Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ đã về Thiểm Bắc thăm sư phụ hồi giữa tháng nên không có mặt trong tiệc tống hành Hãn Thanh.
Sau khi nhận chức Phó giáo chủ Thần Tiên Giáo, Hứa Hữu Tinh đã đưa phần lớn lực lượng Tây Bang đến Tung Sơn, chỉ lưu lại Trường An một số ít thủ hạ. Vì vậy, Hãn Thanh đã từ chối khi lão Hầu Gia bảo chàng mang theo môn nhân. Chàng vui vẻ nói:
- Tiểu tôn đi lần này cốt để đón người, nếu gặp cường địch thì bỏ chạy chứ không chống cự. Với cước lực của Đà nhi, chẳng ai theo kịp đâu mà gia gia phải lo lắng.
Mộ Dung Cẩn đành chịu thua, không ép buộc nữa. Nhất Bất Thông Chu Minh uống cạn chung rượu rồi tư lự bảo:
- Thanh nhi! Lão phu suy nghĩ rất nhiều vể thân phận bí ẩn của Trịnh Tiểu Thuần. Số là nước Dạ Lang đã bị Hán Võ Đế chinh phục cách nay hơn ngàn năm, chỉ còn lại bộ tộc Dạ Lang mà thôi! Bộ tộc này hiện đang cư trú ở vùng Tây Bắc Qúi Châu. Như vậy, có thể Tiểu Thuần chính là cô con gái của một tù trưởng nào đấy! Lần này Thanh nhi đi Tứ Xuyên, nếu không gặp được Trịnh cô nương thì hãy đến Qúi Châu điều tra thử xem sao!
Hãn Thanh lấy làm lạ:
- Vì sao bá phụ lại sợ rằng tiểu điệt sẽ không tìm được Tiểu Thuần?
Chu Minh thở dài:
- Quỷ Môn Quan trên đất Phong Đô chỉ là truyền thuyềt chứ không xác định ở địa điểm nào cả. Ta e rằng Thanh nhi chỉ hoài công thôi!
Hãn Thanh rất tin yêu Tiểu Thuần nên vui vẻ đáp:
- Dù Quỷ Môn Quan không có thực, nhưng chắc chắn Trịnh tỷ sẽ xuất hiện khi tiểu điệt đến Phong Châu!
Thiết Địch Thần Y Bạch Nguyên Giáp bỗng nói:
- Lão phu quan sát thấy mấy hôm nay quái mã Đà nhi có hiện tượng động dục, chắc là đã đến mùa giao phối của linh vật! Vì vậy, Thanh nhi hãy để Đà nhi lại. Lão phu sẽ tìm cách gây giống, lưu truyền dòng dõi của thần vật!
Lạc Bình và Hà Hồng Hương vẫn chưa kinh qua ân ái nên đỏ mặt thẹn thùng. Chu Minh nhân dịp này nói ngay:
- Hiện nay Thanh nhi là đối tượng truy sát của Thần Tiên Giáo, chớ nên sính cường mà khiến bao người đau khổ. Lão phu muốn ngươi cải trang rồi hãy lên đường.
Mọi người đều khen phải, khiến Hãn Thanh không thể chối từ.
Canh tư ngày hai mươi chín tháng năm. Hãn Thanh mang mặt nạ, âm thầm rời Hầu Phủ, theo đúng kế hoạch của Nhất Bất Thông. Một con tuấn mã đã chờ chàng ở ngoài cửa Tây thành.
Khi trời hửng sáng, Hãn Thanh đã rời Lạc Dương được năm chục dặm.
Giờ đây, chàng mang dung mạo của một hán tử tứ tuần hiên ngang, râu mép xanh rì, khó ai có thể nhận ra được người này chính là Tiểu Hầu Gia.
Tuy Hãn Thanh không nói ra nhưng chàng cũng hài lòng với lớp hóa trang. Trong bọc hành lý để lại Kim Thạch Sơn Trang Ngũ Đài Sơn có cả tấm áo choàng ghi lời hò hẹn của Tiểu Thuần. Chàng tin rằng Tà Tẩu đã tìm thấy, và cuộc hội ngộ ngày rằm tháng bảy với Tiểu Thuần đã bị tiết lộ.
Dung mạo giả sẽ giúp chàng thoát được mai phục của Thần Tiên Giáo, sớm hội ngộ với ái thê. Trong lúc này, đấy là việc quan trọng nhất đời chàng.
Thời gian còn khá dư giả, Hãn Thanh ung dung hòa vào dòng người trên quan đạo mà dong ruổi, bảy ngày sau đã đến Trường An. Lúc đi qua cửa Đông thành, chàng phát hiện có khá nhiều đôi mắt cú diều đang chăm chú quan sát như muốn tìm ai đó. Có lẽ họ là thủ hạ của Thần Tiên Giáo, nhưng đối phương chẳng ngờ chàng lại đi có một mình và không mang theo quái mã.
Thời buổi loạn lạc, bách tính đua nhau học võ để tự phòng thân. Do vậy, người mang đao kiếm rất nhiều. Hãn Thanh thản nhiên đủng đỉnh vào thành, tìm đến Tây Kinh Đại Tửu Lâu. Dù trong túi chàng có đến hai chục viên Tịnh Cốc Toàn Sinh Hoàn, nhưng chỉ để dành cho lúc quẫn bách. Dẫu sao, chúng chẳng thể ngon lành, đầy hương vị như những món ăn bình thường.
Trường An nằm ở bờ Nam sông Vị Thủy, có hình chữ nhật, một cạnh dài hai chục dặm, cạnh kia mười tám dặm. Trường An được chia làm ba phần:
phía Bắc là Cố Cung của nhà Đường và khu thành nội. Phía Nam là khu vực của bách tính, có mười một đại lộ từ Đông qua Tây và mười bốn đại lộ Bắc Nam, tất cả đều thẳng góc với nhau, chia thành một trăm linh tám xóm.
Tòa Tây Kinh Đại Tửu Lâu nằm trên một giao lộ lớn, chung quanh đều là cửa hiệu, lâu quán. Riêng tửu điếm, cũng đã có đến ba nơi, chính vì thế bọn tiểu nhị ra đến tận đường đón khách. Chúng khom lưng cơ hồ sát đất, miệng trơn tru như bôi mỡ, khiến ai cũng trở thành đại gia, đại nhân, công tử...
Hãn Thanh trao cương ngựa cho một gã rồi bước lên tầng hai, chọn một bàn sát lan can phía trước. Năm xưa, Mông Diện La Sát cũng từng ngồi ở đây.
Từ vị trí này, chàng có thể nhìn thấy bóng dáng hùng vĩ của tòa cổ tháp Đại Nhạn cao gần hai chục trượng. Tháp này nằm trong khuôn viên của chùa Từ én, phía Nam Trường An, gồm bảy tầng, được xây dựng vào năm thứ ba đời Đường Cao Tông. Đây là một trong những kiệt tác của nển kiến trúc cổ Trung Hoa.
Và khi nhìn lên hướng Bắc, Hãn Thanh còn được chiêm ngưỡng lẩu chuông cao mười trượng, huy hoàng lộng lẩy. Lầu chuông này nằm ở giữa thành, xây dựng vào năm Hồng Võ thứ mười bảy, đời Minh Thành Tổ.
Xa hơn nữa, về phía Đông chính là ngọn núi Ly Sơn, nơi mà Dương Qúy Phi đã từng ngâm tấm thân ngà ngọc trong nguồn nước nóng của đầm Thanh Hoa!
Lần đầu ghé qua Trường An, Hãn Thanh ngây ngất trước khung cảnh xinh đẹp, cổ kính của kinh đô nhà Đường.
Chiều dần buông, ánh tà dương nhuộm hồng ngọn núi Ly Sơn, cảnh tượng xiết bao diễm lệ. Hoàng hôn trên Ly Sơn chính là một trong bát cảnh của đất Trường An.
Hãn Thanh nhìn xuống dưới đường, chợt thấy một đoàn người ngựa toàn là đạo sĩ, đông đến hai chục người, đang hối hả đi về hướng Tây!
Đúng lúc ấy, gã tiểu nhị đứng bên bàn hỏi chàng có dùng thêm rượu thịt gì chăng. Hãn Thanh hỏi:
- Này tiểu huynh đệ, những đạo sĩ kia đang kéo nhau đi đâu vậy?
Gã tiểu nhị cười hì hì:
- Bẩm đại gia! Họ đến Trịnh Sơn Trang ở gần cửa thành Tây đế bắt quỷ đấy ạ!
Hãn Thanh nghe nhắc đến họ Trịnh, hiếu kỳ bảo:
- Sự tình thế nào, ngươi mau kể cho ta nghe thử?
Gã tiểu nhị ra vẻ bí ẩn hạ giọng:
- Bẩm đại gia! Trịnh gia trang là một nơi nổi tiếng của đất Trường An, nhờ có vườn cảnh rộng ba chục mẫu, diễm lệ phi thường. Nhưng từ nửa tháng nay, trong khu rừng Ngọc Lan phía sau vườn xuất hiện một bầy hồ ly hay ma quỷ gì đấy! Chúng liên tục quấy phá khiến Trịnh gia trang ăn ngủ không yên.
Quan quân triều đình đã lục soát từng tấc đất mà không thấy gì cả. Trịnh lão chịu thua, bày cỗ bàn ra cúng kiến, quả nhiên có tác dụng. Có điều lạ là rượu thịt đều bị ăn sạch sẽ, không chừa một miếng, và ngày nào cũng phải cúng cả.
Hãn Thanh ngắt lời gã:
- Phải chăng Trịnh lão tiếc của nên mới mời đạo sĩ đến trấn yểm?
Gã tiểu nhị nhăn nhó lắc đầu:
- Trịnh lão gia giàu nứt đố đổ vách, mỗi ngày một mâm cơm cúng quỷ thần nào có đáng gì? Tiếc rằng bọn chồn, quỷ kia lại mò mẫm bọn tỳ nữ trong trang. Trịnh lão lo cho ái nữ nên mới quyết tâm diệt trừ. Mấy ngày trước, bọn đạo sĩ lập đàn trấn quỷ, bị bốn con ma kia đuổi chạy. Hôm qua, Trịnh lão gia đã đích thân đến Hàng Ma Đạo Quán cách đây năm chục dặm để mời Hàng Ma Chân Nhân vể bắt yêu quái. Có lẽ đêm nay Chân Nhân sẽ ra tay!
Hãn Thanh mỉm cười bảo gã tính tiền. Còn dư hơn lượng bạc, chàng tặng cho gã tiểu nhị rồi nói:
- Ta muốn được xem cảnh Hàng Ma Chân Nhân tróc yêu, mong tiểu huynh đài chỉ dùm đường đến Trịnh gia trang!
Dĩ nhiên gã mau mắn vẽ đường. Hãn Thanh đi về hướng Tây, ba khắc sau đã đến Trịnh gia trang. Trời đã tối mịt nên chẳng thể nào thưởng thức được cảnh đẹp của nơi này!
Hãn Thanh thấy mé Đông có con đường nhỏ chạy song song với gia trang, liền cho ngựa rẽ vào. Được hơn trăm trượng, nghe bên trong có tiếng chiên mõ, chàng dừng lại, cột ngựa vào một gốc cây, rồi tung mình lên đầu tường.
Ngay cuối khu vườn cảnh, trước khu rừng Ngọc Lan cao vút, rậm rạp là đàn giải oan, trấn yêu.
Pháp đàn dựng bằng gỗ, chỉ cao gần trượng, trên bày hương án, cờ xí la liệt. Hãn Thanh nhảy xuống, nương theo bụi hoa, non bộ mà tiến sát vào.
Hàng Ma Chân Nhân đang cầm kiếm gỗ múa may, tay tả rung chuông đồng leng keng, miệng lẩm bẩm niệm chú.
Chân Nhân tuổi độ lục tuần, râu năm chòm oai vệ, mắt sáng như sao.
Thanh kiếm gỗ vẽ vào không khí những đường ngoằn ngoèo khó hiểu, nhưng kiếm kình rít lên vo vo, chứng tõ công lực của lão khá thâm hậu.
Thỉnh thoảng, Hàng Ma Chân Nhân đốt những đạo bùa vẽ bằng máu gà trống, ném về phía khu rừng. Mảnh giấy nhẹ nhàng kia bay khá xa khiến Hãn Thanh rất khâm phục.
Còn mười tám tiểu đạo sĩ đứng quanh pháp đàn luôn miệng đọc một đoạn trong kinh Thái Thượng Cảm Þng Thiên của đạo giáo.
Bỗng hàng cây Ngọc Lan ở bìa rừng rung động mãnh liệt và vọng ra tiếng cười rúc rích như chồn kêu. Sau đó bọn yêu quái ném ra những trái tròn, nhỏ hơn nắm tay, về phía pháp đàn. Chúng ném như mưa và lực đạo cực kỳ mạnh mẽ, khiến đám tiểu đạo sĩ đau đớn bỏ chạy cả về phía sau.
Hàng Ma Chân Nhân vẫn kiên cường múa tít thanh mộc kiếm chống đỡ, đánh bạt những vật lạ kia. Một quả văng gần Hãn Thanh. Chàng nhặt lên, mỉm cười nhận ra đây là trái lựu.
Hạ đến, lựu trong vườn trổ hoa đỏ rực và kết trái đầy cành, bọn yêu quái biết chủ nhân lập đàn tróc yêu nên đã hái sẵn làm vũ khí.
Hàng Ma Chân Nhân chỉ chịu được nửa khắc đã phải nhảy xuống, vì nước lựu chín dính đầy mặt mũi và y phục. Lão giận dữ quát vang:
- Té ra chúng bay là người chứ không phải yêu ma! Mau xuất hiện cùng bần đạo tỷ thí vài chiêu.
Một tiểu đạo sĩ trao kiếm thép cho sư phụ, vì kiếm gỗ đào yếu ớt chỉ dành cho ma quỉ.
Bản thân mười tám tiểu đạo sĩ rút kiếm, bày trận sau lưng Chân Nhân.
Đám gia đinh của Trịnh gia trang cũng thủ sẵn gậy gộc, sẵn sàng tham chiến. Đuốc thông cháy rừng rực, thắp sáng cả khu rừng.
Hàng Ma Chân Nhân và các đệ tử tiến lên được vài trượng thì bọn yêu tinh lộ diện. Bốn bóng trắng toát từ trên cây sa xuống gốc, và lướt đến như gió thoảng. Hãn Thanh kinh hãi nhận ra chúng đang thi triển ®o ®nh thân pháp của U Linh Cốc!
Lúc chưa rời Hầu Phủ, Hãn Thanh đã tò mò tìm hiểu công phu kỳ diệu này của đám Hồ Tốt. Họ vui vẻ giảng giải khẩu quyết vì chàng là Quỷ Hồ Thiếu Tổng Giám. Hãn Thanh nắm được tinh túy của tuyệt kỹ nhưng không thể thực hiện. Thứ nhất là chàng chưa hề luyện Ma Hồ Chân Khí. Thứ hai, chàng thiếu những viên linh đan Hư Cốt, làm cho xương cốt nhẹ dần đi.
Người của U Linh Cốc đã phải uống trong mười năm mới luyện thành pho khinh công ®o ®nh!
Tuy nhiên, Hãn Thanh nhờ thuộc làu khẩu quyết nên Hãn Thanh có thể đoán được phương vị di chuyển của những người thi thố thân pháp này.
Nhắc lại, bốn bóng trắng kia xông vào phe đối phương, miệng cười ma quái, song thủ liên tục vỗ ra những đạo chưởng kình mãnh liệt. Một bóng chặn đánh Hàng Ma Chân Nhân, ba bóng còn lại quần thảo với các tiểu đạo sĩ.
Thân hình họ phiêu phưởng trong lưới kiếm, nhởn nhơ như bóng u linh.
Chưa đầy nửa khắc đã đánh cho mười tám tiểu đạo sĩ lăn nhào, kêu cha gọi mẹ nhưng không ai chết cả!
Khi đã rảnh tay, cả bốn bóng trắng liên thủ vây đánh Hàng Ma Chân Nhân. Dù kiếm thuật của lão đạo sĩ rất cao siêu nhưng không sao địch lại, khi đối phương có thân pháp ẩn hiện như ma muội. Nếu lão cố tình đả thương một bóng thì cũng bỏ mạng vì ba bóng kia. Đấu pháp liên hoàn của bốn con ma này xem ra rất kín đáo nhịp nhàng!
Hàng Ma Chân Nhân như con chuột bị lũ mèo vờn, mồ hôi toát ra như tắm. Lão giận dữ gầm lên, bỏ trống hậu tâm, lao thẳng vào bóng trắng trước mặt.
Hành động này rất nguy hiểm vì kẻ địch có thân pháp nhanh như chồn, tất sẽ kịp thời đánh vào sau lưng Chân Nhân, tạo nên thế lưỡng bại câu thương. Chẳng qua cái thanh danh đã làm hại người võ sĩ, nên Chân Nhân mới hồ đồ như vậy.
Xét ra, bản lãnh của lão cao cường hơn bất cứ ai trong bốn kẻ địch. Vì vậy, khi Chân Nhân đã liều mạng thì bóng trắng trước mặt khó toàn mạng.
Kiếm quang lấp loáng tỏa rộng, ập đến khiến đối phương khiếp sợ kêu lên:
- Ái mẹ Ơi!
Gã đã cố vung chưởng chống đỡ, nhưng không cản được bước tiến của Hàng Ma Chân Nhân. May thay, trong lúc nguy cấp, gã nhoài người xuống đất, lăn tròn trên cỏ nên chỉ bị thương nhẹ Ở lưng.
Hàng Ma Chân Nhân cũng thừa dịp này lao thẳng về phía trước, vừa kịp lúc ba đạo chưởng kình giáng vào lưng. Dù vậy, thân hình lão cũng bị đẩy văng xa hai trượng, máu miệng ộc ra ướt cả đạo bào.
Ba con ma kia không đuổi theo mà dừng lại cạnh đồng bọn xem xét. Giờ đây Hãn Thanh và mọi người mới thấy rõ chúng trùm kín trong một tấm vải trắng rất lớn, chỉ khoét hai lỗ nơi đôi mắt.
Hàng Ma Chân Nhân chỉ bị thương nhẹ, gượng đứng lên nói với Trịnh trang chủ:
- Trịnh lão thí chủ! Bần đạo đã tận lực nhưng không sao địch lại bốn cao thủ kia. Chúng là người chứ chẳng phải ma đâu!
Gã bị thương bỗng ngồi bật dậy cười rúc rích:
- Bọn ta là chồn tinh đây! Nếu Trịnh lão đầu không chịu dâng bốn tỳ nữ để hầu hạ anh em chúng ta thì đừng hòng sống sót!
Gã đứng lên, cùng ba tên kia lướt đến. Thân hình chúng lơ lửng như không chạm đất. Hai tay dang rộng khiến ai cũng kinh hoàng. Trịng trang chủ cùng gia quyến, gia nhân quỳ cả xuống lạy như tế sao, khóc lóc inh ỏi. Hàng Ma Chân Nhân hậm hực dậm chân, kéo đệ tử đào tẩu cả.
Khi bốn con chồn tinh còn cách đám người tội nghiệp kia sáu trượng, bỗng có tiếng cười khanh khách:
- Bọn hồ ly kia khoan hãy đắc ý, còn có ta là Trung Nguyên đại pháp sư đây!
Và từ sau một bụi hoa, Hãn Thanh lướt ra, đứng đối diện với bốn con ma giả mạo.
Chúng chẳng nói chẳng rằng, ập đến tấn công luôn. Hãn Thanh ung dung dở phi Cửu Cung Thần Thức, quyền cước thoát ra liên miên bất tuyệt, tung hoành trong vòng vây. Bọn này xử dụng những chiêu đầu trong pho ®o ®nh chưởng pháp, trong khi Hãn Thanh đã luyện ba chiêu cuối cùng, biết rõ lộ số toàn pho. Vì vậy, chiêu của chàng vô cùng chuẩn xác, khiến bốn gã trúng đòn liên tục, thét lên oai oái. Chúng cố vận dụng ®o ®nh thân pháp đến mức chót mà cũng vô hiệu. Chỉ sau nửa khắc, Hãn Thanh lột phăng được bốn mảnh vải trắng, khiến đối phương hiện nguyên hình là những hán tử tuổi trên ba mươi, dung mạo ngây ngô, chất phác.
Hãn Thanh tung một loạt kỳ chiêu dồn đối phương vào đúng bộ vị rồi xuất chiêu Thập Phương Cam Lộ. Thân hình chàng xoay tít như chong chóng, song thủ chập chờn phất vào huyệt kỳ môn và cương môn trên sườn phải của bốn hán tử. Tuy bàn tay chàng còn cách da thịt họ ba gang tay, nhưng từ đầu ngón trỏ và giữa lại âm thầm xạ ra hai đạo chỉ kình, bắn thẳng vào mục tiêu.
