Hãn Thanh thờ thẩn bước đi giữa những dãy nhà hoa lệ. Nỗi đau khổ đã khiến chàng trơ trơ như gỗ đá, không còn thưởng thức được cảnh đẹp của Hàng Châu.
Chàng chỉ nhớ rằng mình có biết một đại nhân vật ở địa phương này, và cần lão giúp đỡ.
Người ấy là Giang Nam Thần Côn Bùi Toản, bang chủ Thần Côn Bang, bá chủ phủ Chiết Giang. Họ Bùi có đến dự đại hỉ của Hãn Thanh.
Lúc này trên người chàng là bộ y phục vải thô cũ kỹ của một tay thủy thủ tốt bụng. Người trên thuyền buôn đã gom góp tặng Hãn Thanh vài chục lượng bạc và ít quần áo cũ. Chàng đã gầy đi nhiều, gương mặt cháy đen vì nắng biển, râu ria phủ đầy, trông rất tiều tụy và hốc hác. Dù chàng có dỡ chiếc nón rộng vành đan bằng mây ra thì cũng chẳng ai nhận ra được Tiểu Hầu Gia.
Hãn Thanh đi về phía Nam thành Hàng Châu, đến phân đàn Nam Giao để tìm tổng đàn Thần Côn Bang. Chàng giật mình nhận ra trên nóc đại sảnh đang phất phới lá cờ lớn thêu hình năm con rồng xanh của Ngũ Long Bang.
Hãn Thanh hiểu rằng trong thời gian chàng lưu lạc ngoài biển Đông, bọn Nam Thiên Tổng Giám đã về đến Trung thổ và nỗ lực bành trướng thế lực! Chàng bỗng lo lắng cho an nguy của Hầu Phủ và thân quyến.
Hãn Thanh đành bỏ ý định tìm Giang Nam Thần Côn, vượt sông Tiền Đường, đi về hướng Nam. Chàng quyết định trở lại Ôn Châu báo tin dữ cho gia đình lão chủ hãng thuyền Nam Dương.
Không đủ tiền để mua ngựa Hãn Thanh đã dùng khinh công để vượt đoạn đường ba trăm dặm.
Ngọc Nữ Nhất ém tâm pháp và Nhất Nguyên Thần Công có những điểm tương đồng, nên Tiểu Thuần đã truyền lại cho Hãn Thanh khẩu quyết của pho khinh công Lưu Thủy Hành Vân. Đây là tuyệt học gia truyền của riêng dòng họ Trịnh, ngay giáo chủ Thiên Sư Giáo cũng không biết được.
Hãn Thanh nóng ruột nên lướt đi như nước chảy mây trôi, khiến lữ khách trên đường kinh hãi. Chiều hôm sau, chàng đã có mặt ở Ôn Châu, gõ cửa Hách Gia Trang.
Bọn gia đinh ngơ ngẩn khi chàng giới thiệu mình là Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh, thượng khách của Hách Khai Nguyên hai tháng trước.
Nhưng khi nhìn thấy kim bài Hầu Tước, chúng vội chạy vào thông báo.
Hãn Thanh hân hoan khi thấy Hách Khai Nguyên còn sống và đích thân ra đón khách! Lão cũng mừng sa lệ Ôm Hãn Thanh khóc ròng.
Chàng vội vã hỏi:
- Hách chủ nhân! Có bao nhiêu người thoát nạn?
Thâm tâm chàng nuôi hy vọng rằng bọn Tiểu Thuần cũng còn sống.
Nhưng câu trả lời của họ Hách khiến chàng chết lặng.
- Bẩm hầu gia! Lão phu và sáu gã thủy thủ bám vào những thanh gỗ trôi dạt ba ngày, rồi được thuyền buôn vớt lên. Những người khác thì không biết lành dữ thế nào!
Lão đưa chàng vào đại sảnh, buồn rầu nói:
- Họa vô đơn chí! Mong Hầu gia bình tâm nghe lão phu báo thêm một hung tin!
Hãn Thanh choáng váng, hít một hơi chân khí, cố trấn tỉnh hỏi:
- Phải chăng đó là tin từ Lạc Dương?
- Thưa phải! Hầu tước phủ đã bị cường địch tấn công vào đêm mùng chín tháng tư, trừ hoa viên phía sau, nhà cửa đều bị thiêu hủy. Có hơn hai trăm người cháy nám đen nên không ai biết tung tích của lão Hầu Gia và những người còn lại đâu cả! Hiện nay Hầu phủ chỉ còn là một đống gạch vụn điêu tàn.
Nỗi đau thương to lớn kia thấm sâu vào tâm hồn Hãn Thanh, chàng ngồi lặng lẽ, chỉ có đôi mắt là biểu hiện sự thống khổ vô bờ! Hách lão sợ hãi vội an ủi:
- Lão Hầu gia một đời tu nhân tích đức, chắc sẽ được hoàng thiên bảo hựu, mong công tử đừng quá bi ai!
Hãn Thanh lẩm bẩm:
- Tử sinh, họa phúc không khác nhau ư? Ta biết phải làm sao đây?
Hai mươi ngày sau, tức là sau Tết đoan ngọ năm ngày, Hãn Thanh đã về đến Lạc Dương. Chàng vào phạn điếm an qua quýt vài chén cơm rồi lần đến Hầu Phủ. Lúc này chiều đã buông ánh hoàng hôn đỏ rực nhưộm hồng cảnh hoang phế, ngổn ngang gạch đá nám đen.
Phía trước của đại môn có hai gã lính lệ canh gác, nên Hãn Thanh vòng ra mé hông vượt tường mà vào. Chàng vượt thẳng đến tòa giả sơn to lớn, cao ba trượng giữa hoa viên, mừng rỡ nhận ra cửa ngầm vẫn còn nguyên vẹn.
Hãn Thanh ấn mạnh vào ba viên đá lồi theo một thứ tự nhất định, cánh cửa đá thụt xuống, để lộ đường vào mật thất. Đấy là nơi bí mật nhất Hầu Phủ.
