là người phán xét xem tương lai của Giáo hội có bị ảnh hưởng bởi một nội dung bức thư này không, và tùy ý sử dụng nó.
- Cha Andrei có lý. Tôi chưa biết tại sao, nhưng rõ ràng thứ tôi đã phát hiện ra là điều rất nhiều người thèm muốn. Nếu tìm lại được tài liệu đã mất từ nhiều thế kỷ nay, tôi có ý định thông báo cho Giáo hoàng và chỉ cho ngài biết vị trí của nó. Chỉ có người đứng đầu Giáo hội mới có thể là người nắm giữ bí mật này, giống như ngài đã là người nắm giữ những bí mật về Fatima. Tôi vừa biết được rằng có thể nó đang bị vùi lấp đâu đó ở Vatican: rất mong manh!
- Vatican rộng lớn lắm: cha không có chỉ dẫn nào ư?
- Chỉ có một chỉ dẫn duy nhất, rất nhỏ nhoi. Nếu đúng là nó đã đến Roma, theo như tôi nghĩ, thì nó phải lẫn trong những bản thảo cùng biển Chết. Vatican có thể đã tiếp nhận nó sau cuộc chiến giành độc lập của người Do Thái, vào khoảng năm 1948. Cha có ý tưởng gì về nơi cất giữ những bản thảo chưa được khai thác của người Esseni ở Qumran không?
Breczinsky đứng dậy, ông có vẻ mệt mỏi.
- Tôi không thể trả lời cha ngay được, tôi cần phải suy nghĩ. Chiều mai cha hãy đến văn phòng này gặp tôi: sẽ không có ai khác ngoài cha và Đức ông Leeland. Nhưng tôi xin cha, đừng nói với ông ấy về cuộc nói chuyện giữa chúng ta, lẽ ra tôi không nên nói với cha tất cả chuyện này.
Cha Nil trấn an ông: ông ấy có thể tin tưởng ở ông như đã tin tưởng cha Andrei. Mục đích của họ chỉ là một: thông báo cho Giáo hoàng.
/94
|