Cách không chỉ lực còn khó luyện hơn chưởng lực. Sau khi ăn được Hồng Sắc Mãng Xà, Hãn Thanh mới đạt được chút thành tựu như thế này! Chỉ phong không đủ sức đả thương da thịt, nhưng nếu trúng huyệt đạo thì tác dụng rất khả quan!
Hai huyệt trên đều thuộc kinh túc quyết âm can nên chân hữu các hán tử nhũn ra, ngã lăn xuống đất.
Chúng gượng ngồi lên, lạy lục van xin:
- Mong đại hiệp tha mạng! Bọn tiểu nhân chỉ trêu ghẹo, quậy phá chứ không hề hãm hại ai cả!
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Bọn ngươi thuộc Đường nào trong ém Dương Đạo?
Bốn gã xanh mặt nhìn nhau. Gã lớn tuổi nhất run rẩy đáp:
- Bộn tiểu nhân là Quỷ Tốt của Hồng Đường, thủ hạ của Nhị Phán Quan Hồ Vượng!
Hãn Thanh gậ gù hỏi tiếp:
- Vì sao các ngươi lại rời U Linh Cốc đến đây giả ma giả quỷ, nhũng nhiễu lương dân? Chiếu giáo qui, tội này đáng chém!
Bốn gã Quỷ Tốt kinh hãi kêu oan:
- Bọn tiểu nhân rời cốc cũng vì bắt buộc! Túi không tiền nên đành phải hí lộng để kiếm chén cơm ăn! Mong đại hiệp tha mạng!
Bỗng một tên nói:
- Nhưng đại hiệp là ai mà lại biết bọn ta là người ém Dương Đạo?
Hãn Thanh không đáp mà cau mày:
- Chảng lẽ U Linh Cốc đã xảy ra chuyện gì nên bọn ngươi mới bị bắt buộc phải rời khỏi nơi ấy?
Gã Quỷ Tốt có gương mặt sáng sủa nhất buồn rầu đáp:
- Quả là có việc hệ trọng, nhưng bọn tiểu nhân không thể tiết lộ cho người ngoài biết được!
Hãn Thanh suy nghĩ rồi nói:
- Ta cũng là người thân của U Linh Cốc. Nhưng ở đây nói chuyện bất tiện, các ngươi hãy theo ta đi nơi khác!
Chàng giảu huyệt cho họ rồi quay sang nói với Trịnh trang chủ:
- Bốn con hồ ly này đạ bị tại hạ chế phục, mang về núi. Chỉ mong trang chủ giữ kín chuyện hôm nay cho. Ai hỏi xin cứ nói rằng chúng tự bỏ đi.
Trinh lão mừng như sống lại, vái dài:
- Cảm tạ tráng sĩ đã thu phục bọn yêu tinh. Lão phu xin hứa sẽ thủ khẩu như bình, và dâng tặng ngàn lượng bạc để đền ơn.
Hãn Thanh xua tay:
- Tại hạ không dám nhận đâu! Nếu được, xin trang chủ ban cho bốn con tuấn mã để tại hạ đưa bọn chồn tinh này đi!
Nãy giờ, mọi người đều đứng rất xa nên không nghe thấy những lời đối đáp của chàng với bốn gã Quỷ Tốt. Họ cứ đinh ninh chúng là yêu quái chứ chẳng phải người. Trịnh lão muốn tống khứ cho nhanh nên quát gia nhân đóng yên bốn con ngựa, chỉ lát sau đã sẵn sàng.
Hãn Thanh bảo bọn Quỷ Tốt dắt ngựa đi ra cổng chính của trang, còn chàng vượt tường tìm lại tuấn mã của mình.
Năm người đi vài dặm đã đến khu chợ Tây của thành Trường An. Cửa thành rộng mở dù đã cuối canh một. Khu vực này rất phồn thịnh vì có bến dò vượt sông Vị để đi Lan Châu. Chợ cửa Tây có vẻ sầm uất nhộn nhịp hơn cả chợ Đông.
Trước tiên Hãn Thanh dắt bốn gã Quỷ Tốt vào tiệm bán y phục may sẵn, bảo chúng tùy ý họn lựa. Kế bên là tòa Tây Mộn Đệ Nhất Điếm sang trọng, và đối diện là Tây Môn Đại Tửu Lâu. Có lẽ hai cơ ngơi này có cùng một chủ nhân!
Mua quần áo xong, Hãn Thanh ghé vào khách điếm đặt ba phòng thượng hạng, đồng thời nhờ tiểu nhị sang tửu lâu gọi dùm một mâm thịnh soạn.
Khi họ tắm gội xong thì cỗ bàn đã sẵn sàng. Hãn Thanh mỉm cười bảo:
- Chắc các ngươi đều đói bụng, cứ tự nhiên đừng khách sáo!
Bốn gã Quỷ Tốt dù rất thèm thuồng nhưng nhìn nhau chứ không dám cầm đũa. Gã lớn tuổi nhất có đôi mày đen đậm ngập ngừng nói:
- Mong đại hiệp cho biết lai lịch, nếu không anh em tiểu nhân chẳng bụng dạ nào mà ăn uống cả!
Hãn Thanh vuốt mặt, để lộ chân diện mục và nói:
- Ta là Mộ Dung Hãn Thanh, trượng phu của Tề Đạm Vân đây!
Bốn gã vội rời ghế, sụp xuống thi đại lễ:
- Chúng đệ tử tham kiến Thiếu Tổng Giám!
Chàng bảo chúng an tọa và báo danh. Gã mày rậm kính cẩn nói:
- Đệ tử là Đặng Thám. Gã mắt to là Quách Phủ. Gã tai vễnh là Lộ Vi Nhân. Còn gã hay cười kia là Mễ Bất Thông. Gọi chung là U Linh Tứ Hộ Vệ, phụ trách canh phòng U Linh Cốc!
Hãn Thanh gật đầu:
- Như thế đã rõ! Các ngươi cứ ăn cho no rồi hãy đàm đạo sau!
Thế là bốn gã Quỷ Tốt khua đũa không hề khách khí. Hãn Thanh mới ăn hồi chiều nên không đói, chỉ nhấm nháp chút đỉnh để đưa cay.
Chàng âm thầm quan sát sắc diện U Linh Tứ Hộ Vệ, nhận ra họ đều rất thật thà, mộc mạc. Cuộc sống tu hành trong U Linh Cốc đã khiến họ không bị xã hội làm u ám cái tâm lương thiện! Về võ công xem ra họ khá hơn đám Hồ Tốt đang ở trong Hầu Phủ.
Tứ Vệ Mễ Bất Thông vỗ bụng cười hì hì:
- Chưa bao giờ đệ tử được ăn ngon như thế này cả!
Khu rừng chung quanh U Linh Cốc quả không thiếu thú rừng, nhưng thiếu gia vị và tay nghề nấu nướng thì chẳng thể ngon lành được.
Ba gã kia cũng đã buông đũa, nâng chén rượu phần thơm phức, hít hà mãi mới uống.
Nhất Vệ Đặng Thám nhớ đến nghĩa vụ, liền hắng giọng kể:
- "Bẩm Thiếu Tổng Giám! Sau khi người rời khỏi U Linh Cốc được hai hôm thì Hải Hà Tiên Tử đích thân đến xin bái kiến Tề Tổng Giám và lục vị phán quan. Bà ta mang theo rất nhiều châu báu, vàng bạc để làm lễ vật, nhờ bổn Cốc nối lại dùm bàn tay hữu. Ngay đêm ấy, Tiên Tử còn âm thầm đột nhập ngọa phòng của Tổng Giám để hiến thân. Bọn đệ tử phát hiện ra, liền bám theo, nhưng thấy Tổng Giám không từ chối nên cũng đành im lặng.
Đêm hôm sau, Tiên Tử lại đến phòng riêng của Hồng Đường phán quan Hồ Vượng. Nhị phán quan chính là Thần Y của U Linh Cốc, có tài nối xương, đắp thịt rất thần diệu. Hành vi này đã khiến bọn đệ tử nghi ngờ nên bám sát để theo dõi. Nào ngờ lại được chứng kiến cảnh dâm loạn kinh người. Mị lực của Tiên Tử đã khiến Hồ phán quan mê muội, cất lời thề sẽ phục vụ bà ta suốt đời.
Bọn đệ tử đều chưa vợ vì trong Cốc không đủ nữ nhân, cho nên đã không trấn tĩnh nổi. Tam đệ Lộ Vi Nhân bị kích động, thở mạnh, bị phát hiện. Biết Nhị phán quan là người tàn nhẫn, võ công chỉ thua mình Tổng Giám, tất sẽ không để nhân chứng sống sót. Trong khi ấy, Tổng Giám lại tọa quan ba ngày, không thể gặp được. vì vậy, bọn đệ tử đành cấp tốc ly khai U Linh Cốc để bảo toàn mạng sống.
Không hành lý, không tièn bạc, lần mò mãi mới tình cờ đến được Trịnh gia trang này. Do đói khát nên đành phải giả ma để kiếm miếng ăn." Hãn Thanh phì cười:
- Thế còn việc mò mẫm bọn tỳ nữ thì sao?
Tam Vệ Lộ Vi Nhân đỏ mặt:
- Thiếu Tổng Giám lượng thứ cho! Từ ngày chứng kiến cảnh hành lạc của Hải Hà Tiên Tử với Nhị phán quan, bọn đệ tử luôn bị ám ảnh, không còn giữ gìn được đạo tâm nữa.
Hãn Thanh mỉm cười độ lượng:
- Không sao! Đó là bản năng tự nhiên của con người. Sau này theo ta, sẽ có dịp hưởng lạc thú nhân gian. Đâu đâu cũng có những nơi gọi là kỹ viện để nam nhân giải tỏa tâm sự.
Bốn gã Quỷ Tốt nghe nói được chàng cho tháp tùng, mừng rỡ quỳ cả xuống:
- Bọn đệ tử xin hết dạ hầu hạ Thiếu Tổng Giám!
Chàng đỡ họ lên rồi nói:
- Ta đang trên đường đi Tứ Xuyên đón chuyết thê, xong việc sẽ đến U Linh Cốc minh oan cho các ngươi. Từ nay, cứ gọi ta là công tử, xưng là thuộc hạ.
Hồng Đường Tứ Vệ hân hoan vâng dạ, đua nhau rót rượu ra mắt. Hãn Thanh chợt nhớ ra:
- Này Tứ Vệ! Hôm ấy ta bị Tổng Giám đả thương, hôn mê bất tỉnh.
Nhưng vì sao mãi bảy ngày sau mới rời khỏi U Linh Cốc?
Nhị Vệ Quách Phủ đảo đôi mắt to tròn tinh anh, ngập ngừng đáp:
- Thuộc hạ tình cờ biết được ẩn tình ấy. Số là sau khi công tử ngất đi, có đến năm người trong hội đồng phán quan đòi bắt giam công tử để đổi lấy họa đồ Kim Ngọc Bồng Lai Đảo của Hầu Phủ. Nhị phán quan là người khởi xướng việc này. Họ tranh cãi suốt mấy ngày trời, cuối cùng Tề Tổng Giám phải dùng đến ém Dương Lệnh Kỳ mới trấn áp được năm vị phán quan kia. Cũng nhờ có Đại phán quan và Lục phán quan hỗ trợ, nếu không thì Tổng Giám cũng khó thắng được.
Hãn Thanh cau mày:
- Còn việc Tề Đạm Vân không được đi theo ta là vì lý do gì?
Tứ Vệ Mễ Bất Thông cũng muốn góp công. Gã cười toe toét nói:
- Bẩm công tử! Mười một năm trước, Tề tiểu thư được hứa gả cho con trai của Nam Thiên Quỷ Hồ Tổng Giám ở Tứ Xuyên. Sau Tề Đạm Vân phạm tội, bị lưu đày đến Yến Sơn nên hôn sự không thành. Nay tiểu thư được gã cho công tử thì Tề Tổng Giám phải trả lại sính lễ cho Nam Thien Tổng Giám, rồi mới cho nàng về làm dâu họ Mộ Dung!
Hãn Thanh giật mình:
- Té ra ém Dương Đạo lại có đến hai phái Bắc Nam ư?
Nhất Vệ ứng tiếng:
- Thưa phải! Nam Thiên Tổng Giám tên gọi Tư Không Nhạ, cai quản giáo chúng Tứ Xuyên và các tỉnh phía Nam Trường Giang.
Hãn Thanh bỗng linh cảm rằng Tiểu Thuần có liên quan đến tà phái này, chàng vội hỏi:
- Chư vị có biết trọng địa của họ Ở đâu không?
Chàng thất vọng khi bốn gã Quỷ Tốt đều lắc đầu!
Sáng hôm sau, Hãn Thanh cùng U Linh Tứ Vệ rời thành Trường An, đi chếch xuống hướng Tây Nam để đến Hán Trung, rồi từ đấy sang đất Tứ Xuyên! Cuối tháng sáu, bọn Hãn Thanh vào thành Hán Trung. Trời đã chiều nên họ ghé ngang khách điếm. Tắm gội, ăn uống xong, Hãn Thanh cười bảo:
- Đối diện khách điếm này là Lan Hương kỹ viện, các ngươi hãy sang đấy mà hưởng lạc!
Chàng phát cho mỗi gã nén vàng hai chục lượng, Tứ Vệ khoan khoái đi ngay.
Hãn Thanh là người cương cường nên đã cố tìm cách trấn áp lữa dục trong lòng. Ngay trước hai tuyệt thế mỹ nhân là Ngũ Đài Ma Cơ, Viên Nguyệt Hằng Nga chàng cũng chẳng động tình. Chàng cố chờ đến lúc rước được Trịnh Tiểu Thuần và Tề Đạm Vân về Lạc Dương tổ chức đại hỷ. Hãn Thanh cảm thấy có lỗi với Tiểu Thuần khi vương vấn thêm đến ba giai nhân nữa.
Chàng sai tiểu nhị dọn bàn nhỏ nơi lan can lầu để ngắm cảnh trời sao và cảnh hoa lệ trong thành. Hán Trung nằm ở giữa bờ Bắc sông Hán Thủy, là cửa ngõ vào đất Ba Thục nên cực kỳ sầm uất. Phù sa sông Vị và sông Hán đã bồi đắp cho đồng lúa bạt ngàn chung quanh thành. Hàng hóa, thổ sản của vùng phía Nam Thiểm Tây và Bắc Tứ Xuyên đều tập trung tại đây, để đưa xuống Giang Nam và ra cửa biển.
Do kinh tế phồn vinh nên phố phường tấp nập khách phong lưu, tiếng cười nói đàn hát rộn ràng dưới ánh đèn nến sáng rực.
Hãn Thanh ngồi nhâm nhi chén rượu, hồi tưởng đến quá khứ. Hình bóng mẫu thân hiện về khiến tim chàng như thắt lại! Rồi đến những ngày học nghệ bên bờ Hồ Đại Lai, chàng bỗng nhớ sư phụ vô vàn. Kỷ niệm về Tiểu Thuần cũng hiện lên, nổng thắm như mới hôm qua. Chàng miên man suy nghĩ mãi cho đến tận cuối canh hai.
Chiếc đèn lồng trên cột lan can đã tắt lịm. Hãn Thanh chẳng buồn gọi tiểu nhị, ngồi im trong bóng tối.
Bỗng chàng nhận ra trên nóc dãy nhà đối diện, cách đấy chừng chục căn, có bóng đen lướt nhanh, trên vai là một người áo trắng, tóc lất phất buông dài.
Đồng thời, từ nơi gã chui lên vang dậy tiếng người la hét:
- Bắt dâm tặc!
Hãn Thanh chụp ngay lấy chiếc đĩa đựng lạc rang thủ sẵn. Khi gã áo đen kia lướt ngang qua nóc nhà trước mặt, chàng vận toàn lực ném mạnh chiếc đĩa. Hãn Thanh học nghề ám khí từ nhỏ nên thủ pháp rất chuẩn xác. Chàng sợ tổn thương nạn nhân nên nhắm ngay chân gã hắc y. Chiếc đĩa bay đi như ánh sao băng, cắm vào bắp chân trái đối phương. Gã dâm tặc đau đớn rú lên, buông rơi thiếu nữ, lảo đảo chạy tiếp, lát sau mất hút.
Thiếu nữ kia lăn tròn trên mái ngói, nhưng không rơi xuống đất vì bị tấm bảng gỗ vẽ chiêu bài Lan Hương kỹ viện cản lại. Hãn Thanh đã tính đến việc này khi hạ thủ.
Toán người nhà của nạn nhân đã chạy đến, mừng rỡ hò nhau bắc thang đưa người xuống.
Thế mà cuộc hỗn loạn này cũng không phá vỡ giấc vu sơn của U Linh Tứ Vệ. bốn gã vẫn miệt mài truy hoan, chẳng chịu về.
Hãn Thanh tủm tỉm cười, trở vào phòng đi ngủ trước. Chàng hài lòng khi cứu được người, nhưng không ngờ rằng mình vừa gieo mầm tai họa ở tương lai.
Mãi gần sáng, Hãn Thanh chợt tỉnh giấc vì tiếng lục đục ở hai phòng bên cạnh. Té ra bốn gã Quỷ Tốt đã về!
Hãn Thanh ngủ thêm một lúc, ngồi dậy tọa công đến tận cuối giờ Thìn.
Chàng gọi Tứ Vệ dậy ăn sáng rồi lên đường.
Xem ra bản lãnh bọn kỹ nữ rất lợi hại nên bốn gã Quỷ Tốt uể oải, mệt mỏi như vừa trải qua một trận tử chiến.
Chúng đỏ mặt thẹn thùng, không dám nhìn thẳng vào mắt Hãn Thanh.
Nhưng khi ra khỏi cửa Nam thành, Tứ Vệ đã cười nói, kể lại thành tích đêm qua. Tất nhiên, ai cũng khoe rằng mình thần dũng vô song, liên tiếp phá qua, đạp lũng khiến bọn kỹ nữ phục lăn.
Tam Vệ Lộ Vi Nhân hiu hiu tự đác nói:
- Lần sau tiểu đệ phải gọi một lượt hai cô mới xứng tay!
Nhị Vệ Quách Phủ cười mỉa:
- Lạ thực! Thế mà đêm qua ta nghe phòng ngươi im ắng như tờ, mới giữa canh ba đã nghe tiếng ngáy vang.
Họ Lộ ngượng ngùng:
- Nhị ca lầm rồi! Đấy là ả kỹ nữ kia ngáy chứ đâu phải tiểu đệ!
Tứ Vệ Mễ Bất Thông cười hì hì:
- Hay thực! Tam ca thượng mã cả đêm mà nàng ta vẫn ngủ say được, quả là quái sự! Té ra ả kỹ nữ kia bản lãnh tuyệt luân, vừa hành nghề vừa ngủ để dưỡng sức!
Cả bọn cười phì, còn Lộ Vi Nhân đỏ mặt tía tai, không dám khoác lác nữa.
Năm người đến bến đò sông Hán, lên thuyền sang bờ Nam, cơn mưa hạ khiến trời u ám, ánh dương quang lịm tắt. Gió mưa làm mặt sông dựng sóng, và lòng người thêm buồn vì nhớ đến cố nhân. Năm xưa, Hãn Thanh quen với Tiểu Thuần cũng bởi một cơn mưa mùa hạ thế này. Hãn Thanh nghe lòng buồn vời vợi, khe khẽ ngâm nga:
Mưa rơi lớp lớp sông dài Gió vỗ sóng nước, u hoài lòng ta Biệt ly ngàn dặm chia xa Vó câu khấp khểnh gian hà ngược xuôi Nhớ xưa đường cũ sánh đôi Nay mưa, chiếc bóng ướt môi lạnh lùng Tìm nhau cho vẹn tinh chung Quỷ Môn đâu tá, bóng hồng gặp chăng?
Chàng luôn lo lắng không tìm ra Quỷ Môn Quan chỉ có trong thuyết kia nên tức cảnh sinh tình, làm thơ nói lên tâm sự.
Đò cặp bờ Nam thì cơn mưa cũng tạnh. Bọn Hãn Thanh thúc ngựa phi mau, năm ngày sau chỉ còn cách thành Quảng Nguyên vài mươi dặm. Đây là giao lộ với đường từ Bảo Kê đi Thành Đô, nên khách thương hồ tấp nập, xe ngựa hàng đoàn. Hãn Thanh phải cho tuấn mã đi chậm lại, đồng hành với một toán lữ hành.
Chàng ngạc nhiên khi thấy có một hán tử áo choàng trắng, cỡi lạc đà chứ không phải ngựa. Gã có vóc dáng tương tự như Hãn Thanh, gương mặt rắn rỏi, vuôn vức, tuổi độ bốn mươi. Lủng lẳng bên hông gã là một thanh đoản đao, vỏ nạm châu báu sáng ngời.
Gọi là đoản đao nhưng thực ra nó cũng dài bằng trường kiếm, vì trường đao có kích thước đến một trượng đời Đường (khoảng cm) nặng năm mươi cân. Trường đao hay đại đao cán dài là vũ khí trong quân đội, khách võ lâm ít ai dùng đến.