Chỉ có lão Hầu Gia và chàng biết được. Hầm ngầm này được xây dựng từ thời cao tằng tổ Mộ Dung Bích, để cất giấu của cải và ẩn thân khi binh biến. Lương thực và nước uống dự trữ đủ cho mười người sống suốt nửa năm. Ngoài ra còn có di hài của nội tổ mẫu Hãn Thanh. Mộ Dung Cẩn rất yêu thương bà nên bỏ ra ngàn lượng vàng, mời giáo chủ Thiên Độc Giáo ở Vân Nam đến ướp xác ái thê, đặt vào hòm bạc, nắp đậy pha lê Hà Lan. Lão Hầu Gia thường xuống mật thất một mình hàn huyên với thi hài của người mình yêu dấu.
Hãn Thanh bước xuống thang đá, phát động cơ quan đóng cửa, rồi nhanh chóng tiến vào. Vượt hết mấy chục bậc thang thoai thoải là đến cửa đá thứ hai. Cạnh cửa cũng có những ô gạch màu trắng, phải biết cách ấn mới mở được.
Cánh cửa hé ra, để lộ ánh nến bên trong khiến lòng Hãn Thanh bừng lên hy vọng. Chàng vẫn thầm van vái rằng trong lúc nguy cấp, lão Hầu gia sẽ đưa mọi người xuống đây lánh nạn!
Nhưng cạnh chiếc bàn bát tiên kia chỉ có một mình Mộ Dung Cẩn đang ngồi đọc sách! Hãn Thanh lao đến như cơn lốc, quỳ phục trước mặt ông sụt sùi:
- Gia gia! Tiểu tôn còn được thấy người!
Mộ Dung Cẩn ôm cháu khóc ròng:
- Ta đoán rằng thế nào cháu cũng sống sót trở về.
Hãn Thanh nghẹn ngào nói hỏi:
- Gia gia! Mọi người đâu cả rồi?
Lão Hầu gia buồn bã đáp:
- Đêm ấy! Ta vì lo lắng cho ngươi nên không sao ngủ được, liền âm thầm xuống mật thất tâm sự với nội tổ mẫu của ngươi. Ta có uống mấy chén rượu nên ngủ thiếp đi, không hay biết chuyện gì trên mặt đất. Đến cuối canh tư, ta trở lên thì Hầu Phủ đã biến thành biển lửa và không còn ai nữa cả! Ta bèn trở xuống mật thất chờ đợi cháu về.
Gương mặt Mộ Dung Cẩn hốc hác, sầu héo, mất hẳn vẻ phương phi, an lạc cố hữu. Hãn Thanh dù rất lo lắng nhưng vẫn gượng cười an ủi ông - Chu đại thúc là người cơ trí còn Tề nhạc phụ cùng các Phán Quan đều có võ công cao cường, chắc đã kịp đưa mọi người đào thoát. Tiểu tôn sẽ đi U Linh Cốc tìm họ!
Mộ Dung Cẩn gật đầu, nhưng bỗng nhớ ra rằng Hãn Thanh chỉ về có một mình, dung mạo lại tiều tụy khác thường! Ông kinh hãi hỏi:
- Bọn Thuần nhi, Vân nhi đâu sao không đi theo ngươi?
Hãn Thanh đành phải kể lại việc gặp bão bị đắm thuyền, và luôn miệng trấn an ông nội rằng:
Nếu bọn Hách Khai Nguyên và chàng sống sót thì những người còn lại cũng vậy! Võ công họ cao siêu nên dù có phải lênh đênh hàng tháng cũng không thể chết được.
Thực lòng, chàng chỉ tin vào khả năng sống sót của Tiểu Thuần. Nàng luyện Ngọc Nữ Nhất ém Công đã đến lớp thứ tám, có thể nhịn ăn, nhịn thở rất lâu. Lúc thuyền bị sóng đánh vỡ thì hai nàng ở dưới khoang, có lẽ đủ thời gian chuẩn bị cho tai họa.
Ngay đêm ấy, Hãn Thanh cùng lão Hầu Gia rời Hầu Phủ. Chàng đã đến Vạn An lữ điếm tìm Lục Tâm Hiền. Họ Lục rất mừng khi thấy Hãn Thanh và lão Hầu Gia. Lão cho biết Nhất Bất Thông Chu Minh và người khác không hề về đây! Ngoài ra, Lục Tâm Hiền còn tiết lộ việc Tổng binh thành Lạc Dương đã bị thuyên chuyển từ trước ngày xảy ra vụ tập kích Hầu Phủ Mùng chín tháng tư!
Tân Tổng binh là Tạ Dương Nhân đã dẫn quân rời thành vào trưa ngày tám tháng tư để đi Tảo Phủ ở Thiển Huyện. nhưng Lục Tâm Hiền đã cho người dò la ra rằng Thiển Huyện chẳng hề có tên giặc cỏ nào cả!
Hãn Thanh đoán rằng việc này có bàn tay của Hải Trừng Công Chu Kích nhúng tay vào. Như vậy, hiện nay Ngũ Long Bang đã trở thành tay chân họ Chu!
Sáng hôm sau, Hãn Thanh gởi lão Hầu Gia lại Vạn An lữ điếm rồi lên đường đi U Linh Cốc. Gương mặt đen đủi đầy râu và bộ y phục lái buôn đã biến chàng thành một khách thương hồ vùng Duyên Hải. Chiếc nón tre rộng vành cũng là đặc sản của đất triều Châu Phía Bắc Phúc Kiến! Trước khi tìm ra tung tích người thân, chàng không muốn phí thời gian đụng độ với kẻ thù.
Mười ngày sau, Hãn Thanh đã đến nơi, chàng kinh hãi nhận ra U Linh Cốc bị tàn phá chẳng kém gì Hầu Phủ, và không còn một bóng người! Vậy là bọn Tề Phi Tuyết đã trở về đây và bị Ngũ Long Bang đuổi theo đến tận sào huyệt, phải đào tẩu thêm một lần nữa.
Hãn Thanh nhớ lời kể của Tề Đạm Vân, vào cuối cốc tìm đường thông lộ bí mật, trổ xuyên lòng núi.
Cánh cửa đá nặng vạn cân vẫn còn khép kín, dù bãi cỏ phía trước bị dày xéo bởi hàng trăm dấu chân, và máu đọng lại thành vũng đen sì.
Hãn Thanh phát động cơ quan để mở cửa, lại thấy vết máu và băng vải nằm rải rác. Như vậy là người trong cốc đã thoát qua đường này.
Chàng vận công nhìn xuyên bóng tối, lướt nhanh dọc đường ngầm, ra đến thung lung bên kia núi. Hãn Thanh vận công gọi vang nhưng không thấy có hồi âm. Chàng thất vọng quay bước, trở lại U Linh Cốc, rồi lên ngựa đi ngay.