Đoản đao thường chỉ sắc một bề, sống dày, nên gọi là đơn đao. Nếu lưỡi hơi cong hơn bình thường thì thuộc loại loan đao. Còn có một loại đao hình kiếm bản lớn, thẳng, mũi sắc cả hai cạnh nhưng không thông dụng.
Như vậy, xét theo hình dáng vỏ đao thì gã bạch y cỡi lạc đà kia xử dụng loan đao. U Linh Tứ Vệ chưa hề thấy qua loài vật đặc biệt của sa mạc, nên chỉ trỏ bàn tán xôn xao. Hãn Thanh bèn giải thích:
- Tên của con thú ấy là Lạc Đà, là loài duy nhất có thể đưa người ta vượt sa mạc. Nó có thể nhịn khát nửa tháng mà không chết, và khi gặp nước nó uống một lần bốn năm đấu mới no.
Tam Vệ Lộ Vi Nhân thắc mắc:
- Bẩm công tử! Sao con vật này lại có lông trắng?
Chàng cười đáp:
- Đây là giống Bạch Đà Tây Vực rất quý hiếm. Tuy thấp lùn, bước nhỏ nhưng sức đi ngàn dặm, bền bỉ phi thường.
Hãn Thanh đi sau mấy trượng, lại không nói lớn, thế mà hán tử nghe thấy, quay lại nhìn chàng. Đôi mắt gã sáng rực và lạnh lẽo nhu băng. Tuy nhiên, gã chẳng nói gì, thúc Bạch Đà tăng tốc độ bỏ rơi đoàn người.
Trung Hoa ngày xưa có đến hai phần ba diện tích là núi rừng, nên đi đâu cũng gặp. Hai bên đoạn quan đạo phía trước là cánh rừng thưa, vệ đường lau lách mọc đầy nhờ mùa hạ.
Hán tử Tây Vực kia phi rất nhanh, nên cách xa Hãn Thanh hàng trăm trượng. Nhưng gã vừa đến khúc giữa rừng, liền lọt vào ổ mai phục, trường tiễn bay veo véo, phủ kín toàn thân.
Hán tử áo trắng vừa nghe tiếng dây cung bật đã kịp rút đao múa tít, tạo thành màn lưới thép hộ thân.
Bạch Đà chạy thêm vài trượng, khuỵu xuống vì hai vó sau bị trúng tên.
Hán tử bạch y tung mình rời yên, giận dữ quát vang như sấm:
- Bọn cường đạo khốn kiếp!
Lúc này các cung thủ đã thôi không bắn, nhảy ra vây chặt đối phương.
Đồng thời có tiếng quát ghê rợn:
- Mộ Dung Hãn Thanh! Phen này ngươi phải đền mạng cho con trai ta!
Hãn Thanh đã đến đầu rừng chứng kiến mọi việc. Chàng thở dài hối tiếc cho gã cỡi lạc đà. Chiếc áo choàng trắng thấm nước mưa, rũ xuống che mất cái bứu nhỏ của Bạch Đà, nên bọn Thần Tiên Giáo đã ngộ nhận gã là chàng!
Hán tử Tây Vực gầm lên:
- Lão nói nhăng gì thế? Ta vừa vào đến Trung Nguyên, làm gì có thù oán với ai?
Gã huýt sáo bảo Bạch Đà gượng chạy về phía sau, rồi vung đao tấn công liền. Đối tượng của gã chính là Kim Thạch Tà Tẩu Mộc Tiểu Luân.
Từ ngày bị Hãn Thanh hủy mất một mắt và tay cầm kiếm, võ công Tà Tẩu chỉ còn có hai phần. Mối hận thù chồng chất khiến lão căm hờn Hãn Thanh đến tận xương tủy. Tìm đến Hầu Phủ thì không được, vì doanh trại của Tổng Binh Lạc Dương ở gần đấy. Thế nên lão xung phong đi Tứ Xuyên chạn đường Tiểu Hầu Gia!
Thấy hán tử áo trắng kia cỡi một con vật có đầu của lạc đà, lại phi nhanh như muốn tránh mai phục. Tà Tẩu vội cho đội cung nỏ hạ thủ ngay. Lão quan niệm rằng thà giết lầm còn hơn bỏ sót. Hơn nữa, ở đất Tứ Xuyên này làm gì có ai cỡi lạc đà.
Nay biết mình lầm lẫn, Kim Thạch Tà Tẩu vô cùng bối rối. Nhưng sự việc đã lỡ, lão đành phải xuôi theo, ra lệnh cho bọn thủ hạ chặn đối phương lại.
Nhưng đao pháp của gã hán tử Tây Vực này quả là đáng sợ. Cánh tay trần của gã cuồn cuộn những bắp thịt, đường đao mãnh liệt như chẻ núi. Thanh loan đao trong tay gã lại sắc bén phi thường, lập tức chặt gãy vũ khí của hai tên giáo chúng, tiện phăng thủ cấp. Gã tả xung hữu đột trong vòng vây, liên tiếp đắc thủ, giết một hơi tám gã giáo chúng Thần Tiên Giáo.
Đứng cạnh Tà Tẩu là một lão nhân cao lớn, tóc hoa râm, râu ba chòm đen nhánh. Trán cao, mũi thẳng, miệng rộng. Nhưng sắc diện lại lạnh lùng như tạc bằng băng tuyết. Lão nhân ấy mặc trường bào tím đậm, tay cầm đao. Có vỏ bằng da cá đen nhánh. Sau khi quan sát kỹ đao pháp của hán tử Tây Vực, Tử Y lão nhân thở dài:
- Mộc lão huynh đã gây họa rồi! Gã này có lẽ là Tây Hạ Ma Đao Uông Vô Hồi, đệ tử của Tây Thiên Lão Tổ Cù Long Đỉnh!
Kim Thạch Tà Tẩu cười nhạt:
- Đã lỡ lên lưng cọp, muốn xuống cũng chẳng được! Chỉ cần giết gã rồi phi tang, ai biết đâu mà báo oán! Mong Lục lão đệ sớm ra tay cho.
Thì ra lão nhân áo tím này là Đông Nhạc Thần Đao Lục Kính Nghiêm.
Họ Lục có giao tình thâm hậu với Tà Tẩu nên đã đi theo để giúp Mộc Tiểu Luân đối phó với Tiểu Hầu Gia. Đông Nhạc Thần Đao tin rằng mình sẽ giết được Hãn Thanh, vì bảo đao của lão có từ tính rất mạnh, phá được mọi loại ám khí bằng thép.
Lục Kính Nghiêm bước ra quát lớn:
- Dừng tay!
Bọn giáo đồ lập tức nhảy lùi và Tây Hạ Ma Đao cũng đình thủ. Gã hất cao vành nón rộng, quắc mắt nhìn họ Lục rồi hậm hực:
- Bọn ngươi là cẩu tặc phương nào mà lại dở trò mai phục, ám toán một cách hạ lưu như vậy?
Đông Nhạc Thần Đao bị mạt sát thậm tệ, liền nổi nóng, không còn nghĩ đến chuyện điều đình nữa. Lão cười nhạt:
- Lâo phu không định lấy cái mạng chó của ngươi, nhưng những lời thóa mạ kia đã tước đoạt sinh cơ của ngươi rồi đấy!
Tây Hạ Ma Đao đâu biết đối phương là ai, gã đau lòng vì con vật thân yêu bị thương nên hung hãn xông vào. Đao quang xanh biếc, lấp loáng dưới ánh dương quang, chụp lấy kẻ địch.
Đông Nhạc Thần Đao vẫn tự hào mình là người dùng đao giỏi nhất thiên hạ. Thanh đao trong vỏ bay ra như ánh chớp, hóa thành ngàn bóng ảnh tím mờ. Hai thanh đao chạm nhau, tiếng thép tốt ngân dài rồi tắt lịm.
Tây Hạ Ma Đao Uông Vô Hồi nhảy lùi, vai trái và ngực phải trúng đòn, máu tuôn ướt áo. Gã nghiến răng điểm huyệt chỉ huyết rồi lại xông vào, lần này công ít thủ nhiều, đao quang liền lạc, kín đáo. Đông Nhạc Thần Đao cũng muốn tìm hiểu đao pháp Tây Vực nên không hạ độc thủ ngay, ung dung giải phá.
Chắc độc giả thắc mắc là vì sao Hãn Thanh không xuất hiện, mà nỡ để họ Uông mang họa vì mình?
Thưa không, chàng đang bận chăm sóc vết thương cho Bạch Đà.
Khi trúng tên vào hai chân sau, Bạch Đà nhờ sức khỏe phi thường nên đã gượng dậy, theo lời chủ nhân mà chạy ngược lại, để tránh xa đấu trường. Nó khập khễnh bước đi, đi đến đầu rừng thì khựng lại vì đường quan đạo đã bị chặn kín bởi xe, ngựa của khách lữ hành.
Bạch Đà sợ hãi dừng bước, kêu lên những tiếng bi thương. Hãn Thanh khẽ huýt sáo theo một âm điệu lạ tai. Bạch Đà như nhận ra người quen, nhìn chàng mừng rỡ, đuôi vẫy nhanh miệng hí nhỏ.
Hãn Thanh xuống ngựa, bước đến ôm cổ nó vuốt ve và thì thầm điều gì đó, rồi tiến hành việc trị thương. Chàng nhổ hai mũi tên ra khỏi đùi con vật, bóp nát hai viên Tịch Cốc Toàn Sinh hoàn, đắp vào vết thương. Đây là loại thuốc quý nên máu cầm ngay và cảm giác đau đớn mất dần. Hãn Thanh xé áo choàng băng chặt lại, dẫn con vật vào bóng mát bên đường. Bạch Đà tỏ lòng biết ơn bằng cách liếm tay chàng.
Hãn Thanh vừa làm vừa quan sát cuộc chiến giữa Uông Vô Hồi, thầm khâm phục đao pháp của gã. Nhưng chàng cũng nhận ra đối thủ của họ Uông là Đông Nhạc Thần Đao nhờ màn đao quang tím nhạt. Chàng biết Uông Vô Hồi không thể thoát chết, nên quyết định hành động ngay.
Hãn Thanh nói nhỏ với U Linh Tứ Vệ:
- Bọn Thần Tiên Giáo mai phục để giết ta, không ngờ lại nhận lầm người.
Các ngươi mau luồn ra phía sau, tập kích bọn giáo đồ, không được để sót một tên!
Bốn gã Quỷ Tốt hăng hái đi ngay. Hãn Thanh nói bâng quơ với đoàn ngươi:
- Trận quyết đấu này quả là ngàn năm có một, tại hạ phải đến gần để xem cho thỏa mãn.
Phàm là người học võ, ai cũng khao khát được chứng kiến những cuộc so tài như thế, do vậy, có mấy chục khách võ lâm hưởng ứng đi ngay. Họ đi theo Hãn Thanh đến sát đấu trường.
Lúc này, trên người của Uông Vô Hồi đã có thêm bốn dấu đao nữa.
Nhưng gã vẫn kiên cường lao vào địch thủ, dũng mãnh như thẩn long.
Kim Thạch Tà Tẩu và năm mươi thủ hạ siết chặc vòng vây, đứng dọc bìa rừng và chặn ngang quan đạo.
Nào ngờ, từ trên tàn cây mỗi bên có hai bóng ảnh lao xuống, chưởng kình vũ bảo kèm theo bụi trắng mờ.
Chất độc Vụ Tảo Thiên Quân là vũ khí trấn sơn của ém Dương Đạo giết người trong nháy mắt. Do đó, chỉ đợt tấn công đầu tiên, U Linh Tứ Vệ đã loại được hai chục kẻ địch.
Kim Thạch Tà Tẩu kinh hãi hét lên:
- ém Dương Đạo!
Lão đã mất gần hết võ công nên không dám sính cường, vội đào tẩu ngay, để mặc thủ hạ chết dưới tay U Linh Tứ Vệ. Thân pháp của lão vẫn nhanh nhẹn tuyệt luân, nhưng còn chậm hơn khinh công ®o ®nh.
Nhất Vệ Đạng Thám nhớ lời dặn của Hãn Thanh nên không dám để ai đào vong. Gã lập tức lao theo Mộc Tiểu Luân, chỉ vài chục trượng đã bắt kịp đối phương.
Mộc Tiểu Luân đâu ngờ ®o ®nh Thân Pháp lại nhanh và êm ái như ma quỷ, nên không phát hiện được tiếng gió giũ y phục của lão đã che mất hành tung của Nhất Vệ. Khi Tà Tẩu nhận ra thì đã quá muộn. Song chưởng của Đạng Thám vỗ vào lưng lão như chùy sắt, khiến tâm mạch đứt đoạn, hộc máu chết ngay.
Nhất vệ cẩn thận thăm mạch, xác định đối phương đã chết hẳn mới yên tâm quay về. Gã là người cẩn trọng, chu đáo nên mới được giao trọng trách bảo vệ U Linh Cốc.
Nhắc lại, Hãn Thanh vừa thấy thủ hạ ra tay, đã tung mình khỏi yên ngựa, lướt về phía Đông Nhạc Thần Đao. Chàng dồn hết chân khí vào bảo kiếm, xuất chiêu Trùng Dương Cúc Tiếu.
Cũng như chiêu chưởng Cửu Cửu Nhất Nguyên, chiêu kiếm này cũng gồm tám mươi mốt thức kiếm, vì vậy, Bất Biệt Cư Sĩ mới mượn chữ Trùng Dương mà đặt tên.
Kiếm ảnh không tỏa rộng mà vung nên chín bông cúc nở rộ, tấn công vào chín phương vị trên thân thể của Lục Thần Đao.
Thân pháp và kiếm ý đã tố cáo lai lịch của Hãn Thanh. Lục Kính Nghiêm không dám xem thường. Bỏ Uông Vô Hồn, quay sang đón chiêu. Dẫu sao, lão cũng bị chậm mất một khoảnh khắc quý giá. Đao kiếm chạm nhau chan chát, song phương cùng lui lại.
Bắp tay trái của Đông Nhạc Thần Đao bị Hầu Tước Kiếm đâm thủng, nhưng ngực phải Hãn Thanh cũng vướng đao rách áo, đứt da.
Tây Hạ Ma Đao thấy có người tham chiến, nhẩy vào vệ đường chăm sóc vét thương. Gã nhìn dáo dác, nhận ra Bạch Đà vẫn an toàn, hai chân được băng bó, thản nhiên gặm cỏ. Gã đoán rằng chính hán tử áo lam kia đã cứu vật yêu của mình.
Ma Đao tròn mát quan sát, nhận ra người mới đến có bản lĩnh rất cao siêu, hiện đang đấu cầm đồng với Đông Nhạc Thần Đao. Uông Vô Hồi tuy ở tận Tây Hạ nhưng cũng biết tiếng Lục Kính Nghiêm. Luồng đao quang màu tím của lão ta là tiêu chí không lầm được! Họ Uông quên cả đau đớn, dán mắt vào cuộc tử đấu kia.
Phần Hãn Thanh cũng dồn hết tâm trí vào trận chiến. Công lực họ Lục thâm hậu gấp đôi chàng, nên dù bị thương cũng dần dần chiếm được thượng phong.
Pho Tử Quang Đao Pháp đã tạo nên thanh danh cho Lục Kính Nghiêm.
Nhất là sau khi Bạch Y Hầu đả bại, lão đã khổ công bổ xuyến, giờ đây đạt đến mức toàn bích, lợi hại khôn lường. Giả như Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên còn sống cũng chưa chắc đã thắng được Lục Kính Nghiêm.
Hãn Thanh đã dung hóa Mộ Dung kiếm pháp gia truyền vào sở học.
Chàng tùy cơ mà xuất chieu chứ không phân biệt lai lịch. Suốt năm năm ở Hồ Đạt Lai, chàng chỉ chuyên luyện có kiếm pháp mà thôi, vì các công phu khác đã được học từ nhỏ. Nhờ vậy Hãn Thanh mới có thể tiếp thu được hết pho Nhất Nguyên Kiếm Pháp bao la, uyên ảo nhất thế gian.
Giờ đây, Hãn Thanh đem hết vốn liếng ra quần thảo với tay đao số một Trung Nguyên. Đường kiếm của chàng liên miên bất tuyệt, nối nhau tựa sóng Hoàng Hà và nhanh như thiểm diện.
Phép khoái kiếm kỳ ảo này đã bổ sung được phần yếu kém về nội lực, mấy lần suýt lấy mạng đối phương. Nhưng mỗi lúc lâm nguy, Đông Nhạc Thần Đao lại dồn thêm chân khí vào thân đao, đánh bạt bảo kiếm của Hãn Thanh. Công lực thâm hậu của lão đã phá được những chiêu kiếm kỳ ảo kia, dù ngực và bạch thủy chín lỗ rướm máu.
Đồng thời, mũi tử đao cũng rạch tám đường trên người Hãn Thanh. Đã bốn trăm chiêu đã qua mà vẫn chưa phân thắng bại. Lục Kính Nghiêm đã nghe bọn hào khách quan chiến khen ngợi đối thủ của mình, tự ái tổn thương, liền hạ độc thủ. Lão biết chân khí Hãn Thanh đã hao hụt khá nhiều, nên dồn toàn lực tung mình lên không trung, thi triển phép Ngự Đao, hóa thành trái cầu tím lịm, chụp xuống đầu đối thủ.
Hãn Thanh thấy chiêu đao nặng như núi Thái, không dám chống đỡ, liền phóng mạnh bảo kiếm vào thân dưới đối phương. Cũng đã dồn hết sức nên thanh Hầu Tước Kiếm bay đi như ánh chớp. Đương nhiên, Đông Nhạc Thần Đao phải đánh bật ra và chậm mất một nhịp. Nhân cơ hội ấy, Hãn Thanh đảo bộ lùi nhanh, thoát khỏi phạm vi khống chế của chiêu đao.
Lục Kính Nghiêm đành bỏ dở chiêu thức, hạ chân xuống đất, cười nhạt:
- Nay đã không có vũ khí trên tay, Tiểu Hầu kia muốn trăn trối điều gì xin cứ nói.
Hãn Thanh mỉm cười:
- Chưa chắc ai là người cần nói lời di chúc!
Vừa dứt câu, Hãn Thanh ập đến như cơn lốc, thân ảnh chập chờn và song thủ hóa thành muôn bàn tay vàng huyền ảo. Chàng đã thi triển chiêu Huyền Hoặc Phủ Sinh trong ®o ®nh Tam Chiêu.
Đông Nhạc Kỳ Nhân giật mình trước chiêu chưởng quái dị, vội múa tít Tử Quang chống đỡ.
Đối với bậc đại hành gia, chiêu thức tùy tâm khi phát nên tuy bất ngờ mà đường đao vận kín kẽ, công thủ có đủ. Lục Kính Nghiêm tin rằng sẽ chẻ đôi thân hình đối phương không khó.
Nào ngờ ®o ®nh Chưởng Pháp lại là tuyệt học của tà môn, biến ảo phi thường, không hiểu đã bằng cách nào đã lan qua được màn đao quang dầy đặc vỗ vào ngực Đông Nhạc Thần Đao!
Hãn Thanh đã dùng đến thủ pháp Kim Sa Ấn, phổ vào chiêu chưởng nên lực đạo rất nặng nề. Đông Nhạc Thần Đao trúng đòn, hự lên rồi hộc máu thành vòi. Nếu không có lớp cương khí hộ thân, xương lồng ngực của lão đã dập nát. Lục Kính nghiêm chẳng dám chần chờ, tung mình đào tẩu vào rừng mất dạng.
U Linh Tứ Vệ đã thanh toán xong bọn thủ hạ Thần Tiên Giáo, đứng quan chiến, thấy Lục Kính Nghiêm bỏ chạy, họ định đuổi theo nhưng đã bị Hãn Thanh cản lại:
- Không cần đâu! Lão đã vào rừng, đuổi theo rất nguy hiểm!
Bốn gã Quỷ Tốt rất cảm động khi thấy chàng lo lắng cho họ! Tứ Vệ chạy đi nhặt thanh Hầu Tước Kiếm, mỉm cười toe toét:
- Lão quỷ già kia trúng chưởng hộc cả máu mồm mà vẫn chạy nhanh ra phết.
Hãn Thanh bước đến, đối diện Tây Hạ Ma Đao, lột mặt nạ, vòng tay cung kính nói:
- Tiểu đệ chính là Mộ Dung Hãn Thanh. Vì tiểu đệ mà huynh đài thọ nạn. Lòng này áy náy xiết bao!
Uông Vô Hồi hân hoan cười hào sảng:
- Chuyện tai bay vạ gió là thường tình trong thiên hạ, công tử nào có lỗi gì! Đúng ra Uông mỗ còn phải cảm tạ công tử đã cứu mạng và chữa trị cho Bạch Đà!
Lúc này, con vật thông linh đã đến bên họ Uông.
Hãn Thanh bỗng có cảm tình với hán tử Tây Vực này. Chàng cười bảo - Bạc Đà chỉ bị thương nhẹ, tiểu đệ đã dùng loại linh đan của Thiết Địch Thần Y nên chỉ hai hôm là lành thôi.
Chàng quay ra, quan sát đoàn xe, thấy một chiếc trống rỗng liền chặn lại:
- Tại hạ muốn mua chiếc xe này, mong túc hạ vui lòng nhượng lại!
Bọn lái buôn đã chứng kiến bản lãn thần sầu quỷ khốc của chàng nên vô cùng kính phục, răm rắp tuân lời:
- Xin công tử cứ lấy mà dùng, nó chẳng đáng bao nhiêu cả.
Hãn Thanh mỉm cười, nhét nén vàng mười lượng vào tay gã:
- Mong túc hạ nhận cho, nếu không Thanh này sẽ rất hỗ thẹn!
ít thì có thể chê chứ mười lượng vàng thì quả là khó chối từ. Gã lái buôn khom lưng cảm tạ, giao xe cho Hãn Thanh.
Chàng nói với Uông Vô Hồi:
- Uông huynh hãy đưa Bạch Đà lên xe, chúng ta phải tìm nơi uống mừng hội ngộ mới được!
Tây Hạ Ma Đao hài lòng, đẩy Bạch Đà lên thùng xe không mui, bảo nó nằm xuống, rồi lên làm xà ích, đi theo bọn Hãn Thanh.
Hai khắc sau, sáu người đã vào đến thành Quảng Nguyên, ghé ngay tửu điếm ở cửa Bắc. Vì nơi đây rộng rãi, mát mẻ.
ún uống, chuyện trò tương đắc đến hơn nửa canh giờ Uông Vô Hồi mới chia tay Hãn Thanh, đi dọc theo sông Gia Lăng, để đến nơi đã định. còn bọn Hãn Thanh vượt sông đi về hướng Thành Đô. Quảng Nguyên nằm ở bờ Đông sông Gia Lăng. phong cảnh sông nước núi đồi và cây cối hai bờ con sông này là danh lam thắng cảnh đất Tứ Xuyên.
Hai đại danh họa đời Đường là Ngô Đạo Tử và Lý Tư Huấn đã phục mệnh vua Đường đến Tứ Xuyên để vẽ cảnh vật sông Gia Lăng.
Lý Tư Huấn chiếu theo thực tế trước mặt, cặm cụi vẽ một tháng ròng mới xong. Trong lúc ấy, Ngô Đạo Tử chỉ nhởn nhơ dạo chơi, ngắm nghía. Lúc về triều, Ngô Đạo Tử lấy giấy bút, vẽ theo ký ức, trong một ngày đã vẽ xong bức Bách Lý Gia Lăng Giang. Cả hai tác phẩm kiệt xuất như nhau, được vua Đường khen rằng "Giai cực kỳ diện", nghĩa là cả hai đều hay tuyệt!
Nhưng giờ đây, Hãn Thanh không còn tâm trí đâu mà thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên cẩm tú này. Lòng chàng đang nặng trĩu ưu tư vì những lời nói của Tây Hạ Ma Đao Uông Vô Hồi!
Ma Đao đã cùng chàng kết tình bằng hữu, sau đó tiết lộ rằng tấm hải đổ Kim Ngọc Bổng Lai Đảo của giòng họ Mộ Dung gởi trong quốc khố đã bị một vị Hoàng Thân đầy thế lực và nhiều tham vọng chiếm đoạt. Lão ta đã chuẩn bị thuyền bè, chờ ngày ra Đông Hải. Do có mối giao tình thâm hậu với sư phụ của Ma Đao, nên Hải Trường Công đã gởi thơ mời Tây Thiên Lão Tổ tham gia cuộc hải hành vì lão tổ đã từng dọc biển Đông suốt ba mươi năm ròng.
Nhưng Tây Môn Lão Tổ đang thời kỳ tọa quan khẩn yếu nên không đi được. Ông bèn sai Ma Đao đến núi Lăng Sơn cạnh sông Gia Lăng tìm người nghĩa đệ đi thay. Hải Thượng Tu La Thái Vang Thông thuộc Đông Hải như lòng bàn tay, tất sẽ giúp HảI Trường Công Chu Kích tìm ra Bổng Lai Đảo.
Hãn Thanh lo sợ rằng lão gian thần kia sẽ vét sạch tài sản và đưa mấy ngàn dân mình đồng da sắt trên đảo vào Trung Nguyên để tạo phản.
Với số vàng ngọc khổng lồ kia, Hải Trường Công dễ dàng chiêu binh mãi mã, vì người đời có mấy ai thoát khỏi sự cám dỗ của hoàng kim? Ngay Hải Hà Tiên Tử, hai lần xuất đạo khai giáo, cũng chỉ do mưu cầu danh và lợi mà thôi!
Chu Kích là đương kim Tổng Đốc Sơn Đông, có trong tay mười vạn quân, cộng với ưu thế mới, việc tạo phản chẳng khó gì!
Quân Mãn Châu ngày đêm uy hiếp biên thùy phía Bắc, đã mấy chục năm khiến quốc khố cạn kiệt vì phải duy trì trăm vạn quân phòng thủ Sơn Hải Quan Hà và một dài trường thành.
Triều đình thiếu ngân sách binh bị, nên đã liên tục tăng thuế khiến sinh linh đồ thán, giặc cướp nổi lên như cỏ dại. Trong tình hình này nếu Hải Trường Công làm phản, đất nước sẽ đại loạn. Lúc ấy, bách tính rơi vào cảnh lầm than, chết chóc, đau khổ không sao tả xiết.
Hãn Thanh tưỵ nhận trách nhiệm về mình, vì tấm hải đồ kia là của giòng họ Mộ Dung. Trong huyết quản chàng đang sục sôi giòng máu của người hiệp sĩ, thề sẽ xả thân ngăn chận đại họa cho xã tắc.
Hãn Thanh nhẩm tính còn đến hơn ba tháng nữa là hết mùa mưa bão, đoàn thuyền của Hải Trường Công mới dám ra khơi. Chàng đủ thời gian để lo toan mọi việc, nên không ưu tư nữa.
Đầu tháng bảy, bọn Hãn Thanh đến đất Phong Đô. Khắp nơi mịt mù mùi khói nhang và giấy tiền vàng bạc.
Người Trung Hoa cổ tin rằng ngày đầu tháng bảy là ngày âm phủ mở cửa để ma quỷ ra, đến ngày cuối tháng thì đóng lại. Nghĩa là đến tháng bảy thì tất cả người cô hồn không ai thờ cúng lên thế gian để xin ăn. Do đó, nhà nhà đều bày cỗ bàn cúng tế, bố thí cho vong linh.
Người giàu có thì ngày nào cũng cúng, nhưng người nghèo thì có thể chỉ cúng vào ngày rằm tháng bảy. Ngày này được gọi là tiết Trung Nguyên, một trong những ngày lễ quan trọng của người Trung Hoa.
Phong Đô lại mà nơi có cửa xuống âm ty, nên tiết Trung Nguyên ở đây nhộn nhịp không gì tiết Nguyên Đán hay Trung Thu.
Nhưng khi Hãn Thanh hỏi thăm vị trí của Quỷ Môn Quan thì ai cũng lắc đầu. Chàng liền đưa thủ hạ vào khách điếm nghỉ trọ rồi một mình đến tửu quán lớn nhất thành. Chàng hy vọng rằng ở nơi đông đúc ấy tìm ra manh mối.
Mông Diện La Sát đã từng dạy chàng rằng:
Chưởng quỉ và tiểu nhị Ớ các quán ăn là những người có kiến văn rất rộng vì hàng ngày tiếp xúc với thực khách, nghe được nhiều điều lý thú.
Quả thực vậy, rượu vào lời ra, các tửu khách ngà ngà say thường cao giọng khoe khoang hiểu biết, cố dành lấy sự khâm phục của người chung quanh. Nhờ vậy, những người phục vụ trong tửu quán chẳng cần đi xa cũng đều rất thông thạo tin tức.
Kim Thạch Tà Tẩu đã chết nên Hãn Thanh có thể yên tâm mang chiếc mặt nạ trẻ trung hôm trước lúc đóng vai sư đệ Thương Tâm Kiếm, đến Ngũ Đài Sơn.
Tiếc rằng chàng đã đi hết lượt các quán xá của Phong Đô, chàng vẫn không nghe được câu trả lời. Đã là mười hai tháng bảy, Hãn Thanh vô cùng thất vọng, liền lộ mặt thật, dạo khắp nơi, để xem Tiểu Thuần có tự tìm đến hay không?
Chàng đi trước, bốn gã Quỷ Tốt bám theo sau để bảo vệ, đề phòng thủ đoạn của Thần Tiên Giáo.
Đến chiều mười bốn vẫn chưa thấy âm hao của ái thê, Hãn Thanh buồn bã, vào quán rượu uống chén giải sầu.
Bỗng ngoài cửa quán có tiếng chuông lắc leng keng của một lão thầy bói nào đó. Hãn Thanh nhìn ra thấy một đạo sĩ du phương, râu bạc như mây, tay rung chuông, tay cầm chiêu bài bằng vải, trên ghi dòng chữ:
Nhất Sự Nghi Lai!
Chỉ có bốn chữ đơn giản nhưng hàm ý rằng lão ta giải quyết được mọi sự trên đời, ai có việc gì nghi hoặc cứ đến hỏi.
Hãn Thanh không tin bói toán, nhưng bất giác sinh lòng ngưỡng mộ vẻ tiên phong đạo cốt của ông ta. Chàng bảo tiểu nhị ra mời đạo sĩ vào.
Lão Đạo vào đến, thản nhiên ngồi xuống ghế cười bảo:
- Bần đạo nhịn đói đã bẩy ngày và sanh ý ế ẩm. Công tử muốn hỏi gì thì trước tiên phải đãi bần đạo một bữa thịnh soạn cái đã!
Hãn Thanh gật đầu và bảo tiểu nhị dọn ra thêm năm món đắt tiền nhất và vò rượu lâu năm.
Lão Đạo chậm rãi ăn uống, mỗi miếng đều nhai thật lâu mới nuốt. Bữa ăn của lão kéo dài hơn một canh giờ mới xong và chẳng còn sót lại miếng nào.
Hãn Thanh vẫn kiên nhẫn chờ đợi, tự mình chuốc chén, không hề hối thúc.
Lão Đạo dùng ngay tay áo của chiếc đạo bào trắng cũ kỹ, đã ngả sang màu cháo lòng lau miệng, rồi cười khà:
- Bần đạo là Hoàng Thạch Công, dám hỏi tính danh tài chủ?
Hãn Thanh biết ngay lão dùng tên giả, vì Hoàng Thạch Công là một vị tiên đời Tần, sư phụ Trương Lương. Nhưng chàng không để tâm đến chuyện ấy, cung kính vòng tay đáp:
- Vãn bối là Mộ Dung Hãn Thanh!
Hoàng Thạch Công vẫn điềm nhiên như không hề biết đối phương là Tiểu Hầu Gia vang danh tứ hải. Ông ta gật gù nói:
- Công tử tướng mạo tôn quí tất lắm tiền nhiều bạc. Bần đạo tùy duyên quyên giáo, giàu nghèo lấy giá khác nhau. Do đó, mỗi quẻ sẽ là ngàn lượng bạc.
Tên tiểu nhị nãy giờ cố tình đứng gần để nghe ngóng, liền giật bắn mình, nghĩ thầm lão thầy bói kia đang tìm cách gạt gẫm chàng công tử ngây thơ.
Gã càng bực bội khi thấy Hãn Thanh vui vẻ chấp nhận:
- Vãn bối xin tuân mệnh! Chỉ cần đạo trưởng cho biết vị trí của Quỷ Môn Quan.
Hoàng Thạch Công giật mình gãi đầu đáp:
- Chết thực! Đây là thiên cơ, nói ra sẽ rất nguy hiểm, mong công tử trả gấp đôi mới đáng công của bần đạo.
Gã tiểu nhị giận run người, chỉ muốn xông đến bóp cổ lão thầy bói xảo quyệt kia. Hãn Thanh thường đến đây ăn uống và ban thưởng hậu, nên gã rất mến chàng.
Hãn Thanh lại gật đầu:
- Hai ngàn lượng cũng đáng, mong đạo trưởng chỉ giáo!
Hoàng Thạch Công hài lòng, hắng giọng ngân nga:
Nhân gian đại mộng thùy ngôn tiểu Lô hỏa thuần thanh bạch nhật thăng Tạm dịch:
Mộng lớn đời người ai bảo nhỏ Lò lửa toàn xanh bỗng hóa tiên!
Hãn Thanh nghe xong vòng tay nói:
- Cảm tạ tiên trưởng đã dạy bảo.
Chàng móc hai tờ ngân phiếu ngàn lượng, kính cẩn trao cho lão.
Hoàng Thạch Công nhận lấy, mỉm cười nói rất nhỏ:
- Sáng mai! Một mình đến phía Nam chân núi Dương Sơn chờ ta!
Nói xong, lão đạo trưởng đứng lên đi mất.
Hãn Thanh hân hoan gọi tiểu nhị tính tiền, trở về khách điếm. U Linh Tứ Vệ nãy giờ ngồi cách đấy mấy bàn cũng vội đi theo.
Vào đến phòng, Nhị Vệ Quách Phủ rụt rè hỏi:
- Công tử! Liệu có phải là bẫy rập của Thần Tiên Giáo hay không?
Hãn Thanh lắc đầu giải thích:
- Chắc chắn không phải! Trong bức thư trên áo choàng, Tiểu Thuần không ghi tên mình mà chỉ thư danh là Bạch Nhật Quỷ Hồn. Nay trong hai câu thơ kia có chữ Tiểu và chữ Thuần, tất chẳng phải do Thần Tiên Giáo bày ra!
Đêm ấy, Hãn Thanh ngủ rất yên giấc, mờ sáng đã dậy để đi đến núi Dương Sơn, ở phía Bắc Phong Đô. Chàng ăn điểm tâm rất nhanh, lên ngựa phi mau, đầu giờ Thìn đã có mặt ở chân núi phía Nam.
Hoàng Thạch Công đã chờ sẵn. Thấy chàng đến, lão quay lưng đi vào đám loạn thạch. Hãn Thanh vội xuống ngựa bám theo. Tuy đây không phải là một trận pháp kỳ môn, nhưng người thường khó mà qua được vì đá núi ngổn ngang, cây cối, bụi rậm um tùm. Hoàng Thạch Công nhẹ nhàng như đám mây, lướt từ tảng đá này sang tảng đá khác. Hãn Thanh dồn toàn lực vào đôi chân mới không bị bỏ rơi.
Hết khu vực loạn thạch là bãi cỏ xanh mơn mởn, nằm trước một khe núi hẹp, lờ mờ sương sớm.
Hoàng Thạch Công chỉ vào trong ấy hiền hòa bảo:
- Đây chính là Quỷ Môn Quan! Trịnh Tiểu Thuần đang chờ công tử trong ấy, mau vào mà hội ngộ!
Hãn Thanh mừng rỡ vòng tay cảm tạ rồi lướt nhanh vào khe núi. Được chừng hai mươi trượng, đôi mắt tinh tường của chàng phát hiện phía trước có vực sâu, liền chậm lại. Đi thêm một đoạn, bỗng trong đám bụi rậm mé hữu sau lưng Hãn Thanh phát ra tiếng động sột soạt. Chàng luôn phải đề phòng cạm bẫy của Phù Dung Hội trước kia và Thần Tiên Giáo sau này, nên rất cảnh giác, lập tức quay lại.
Nhờ vậy, Hãn Thanh kịp nhận ra Hoàng Thạch Công đang áp sát, vung song thủ tấn công mình. Chiêu chưởng của lão cực kỳ mãnh liệt và đôi mắt rừng rực sát khí.
Hãn Thanh đã nhiều phen vào sanh ra tử nên phản ứng rất thần tốc, phi thân chếch sang mé hữu, tránh thoát đòn tập kích chết người kia. Chàng hạ thân xuống một tảng đá giữa cây, khiến con thỏ xám trong ấy sợ hãi phóng ra.
Như vậy, tiếng động lúc nãy là do con vật hiền lành này gây ra vô tình cứu mạng Hãn Thanh.
Hoàng Thạch Công cười vang:
- Mạng ngươi quá lớn nên mới được con thỏ kia cứu nguy, nhưng sao không xuống đây so tài với lão vài chiêu?
Hãn Thanh biết mình đã bị gạt, phẫn nộ gằn giọng nói:
- Lão là ai mà lại bày kế hại ta?
Hoàng Thạch Công ngạo nghễ đáp:
- Té ra sư phụ ngươi không hề nhắc đến cố nhân ở núi Quang Minh Đỉnh hay sao?
Hãn Thanh giật mình:
- Quang Minh Tôn Giả Khúc Tú Sơn!
Lão nhân gật đầu đắc ý, Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Tiền bối là bậc kỳ nhân danh vọng không thua gì gia sư, sao lại chịu hạ mình làm thủ hạ Hải Hà Tiên Tử?
Khúc Tú Sơn cười khanh khách:
- Lão phu nào xem Mai Thanh Phố ra gì! Có điều mụ ta là vưu vật số một thế gian, lão phu chẳng thể bỏ qua. Hơn nữa, bí thuật trường xuân của Tiên Tử là điều lão phu cần đến. Sau khi học được công phu ấy, giáo chủ Thần Tiên Giáo là ta chứ không phải Mai Thanh Phố!
Hãn Thanh không ngờ Tôn Giả đã chín mươi mà còn háo sắc như vậy.
Chàng lạnh lùng hỏi:
- Nếu tiền bối không thực tâm qui phục Hải Hà Tiên Tử, tại sao lại phải cố giết cho được tại hạ?
Quang Minh Tôn Giả rít lên:
- Kim Thạch Tà Tẩu Mộc Tiến Luân là em rể của lão phu, còn Mộc Kỳ Dương là cháu ruột. Ngươi đã giết họ mà còn hỏi tại sao nữa ư?
Hãn Thanh biết mình khó thoát chết, điềm tĩnh nói:
- Té ra là thế! Nhưng trước khi tử đấu, tại hạ muốn biết vì sao tiền bối lại tỏ tường lai lịch của chuyết thê như vậy?
Tôn Giả phá lên cười:
- Lão phu quen biết với song thân Tiểu Thuần, đâu lạ gì cái biệt danh Bạch Nhật Quỷ Hồn kia!
Hãn Thanh đã giải tỏa được mối nghi ngờ, an nhiên thụ mệnh. Bản lãnh Khúc Tú Sơn chỉ thua ân sư chàng có nửa bậc. Hãn Thanh cầm chắc cái chết trong tay. Hơn nữa, sau lưng chàng là vực thẳm. Còn tả hữu là vách núi dựng đứng, muốn đào tẩu cũng không được.
Hãn Thanh ôm kiếm vái chào, phong thái ung dung, tự tại, khiến Tôn Giả phải khâm phục:
- Bất Biệt Cư Sĩ có thể tự hào khi có được đồ đệ như ngươi. Lão phu giết đi quả cũng là đáng tiếc.
Hãn Thanh mỉm cười, vung kiếm tung mình rời đỉnh tảng đá, bốc cao hai trượng rồi dùng phép ngự kiếm xuất chiêu Nguyệt Trầm Thu thủy. Ánh dương đã lọt vào khe núi nên vòng kiếm quang lấp loáng, trông như bóng nguyệt đêm rằm.
Hãn Thanh biết cơ hội sống sót của mình rất mong manh nên đã dồn hết chân khí vào chiêu đầu, quyết đổi mạng với đối phương.
Quang Minh Tôn Giả nhếch mép cười, song thủ khoa nhanh, vẽ nên một trái cầu khí màu xanh nhạt, đón lấy chiêu kiếm.
Cũng như lần đối phó với Tây Nhạc Lão Quái Hàn Thế Đức, vẩng kiếm quang quanh thân Hãn Thanh đột ngột xoay dọc, như chiếc mâm tròn sắc bén, chẻ đôi chưởng kình.
Nhưng đối thủ lần này lại có công lực thâm hậu hơn Hàn lão quái vài bậc và chưởng pháp quỉ dị tuyệt luân. Chưởng kình của Quang Minh Tôn Giả không lạnh lẽo, độc hại, nhưng bền chắc phi thường. Hãn Thanh có cảm giác mình như con ruồi sa vào lưới nhện bùng nhùng không sao thoát ra được. Và có những luồng lực đạo vô hình nào đấy liên tục vỗ vào thân chàng. Đồng thời chưởng kình đẩy Hãn Thanh văng ngược về phía sau, rơi xuống vực thẳm.
Quang Minh Tôn Giả ngẩn người lẩm bẩm:
- Nếu ta không tận lực xuất thủ, tất chẳng thể nguyên vẹn trước chiêu kiếm kia. Tiểu tử này quả là đóa kỳ hoa của võ lâm!
Lão đã tận mắt chứng kiến đối phương rơi xuống khá xa bờ vực, không thể nào thoát chết được nên yên tâm trở ra! Khe núi lấy lại vẻ tịch mịch cố hữu, và con thỏ xám lại tung tăng chạy nhảy.