Hãn Thanh quyết định về Lạc Dương và sẽ đến Tổng Đàn Ngũ Long Bang đại náo một phen. Tuy không chắc sẽ giết được năm lão ma đầu, nhưng cũng chẳng thể cầm chân chàng. Trận chiến sẽ đánh động cho bọn Tề Phi Tuyết, Chu Minh biết chàng còn sống mà đến hợp lực.
Sau bảy ngày dong ruỗi, Hãn Thanh chỉ còn cách Hoàng Hà ba trăm dặm. Đến một giao lộ thì trời đã gần trưa, chàng ghé vào phạn điếm dùng bữa.
Đây là một ngã tư, rẽ hướng Tây là đến Vận Thành, còn hướng Đông là sang đất Hà Nam.
Hãn Thanh thấy hàng đoàn kỵ sĩ lũ lượt kéo về hướng Tây, có cả đoàn quân của Ngũ Long Bang nữa. Chàng hiếu kỳ hỏi gã tiểu nhị, thì được nghe đáp rằng:
- Bẩm quý khách, mười ngày trước, người ta phát hiện ở bìa một cánh rừng già ở gần Vận Thành có hai con vượn trắng, cổ đeo chuỗi ngọc một tím, một lam. Khi bị đuổi bắt thì chúng chạy vào sâu trong cánh rừng. Do vậy, thiên hạ đồn rằng cánh rừng ấy có một kho báu rất lớn. Hàng ngàn người đã đổ xô đến để tìm kiếm, nhưng chưa có kết quả.
Hãn Thanh vui mừng khôn xiết vì biết đấy là Đại Bạch và Tiểu Bạch. Hai chuỗi ngọc kia chính là của lão Hầu Gia tặng Ngũ Đài Ma cơ và Viên Nguyệt Hằng Nga. Chàng bảo tiểu nhị tính tiền và thưởng thêm cho gã. Hãn Thanh vội vã lên đường, theo các hào khách đến Vận Thành.
Lòng chàng luôn khắc khoải, bởi nhiều nghi vấn:
một là vì sao lực lượng Hầu Phủ đông đảo và tinh nhuệ như vậy lại phải tháo chạy trước Ngũ Long Bang. Phải chăng đối phương đã có thêm cao thủ hoặc có vũ khí gì rất lợi hại?
Hai là, vì sao đôi vượn kia lại đeo chuỗi ngọc của Lạc Bình và Hà Hồng Hương? Hay là trong đêm ấy, chúng đã đưa hai nàng đào thoát, chứ không đi chung với bọn Tề Phi Tuyết? Nhưng sao đã hơn tháng mà họ vẫn còn ở lại cánh rừng kia mà không đi U Linh Cốc.
Hãn Thanh nóng lòng thúc ngựa phi mau, vượt đi trước, cuối giờ mùi đã đến nơi. Lúc này, ở bìa rừng mé tả đã xảy ra cuộc chiến khốc liệt giữa mấy trăm đao thủ áo xanh của Ngũ Long Bang và một lực lượng áo trắng.
Bọn Bạch y kia sử dụng trường kiếm, đầu chụp mũ sắt, có hai sừng, trông rất quái dị. Hãn Thanh không nhận ra lai lịch của bang hội lạ lùng này, nhưng rất ngạc nhiên trước kiếm pháp hiểm ác của họ.
Xem ra bản lĩnh của các kiếm thủ áo trắng lợi hại hơn hẳn bọn đệ tử của Ngũ Long Bang Vốn là người của Kiếm bang và Tân bang hợp thành. Nhưng lát nữa đây, khi toán tiếp viện tới nơi, có lẽ tình hình sẽ khác hẳn. Chàng đã nhận ra hơn trăm gã áo xanh trên đường là thủ hạ Nam Thiên Quỷ Hồ Thập Bát Trại, vì hông chúng có đeo túi da đựng độc phấn!
Còn có một lực lượng thứ ba đứng ngoài quan chiến. Đó là những hào khách võ lâm đến tìm kho báu. Họ không ưa gì Ngũ Long Bang nên khoanh tay tọa sơn quan hổ đấu.
Dù hiện nay, Ngũ Long Bang đã uy hiếp được hầu hết các phái võ lâm, nhưng đối với đám cao thủ độc hành này thì đành bó tay. Họ ung dung tự tại dong duổi giang hồ, chẳng có gì để mất nên không biết sợ ai?
Võ lâm là chốn tanh máu, ân oán chất chồng, vì vậy, có rất nhiều người giấu kín lai lịch, dùng danh tính giả mà xuất đạo. ít nhất thì việc này cũng giúp họ không bị quan nha đến tận nhà truy bắt vì tội giết người.
Lần này phe Ngũ Long Bang được thống lãnh bởi Bang chủ Hứa Hữu Tinh và Bạch Diện Vũ Sĩ Hà Lai Minh Nam tử của Quỷ Trảo. Hà Lai Minh giờ đây đã trở thành Hộ Pháp của bang.
Đối thủ của họ là ba lão già râu đen tuổi lục tuần, đội mũ sừng bằng bạc.
Phép liên thủ của hai thanh trường kiếm kia rất lợi hại nên song phương vẫn ở thế quân bình.
Toán quân mã tiếp viện của Ngũ Long Bang đã đến nơi, và được dẫn đầu bởi một hán tử tam tuần áo xanh thẫm, ngự trên năm con rồng nhỏ bằng chỉ bạc Giống như Bạch Diện Vũ Sĩ vậy. Còn Hứa Hữu Tinh thì biểu hiện vai trò Bang chủ bằng Ngũ Long thêu chỉ vàng.
Họ Hứa quát vang:
- Tư Không Hộ Pháp! Mau tấn công vào sườn tả!
Hãn Thanh nghe vậy, đoán gã là Tư Không Cổn, con trai Nam Thiên Tổng Giám!
Dung mạo y không thô kệch như Tư Không Nhạ mà lại khá anh tuấn, trắng trẻo. Tuy nhiên, đôi mắt thâm quần vì tửu sắc kia vẫn tỏa ra ánh yêu mị, tà quái!
Tư Không Cổn cười hang hắc:
- Hứa giáo chủ yên tâm, thuộc hạ sẽ quét sạch chúng ngay thôi mà!