Sau khi nhận chức Phó giáo chủ Thần Tiên Giáo, Hứa Hữu Tinh đã đưa phần lớn lực lượng Tây Bang đến Tung Sơn, chỉ lưu lại Trường An một số ít thủ hạ. Vì vậy, Hãn Thanh đã từ chối khi lão Hầu Gia bảo chàng mang theo môn nhân. Chàng vui vẻ nói:
- Tiểu tôn đi lần này cốt để đón người, nếu gặp cường địch thì bỏ chạy chứ không chống cự. Với cước lực của Đà nhi, chẳng ai theo kịp đâu mà gia gia phải lo lắng.
Mộ Dung Cẩn đành chịu thua, không ép buộc nữa. Nhất Bất Thông Chu Minh uống cạn chung rượu rồi tư lự bảo:
- Thanh nhi! Lão phu suy nghĩ rất nhiều vể thân phận bí ẩn của Trịnh Tiểu Thuần. Số là nước Dạ Lang đã bị Hán Võ Đế chinh phục cách nay hơn ngàn năm, chỉ còn lại bộ tộc Dạ Lang mà thôi! Bộ tộc này hiện đang cư trú ở vùng Tây Bắc Qúi Châu. Như vậy, có thể Tiểu Thuần chính là cô con gái của một tù trưởng nào đấy! Lần này Thanh nhi đi Tứ Xuyên, nếu không gặp được Trịnh cô nương thì hãy đến Qúi Châu điều tra thử xem sao!
Hãn Thanh lấy làm lạ:
- Vì sao bá phụ lại sợ rằng tiểu điệt sẽ không tìm được Tiểu Thuần?
Chu Minh thở dài:
- Quỷ Môn Quan trên đất Phong Đô chỉ là truyền thuyềt chứ không xác định ở địa điểm nào cả. Ta e rằng Thanh nhi chỉ hoài công thôi!
Hãn Thanh rất tin yêu Tiểu Thuần nên vui vẻ đáp:
- Dù Quỷ Môn Quan không có thực, nhưng chắc chắn Trịnh tỷ sẽ xuất hiện khi tiểu điệt đến Phong Châu!
Thiết Địch Thần Y Bạch Nguyên Giáp bỗng nói:
- Lão phu quan sát thấy mấy hôm nay quái mã Đà nhi có hiện tượng động dục, chắc là đã đến mùa giao phối của linh vật! Vì vậy, Thanh nhi hãy để Đà nhi lại. Lão phu sẽ tìm cách gây giống, lưu truyền dòng dõi của thần vật!
Lạc Bình và Hà Hồng Hương vẫn chưa kinh qua ân ái nên đỏ mặt thẹn thùng. Chu Minh nhân dịp này nói ngay:
- Hiện nay Thanh nhi là đối tượng truy sát của Thần Tiên Giáo, chớ nên sính cường mà khiến bao người đau khổ. Lão phu muốn ngươi cải trang rồi hãy lên đường.
Mọi người đều khen phải, khiến Hãn Thanh không thể chối từ.
Canh tư ngày hai mươi chín tháng năm. Hãn Thanh mang mặt nạ, âm thầm rời Hầu Phủ, theo đúng kế hoạch của Nhất Bất Thông. Một con tuấn mã đã chờ chàng ở ngoài cửa Tây thành.
Khi trời hửng sáng, Hãn Thanh đã rời Lạc Dương được năm chục dặm.
Giờ đây, chàng mang dung mạo của một hán tử tứ tuần hiên ngang, râu mép xanh rì, khó ai có thể nhận ra được người này chính là Tiểu Hầu Gia.
Tuy Hãn Thanh không nói ra nhưng chàng cũng hài lòng với lớp hóa trang. Trong bọc hành lý để lại Kim Thạch Sơn Trang Ngũ Đài Sơn có cả tấm áo choàng ghi lời hò hẹn của Tiểu Thuần. Chàng tin rằng Tà Tẩu đã tìm thấy, và cuộc hội ngộ ngày rằm tháng bảy với Tiểu Thuần đã bị tiết lộ.
Dung mạo giả sẽ giúp chàng thoát được mai phục của Thần Tiên Giáo, sớm hội ngộ với ái thê. Trong lúc này, đấy là việc quan trọng nhất đời chàng.
Thời gian còn khá dư giả, Hãn Thanh ung dung hòa vào dòng người trên quan đạo mà dong ruổi, bảy ngày sau đã đến Trường An. Lúc đi qua cửa Đông thành, chàng phát hiện có khá nhiều đôi mắt cú diều đang chăm chú quan sát như muốn tìm ai đó. Có lẽ họ là thủ hạ của Thần Tiên Giáo, nhưng đối phương chẳng ngờ chàng lại đi có một mình và không mang theo quái mã.
Thời buổi loạn lạc, bách tính đua nhau học võ để tự phòng thân. Do vậy, người mang đao kiếm rất nhiều. Hãn Thanh thản nhiên đủng đỉnh vào thành, tìm đến Tây Kinh Đại Tửu Lâu. Dù trong túi chàng có đến hai chục viên Tịnh Cốc Toàn Sinh Hoàn, nhưng chỉ để dành cho lúc quẫn bách. Dẫu sao, chúng chẳng thể ngon lành, đầy hương vị như những món ăn bình thường.
Trường An nằm ở bờ Nam sông Vị Thủy, có hình chữ nhật, một cạnh dài hai chục dặm, cạnh kia mười tám dặm. Trường An được chia làm ba phần:
phía Bắc là Cố Cung của nhà Đường và khu thành nội. Phía Nam là khu vực của bách tính, có mười một đại lộ từ Đông qua Tây và mười bốn đại lộ Bắc Nam, tất cả đều thẳng góc với nhau, chia thành một trăm linh tám xóm.
Tòa Tây Kinh Đại Tửu Lâu nằm trên một giao lộ lớn, chung quanh đều là cửa hiệu, lâu quán. Riêng tửu điếm, cũng đã có đến ba nơi, chính vì thế bọn tiểu nhị ra đến tận đường đón khách. Chúng khom lưng cơ hồ sát đất, miệng trơn tru như bôi mỡ, khiến ai cũng trở thành đại gia, đại nhân, công tử...
Hãn Thanh trao cương ngựa cho một gã rồi bước lên tầng hai, chọn một bàn sát lan can phía trước. Năm xưa, Mông Diện La Sát cũng từng ngồi ở đây.
Từ vị trí này, chàng có thể nhìn thấy bóng dáng hùng vĩ của tòa cổ tháp Đại Nhạn cao gần hai chục trượng. Tháp này nằm trong khuôn viên của chùa Từ én, phía Nam Trường An, gồm bảy tầng, được xây dựng vào năm thứ ba đời Đường Cao Tông. Đây là một trong những kiệt tác của nển kiến trúc cổ Trung Hoa.
Và khi nhìn lên hướng Bắc, Hãn Thanh còn được chiêm ngưỡng lẩu chuông cao mười trượng, huy hoàng lộng lẩy. Lầu chuông này nằm ở giữa thành, xây dựng vào năm Hồng Võ thứ mười bảy, đời Minh Thành Tổ.
Xa hơn nữa, về phía Đông chính là ngọn núi Ly Sơn, nơi mà Dương Qúy Phi đã từng ngâm tấm thân ngà ngọc trong nguồn nước nóng của đầm Thanh Hoa!
Lần đầu ghé qua Trường An, Hãn Thanh ngây ngất trước khung cảnh xinh đẹp, cổ kính của kinh đô nhà Đường.
Chiều dần buông, ánh tà dương nhuộm hồng ngọn núi Ly Sơn, cảnh tượng xiết bao diễm lệ. Hoàng hôn trên Ly Sơn chính là một trong bát cảnh của đất Trường An.
Hãn Thanh nhìn xuống dưới đường, chợt thấy một đoàn người ngựa toàn là đạo sĩ, đông đến hai chục người, đang hối hả đi về hướng Tây!
Đúng lúc ấy, gã tiểu nhị đứng bên bàn hỏi chàng có dùng thêm rượu thịt gì chăng. Hãn Thanh hỏi:
- Này tiểu huynh đệ, những đạo sĩ kia đang kéo nhau đi đâu vậy?
Gã tiểu nhị cười hì hì:
- Bẩm đại gia! Họ đến Trịnh Sơn Trang ở gần cửa thành Tây đế bắt quỷ đấy ạ!
Hãn Thanh nghe nhắc đến họ Trịnh, hiếu kỳ bảo:
- Sự tình thế nào, ngươi mau kể cho ta nghe thử?
Gã tiểu nhị ra vẻ bí ẩn hạ giọng:
- Bẩm đại gia! Trịnh gia trang là một nơi nổi tiếng của đất Trường An, nhờ có vườn cảnh rộng ba chục mẫu, diễm lệ phi thường. Nhưng từ nửa tháng nay, trong khu rừng Ngọc Lan phía sau vườn xuất hiện một bầy hồ ly hay ma quỷ gì đấy! Chúng liên tục quấy phá khiến Trịnh gia trang ăn ngủ không yên.
Quan quân triều đình đã lục soát từng tấc đất mà không thấy gì cả. Trịnh lão chịu thua, bày cỗ bàn ra cúng kiến, quả nhiên có tác dụng. Có điều lạ là rượu thịt đều bị ăn sạch sẽ, không chừa một miếng, và ngày nào cũng phải cúng cả.
Hãn Thanh ngắt lời gã:
- Phải chăng Trịnh lão tiếc của nên mới mời đạo sĩ đến trấn yểm?
Gã tiểu nhị nhăn nhó lắc đầu:
- Trịnh lão gia giàu nứt đố đổ vách, mỗi ngày một mâm cơm cúng quỷ thần nào có đáng gì? Tiếc rằng bọn chồn, quỷ kia lại mò mẫm bọn tỳ nữ trong trang. Trịnh lão lo cho ái nữ nên mới quyết tâm diệt trừ. Mấy ngày trước, bọn đạo sĩ lập đàn trấn quỷ, bị bốn con ma kia đuổi chạy. Hôm qua, Trịnh lão gia đã đích thân đến Hàng Ma Đạo Quán cách đây năm chục dặm để mời Hàng Ma Chân Nhân vể bắt yêu quái. Có lẽ đêm nay Chân Nhân sẽ ra tay!
Hãn Thanh mỉm cười bảo gã tính tiền. Còn dư hơn lượng bạc, chàng tặng cho gã tiểu nhị rồi nói:
- Ta muốn được xem cảnh Hàng Ma Chân Nhân tróc yêu, mong tiểu huynh đài chỉ dùm đường đến Trịnh gia trang!
Dĩ nhiên gã mau mắn vẽ đường. Hãn Thanh đi về hướng Tây, ba khắc sau đã đến Trịnh gia trang. Trời đã tối mịt nên chẳng thể nào thưởng thức được cảnh đẹp của nơi này!
Hãn Thanh thấy mé Đông có con đường nhỏ chạy song song với gia trang, liền cho ngựa rẽ vào. Được hơn trăm trượng, nghe bên trong có tiếng chiên mõ, chàng dừng lại, cột ngựa vào một gốc cây, rồi tung mình lên đầu tường.
Ngay cuối khu vườn cảnh, trước khu rừng Ngọc Lan cao vút, rậm rạp là đàn giải oan, trấn yêu.
Pháp đàn dựng bằng gỗ, chỉ cao gần trượng, trên bày hương án, cờ xí la liệt. Hãn Thanh nhảy xuống, nương theo bụi hoa, non bộ mà tiến sát vào.
Hàng Ma Chân Nhân đang cầm kiếm gỗ múa may, tay tả rung chuông đồng leng keng, miệng lẩm bẩm niệm chú.
Chân Nhân tuổi độ lục tuần, râu năm chòm oai vệ, mắt sáng như sao.
Thanh kiếm gỗ vẽ vào không khí những đường ngoằn ngoèo khó hiểu, nhưng kiếm kình rít lên vo vo, chứng tõ công lực của lão khá thâm hậu.
Thỉnh thoảng, Hàng Ma Chân Nhân đốt những đạo bùa vẽ bằng máu gà trống, ném về phía khu rừng. Mảnh giấy nhẹ nhàng kia bay khá xa khiến Hãn Thanh rất khâm phục.
Còn mười tám tiểu đạo sĩ đứng quanh pháp đàn luôn miệng đọc một đoạn trong kinh Thái Thượng Cảm Þng Thiên của đạo giáo.
Bỗng hàng cây Ngọc Lan ở bìa rừng rung động mãnh liệt và vọng ra tiếng cười rúc rích như chồn kêu. Sau đó bọn yêu quái ném ra những trái tròn, nhỏ hơn nắm tay, về phía pháp đàn. Chúng ném như mưa và lực đạo cực kỳ mạnh mẽ, khiến đám tiểu đạo sĩ đau đớn bỏ chạy cả về phía sau.
Hàng Ma Chân Nhân vẫn kiên cường múa tít thanh mộc kiếm chống đỡ, đánh bạt những vật lạ kia. Một quả văng gần Hãn Thanh. Chàng nhặt lên, mỉm cười nhận ra đây là trái lựu.
Hạ đến, lựu trong vườn trổ hoa đỏ rực và kết trái đầy cành, bọn yêu quái biết chủ nhân lập đàn tróc yêu nên đã hái sẵn làm vũ khí.
Hàng Ma Chân Nhân chỉ chịu được nửa khắc đã phải nhảy xuống, vì nước lựu chín dính đầy mặt mũi và y phục. Lão giận dữ quát vang:
- Té ra chúng bay là người chứ không phải yêu ma! Mau xuất hiện cùng bần đạo tỷ thí vài chiêu.
Một tiểu đạo sĩ trao kiếm thép cho sư phụ, vì kiếm gỗ đào yếu ớt chỉ dành cho ma quỉ.
Bản thân mười tám tiểu đạo sĩ rút kiếm, bày trận sau lưng Chân Nhân.
Đám gia đinh của Trịnh gia trang cũng thủ sẵn gậy gộc, sẵn sàng tham chiến. Đuốc thông cháy rừng rực, thắp sáng cả khu rừng.
Hàng Ma Chân Nhân và các đệ tử tiến lên được vài trượng thì bọn yêu tinh lộ diện. Bốn bóng trắng toát từ trên cây sa xuống gốc, và lướt đến như gió thoảng. Hãn Thanh kinh hãi nhận ra chúng đang thi triển ®o ®nh thân pháp của U Linh Cốc!
Lúc chưa rời Hầu Phủ, Hãn Thanh đã tò mò tìm hiểu công phu kỳ diệu này của đám Hồ Tốt. Họ vui vẻ giảng giải khẩu quyết vì chàng là Quỷ Hồ Thiếu Tổng Giám. Hãn Thanh nắm được tinh túy của tuyệt kỹ nhưng không thể thực hiện. Thứ nhất là chàng chưa hề luyện Ma Hồ Chân Khí. Thứ hai, chàng thiếu những viên linh đan Hư Cốt, làm cho xương cốt nhẹ dần đi.
Người của U Linh Cốc đã phải uống trong mười năm mới luyện thành pho khinh công ®o ®nh!
Tuy nhiên, Hãn Thanh nhờ thuộc làu khẩu quyết nên Hãn Thanh có thể đoán được phương vị di chuyển của những người thi thố thân pháp này.
Nhắc lại, bốn bóng trắng kia xông vào phe đối phương, miệng cười ma quái, song thủ liên tục vỗ ra những đạo chưởng kình mãnh liệt. Một bóng chặn đánh Hàng Ma Chân Nhân, ba bóng còn lại quần thảo với các tiểu đạo sĩ.
Thân hình họ phiêu phưởng trong lưới kiếm, nhởn nhơ như bóng u linh.
Chưa đầy nửa khắc đã đánh cho mười tám tiểu đạo sĩ lăn nhào, kêu cha gọi mẹ nhưng không ai chết cả!
Khi đã rảnh tay, cả bốn bóng trắng liên thủ vây đánh Hàng Ma Chân Nhân. Dù kiếm thuật của lão đạo sĩ rất cao siêu nhưng không sao địch lại, khi đối phương có thân pháp ẩn hiện như ma muội. Nếu lão cố tình đả thương một bóng thì cũng bỏ mạng vì ba bóng kia. Đấu pháp liên hoàn của bốn con ma này xem ra rất kín đáo nhịp nhàng!
Hàng Ma Chân Nhân như con chuột bị lũ mèo vờn, mồ hôi toát ra như tắm. Lão giận dữ gầm lên, bỏ trống hậu tâm, lao thẳng vào bóng trắng trước mặt.
Hành động này rất nguy hiểm vì kẻ địch có thân pháp nhanh như chồn, tất sẽ kịp thời đánh vào sau lưng Chân Nhân, tạo nên thế lưỡng bại câu thương. Chẳng qua cái thanh danh đã làm hại người võ sĩ, nên Chân Nhân mới hồ đồ như vậy.
Xét ra, bản lãnh của lão cao cường hơn bất cứ ai trong bốn kẻ địch. Vì vậy, khi Chân Nhân đã liều mạng thì bóng trắng trước mặt khó toàn mạng.
Kiếm quang lấp loáng tỏa rộng, ập đến khiến đối phương khiếp sợ kêu lên:
- Ái mẹ Ơi!
Gã đã cố vung chưởng chống đỡ, nhưng không cản được bước tiến của Hàng Ma Chân Nhân. May thay, trong lúc nguy cấp, gã nhoài người xuống đất, lăn tròn trên cỏ nên chỉ bị thương nhẹ Ở lưng.
Hàng Ma Chân Nhân cũng thừa dịp này lao thẳng về phía trước, vừa kịp lúc ba đạo chưởng kình giáng vào lưng. Dù vậy, thân hình lão cũng bị đẩy văng xa hai trượng, máu miệng ộc ra ướt cả đạo bào.
Ba con ma kia không đuổi theo mà dừng lại cạnh đồng bọn xem xét. Giờ đây Hãn Thanh và mọi người mới thấy rõ chúng trùm kín trong một tấm vải trắng rất lớn, chỉ khoét hai lỗ nơi đôi mắt.
Hàng Ma Chân Nhân chỉ bị thương nhẹ, gượng đứng lên nói với Trịnh trang chủ:
- Trịnh lão thí chủ! Bần đạo đã tận lực nhưng không sao địch lại bốn cao thủ kia. Chúng là người chứ chẳng phải ma đâu!
Gã bị thương bỗng ngồi bật dậy cười rúc rích:
- Bọn ta là chồn tinh đây! Nếu Trịnh lão đầu không chịu dâng bốn tỳ nữ để hầu hạ anh em chúng ta thì đừng hòng sống sót!
Gã đứng lên, cùng ba tên kia lướt đến. Thân hình chúng lơ lửng như không chạm đất. Hai tay dang rộng khiến ai cũng kinh hoàng. Trịng trang chủ cùng gia quyến, gia nhân quỳ cả xuống lạy như tế sao, khóc lóc inh ỏi. Hàng Ma Chân Nhân hậm hực dậm chân, kéo đệ tử đào tẩu cả.
Khi bốn con chồn tinh còn cách đám người tội nghiệp kia sáu trượng, bỗng có tiếng cười khanh khách:
- Bọn hồ ly kia khoan hãy đắc ý, còn có ta là Trung Nguyên đại pháp sư đây!
Và từ sau một bụi hoa, Hãn Thanh lướt ra, đứng đối diện với bốn con ma giả mạo.
Chúng chẳng nói chẳng rằng, ập đến tấn công luôn. Hãn Thanh ung dung dở phi Cửu Cung Thần Thức, quyền cước thoát ra liên miên bất tuyệt, tung hoành trong vòng vây. Bọn này xử dụng những chiêu đầu trong pho ®o ®nh chưởng pháp, trong khi Hãn Thanh đã luyện ba chiêu cuối cùng, biết rõ lộ số toàn pho. Vì vậy, chiêu của chàng vô cùng chuẩn xác, khiến bốn gã trúng đòn liên tục, thét lên oai oái. Chúng cố vận dụng ®o ®nh thân pháp đến mức chót mà cũng vô hiệu. Chỉ sau nửa khắc, Hãn Thanh lột phăng được bốn mảnh vải trắng, khiến đối phương hiện nguyên hình là những hán tử tuổi trên ba mươi, dung mạo ngây ngô, chất phác.
Hãn Thanh tung một loạt kỳ chiêu dồn đối phương vào đúng bộ vị rồi xuất chiêu Thập Phương Cam Lộ. Thân hình chàng xoay tít như chong chóng, song thủ chập chờn phất vào huyệt kỳ môn và cương môn trên sườn phải của bốn hán tử. Tuy bàn tay chàng còn cách da thịt họ ba gang tay, nhưng từ đầu ngón trỏ và giữa lại âm thầm xạ ra hai đạo chỉ kình, bắn thẳng vào mục tiêu.
Cách không chỉ lực còn khó luyện hơn chưởng lực. Sau khi ăn được Hồng Sắc Mãng Xà, Hãn Thanh mới đạt được chút thành tựu như thế này! Chỉ phong không đủ sức đả thương da thịt, nhưng nếu trúng huyệt đạo thì tác dụng rất khả quan!