Dứt lời, gã ra lênh tấn công. ®o ®nh thân pháp và chất kỳ độc Vạn Hương Lạc Phách lập tức phát huy diệu dụng, loại liền mấy chục tên áo trắng.
Lão già đội mũ sừng bạc vội hú vang, gọi viện binh. Và từ trong rừng mà ra một đạo quân kỳ lạ.
Bọn này đội mũ sừng bằng đồng che kín cả mặt, thân phủ lớp áo da đen bóng. Thanh kiếm của chúng dài và có bản lớn hơn kiếm thường. Độc đáo hơn nữa là đám này không sợ độc và chiến đấu bằng kiếm trận.
Phe Tư Không Cổn đành phải dùng đao và chưởng pháp để đối phó vì chất độc không còn tác dụng. Vòng vây kiếm trận xiết dần lại, hạn chế sự di chuyển của ®o ®nh Thân Pháp và bắt buộc đối phương phải chấp nhận cận chiến.
Giờ đây mới thấy rõ sự lợi hại của hai trăm gã mũ đồng. Họ rất nhanh nhẹn, dũng mãnh và không sợ chết là gì, mỗi nhát kiếm tung ra đều mạnh mẽ như chẻ núi, chẳng hề chùng bước dù vũ khí kẻ địch sắp chạm vào người.
Thì ra họ được lớp bảo y đen bóng kia che chở, làm giảm mức độ tổn thương nên sẳng sàng đổi mạng. Lối đánh của họ đã khiến phe Tư Không Cổn khiếp sợ và thương vong rất nhiều.
Hãn Thanh tự nhủ:
- Chủ nhân của đám người đội mũ sừng kia chắc cũng là kẻ có dã tâm không nhỏ nên mới âm thầm đào luyện một đạo quân kiên dũng như thế này.
Bỗng chàng nghe từ sâu trong rừng vọng ra tiếng hú ai oán của con Đại Bạch, chàng liền thúc ngựa đi ngược trở về, vài chục trượng. Đến chỗ vắng vẻ Hãn Thanh giấu ngựa rồi lướt vào rừng.
Thỉnh thoảng, chàng gặp vài gã áo da, mũ đồng đứng canh gác, nhưng không nỡ giết, chỉ tránh mặt chúng. Thủ pháp Kim Sa ấn có thể đánh vở gạch đá nên dù chúng mặc áo da cũng không thoát chết! Đây chính là phép Cách Sơn Đả Ngưu thất truyền từ lâu, chỉ mình Bất Biệt Cư Sĩ luyện thành, và truyền lại cho Hãn Thanh! Nhưng chỉ sau khi ăn Băng Hỏa Quả, có hơn hoa giáp công lực chàng mới thi triển nổi.
Hãn Thanh định hướng bằng tiếng hú não ruột cao vút của đôi vượn, băng mấy dặm đường rừng, tiến vào trọng địa của bang hội quái dị kia.
Cuối cùng, trước mắt chàng hiện ra một trảng cỏ rộng lớn giữa có một tảng đá khổng lồ, cao đến hai ba mươi trượng, đường kính độ tám trượng, trên dưới bằng nhau như chiếc trụ.
Bốn bề tuy không hoàn toàn nhẳn nhụi nhưng cũng không ai trèo lên nỗi. Do vậy, người nào đó đã khổ công đục lỗ ở sườn Nam, cắm thân gỗ vào để làm thang lên xuống!
Và giờ đây, đôi Tuyết Viên đang vắt vẻo trên lưng chừng thang, cố đẩy lùi bước tiến của bọn mũ sừng đồng. Hỗ trợ cho bọn này là hàng trăm tên mũ sắt trang bị trường cung. Chúng nhắm vào Đại Bạch và bắn như mưa.
Chỉ huy đạo quân này là lão đội mũ sừng bằng vàng diệp, che kín cả mặt, chỉ còn để lộ chùm râu dài đến ngực đen nhánh. Bên cạnh lão ta còn có bẩy lão đội ngân khôi. Hãn Thanh biết mình có xuất hiện cũng chưa chắc cứu được người thân, liền lặng lẽ trèo lên một cây Chương Hương cao vút.
Từ vị trí này, chàng đã nhìn thấy sào huyệt đối phương trong cánh rừng mé tả, cuối trảng cỏ. Hãn Thanh thấy Tiểu Bạch múa tít một cành cây lớn còn cả lá, đánh bạt những mũi tên, che chở cho Đại Bạch giáng chưởng xuống đầu kẻ địch. Chàng yên tâm thi hành kế sách của mình.
Hãn Thanh tuột xuống, cắt rừng đi vòng về phía trọng địa của bọn mũ sừng. Chàng lướt như bay, mặc cho gai góc cào rách bộ y phục trên người.
Nửa khắc sau chàng đã đến nơi, vòng ra phía Nam xem xét. Thì ra toàn bộ công trình nơi đây đều bằng gỗ, mái lợp lá, được bao quanh bởi một phòng tuyến sâu sáu trượng, dầy đặc bụi cây gai độc.
Hãn Thanh đã đọc qua Độc Kinh nên biết đây là loại cây Thiên May Thảo của đất Qúy Châu. Không những gai có độc mà cả mùi hương cũng có thể giết chết được người. Lại thêm bọn ong độc rất thích làm tổ trên cây Thiên May Thảo, vì hoa của loài cây này rất nhiều phấn.
Nhưng Hãn Thanh không có ý định vượt qua phòng tuyến nguy hiểm ấy để vào trong chàng nhắm hướng gió, bật hỏa tập đốt một đoạn dài.
Nắng tháng năm đã làm cho cây cỏ héo úa, khô cằn, chỉ cần một mồi lửa là bốc cháy. Gió Nam lồng lộng đưa ngọn lửa lan vào những bụi cây Thiên May Thảo. Lớp lá rụng tích tụ bao năm dưới gốc cây bốc cháy ngùn ngụt, tiến như vũ bão vào trong.
Tiếng chiêng báo cháy vang dội cả khu rừng vắng, vì tàn lửa đã đáp vào những mái tranh, lá, khiến các kiến trúc phát hỏa, dù lửa chưa lan tới nơi.
Hãn Thanh không cần biết kết quả. Quay lại ngay trảng trống để xem tình hình của đôi vượn. Chàng tin rằng vì có người trên đỉnh tảng đá kia nên Đại Bạch và Tiểu Bạch mới không bỏ đi, mà chống cự quyết liệt như thế!