Hai huyệt trên đều thuộc kinh túc quyết âm can nên chân hữu các hán tử nhũn ra, ngã lăn xuống đất.
Chúng gượng ngồi lên, lạy lục van xin:
- Mong đại hiệp tha mạng! Bọn tiểu nhân chỉ trêu ghẹo, quậy phá chứ không hề hãm hại ai cả!
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Bọn ngươi thuộc Đường nào trong ém Dương Đạo?
Bốn gã xanh mặt nhìn nhau. Gã lớn tuổi nhất run rẩy đáp:
- Bộn tiểu nhân là Quỷ Tốt của Hồng Đường, thủ hạ của Nhị Phán Quan Hồ Vượng!
Hãn Thanh gậ gù hỏi tiếp:
- Vì sao các ngươi lại rời U Linh Cốc đến đây giả ma giả quỷ, nhũng nhiễu lương dân? Chiếu giáo qui, tội này đáng chém!
Bốn gã Quỷ Tốt kinh hãi kêu oan:
- Bọn tiểu nhân rời cốc cũng vì bắt buộc! Túi không tiền nên đành phải hí lộng để kiếm chén cơm ăn! Mong đại hiệp tha mạng!
Bỗng một tên nói:
- Nhưng đại hiệp là ai mà lại biết bọn ta là người ém Dương Đạo?
Hãn Thanh không đáp mà cau mày:
- Chảng lẽ U Linh Cốc đã xảy ra chuyện gì nên bọn ngươi mới bị bắt buộc phải rời khỏi nơi ấy?
Gã Quỷ Tốt có gương mặt sáng sủa nhất buồn rầu đáp:
- Quả là có việc hệ trọng, nhưng bọn tiểu nhân không thể tiết lộ cho người ngoài biết được!
Hãn Thanh suy nghĩ rồi nói:
- Ta cũng là người thân của U Linh Cốc. Nhưng ở đây nói chuyện bất tiện, các ngươi hãy theo ta đi nơi khác!
Chàng giảu huyệt cho họ rồi quay sang nói với Trịnh trang chủ:
- Bốn con hồ ly này đạ bị tại hạ chế phục, mang về núi. Chỉ mong trang chủ giữ kín chuyện hôm nay cho. Ai hỏi xin cứ nói rằng chúng tự bỏ đi.
Trinh lão mừng như sống lại, vái dài:
- Cảm tạ tráng sĩ đã thu phục bọn yêu tinh. Lão phu xin hứa sẽ thủ khẩu như bình, và dâng tặng ngàn lượng bạc để đền ơn.
Hãn Thanh xua tay:
- Tại hạ không dám nhận đâu! Nếu được, xin trang chủ ban cho bốn con tuấn mã để tại hạ đưa bọn chồn tinh này đi!
Nãy giờ, mọi người đều đứng rất xa nên không nghe thấy những lời đối đáp của chàng với bốn gã Quỷ Tốt. Họ cứ đinh ninh chúng là yêu quái chứ chẳng phải người. Trịnh lão muốn tống khứ cho nhanh nên quát gia nhân đóng yên bốn con ngựa, chỉ lát sau đã sẵn sàng.
Hãn Thanh bảo bọn Quỷ Tốt dắt ngựa đi ra cổng chính của trang, còn chàng vượt tường tìm lại tuấn mã của mình.
Năm người đi vài dặm đã đến khu chợ Tây của thành Trường An. Cửa thành rộng mở dù đã cuối canh một. Khu vực này rất phồn thịnh vì có bến dò vượt sông Vị để đi Lan Châu. Chợ cửa Tây có vẻ sầm uất nhộn nhịp hơn cả chợ Đông.
Trước tiên Hãn Thanh dắt bốn gã Quỷ Tốt vào tiệm bán y phục may sẵn, bảo chúng tùy ý họn lựa. Kế bên là tòa Tây Mộn Đệ Nhất Điếm sang trọng, và đối diện là Tây Môn Đại Tửu Lâu. Có lẽ hai cơ ngơi này có cùng một chủ nhân!
Mua quần áo xong, Hãn Thanh ghé vào khách điếm đặt ba phòng thượng hạng, đồng thời nhờ tiểu nhị sang tửu lâu gọi dùm một mâm thịnh soạn.
Khi họ tắm gội xong thì cỗ bàn đã sẵn sàng. Hãn Thanh mỉm cười bảo:
- Chắc các ngươi đều đói bụng, cứ tự nhiên đừng khách sáo!
Bốn gã Quỷ Tốt dù rất thèm thuồng nhưng nhìn nhau chứ không dám cầm đũa. Gã lớn tuổi nhất có đôi mày đen đậm ngập ngừng nói:
- Mong đại hiệp cho biết lai lịch, nếu không anh em tiểu nhân chẳng bụng dạ nào mà ăn uống cả!
Hãn Thanh vuốt mặt, để lộ chân diện mục và nói:
- Ta là Mộ Dung Hãn Thanh, trượng phu của Tề Đạm Vân đây!
Bốn gã vội rời ghế, sụp xuống thi đại lễ:
- Chúng đệ tử tham kiến Thiếu Tổng Giám!
Chàng bảo chúng an tọa và báo danh. Gã mày rậm kính cẩn nói:
- Đệ tử là Đặng Thám. Gã mắt to là Quách Phủ. Gã tai vễnh là Lộ Vi Nhân. Còn gã hay cười kia là Mễ Bất Thông. Gọi chung là U Linh Tứ Hộ Vệ, phụ trách canh phòng U Linh Cốc!
Hãn Thanh gật đầu:
- Như thế đã rõ! Các ngươi cứ ăn cho no rồi hãy đàm đạo sau!
Thế là bốn gã Quỷ Tốt khua đũa không hề khách khí. Hãn Thanh mới ăn hồi chiều nên không đói, chỉ nhấm nháp chút đỉnh để đưa cay.
Chàng âm thầm quan sát sắc diện U Linh Tứ Hộ Vệ, nhận ra họ đều rất thật thà, mộc mạc. Cuộc sống tu hành trong U Linh Cốc đã khiến họ không bị xã hội làm u ám cái tâm lương thiện! Về võ công xem ra họ khá hơn đám Hồ Tốt đang ở trong Hầu Phủ.
Tứ Vệ Mễ Bất Thông vỗ bụng cười hì hì:
- Chưa bao giờ đệ tử được ăn ngon như thế này cả!
Khu rừng chung quanh U Linh Cốc quả không thiếu thú rừng, nhưng thiếu gia vị và tay nghề nấu nướng thì chẳng thể ngon lành được.
Ba gã kia cũng đã buông đũa, nâng chén rượu phần thơm phức, hít hà mãi mới uống.
Nhất Vệ Đặng Thám nhớ đến nghĩa vụ, liền hắng giọng kể:
- "Bẩm Thiếu Tổng Giám! Sau khi người rời khỏi U Linh Cốc được hai hôm thì Hải Hà Tiên Tử đích thân đến xin bái kiến Tề Tổng Giám và lục vị phán quan. Bà ta mang theo rất nhiều châu báu, vàng bạc để làm lễ vật, nhờ bổn Cốc nối lại dùm bàn tay hữu. Ngay đêm ấy, Tiên Tử còn âm thầm đột nhập ngọa phòng của Tổng Giám để hiến thân. Bọn đệ tử phát hiện ra, liền bám theo, nhưng thấy Tổng Giám không từ chối nên cũng đành im lặng.
Đêm hôm sau, Tiên Tử lại đến phòng riêng của Hồng Đường phán quan Hồ Vượng. Nhị phán quan chính là Thần Y của U Linh Cốc, có tài nối xương, đắp thịt rất thần diệu. Hành vi này đã khiến bọn đệ tử nghi ngờ nên bám sát để theo dõi. Nào ngờ lại được chứng kiến cảnh dâm loạn kinh người. Mị lực của Tiên Tử đã khiến Hồ phán quan mê muội, cất lời thề sẽ phục vụ bà ta suốt đời.
Bọn đệ tử đều chưa vợ vì trong Cốc không đủ nữ nhân, cho nên đã không trấn tĩnh nổi. Tam đệ Lộ Vi Nhân bị kích động, thở mạnh, bị phát hiện. Biết Nhị phán quan là người tàn nhẫn, võ công chỉ thua mình Tổng Giám, tất sẽ không để nhân chứng sống sót. Trong khi ấy, Tổng Giám lại tọa quan ba ngày, không thể gặp được. vì vậy, bọn đệ tử đành cấp tốc ly khai U Linh Cốc để bảo toàn mạng sống.
Không hành lý, không tièn bạc, lần mò mãi mới tình cờ đến được Trịnh gia trang này. Do đói khát nên đành phải giả ma để kiếm miếng ăn." Hãn Thanh phì cười:
- Thế còn việc mò mẫm bọn tỳ nữ thì sao?
Tam Vệ Lộ Vi Nhân đỏ mặt:
- Thiếu Tổng Giám lượng thứ cho! Từ ngày chứng kiến cảnh hành lạc của Hải Hà Tiên Tử với Nhị phán quan, bọn đệ tử luôn bị ám ảnh, không còn giữ gìn được đạo tâm nữa.
Hãn Thanh mỉm cười độ lượng:
- Không sao! Đó là bản năng tự nhiên của con người. Sau này theo ta, sẽ có dịp hưởng lạc thú nhân gian. Đâu đâu cũng có những nơi gọi là kỹ viện để nam nhân giải tỏa tâm sự.
Bốn gã Quỷ Tốt nghe nói được chàng cho tháp tùng, mừng rỡ quỳ cả xuống:
- Bọn đệ tử xin hết dạ hầu hạ Thiếu Tổng Giám!
Chàng đỡ họ lên rồi nói:
- Ta đang trên đường đi Tứ Xuyên đón chuyết thê, xong việc sẽ đến U Linh Cốc minh oan cho các ngươi. Từ nay, cứ gọi ta là công tử, xưng là thuộc hạ.
Hồng Đường Tứ Vệ hân hoan vâng dạ, đua nhau rót rượu ra mắt. Hãn Thanh chợt nhớ ra:
- Này Tứ Vệ! Hôm ấy ta bị Tổng Giám đả thương, hôn mê bất tỉnh.
Nhưng vì sao mãi bảy ngày sau mới rời khỏi U Linh Cốc?
Nhị Vệ Quách Phủ đảo đôi mắt to tròn tinh anh, ngập ngừng đáp:
- Thuộc hạ tình cờ biết được ẩn tình ấy. Số là sau khi công tử ngất đi, có đến năm người trong hội đồng phán quan đòi bắt giam công tử để đổi lấy họa đồ Kim Ngọc Bồng Lai Đảo của Hầu Phủ. Nhị phán quan là người khởi xướng việc này. Họ tranh cãi suốt mấy ngày trời, cuối cùng Tề Tổng Giám phải dùng đến ém Dương Lệnh Kỳ mới trấn áp được năm vị phán quan kia. Cũng nhờ có Đại phán quan và Lục phán quan hỗ trợ, nếu không thì Tổng Giám cũng khó thắng được.
Hãn Thanh cau mày:
- Còn việc Tề Đạm Vân không được đi theo ta là vì lý do gì?
Tứ Vệ Mễ Bất Thông cũng muốn góp công. Gã cười toe toét nói:
- Bẩm công tử! Mười một năm trước, Tề tiểu thư được hứa gả cho con trai của Nam Thiên Quỷ Hồ Tổng Giám ở Tứ Xuyên. Sau Tề Đạm Vân phạm tội, bị lưu đày đến Yến Sơn nên hôn sự không thành. Nay tiểu thư được gã cho công tử thì Tề Tổng Giám phải trả lại sính lễ cho Nam Thien Tổng Giám, rồi mới cho nàng về làm dâu họ Mộ Dung!
Hãn Thanh giật mình:
- Té ra ém Dương Đạo lại có đến hai phái Bắc Nam ư?
Nhất Vệ ứng tiếng:
- Thưa phải! Nam Thiên Tổng Giám tên gọi Tư Không Nhạ, cai quản giáo chúng Tứ Xuyên và các tỉnh phía Nam Trường Giang.
Hãn Thanh bỗng linh cảm rằng Tiểu Thuần có liên quan đến tà phái này, chàng vội hỏi:
- Chư vị có biết trọng địa của họ Ở đâu không?
Chàng thất vọng khi bốn gã Quỷ Tốt đều lắc đầu!
Sáng hôm sau, Hãn Thanh cùng U Linh Tứ Vệ rời thành Trường An, đi chếch xuống hướng Tây Nam để đến Hán Trung, rồi từ đấy sang đất Tứ Xuyên! Cuối tháng sáu, bọn Hãn Thanh vào thành Hán Trung. Trời đã chiều nên họ ghé ngang khách điếm. Tắm gội, ăn uống xong, Hãn Thanh cười bảo:
- Đối diện khách điếm này là Lan Hương kỹ viện, các ngươi hãy sang đấy mà hưởng lạc!
Chàng phát cho mỗi gã nén vàng hai chục lượng, Tứ Vệ khoan khoái đi ngay.
Hãn Thanh là người cương cường nên đã cố tìm cách trấn áp lữa dục trong lòng. Ngay trước hai tuyệt thế mỹ nhân là Ngũ Đài Ma Cơ, Viên Nguyệt Hằng Nga chàng cũng chẳng động tình. Chàng cố chờ đến lúc rước được Trịnh Tiểu Thuần và Tề Đạm Vân về Lạc Dương tổ chức đại hỷ. Hãn Thanh cảm thấy có lỗi với Tiểu Thuần khi vương vấn thêm đến ba giai nhân nữa.
Chàng sai tiểu nhị dọn bàn nhỏ nơi lan can lầu để ngắm cảnh trời sao và cảnh hoa lệ trong thành. Hán Trung nằm ở giữa bờ Bắc sông Hán Thủy, là cửa ngõ vào đất Ba Thục nên cực kỳ sầm uất. Phù sa sông Vị và sông Hán đã bồi đắp cho đồng lúa bạt ngàn chung quanh thành. Hàng hóa, thổ sản của vùng phía Nam Thiểm Tây và Bắc Tứ Xuyên đều tập trung tại đây, để đưa xuống Giang Nam và ra cửa biển.
Do kinh tế phồn vinh nên phố phường tấp nập khách phong lưu, tiếng cười nói đàn hát rộn ràng dưới ánh đèn nến sáng rực.
Hãn Thanh ngồi nhâm nhi chén rượu, hồi tưởng đến quá khứ. Hình bóng mẫu thân hiện về khiến tim chàng như thắt lại! Rồi đến những ngày học nghệ bên bờ Hồ Đại Lai, chàng bỗng nhớ sư phụ vô vàn. Kỷ niệm về Tiểu Thuần cũng hiện lên, nổng thắm như mới hôm qua. Chàng miên man suy nghĩ mãi cho đến tận cuối canh hai.
Chiếc đèn lồng trên cột lan can đã tắt lịm. Hãn Thanh chẳng buồn gọi tiểu nhị, ngồi im trong bóng tối.
Bỗng chàng nhận ra trên nóc dãy nhà đối diện, cách đấy chừng chục căn, có bóng đen lướt nhanh, trên vai là một người áo trắng, tóc lất phất buông dài.
Đồng thời, từ nơi gã chui lên vang dậy tiếng người la hét:
- Bắt dâm tặc!
Hãn Thanh chụp ngay lấy chiếc đĩa đựng lạc rang thủ sẵn. Khi gã áo đen kia lướt ngang qua nóc nhà trước mặt, chàng vận toàn lực ném mạnh chiếc đĩa. Hãn Thanh học nghề ám khí từ nhỏ nên thủ pháp rất chuẩn xác. Chàng sợ tổn thương nạn nhân nên nhắm ngay chân gã hắc y. Chiếc đĩa bay đi như ánh sao băng, cắm vào bắp chân trái đối phương. Gã dâm tặc đau đớn rú lên, buông rơi thiếu nữ, lảo đảo chạy tiếp, lát sau mất hút.
Thiếu nữ kia lăn tròn trên mái ngói, nhưng không rơi xuống đất vì bị tấm bảng gỗ vẽ chiêu bài Lan Hương kỹ viện cản lại. Hãn Thanh đã tính đến việc này khi hạ thủ.
Toán người nhà của nạn nhân đã chạy đến, mừng rỡ hò nhau bắc thang đưa người xuống.
Thế mà cuộc hỗn loạn này cũng không phá vỡ giấc vu sơn của U Linh Tứ Vệ. bốn gã vẫn miệt mài truy hoan, chẳng chịu về.
Hãn Thanh tủm tỉm cười, trở vào phòng đi ngủ trước. Chàng hài lòng khi cứu được người, nhưng không ngờ rằng mình vừa gieo mầm tai họa ở tương lai.
Mãi gần sáng, Hãn Thanh chợt tỉnh giấc vì tiếng lục đục ở hai phòng bên cạnh. Té ra bốn gã Quỷ Tốt đã về!
Hãn Thanh ngủ thêm một lúc, ngồi dậy tọa công đến tận cuối giờ Thìn.
Chàng gọi Tứ Vệ dậy ăn sáng rồi lên đường.
Xem ra bản lãnh bọn kỹ nữ rất lợi hại nên bốn gã Quỷ Tốt uể oải, mệt mỏi như vừa trải qua một trận tử chiến.
Chúng đỏ mặt thẹn thùng, không dám nhìn thẳng vào mắt Hãn Thanh.
Nhưng khi ra khỏi cửa Nam thành, Tứ Vệ đã cười nói, kể lại thành tích đêm qua. Tất nhiên, ai cũng khoe rằng mình thần dũng vô song, liên tiếp phá qua, đạp lũng khiến bọn kỹ nữ phục lăn.
Tam Vệ Lộ Vi Nhân hiu hiu tự đác nói:
- Lần sau tiểu đệ phải gọi một lượt hai cô mới xứng tay!
Nhị Vệ Quách Phủ cười mỉa:
- Lạ thực! Thế mà đêm qua ta nghe phòng ngươi im ắng như tờ, mới giữa canh ba đã nghe tiếng ngáy vang.
Họ Lộ ngượng ngùng:
- Nhị ca lầm rồi! Đấy là ả kỹ nữ kia ngáy chứ đâu phải tiểu đệ!
Tứ Vệ Mễ Bất Thông cười hì hì:
- Hay thực! Tam ca thượng mã cả đêm mà nàng ta vẫn ngủ say được, quả là quái sự! Té ra ả kỹ nữ kia bản lãnh tuyệt luân, vừa hành nghề vừa ngủ để dưỡng sức!
Cả bọn cười phì, còn Lộ Vi Nhân đỏ mặt tía tai, không dám khoác lác nữa.
Năm người đến bến đò sông Hán, lên thuyền sang bờ Nam, cơn mưa hạ khiến trời u ám, ánh dương quang lịm tắt. Gió mưa làm mặt sông dựng sóng, và lòng người thêm buồn vì nhớ đến cố nhân. Năm xưa, Hãn Thanh quen với Tiểu Thuần cũng bởi một cơn mưa mùa hạ thế này. Hãn Thanh nghe lòng buồn vời vợi, khe khẽ ngâm nga:
Mưa rơi lớp lớp sông dài Gió vỗ sóng nước, u hoài lòng ta Biệt ly ngàn dặm chia xa Vó câu khấp khểnh gian hà ngược xuôi Nhớ xưa đường cũ sánh đôi Nay mưa, chiếc bóng ướt môi lạnh lùng Tìm nhau cho vẹn tinh chung Quỷ Môn đâu tá, bóng hồng gặp chăng?
Chàng luôn lo lắng không tìm ra Quỷ Môn Quan chỉ có trong thuyết kia nên tức cảnh sinh tình, làm thơ nói lên tâm sự.
Đò cặp bờ Nam thì cơn mưa cũng tạnh. Bọn Hãn Thanh thúc ngựa phi mau, năm ngày sau chỉ còn cách thành Quảng Nguyên vài mươi dặm. Đây là giao lộ với đường từ Bảo Kê đi Thành Đô, nên khách thương hồ tấp nập, xe ngựa hàng đoàn. Hãn Thanh phải cho tuấn mã đi chậm lại, đồng hành với một toán lữ hành.
Chàng ngạc nhiên khi thấy có một hán tử áo choàng trắng, cỡi lạc đà chứ không phải ngựa. Gã có vóc dáng tương tự như Hãn Thanh, gương mặt rắn rỏi, vuôn vức, tuổi độ bốn mươi. Lủng lẳng bên hông gã là một thanh đoản đao, vỏ nạm châu báu sáng ngời.
Gọi là đoản đao nhưng thực ra nó cũng dài bằng trường kiếm, vì trường đao có kích thước đến một trượng đời Đường (khoảng cm) nặng năm mươi cân. Trường đao hay đại đao cán dài là vũ khí trong quân đội, khách võ lâm ít ai dùng đến.
Đoản đao thường chỉ sắc một bề, sống dày, nên gọi là đơn đao. Nếu lưỡi hơi cong hơn bình thường thì thuộc loại loan đao. Còn có một loại đao hình kiếm bản lớn, thẳng, mũi sắc cả hai cạnh nhưng không thông dụng.
Như vậy, xét theo hình dáng vỏ đao thì gã bạch y cỡi lạc đà kia xử dụng loan đao. U Linh Tứ Vệ chưa hề thấy qua loài vật đặc biệt của sa mạc, nên chỉ trỏ bàn tán xôn xao. Hãn Thanh bèn giải thích:
- Tên của con thú ấy là Lạc Đà, là loài duy nhất có thể đưa người ta vượt sa mạc. Nó có thể nhịn khát nửa tháng mà không chết, và khi gặp nước nó uống một lần bốn năm đấu mới no.
Tam Vệ Lộ Vi Nhân thắc mắc:
- Bẩm công tử! Sao con vật này lại có lông trắng?
Chàng cười đáp:
- Đây là giống Bạch Đà Tây Vực rất quý hiếm. Tuy thấp lùn, bước nhỏ nhưng sức đi ngàn dặm, bền bỉ phi thường.
Hãn Thanh đi sau mấy trượng, lại không nói lớn, thế mà hán tử nghe thấy, quay lại nhìn chàng. Đôi mắt gã sáng rực và lạnh lẽo nhu băng. Tuy nhiên, gã chẳng nói gì, thúc Bạch Đà tăng tốc độ bỏ rơi đoàn người.
Trung Hoa ngày xưa có đến hai phần ba diện tích là núi rừng, nên đi đâu cũng gặp. Hai bên đoạn quan đạo phía trước là cánh rừng thưa, vệ đường lau lách mọc đầy nhờ mùa hạ.
Hán tử Tây Vực kia phi rất nhanh, nên cách xa Hãn Thanh hàng trăm trượng. Nhưng gã vừa đến khúc giữa rừng, liền lọt vào ổ mai phục, trường tiễn bay veo véo, phủ kín toàn thân.
Hán tử áo trắng vừa nghe tiếng dây cung bật đã kịp rút đao múa tít, tạo thành màn lưới thép hộ thân.
Bạch Đà chạy thêm vài trượng, khuỵu xuống vì hai vó sau bị trúng tên.
Hán tử bạch y tung mình rời yên, giận dữ quát vang như sấm:
- Bọn cường đạo khốn kiếp!
Lúc này các cung thủ đã thôi không bắn, nhảy ra vây chặt đối phương.
Đồng thời có tiếng quát ghê rợn:
- Mộ Dung Hãn Thanh! Phen này ngươi phải đền mạng cho con trai ta!
Hãn Thanh đã đến đầu rừng chứng kiến mọi việc. Chàng thở dài hối tiếc cho gã cỡi lạc đà. Chiếc áo choàng trắng thấm nước mưa, rũ xuống che mất cái bứu nhỏ của Bạch Đà, nên bọn Thần Tiên Giáo đã ngộ nhận gã là chàng!
Hán tử Tây Vực gầm lên:
- Lão nói nhăng gì thế? Ta vừa vào đến Trung Nguyên, làm gì có thù oán với ai?
Gã huýt sáo bảo Bạch Đà gượng chạy về phía sau, rồi vung đao tấn công liền. Đối tượng của gã chính là Kim Thạch Tà Tẩu Mộc Tiểu Luân.
Từ ngày bị Hãn Thanh hủy mất một mắt và tay cầm kiếm, võ công Tà Tẩu chỉ còn có hai phần. Mối hận thù chồng chất khiến lão căm hờn Hãn Thanh đến tận xương tủy. Tìm đến Hầu Phủ thì không được, vì doanh trại của Tổng Binh Lạc Dương ở gần đấy. Thế nên lão xung phong đi Tứ Xuyên chạn đường Tiểu Hầu Gia!
Thấy hán tử áo trắng kia cỡi một con vật có đầu của lạc đà, lại phi nhanh như muốn tránh mai phục. Tà Tẩu vội cho đội cung nỏ hạ thủ ngay. Lão quan niệm rằng thà giết lầm còn hơn bỏ sót. Hơn nữa, ở đất Tứ Xuyên này làm gì có ai cỡi lạc đà.
Nay biết mình lầm lẫn, Kim Thạch Tà Tẩu vô cùng bối rối. Nhưng sự việc đã lỡ, lão đành phải xuôi theo, ra lệnh cho bọn thủ hạ chặn đối phương lại.
Nhưng đao pháp của gã hán tử Tây Vực này quả là đáng sợ. Cánh tay trần của gã cuồn cuộn những bắp thịt, đường đao mãnh liệt như chẻ núi. Thanh loan đao trong tay gã lại sắc bén phi thường, lập tức chặt gãy vũ khí của hai tên giáo chúng, tiện phăng thủ cấp. Gã tả xung hữu đột trong vòng vây, liên tiếp đắc thủ, giết một hơi tám gã giáo chúng Thần Tiên Giáo.
Đứng cạnh Tà Tẩu là một lão nhân cao lớn, tóc hoa râm, râu ba chòm đen nhánh. Trán cao, mũi thẳng, miệng rộng. Nhưng sắc diện lại lạnh lùng như tạc bằng băng tuyết. Lão nhân ấy mặc trường bào tím đậm, tay cầm đao. Có vỏ bằng da cá đen nhánh. Sau khi quan sát kỹ đao pháp của hán tử Tây Vực, Tử Y lão nhân thở dài:
- Mộc lão huynh đã gây họa rồi! Gã này có lẽ là Tây Hạ Ma Đao Uông Vô Hồi, đệ tử của Tây Thiên Lão Tổ Cù Long Đỉnh!
Kim Thạch Tà Tẩu cười nhạt:
- Đã lỡ lên lưng cọp, muốn xuống cũng chẳng được! Chỉ cần giết gã rồi phi tang, ai biết đâu mà báo oán! Mong Lục lão đệ sớm ra tay cho.
Thì ra lão nhân áo tím này là Đông Nhạc Thần Đao Lục Kính Nghiêm.
Họ Lục có giao tình thâm hậu với Tà Tẩu nên đã đi theo để giúp Mộc Tiểu Luân đối phó với Tiểu Hầu Gia. Đông Nhạc Thần Đao tin rằng mình sẽ giết được Hãn Thanh, vì bảo đao của lão có từ tính rất mạnh, phá được mọi loại ám khí bằng thép.
Lục Kính Nghiêm bước ra quát lớn:
- Dừng tay!
Bọn giáo đồ lập tức nhảy lùi và Tây Hạ Ma Đao cũng đình thủ. Gã hất cao vành nón rộng, quắc mắt nhìn họ Lục rồi hậm hực:
- Bọn ngươi là cẩu tặc phương nào mà lại dở trò mai phục, ám toán một cách hạ lưu như vậy?
Đông Nhạc Thần Đao bị mạt sát thậm tệ, liền nổi nóng, không còn nghĩ đến chuyện điều đình nữa. Lão cười nhạt:
- Lâo phu không định lấy cái mạng chó của ngươi, nhưng những lời thóa mạ kia đã tước đoạt sinh cơ của ngươi rồi đấy!
Tây Hạ Ma Đao đâu biết đối phương là ai, gã đau lòng vì con vật thân yêu bị thương nên hung hãn xông vào. Đao quang xanh biếc, lấp loáng dưới ánh dương quang, chụp lấy kẻ địch.
Đông Nhạc Thần Đao vẫn tự hào mình là người dùng đao giỏi nhất thiên hạ. Thanh đao trong vỏ bay ra như ánh chớp, hóa thành ngàn bóng ảnh tím mờ. Hai thanh đao chạm nhau, tiếng thép tốt ngân dài rồi tắt lịm.
Tây Hạ Ma Đao Uông Vô Hồi nhảy lùi, vai trái và ngực phải trúng đòn, máu tuôn ướt áo. Gã nghiến răng điểm huyệt chỉ huyết rồi lại xông vào, lần này công ít thủ nhiều, đao quang liền lạc, kín đáo. Đông Nhạc Thần Đao cũng muốn tìm hiểu đao pháp Tây Vực nên không hạ độc thủ ngay, ung dung giải phá.
Chắc độc giả thắc mắc là vì sao Hãn Thanh không xuất hiện, mà nỡ để họ Uông mang họa vì mình?
Thưa không, chàng đang bận chăm sóc vết thương cho Bạch Đà.
Khi trúng tên vào hai chân sau, Bạch Đà nhờ sức khỏe phi thường nên đã gượng dậy, theo lời chủ nhân mà chạy ngược lại, để tránh xa đấu trường. Nó khập khễnh bước đi, đi đến đầu rừng thì khựng lại vì đường quan đạo đã bị chặn kín bởi xe, ngựa của khách lữ hành.
Bạch Đà sợ hãi dừng bước, kêu lên những tiếng bi thương. Hãn Thanh khẽ huýt sáo theo một âm điệu lạ tai. Bạch Đà như nhận ra người quen, nhìn chàng mừng rỡ, đuôi vẫy nhanh miệng hí nhỏ.
Hãn Thanh xuống ngựa, bước đến ôm cổ nó vuốt ve và thì thầm điều gì đó, rồi tiến hành việc trị thương. Chàng nhổ hai mũi tên ra khỏi đùi con vật, bóp nát hai viên Tịch Cốc Toàn Sinh hoàn, đắp vào vết thương. Đây là loại thuốc quý nên máu cầm ngay và cảm giác đau đớn mất dần. Hãn Thanh xé áo choàng băng chặt lại, dẫn con vật vào bóng mát bên đường. Bạch Đà tỏ lòng biết ơn bằng cách liếm tay chàng.
Hãn Thanh vừa làm vừa quan sát cuộc chiến giữa Uông Vô Hồi, thầm khâm phục đao pháp của gã. Nhưng chàng cũng nhận ra đối thủ của họ Uông là Đông Nhạc Thần Đao nhờ màn đao quang tím nhạt. Chàng biết Uông Vô Hồi không thể thoát chết, nên quyết định hành động ngay.
Hãn Thanh nói nhỏ với U Linh Tứ Vệ:
- Bọn Thần Tiên Giáo mai phục để giết ta, không ngờ lại nhận lầm người.
Các ngươi mau luồn ra phía sau, tập kích bọn giáo đồ, không được để sót một tên!
Bốn gã Quỷ Tốt hăng hái đi ngay. Hãn Thanh nói bâng quơ với đoàn ngươi:
- Trận quyết đấu này quả là ngàn năm có một, tại hạ phải đến gần để xem cho thỏa mãn.
Phàm là người học võ, ai cũng khao khát được chứng kiến những cuộc so tài như thế, do vậy, có mấy chục khách võ lâm hưởng ứng đi ngay. Họ đi theo Hãn Thanh đến sát đấu trường.
Lúc này, trên người của Uông Vô Hồi đã có thêm bốn dấu đao nữa.
Nhưng gã vẫn kiên cường lao vào địch thủ, dũng mãnh như thẩn long.
Kim Thạch Tà Tẩu và năm mươi thủ hạ siết chặc vòng vây, đứng dọc bìa rừng và chặn ngang quan đạo.
Nào ngờ, từ trên tàn cây mỗi bên có hai bóng ảnh lao xuống, chưởng kình vũ bảo kèm theo bụi trắng mờ.
Chất độc Vụ Tảo Thiên Quân là vũ khí trấn sơn của ém Dương Đạo giết người trong nháy mắt. Do đó, chỉ đợt tấn công đầu tiên, U Linh Tứ Vệ đã loại được hai chục kẻ địch.
Kim Thạch Tà Tẩu kinh hãi hét lên:
- ém Dương Đạo!
Lão đã mất gần hết võ công nên không dám sính cường, vội đào tẩu ngay, để mặc thủ hạ chết dưới tay U Linh Tứ Vệ. Thân pháp của lão vẫn nhanh nhẹn tuyệt luân, nhưng còn chậm hơn khinh công ®o ®nh.
Nhất Vệ Đạng Thám nhớ lời dặn của Hãn Thanh nên không dám để ai đào vong. Gã lập tức lao theo Mộc Tiểu Luân, chỉ vài chục trượng đã bắt kịp đối phương.
Mộc Tiểu Luân đâu ngờ ®o ®nh Thân Pháp lại nhanh và êm ái như ma quỷ, nên không phát hiện được tiếng gió giũ y phục của lão đã che mất hành tung của Nhất Vệ. Khi Tà Tẩu nhận ra thì đã quá muộn. Song chưởng của Đạng Thám vỗ vào lưng lão như chùy sắt, khiến tâm mạch đứt đoạn, hộc máu chết ngay.
Nhất vệ cẩn thận thăm mạch, xác định đối phương đã chết hẳn mới yên tâm quay về. Gã là người cẩn trọng, chu đáo nên mới được giao trọng trách bảo vệ U Linh Cốc.
Nhắc lại, Hãn Thanh vừa thấy thủ hạ ra tay, đã tung mình khỏi yên ngựa, lướt về phía Đông Nhạc Thần Đao. Chàng dồn hết chân khí vào bảo kiếm, xuất chiêu Trùng Dương Cúc Tiếu.
Cũng như chiêu chưởng Cửu Cửu Nhất Nguyên, chiêu kiếm này cũng gồm tám mươi mốt thức kiếm, vì vậy, Bất Biệt Cư Sĩ mới mượn chữ Trùng Dương mà đặt tên.
Kiếm ảnh không tỏa rộng mà vung nên chín bông cúc nở rộ, tấn công vào chín phương vị trên thân thể của Lục Thần Đao.
Thân pháp và kiếm ý đã tố cáo lai lịch của Hãn Thanh. Lục Kính Nghiêm không dám xem thường. Bỏ Uông Vô Hồn, quay sang đón chiêu. Dẫu sao, lão cũng bị chậm mất một khoảnh khắc quý giá. Đao kiếm chạm nhau chan chát, song phương cùng lui lại.
Bắp tay trái của Đông Nhạc Thần Đao bị Hầu Tước Kiếm đâm thủng, nhưng ngực phải Hãn Thanh cũng vướng đao rách áo, đứt da.
Tây Hạ Ma Đao thấy có người tham chiến, nhẩy vào vệ đường chăm sóc vét thương. Gã nhìn dáo dác, nhận ra Bạch Đà vẫn an toàn, hai chân được băng bó, thản nhiên gặm cỏ. Gã đoán rằng chính hán tử áo lam kia đã cứu vật yêu của mình.
Ma Đao tròn mát quan sát, nhận ra người mới đến có bản lĩnh rất cao siêu, hiện đang đấu cầm đồng với Đông Nhạc Thần Đao. Uông Vô Hồi tuy ở tận Tây Hạ nhưng cũng biết tiếng Lục Kính Nghiêm. Luồng đao quang màu tím của lão ta là tiêu chí không lầm được! Họ Uông quên cả đau đớn, dán mắt vào cuộc tử đấu kia.
Phần Hãn Thanh cũng dồn hết tâm trí vào trận chiến. Công lực họ Lục thâm hậu gấp đôi chàng, nên dù bị thương cũng dần dần chiếm được thượng phong.
Pho Tử Quang Đao Pháp đã tạo nên thanh danh cho Lục Kính Nghiêm.
Nhất là sau khi Bạch Y Hầu đả bại, lão đã khổ công bổ xuyến, giờ đây đạt đến mức toàn bích, lợi hại khôn lường. Giả như Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên còn sống cũng chưa chắc đã thắng được Lục Kính Nghiêm.
Hãn Thanh đã dung hóa Mộ Dung kiếm pháp gia truyền vào sở học.
Chàng tùy cơ mà xuất chieu chứ không phân biệt lai lịch. Suốt năm năm ở Hồ Đạt Lai, chàng chỉ chuyên luyện có kiếm pháp mà thôi, vì các công phu khác đã được học từ nhỏ. Nhờ vậy Hãn Thanh mới có thể tiếp thu được hết pho Nhất Nguyên Kiếm Pháp bao la, uyên ảo nhất thế gian.
Giờ đây, Hãn Thanh đem hết vốn liếng ra quần thảo với tay đao số một Trung Nguyên. Đường kiếm của chàng liên miên bất tuyệt, nối nhau tựa sóng Hoàng Hà và nhanh như thiểm diện.
Phép khoái kiếm kỳ ảo này đã bổ sung được phần yếu kém về nội lực, mấy lần suýt lấy mạng đối phương. Nhưng mỗi lúc lâm nguy, Đông Nhạc Thần Đao lại dồn thêm chân khí vào thân đao, đánh bạt bảo kiếm của Hãn Thanh. Công lực thâm hậu của lão đã phá được những chiêu kiếm kỳ ảo kia, dù ngực và bạch thủy chín lỗ rướm máu.
Đồng thời, mũi tử đao cũng rạch tám đường trên người Hãn Thanh. Đã bốn trăm chiêu đã qua mà vẫn chưa phân thắng bại. Lục Kính Nghiêm đã nghe bọn hào khách quan chiến khen ngợi đối thủ của mình, tự ái tổn thương, liền hạ độc thủ. Lão biết chân khí Hãn Thanh đã hao hụt khá nhiều, nên dồn toàn lực tung mình lên không trung, thi triển phép Ngự Đao, hóa thành trái cầu tím lịm, chụp xuống đầu đối thủ.
Hãn Thanh thấy chiêu đao nặng như núi Thái, không dám chống đỡ, liền phóng mạnh bảo kiếm vào thân dưới đối phương. Cũng đã dồn hết sức nên thanh Hầu Tước Kiếm bay đi như ánh chớp. Đương nhiên, Đông Nhạc Thần Đao phải đánh bật ra và chậm mất một nhịp. Nhân cơ hội ấy, Hãn Thanh đảo bộ lùi nhanh, thoát khỏi phạm vi khống chế của chiêu đao.
Lục Kính Nghiêm đành bỏ dở chiêu thức, hạ chân xuống đất, cười nhạt:
- Nay đã không có vũ khí trên tay, Tiểu Hầu kia muốn trăn trối điều gì xin cứ nói.
Hãn Thanh mỉm cười:
- Chưa chắc ai là người cần nói lời di chúc!
Vừa dứt câu, Hãn Thanh ập đến như cơn lốc, thân ảnh chập chờn và song thủ hóa thành muôn bàn tay vàng huyền ảo. Chàng đã thi triển chiêu Huyền Hoặc Phủ Sinh trong ®o ®nh Tam Chiêu.
Đông Nhạc Kỳ Nhân giật mình trước chiêu chưởng quái dị, vội múa tít Tử Quang chống đỡ.
Đối với bậc đại hành gia, chiêu thức tùy tâm khi phát nên tuy bất ngờ mà đường đao vận kín kẽ, công thủ có đủ. Lục Kính Nghiêm tin rằng sẽ chẻ đôi thân hình đối phương không khó.
Nào ngờ ®o ®nh Chưởng Pháp lại là tuyệt học của tà môn, biến ảo phi thường, không hiểu đã bằng cách nào đã lan qua được màn đao quang dầy đặc vỗ vào ngực Đông Nhạc Thần Đao!
Hãn Thanh đã dùng đến thủ pháp Kim Sa Ấn, phổ vào chiêu chưởng nên lực đạo rất nặng nề. Đông Nhạc Thần Đao trúng đòn, hự lên rồi hộc máu thành vòi. Nếu không có lớp cương khí hộ thân, xương lồng ngực của lão đã dập nát. Lục Kính nghiêm chẳng dám chần chờ, tung mình đào tẩu vào rừng mất dạng.
U Linh Tứ Vệ đã thanh toán xong bọn thủ hạ Thần Tiên Giáo, đứng quan chiến, thấy Lục Kính Nghiêm bỏ chạy, họ định đuổi theo nhưng đã bị Hãn Thanh cản lại:
- Không cần đâu! Lão đã vào rừng, đuổi theo rất nguy hiểm!
Bốn gã Quỷ Tốt rất cảm động khi thấy chàng lo lắng cho họ! Tứ Vệ chạy đi nhặt thanh Hầu Tước Kiếm, mỉm cười toe toét:
- Lão quỷ già kia trúng chưởng hộc cả máu mồm mà vẫn chạy nhanh ra phết.
Hãn Thanh bước đến, đối diện Tây Hạ Ma Đao, lột mặt nạ, vòng tay cung kính nói:
- Tiểu đệ chính là Mộ Dung Hãn Thanh. Vì tiểu đệ mà huynh đài thọ nạn. Lòng này áy náy xiết bao!
Uông Vô Hồi hân hoan cười hào sảng:
- Chuyện tai bay vạ gió là thường tình trong thiên hạ, công tử nào có lỗi gì! Đúng ra Uông mỗ còn phải cảm tạ công tử đã cứu mạng và chữa trị cho Bạch Đà!
Lúc này, con vật thông linh đã đến bên họ Uông.
Hãn Thanh bỗng có cảm tình với hán tử Tây Vực này. Chàng cười bảo - Bạc Đà chỉ bị thương nhẹ, tiểu đệ đã dùng loại linh đan của Thiết Địch Thần Y nên chỉ hai hôm là lành thôi.