Lúc này lão già đội Ngưu Giác Kim Khôi đã phát hiện Tổng đàn bốc cháy.
Lão căm hận gầm lên:
- Ngũ Long Bang! Thần Ngưu Giáo ta thề sẽ không tha cho các ngươi.
Lão ta vội vã rút hết lực lượng về chữa cháy chỉ để lại ba tên mũ sắt canh giữ chân tảng đá!
Chờ lão đi khuất, Hãn Thanh lập tức ra tay, chỉ trong một chiêu Thủ Hụy Ngũ Quyền đã điểm huyệt ba gã đệ tử Thần Ngưu Giáo.
Hãn Thanh lướt nhanh trên những thân gỗ. Đại Bạch định vung chưởng giáng xuống thì nghe tiếng hú quen thuộc, ngơ ngác dừng tay. Hãn Thanh nói mau:
- Ta đây mà!
Nhận ra giọng nói của chủ nhân đôi vượn mừng rỡ hú vang, nhẩy đến ôm chàng. Hãn Thanh mang cả hai đi hết những bậc thang cuối cùng, lên đến đỉnh tảng đá.
Trong tòa Tiểu Đình bát giác, mái lợp cỏ kia có hai nữ nhân đang nằm bất động. Hãn Thanh vừa mừng vừa lo, buông đôi vượn rồi chạy đến, tuy gương mặt họ lem luốc và tiều tụy nhưng vẫn là dung mạo của hai người vợ trẻ của chàng. Hãn Thanh lay gọi không được, liền bắt mạch, rồi dùng phép Bảo Nguyên Đại Pháp truyền công lực và phong tỏa mười hai đại huyệt trước ngực.
Phương pháp này sẽ duy trì nguyên khí nơi tâm mạch, chờ đến lúc tìm thấy danh y. Chàng hành động rất nhanh chóng, giao Hà Hồng Hương cho Tiểu Bạch, còn mình ẳm ngửa Lạc Bình. Hai nàng đều mang thai đến tháng thứ năm, bụng nhô cao nên chàng rất cẫn trọng.
Hãn Thanh dặn dò đôi vượn rồi dẫn chúng rời tảng đá, may mà không ai phát hiện ra. Chàng không trở lại chỗ giấu ngựa mà nhắm hướng Đông băng rừng đi thẳng. Xẩm tối mới đến đường quan đạo Bắc Nam.
Cách đấy hơn dặm là Trấn Quế Sơn, Hãn Thanh giao Lạc Bình cho Đại Bạch, bảo đôi vượn chờ ở bìa rừng, rồi vào trấn mua xe song mã mui kín!
Chiều ngày mồng một tháng sáu Hãn Thanh đánh xe vào cửa sau của Vạn An lữ điếm. Lão Hầu gia hân hoan khi thấy hai cháu dâu vẫn còn sống. Hồ Đại Phu, một danh y đất Lạc Dương, vốn là chỗ thân tín của Hầu Phủ lập tức được mời đến. Ông ta ngẹn ngào khi thấy bộ mặt Mộ Dung Cẩn:
- Trời cao có mắt nên lão Hầu Gia đã thoát khỏi cuộc hỏa hoạn kia!
Mộ Dung cười khổ:
- Lão phu đã quá già, sống chết cũng không quan hệ, chỉ mong Hồ Lão đệ cố cứu lấy hai đứa cháu dâu kia!
Hồ đại phu sốt sắng hứa sẽ tận lực. Ông chẩn đoán rất lâu, cuối cùng thở dài bảo:
- Nhị vị thiếu phu nhân đây không hề bị thương hay mắc chứng bệnh gì cả! Lão phu đoán chắc rằng họ bị trúng một loại mê dược gì đấy nên mới mê man thế thôi! Xét tình trạng thai nhi thì có thể đoán họ mới chỉ trúng độc vài ngày nay nếu không thì thai nhi đã chết vì thiếu dinh dưỡng rồi!
Hãn Thanh nhớ đến đống trái cây cạnh hai nàng, liền nhắm mắt cố mường tượng ra.
Trên sàn tiểu đình có khá nhiều hột và vỏ, chứng tỏ Lạc Bình và Hồng Huong vẫn tỉnh táo và ăn uống bình thường. Có lẽ hai con vượn đã hái lầm quả độc nên mới rơi vào tình trạng này.
Cuối cùng, với trí nhớ phi thường, chàng đã tìm ra nguyên nhân:
- Hồ đại phu có biết cây Thiên May Thảo đất biên cương hay không?
Họ Hồ gật đầu, Hãn Thanh hỏi tiếp:
- Tại hạ cho rằng hai nàng đã ăn nhầm quả của cây Thiên May Thảo.
Mong đại phu cho biết cao kiến.
Hồ đại phu ngẩn người suy nghĩ một lúc, vỗ đùi xác nhận:
- Đúng vậy. May mà Hầu gia nhắc nhở, nếu không lão phu chẳng bao giờ nghĩ đến việc ấy, vì Trung Nguyên làm gì có trồng loại độc này?
Hãn Thanh xác nhận:
- Gần nơi giam giữ họ có cả một rừng đầy những cây Thiên May Thảo đang kết trái, và bên cạnh hai nàng cũng có vài quả!
Hồ lão gật gù:
- Nếu đúng như thế thì chẳng có gì đáng lo. lão phu sẽ kê toa giải độc, chỉ ít thang là có kết quả.
Canh hai đêm ấy, có một bóng đen âm thầm đột nhập Tổng đàn Cái Bang ở của Đông thành Lạc Dương. Thân ảnh người này lướt đi nhanh đến nỗi chỉ còn là bóng mờ, nên bọn hóa tử tuần phòng chẳng thể nào phát hiện ra!
Cơ ngơi của ăn mày thì chẳng thể nguy nga, tráng lệ được, có điều, những gian nhà gỗ kia rất rộng và sạch sẽ.
Thấy tầng trên của mộc lâu vẫn sáng đèn, bóng đen lao vút lên ẩn mình trên vây cổ thụ cạnh lan can. Từ đây, gã có thể quan sát và nghe ngóng rất thuận lợi.
Đà La Cái Đặng Vân Nhạc cùng hai vị trưởng lão đang ngồi bên mâm rượu bàn bạc bang vụ.
Lão Hóa Tử có đôi mắt to như mắt trâu kia chính là Truyền Công trưởng lão, Đại Nhãn Cái Cốc Quy Điền. Ông nhăn mặt nói:
- Năm nay hai tỉnh Hồ Nam Giang Tây mất mùa, lê thứ đói khổ nên đệ tử bổn bang càng thảm hại. Quỹ các phân đà cạn kiệt, anh em không có cháo mà cầm hơi. Một số không giữ được khí tiết, trở thành trộm cắp, cường đạo! Nếu Tổng đàn mau chóng hỗ trợ thì thanh danh Cái Bang bị chìm xuống bùn nhơ.
Mong Bang chủ đại ca trổ tài thuyết khách, quyên góp các đại phú trong thành Lạc Dương để có bạc mà gửi xuống Miền Nam.
Đà La Cái thở dài thườn thượt:
- Ta sẽ thử nhưng chỉ được vài trăm lượng, nào có thấm gì so với năm vạn đệ tử hai phủ Giang Tây, Hồ Nam!
Chấp pháp trưởng lão Đường Quân Hạ có cái đầu hói bóng tròn như trái dưa, nên được đặt biệt danh là Qua Tử Cái. Họ Đường trợn mắt nói:
- Năm năm trước, Lưỡng Quảng bị hạn hán, sao đại ca có thể kiếm ra được ba ngàn lượng vàng để cứu đói cho anh em?
Đà La Cái Đặng Vân Nhạc buồn rầu đáp:
- Số vàng ấy là do lão Hầu Gia ban cho, và dặn ta không được nói ra. Nay Hầu Phủ đã cháy rụi. Họ Mộ Dung nhà tan cửa nát, ta còn biết hỏi ai? Hơn nữa, Cái Bang đã bất lực, không cứu được Hầu Phủ, lòng ta thẹn vô cùng!
Đường Quân Hạ vội an ủi:
- Đêm ấy! Quan quân khóa chặt cửa thành, không cho chúng ta qua để cứu viện Hầu Phủ, đấy nào phải lỗi của Cái Bang.
Đại Nhãn Cái tiếp lời:
- Tin từ Giang Nam đưa về báo rằng:
Dường như thuyền của Tiểu Hầu Gia đã gặp bão, chìm ở Đông Hải. Lão chủ thuyền Hách Khai Nguyên sống sót trở về đang huy động hàng trăm thuyền lục soát các đảo lớn nhỏ, cố tìm ra Tiểu Hầu gia và thân quyến!
Đa Là Cái ngửa cổ than trời:
- Cái Bang chịu ơn sâu của họ Mộ Dung và Bất Biệt Cư Sĩ, thế mà đành phải khoanh tay nhìn tai họa giáng xuống Hầu Phủ. Lão phu còn mặt mũi nào mà gặp tiên phụ Ở chốn suối vàng!
ö ông muốn nhắc đến việc Cao Hán Ngọc chặt tay Hải Hà Tiên Tử, cứu cố bang chủ Đặng Nghi Trung hơn bốn mươi năm trước!
Hãn Thanh đã nghe hết những lời đối thoại, yên tâm xuất hiện. Chàng từ cành cây phi thân xuyên qua cửa sổ, nhẹ nhàng hạ thân xuống cạnh bàn.
Ba lão Hóa Tử chấn động nhưng vẫn cố giữ vẻ trầm tỉnh cho xứng với thân phận. Vả lại, có la toán lên cũng chẳng được gì, vì đối phương đã vào đến tận nơi rồi.
Đà La Cái nhìn người bịt mặt, lạnh lùng hỏi:
- Các hạ là ai mà lại giá lâm vào lúc nửa đêm thế này?
Lão không dám trách đối phương đã nghe trộm chuyện cơ mật của Cái Bang. Họ đều là những cao thủ hạng nhất mà không phát hiện được người ẩn mình cách ba trượng, nói ra càng thêm xấu hổ.
Người bịt mặt lặng lẽ móc ra một xấp ngân phiếu, đếm đến ba tờ, đặt lên bàn rồi nói:
- Tại hạ muốn mua của Cái Bang vài chén rượu!
Nói xong, gã thản nhiên ngồi xuống. Đặng bang chủ nghi hoặc, cầm ngân phiếu lên xem thử, thấy rõ tiêu chí của Tứ Hải Tiền Trang. Hiệu buôn tiền này lớn nhất Trung Hoa, có trụ sở đặt tại Tinh Châu, Sơn Tây.
Ngân phiếu của họ được in bằng bảng khắc đồng, đường nét tinh xảo không ai làm giả được! Hơn nữa, chủ nhân Tứ Hải Tiền Trang là anh em cô cậu với Đương Kim Hoàng Hậu, thế lực bao trùm thiên hạ nên uy tín rất cao!
Dân Sơn Tây nắm hầu hết ngành kinh doanh tiền tệ Ở Trung Hoa và Hải Thượng Sinh Chủ nhân Tứ Hải Tiền Trang Là người giàu nhất, giỏi nhất.
Chính đương kim Thiên Tử Minh Cảnh còn là con nợ của ông ta.
(Nói ra chẳng ai tin, nhưng thực sự là những vị vua sau này đều bạc nhược bất tài, thua xa Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và Minh Thành Tổ Chu Lệ, vì vậy kinh tế lụi bại, khắp nơi loạn lạc. Tuy sưu cao thuế nặng liên tiếp được ban hành, nhưng quốc khố luôn trống rỗng vì nạn tham quan, vì kinh phí binh bị quá lớn. Do đó, các nhà vua thường phải vay mượn bọn đại phú để trang trải chi tiêu và phát lương cho bá quan!) Trở lại với Tổng đàn Cái Bang, chúng ta sẽ thấy bộ mặt ngơ ngác của Đà La Cái Đặng Vân Nhạc và hai trưởng lão. Họ đã nhìn ra ngân phiếu thực, nhưng vẫn chưa dám nhận lấy.
Đặng Vân e hèm và hỏi:
- Chẳng hay các hạ thực tâm muốn dùng ba ngàn lượng này để đổi lấy cái gì? Nếu là vàng của Ngũ Long Bang thì lão phu không thể nhận được!