Chàng quay ra, quan sát đoàn xe, thấy một chiếc trống rỗng liền chặn lại:
- Tại hạ muốn mua chiếc xe này, mong túc hạ vui lòng nhượng lại!
Bọn lái buôn đã chứng kiến bản lãn thần sầu quỷ khốc của chàng nên vô cùng kính phục, răm rắp tuân lời:
- Xin công tử cứ lấy mà dùng, nó chẳng đáng bao nhiêu cả.
Hãn Thanh mỉm cười, nhét nén vàng mười lượng vào tay gã:
- Mong túc hạ nhận cho, nếu không Thanh này sẽ rất hỗ thẹn!
ít thì có thể chê chứ mười lượng vàng thì quả là khó chối từ. Gã lái buôn khom lưng cảm tạ, giao xe cho Hãn Thanh.
Chàng nói với Uông Vô Hồi:
- Uông huynh hãy đưa Bạch Đà lên xe, chúng ta phải tìm nơi uống mừng hội ngộ mới được!
Tây Hạ Ma Đao hài lòng, đẩy Bạch Đà lên thùng xe không mui, bảo nó nằm xuống, rồi lên làm xà ích, đi theo bọn Hãn Thanh.
Hai khắc sau, sáu người đã vào đến thành Quảng Nguyên, ghé ngay tửu điếm ở cửa Bắc. Vì nơi đây rộng rãi, mát mẻ.
ún uống, chuyện trò tương đắc đến hơn nửa canh giờ Uông Vô Hồi mới chia tay Hãn Thanh, đi dọc theo sông Gia Lăng, để đến nơi đã định. còn bọn Hãn Thanh vượt sông đi về hướng Thành Đô. Quảng Nguyên nằm ở bờ Đông sông Gia Lăng. phong cảnh sông nước núi đồi và cây cối hai bờ con sông này là danh lam thắng cảnh đất Tứ Xuyên.
Hai đại danh họa đời Đường là Ngô Đạo Tử và Lý Tư Huấn đã phục mệnh vua Đường đến Tứ Xuyên để vẽ cảnh vật sông Gia Lăng.
Lý Tư Huấn chiếu theo thực tế trước mặt, cặm cụi vẽ một tháng ròng mới xong. Trong lúc ấy, Ngô Đạo Tử chỉ nhởn nhơ dạo chơi, ngắm nghía. Lúc về triều, Ngô Đạo Tử lấy giấy bút, vẽ theo ký ức, trong một ngày đã vẽ xong bức Bách Lý Gia Lăng Giang. Cả hai tác phẩm kiệt xuất như nhau, được vua Đường khen rằng "Giai cực kỳ diện", nghĩa là cả hai đều hay tuyệt!
Nhưng giờ đây, Hãn Thanh không còn tâm trí đâu mà thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên cẩm tú này. Lòng chàng đang nặng trĩu ưu tư vì những lời nói của Tây Hạ Ma Đao Uông Vô Hồi!
Ma Đao đã cùng chàng kết tình bằng hữu, sau đó tiết lộ rằng tấm hải đổ Kim Ngọc Bổng Lai Đảo của giòng họ Mộ Dung gởi trong quốc khố đã bị một vị Hoàng Thân đầy thế lực và nhiều tham vọng chiếm đoạt. Lão ta đã chuẩn bị thuyền bè, chờ ngày ra Đông Hải. Do có mối giao tình thâm hậu với sư phụ của Ma Đao, nên Hải Trường Công đã gởi thơ mời Tây Thiên Lão Tổ tham gia cuộc hải hành vì lão tổ đã từng dọc biển Đông suốt ba mươi năm ròng.
Nhưng Tây Môn Lão Tổ đang thời kỳ tọa quan khẩn yếu nên không đi được. Ông bèn sai Ma Đao đến núi Lăng Sơn cạnh sông Gia Lăng tìm người nghĩa đệ đi thay. Hải Thượng Tu La Thái Vang Thông thuộc Đông Hải như lòng bàn tay, tất sẽ giúp HảI Trường Công Chu Kích tìm ra Bổng Lai Đảo.
Hãn Thanh lo sợ rằng lão gian thần kia sẽ vét sạch tài sản và đưa mấy ngàn dân mình đồng da sắt trên đảo vào Trung Nguyên để tạo phản.
Với số vàng ngọc khổng lồ kia, Hải Trường Công dễ dàng chiêu binh mãi mã, vì người đời có mấy ai thoát khỏi sự cám dỗ của hoàng kim? Ngay Hải Hà Tiên Tử, hai lần xuất đạo khai giáo, cũng chỉ do mưu cầu danh và lợi mà thôi!
Chu Kích là đương kim Tổng Đốc Sơn Đông, có trong tay mười vạn quân, cộng với ưu thế mới, việc tạo phản chẳng khó gì!
Quân Mãn Châu ngày đêm uy hiếp biên thùy phía Bắc, đã mấy chục năm khiến quốc khố cạn kiệt vì phải duy trì trăm vạn quân phòng thủ Sơn Hải Quan Hà và một dài trường thành.
Triều đình thiếu ngân sách binh bị, nên đã liên tục tăng thuế khiến sinh linh đồ thán, giặc cướp nổi lên như cỏ dại. Trong tình hình này nếu Hải Trường Công làm phản, đất nước sẽ đại loạn. Lúc ấy, bách tính rơi vào cảnh lầm than, chết chóc, đau khổ không sao tả xiết.
Hãn Thanh tưỵ nhận trách nhiệm về mình, vì tấm hải đồ kia là của giòng họ Mộ Dung. Trong huyết quản chàng đang sục sôi giòng máu của người hiệp sĩ, thề sẽ xả thân ngăn chận đại họa cho xã tắc.
Hãn Thanh nhẩm tính còn đến hơn ba tháng nữa là hết mùa mưa bão, đoàn thuyền của Hải Trường Công mới dám ra khơi. Chàng đủ thời gian để lo toan mọi việc, nên không ưu tư nữa.
Đầu tháng bảy, bọn Hãn Thanh đến đất Phong Đô. Khắp nơi mịt mù mùi khói nhang và giấy tiền vàng bạc.
Người Trung Hoa cổ tin rằng ngày đầu tháng bảy là ngày âm phủ mở cửa để ma quỷ ra, đến ngày cuối tháng thì đóng lại. Nghĩa là đến tháng bảy thì tất cả người cô hồn không ai thờ cúng lên thế gian để xin ăn. Do đó, nhà nhà đều bày cỗ bàn cúng tế, bố thí cho vong linh.
Người giàu có thì ngày nào cũng cúng, nhưng người nghèo thì có thể chỉ cúng vào ngày rằm tháng bảy. Ngày này được gọi là tiết Trung Nguyên, một trong những ngày lễ quan trọng của người Trung Hoa.
Phong Đô lại mà nơi có cửa xuống âm ty, nên tiết Trung Nguyên ở đây nhộn nhịp không gì tiết Nguyên Đán hay Trung Thu.
Nhưng khi Hãn Thanh hỏi thăm vị trí của Quỷ Môn Quan thì ai cũng lắc đầu. Chàng liền đưa thủ hạ vào khách điếm nghỉ trọ rồi một mình đến tửu quán lớn nhất thành. Chàng hy vọng rằng ở nơi đông đúc ấy tìm ra manh mối.
Mông Diện La Sát đã từng dạy chàng rằng:
Chưởng quỉ và tiểu nhị Ớ các quán ăn là những người có kiến văn rất rộng vì hàng ngày tiếp xúc với thực khách, nghe được nhiều điều lý thú.
Quả thực vậy, rượu vào lời ra, các tửu khách ngà ngà say thường cao giọng khoe khoang hiểu biết, cố dành lấy sự khâm phục của người chung quanh. Nhờ vậy, những người phục vụ trong tửu quán chẳng cần đi xa cũng đều rất thông thạo tin tức.
Kim Thạch Tà Tẩu đã chết nên Hãn Thanh có thể yên tâm mang chiếc mặt nạ trẻ trung hôm trước lúc đóng vai sư đệ Thương Tâm Kiếm, đến Ngũ Đài Sơn.
Tiếc rằng chàng đã đi hết lượt các quán xá của Phong Đô, chàng vẫn không nghe được câu trả lời. Đã là mười hai tháng bảy, Hãn Thanh vô cùng thất vọng, liền lộ mặt thật, dạo khắp nơi, để xem Tiểu Thuần có tự tìm đến hay không?
Chàng đi trước, bốn gã Quỷ Tốt bám theo sau để bảo vệ, đề phòng thủ đoạn của Thần Tiên Giáo.
Đến chiều mười bốn vẫn chưa thấy âm hao của ái thê, Hãn Thanh buồn bã, vào quán rượu uống chén giải sầu.
Bỗng ngoài cửa quán có tiếng chuông lắc leng keng của một lão thầy bói nào đó. Hãn Thanh nhìn ra thấy một đạo sĩ du phương, râu bạc như mây, tay rung chuông, tay cầm chiêu bài bằng vải, trên ghi dòng chữ:
Nhất Sự Nghi Lai!
Chỉ có bốn chữ đơn giản nhưng hàm ý rằng lão ta giải quyết được mọi sự trên đời, ai có việc gì nghi hoặc cứ đến hỏi.
Hãn Thanh không tin bói toán, nhưng bất giác sinh lòng ngưỡng mộ vẻ tiên phong đạo cốt của ông ta. Chàng bảo tiểu nhị ra mời đạo sĩ vào.
Lão Đạo vào đến, thản nhiên ngồi xuống ghế cười bảo:
- Bần đạo nhịn đói đã bẩy ngày và sanh ý ế ẩm. Công tử muốn hỏi gì thì trước tiên phải đãi bần đạo một bữa thịnh soạn cái đã!
Hãn Thanh gật đầu và bảo tiểu nhị dọn ra thêm năm món đắt tiền nhất và vò rượu lâu năm.
Lão Đạo chậm rãi ăn uống, mỗi miếng đều nhai thật lâu mới nuốt. Bữa ăn của lão kéo dài hơn một canh giờ mới xong và chẳng còn sót lại miếng nào.
Hãn Thanh vẫn kiên nhẫn chờ đợi, tự mình chuốc chén, không hề hối thúc.
Lão Đạo dùng ngay tay áo của chiếc đạo bào trắng cũ kỹ, đã ngả sang màu cháo lòng lau miệng, rồi cười khà:
- Bần đạo là Hoàng Thạch Công, dám hỏi tính danh tài chủ?
Hãn Thanh biết ngay lão dùng tên giả, vì Hoàng Thạch Công là một vị tiên đời Tần, sư phụ Trương Lương. Nhưng chàng không để tâm đến chuyện ấy, cung kính vòng tay đáp:
- Vãn bối là Mộ Dung Hãn Thanh!
Hoàng Thạch Công vẫn điềm nhiên như không hề biết đối phương là Tiểu Hầu Gia vang danh tứ hải. Ông ta gật gù nói:
- Công tử tướng mạo tôn quí tất lắm tiền nhiều bạc. Bần đạo tùy duyên quyên giáo, giàu nghèo lấy giá khác nhau. Do đó, mỗi quẻ sẽ là ngàn lượng bạc.
Tên tiểu nhị nãy giờ cố tình đứng gần để nghe ngóng, liền giật bắn mình, nghĩ thầm lão thầy bói kia đang tìm cách gạt gẫm chàng công tử ngây thơ.
Gã càng bực bội khi thấy Hãn Thanh vui vẻ chấp nhận:
- Vãn bối xin tuân mệnh! Chỉ cần đạo trưởng cho biết vị trí của Quỷ Môn Quan.
Hoàng Thạch Công giật mình gãi đầu đáp:
- Chết thực! Đây là thiên cơ, nói ra sẽ rất nguy hiểm, mong công tử trả gấp đôi mới đáng công của bần đạo.
Gã tiểu nhị giận run người, chỉ muốn xông đến bóp cổ lão thầy bói xảo quyệt kia. Hãn Thanh thường đến đây ăn uống và ban thưởng hậu, nên gã rất mến chàng.
Hãn Thanh lại gật đầu:
- Hai ngàn lượng cũng đáng, mong đạo trưởng chỉ giáo!
Hoàng Thạch Công hài lòng, hắng giọng ngân nga:
Nhân gian đại mộng thùy ngôn tiểu Lô hỏa thuần thanh bạch nhật thăng Tạm dịch:
Mộng lớn đời người ai bảo nhỏ Lò lửa toàn xanh bỗng hóa tiên!
Hãn Thanh nghe xong vòng tay nói:
- Cảm tạ tiên trưởng đã dạy bảo.
Chàng móc hai tờ ngân phiếu ngàn lượng, kính cẩn trao cho lão.
Hoàng Thạch Công nhận lấy, mỉm cười nói rất nhỏ:
- Sáng mai! Một mình đến phía Nam chân núi Dương Sơn chờ ta!
Nói xong, lão đạo trưởng đứng lên đi mất.
Hãn Thanh hân hoan gọi tiểu nhị tính tiền, trở về khách điếm. U Linh Tứ Vệ nãy giờ ngồi cách đấy mấy bàn cũng vội đi theo.
Vào đến phòng, Nhị Vệ Quách Phủ rụt rè hỏi:
- Công tử! Liệu có phải là bẫy rập của Thần Tiên Giáo hay không?
Hãn Thanh lắc đầu giải thích:
- Chắc chắn không phải! Trong bức thư trên áo choàng, Tiểu Thuần không ghi tên mình mà chỉ thư danh là Bạch Nhật Quỷ Hồn. Nay trong hai câu thơ kia có chữ Tiểu và chữ Thuần, tất chẳng phải do Thần Tiên Giáo bày ra!
Đêm ấy, Hãn Thanh ngủ rất yên giấc, mờ sáng đã dậy để đi đến núi Dương Sơn, ở phía Bắc Phong Đô. Chàng ăn điểm tâm rất nhanh, lên ngựa phi mau, đầu giờ Thìn đã có mặt ở chân núi phía Nam.
Hoàng Thạch Công đã chờ sẵn. Thấy chàng đến, lão quay lưng đi vào đám loạn thạch. Hãn Thanh vội xuống ngựa bám theo. Tuy đây không phải là một trận pháp kỳ môn, nhưng người thường khó mà qua được vì đá núi ngổn ngang, cây cối, bụi rậm um tùm. Hoàng Thạch Công nhẹ nhàng như đám mây, lướt từ tảng đá này sang tảng đá khác. Hãn Thanh dồn toàn lực vào đôi chân mới không bị bỏ rơi.
Hết khu vực loạn thạch là bãi cỏ xanh mơn mởn, nằm trước một khe núi hẹp, lờ mờ sương sớm.
Hoàng Thạch Công chỉ vào trong ấy hiền hòa bảo:
- Đây chính là Quỷ Môn Quan! Trịnh Tiểu Thuần đang chờ công tử trong ấy, mau vào mà hội ngộ!
Hãn Thanh mừng rỡ vòng tay cảm tạ rồi lướt nhanh vào khe núi. Được chừng hai mươi trượng, đôi mắt tinh tường của chàng phát hiện phía trước có vực sâu, liền chậm lại. Đi thêm một đoạn, bỗng trong đám bụi rậm mé hữu sau lưng Hãn Thanh phát ra tiếng động sột soạt. Chàng luôn phải đề phòng cạm bẫy của Phù Dung Hội trước kia và Thần Tiên Giáo sau này, nên rất cảnh giác, lập tức quay lại.
Nhờ vậy, Hãn Thanh kịp nhận ra Hoàng Thạch Công đang áp sát, vung song thủ tấn công mình. Chiêu chưởng của lão cực kỳ mãnh liệt và đôi mắt rừng rực sát khí.
Hãn Thanh đã nhiều phen vào sanh ra tử nên phản ứng rất thần tốc, phi thân chếch sang mé hữu, tránh thoát đòn tập kích chết người kia. Chàng hạ thân xuống một tảng đá giữa cây, khiến con thỏ xám trong ấy sợ hãi phóng ra.
Như vậy, tiếng động lúc nãy là do con vật hiền lành này gây ra vô tình cứu mạng Hãn Thanh.
Hoàng Thạch Công cười vang:
- Mạng ngươi quá lớn nên mới được con thỏ kia cứu nguy, nhưng sao không xuống đây so tài với lão vài chiêu?
Hãn Thanh biết mình đã bị gạt, phẫn nộ gằn giọng nói:
- Lão là ai mà lại bày kế hại ta?
Hoàng Thạch Công ngạo nghễ đáp:
- Té ra sư phụ ngươi không hề nhắc đến cố nhân ở núi Quang Minh Đỉnh hay sao?
Hãn Thanh giật mình:
- Quang Minh Tôn Giả Khúc Tú Sơn!
Lão nhân gật đầu đắc ý, Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Tiền bối là bậc kỳ nhân danh vọng không thua gì gia sư, sao lại chịu hạ mình làm thủ hạ Hải Hà Tiên Tử?
Khúc Tú Sơn cười khanh khách:
- Lão phu nào xem Mai Thanh Phố ra gì! Có điều mụ ta là vưu vật số một thế gian, lão phu chẳng thể bỏ qua. Hơn nữa, bí thuật trường xuân của Tiên Tử là điều lão phu cần đến. Sau khi học được công phu ấy, giáo chủ Thần Tiên Giáo là ta chứ không phải Mai Thanh Phố!
Hãn Thanh không ngờ Tôn Giả đã chín mươi mà còn háo sắc như vậy.
Chàng lạnh lùng hỏi:
- Nếu tiền bối không thực tâm qui phục Hải Hà Tiên Tử, tại sao lại phải cố giết cho được tại hạ?
Quang Minh Tôn Giả rít lên:
- Kim Thạch Tà Tẩu Mộc Tiến Luân là em rể của lão phu, còn Mộc Kỳ Dương là cháu ruột. Ngươi đã giết họ mà còn hỏi tại sao nữa ư?
Hãn Thanh biết mình khó thoát chết, điềm tĩnh nói:
- Té ra là thế! Nhưng trước khi tử đấu, tại hạ muốn biết vì sao tiền bối lại tỏ tường lai lịch của chuyết thê như vậy?
Tôn Giả phá lên cười:
- Lão phu quen biết với song thân Tiểu Thuần, đâu lạ gì cái biệt danh Bạch Nhật Quỷ Hồn kia!
Hãn Thanh đã giải tỏa được mối nghi ngờ, an nhiên thụ mệnh. Bản lãnh Khúc Tú Sơn chỉ thua ân sư chàng có nửa bậc. Hãn Thanh cầm chắc cái chết trong tay. Hơn nữa, sau lưng chàng là vực thẳm. Còn tả hữu là vách núi dựng đứng, muốn đào tẩu cũng không được.
Hãn Thanh ôm kiếm vái chào, phong thái ung dung, tự tại, khiến Tôn Giả phải khâm phục:
- Bất Biệt Cư Sĩ có thể tự hào khi có được đồ đệ như ngươi. Lão phu giết đi quả cũng là đáng tiếc.
Hãn Thanh mỉm cười, vung kiếm tung mình rời đỉnh tảng đá, bốc cao hai trượng rồi dùng phép ngự kiếm xuất chiêu Nguyệt Trầm Thu thủy. Ánh dương đã lọt vào khe núi nên vòng kiếm quang lấp loáng, trông như bóng nguyệt đêm rằm.
Hãn Thanh biết cơ hội sống sót của mình rất mong manh nên đã dồn hết chân khí vào chiêu đầu, quyết đổi mạng với đối phương.
Quang Minh Tôn Giả nhếch mép cười, song thủ khoa nhanh, vẽ nên một trái cầu khí màu xanh nhạt, đón lấy chiêu kiếm.
Cũng như lần đối phó với Tây Nhạc Lão Quái Hàn Thế Đức, vẩng kiếm quang quanh thân Hãn Thanh đột ngột xoay dọc, như chiếc mâm tròn sắc bén, chẻ đôi chưởng kình.
Nhưng đối thủ lần này lại có công lực thâm hậu hơn Hàn lão quái vài bậc và chưởng pháp quỉ dị tuyệt luân. Chưởng kình của Quang Minh Tôn Giả không lạnh lẽo, độc hại, nhưng bền chắc phi thường. Hãn Thanh có cảm giác mình như con ruồi sa vào lưới nhện bùng nhùng không sao thoát ra được. Và có những luồng lực đạo vô hình nào đấy liên tục vỗ vào thân chàng. Đồng thời chưởng kình đẩy Hãn Thanh văng ngược về phía sau, rơi xuống vực thẳm.
Quang Minh Tôn Giả ngẩn người lẩm bẩm:
- Nếu ta không tận lực xuất thủ, tất chẳng thể nguyên vẹn trước chiêu kiếm kia. Tiểu tử này quả là đóa kỳ hoa của võ lâm!
Lão đã tận mắt chứng kiến đối phương rơi xuống khá xa bờ vực, không thể nào thoát chết được nên yên tâm trở ra! Khe núi lấy lại vẻ tịch mịch cố hữu, và con thỏ xám lại tung tăng chạy nhảy.
/16
|