Người bịt mặt thản nhiên rót rượu, vén khăn uống cạn rồi lẩm bẩm:
- Hôm trước, họ đến Hầu Phủ dự hôn lễ, mình đãi toàn rượu thượng hạng. Thế mà hôm nay họ cho mình uống loại rượu hạng bét này! Xem ra lỗ vốn rồi!
Ba lão Hóa Tử đồng thanh rú lên:
- Tiểu Hầu Gia!
Đặng Lão giật phăng khăn che mặt, ôm Hãn Thanh cười ha hả:
- Hảo Hoàng Thiên, tạ Ơn lão đã không tuyệt đường họ Mộ Dung!
Hãn Thanh nhăn mặt:
- Đặng Bang chủ nói khẽ thôi, tại hạ chưa thể lộ tung tích được!
Họ Đặng ngượng ngùng ngồi xuống ghế, hạ giọng hỏi:
- Hầu gia mau kể cho bọn lão phu nghe cuộc hành trình đi Đông Hải!
Hãn Thanh chỉ nói sơ qua rồi hỏi lại:
- Tại hạ muốn biết rõ thực lực của Ngũ Long Bang. Vì sao họ lại đột nhiên mạnh đến mức đánh bại lực lượng của Hầu Phủ quá dễ dàng như vậy?
Chấp Pháp Trưởng Lão đỡ lời:
- Lão phu đích thân điều tra nên nắm rõ hơn Bang chủ. Số là đã có một lão Đại Ma đầu trăm tuổi đến núi Bách Phong nhận chức Thái Thượng bang chủ, lão ta ẩn cư đã bốn mươi năm, trước đây có danh hiệu là Vu Sơn Sơn Chủ Bộc Ly Bôi. Họ Bộc đã từng thủ hòa với Bất Biệt Cư Sĩ trong một lần cùng đến núi Võ Đang dự lễ thượng thọ. Nhưng sau đấy, thiên hạ đồn rằng Bộc Ly Bôi tìm được bí kíp thượng cổ nên bế quan tu luyện. Nay mới biết lão ta chính là sư phụ của Hứa Hiểu Tinh, nguyên bang chủ Tây Bang. Đệ tử Cái Bang đã rình rập suốt mười ngày, nhìn rõ mặt Vu Sơn Sơn chủ. Quả là kinh thế hãi tục khi họ Bộc có dung mạo của một người tuổi ba mươi! Ngoài ra, Bộc Ly Bôi còn đào tạo được mười tám gã kiếm thủ cực kỳ lợi hại. Lão phu cho rằng võ công Vu Sơn Sơn Chủ đã tiến đến mức phản lão hoàn đồng, tất không ai địch lại!
Hãn Thanh gật gù đáp:
- Tại hạ có nghe gia sư nhắc đến Vu Sơn Sơn Chủ. Người bảo rằng khi Bộc Ly Bôi luyện thành Xung Hư Bí Lục thì thiên hạ sẽ đại loạn!
Đặng Bang chủ giật mình:
- Lão phu chỉ nghe nói đến Xung Hư Chân Kinh của Liệt Tử, sao lại có thêm Xung Hư Bí Kíp?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Liệt Tử, tức Liệt Ngự Khấu, chỉ được Trang Tử nhắc đến, chứ chưa chắc đã có người thực. Nhưng thế gian lại có Xung Hư Chân Kinh, thì việc bậc kỳ nhân võ học nào đó viết ra Xung Hư bí kíp cũng có thể xảy ra.
Chàng trao thêm cho Đặng bang chủ ngàn lượng vàng, nhờ lão truy tìm tung tích bọn Tề Phi Tuyết và nói đường dây liên lạc với mình.
Ba lão hóa tử thề sẽ tận lực giúp chàng, kể cả việc đối phó với Ngũ Long Bang, Thần Ngưu Giáo và Hải Trừng Công! Hãn Thanh cùng họ bàn bạc đến tận cuối canh tư mới cáo lui!
Đặng bang chủ hứa sẽ dến Vạn An lữ điếm vấn an lão Hầu Gia ngay ngày mai!
Hãn Thanh về đến khách điếm thấy Mộ Dung Cẩn vẫn chờ mình, đành phải kể lại sự tình!
Lão Hầu Gia hài lòng bảo:
- May mà ta bảo ngươi dến hỏi thăm bọn Cái Bang, mới biết được sự hiện diện của Vu Sơn Sơn Chủ, nếu không ngươi đã liều lĩnh tấn công Tổng đàn Ngũ Long Bang rồi!
Mộ Dung Cẩn rót trà cho cháu rồi nghiêm giọng:
- Lực kém thì dùng trí! Nay đã có sự hậu thuẩn của Cái Bang, Thanh nhi hãy đưa ra kế sách cho Gia Gia nghe thử? Gia Cát Lượng chỉ là bậc nho sĩ mà lưu danh muôn thuở cũng nhờ trí tuệ!
Hãn Thanh ngượng ngùng trầm ngâm rất lâu rồi mới dám dáp:
- Bẩm gia gia! Tiểu tôn định dùng kế Tá Đao Sát Nhân để đối phó với Hải Trừng Công Chu Kích và Ngũ Long Bang.
Lão Hầu Gia mỉm cười hài lòng, khuyến khích chàng trình bày. Nghe xong, ông cười khà khà:
- Quả là diệu kế! Tài trí của ngươi nào có thua gì gã Nhất Bất Thông!
Sáng hôm sau, bang chủ Cái Bang giả làm lão ăn mày, âm thầm đi vào cửa vườn phía sau. Đặng Vân Nhạc lên chấp chưởng Cái Bang đã hơn hai mươi năm, không còn phải cắp nón đi ăn xin, nay đóng vai đệ tử không khỏi có điều ngượng ngập!
Vài khắc sau, họ Đặng ra về và phát động toàn Bang thực hiện kế hoạch của Hãn Thanh!
Cái Bang tuy không có thành tựu về võ học, nhưng với lực lượng đệ tử đông dến mấy chục vạn và hệ thống truyền tin nhanh nhậy, luôn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Trung Hoa!
Bọn Hóa tử có mặt khắp nơi nên thu lượm thông tin dễ dàng, và phao tin cũng không khó. Đến rằm tháng sáu thì cả thành Bắc Kinh truyền tai nhau việc Hải Trừng Công Chu Kích đang chuẩn bị tạo phản. Bách tính sợ hãi lo tích trữ lương thực khiến giá ngũ cốc tăng cao!
Tất nhiên tin này cũng lọt vào tai Đông Xưởng, cơ quan mật vụ của triều đình. Họ lập tức điều tra ráo riết, thì được biết rằng tin kia xuất phát từ kỹ viện.
Khổ thay, kỹ viện lại là nơi phức tạp nhất trên đời, và không hề hỏi thẻ đinh của khách làng chơi bao giờ cả!
Bọn kỹ nữ khai rằng có mấy trăm hảo hán mang vũ khí, tiền bạc ghé chơi. Trong lúc say rượu, say tình, họ đã tiết lộ rằng mình đến dưới trướng Hoàng Thân Chu Kích.
Đám kỹ nữ trong thành lại là bạn tình của bọn Cấm Quân và Cẩm Y thị vệ, vì vậy, họ lo lắng cho tình lang nên ghé tai cảnh báo, mong người thương bảo trọng tấm thân khi có biến.
Người của Đông Xưởng lại đến Sơn Đông điều tra Hải Trừng Công, thì lại nghe đồn trong dinh tổng đốc có người Mãn Châu ẩn náu, và tháng ba vừa rồi, Chu Kích đã âm thầm vượt biển sang quần đảo Phù Tang để ký kết liên minh.
Từ xưa đến giờ, Phù Tang tức Nhật Bản luôn là tai họa đối với vùng duyên hải Trung Hoa. Những đoàn thuyền của bọn hải tặc Phù Tang, từ biển Đông thường bất thần xâm nhập vùng ven biển từ Bắc xuống Nam, cướp phá rồi bỏ chạy. Thủy quân và lục quân Trung Quốc không sao đối phó kịp.
Chính vì vậy, tin này khiến bọn mật thám Đông Xưởng rụng rời, chẳng dám bỏ qua. Họ đến dinh Thủy Sư Đề Đốc Sơn Đông kiểm tra, thì phát hiện trong sổ sách có ghi rõ việc cho Hải Trừng Công Chu Kích mượn bốn chiếc thuyền hôm tháng hai, và chỉ có một chiếc trở về!
Tuy chứng cớ chưa rõ ràng, nhưng cũng đủ để Đông Xưởng mật tấu lên Thiên tử. Minh Cảnh Tông tuy hiền lành, nhu nhược, luôn sủng ái Chu Kích, nhưng sợ mất ngôi nên hạ chỉ bắt Hải Trừng Công.
Mấy ngày sau, Chu Kích về Bắc Kinh dự chầu thì bị tống giam vào thiên lao.
Sau khi lục soát tư dinh họ Chu ở Tế Châu, Đông Xưởng phát hiện rất nhiều tang chứng quan trọng đủ để khép Hải Trừng Công vào tội chết!
Thế là bước đầu của diệu kế Tá Đao Sát Nhân đã thành công mỹ mãn.
Không hề tốn giọt máu mà vẫn tiêu diệt được tai họa cho xã tắc!
Lão Hầu Gia hết lời khen ngợi Cái Bang, tặng họ thêm ngàn lượng vàng nữa!
Sau ngày giỗ Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên Mùng bốn tháng bẩy ông cháu Hãn Thanh đưa Lạc Bình, Hà Hồng Hương về nơi ở mới. Đó là một tòa trang viện kín đáo, rộng rãi, nằm ở ngoài cửa Đông thành, chỉ cách tổng đàn Cái Bang hơn trăm dặm.
Khu rừng cây phí sau trang kéo dài đến tận bờ Nam Lạc Hà, rộng đến mấy trăm mẫu, đủ cho đôi Tuyết Viên chạy nhảy.
Hai người vợ của Hãn Thanh đã bình phục hoàn toàn, chuẩn bị cho ngày khai hoa nở nhụy.
Trước đó, phần hai của kế hoạch Tá Đao Sát Nhân đã có kết quả. Thần Ngưu Giáo chính thức khiêu chiến với Ngũ Long Bang vào ngày rằm tháng bẩy, dưới chân núi Ngũ Hành Sơn!
Không hiểu sao tin này lại lọt ra ngoài rất sớm và lan nhanh như gió, nên hào kiệt bốn phương lũ lượt kéo đến quan chiến.
Ngọn Cực Nam của dãy Ngũ Hành Sơn hay Thái Hàng Sơn chỉ cách bờ bắc Hoàng Hà hơn hai trăm dặm, xem như ở khoảng giữa Vận Thành và Lạc Dương.
Sáng sớm ngày rằm tháng bảy, Hãn Thanh đã có mặt, hòa lẫn trong mấy ngàn hào khách. Không ai nhận ra Tiểu Hầu Gia vì chàng đã được hóa trang cẩn thận! Hơn nữa, cả võ lâm đều tin rằng Hãn Thanh đã chết ngoài khơi Đông Hải.
Giữa giờ Thìn, hai phe Ngũ Long Bang và Thần Ngưu Giáo xuất hiện, mỗi bên mang theo trăm thủ hạ, đúng như giao ước!
Phía Thần Ngưu Giáo gồm có giáo chủ, mười lão Ngân Khôi, và chín mươi Ngưu Giác Đồng Khôi võ sĩ.
Còn đoàn Ngũ Long Bang do thầy trò Hứa Hữu Tinh và mười tám kiếm thủ thống lỉnh tám mươi mốt thủ hạ áo xanh!
Hãn Thanh chú tâm quan sát Vu Sơn Sơn Chủ Bộc Ly Bôi, cố nén tiếng thở dài. Nếu không được Cái Bang báo trước, chàng sẽ tưởng lão ta là con của Hứa Hiểu Tinh.
Thần Ngưu Giáo không ngờ cuộc chiến này lại được võ lâm quan tâm như vậy, liền cố tỏ vẻ ung dung, ra dáng một tôn sư, định nhân dịp này dương danh với đời, lão vòng tay giới thiệu:
- Bổn tọa là Quân Khải Siêu, giáo chủ Thần Ngưu Giáo, xin cảm ơn chư vị đồng đạo đã hạ cố đến quan chiến! Bổn giáo ẩn cư chốn rừng sâu, thờ phượng Ngưu Thần, chỉ lo việc tu hành, nào ngờ Ngũ Long Bang lại vô cớ đến tấn công, thiêu hủy cơ ngơi. Vì vậy, bổn giáo đành phải xuất đạo, hỏi tội Ngũ Long Bang!
Hứa Hiểu Tinh cười nhạt:
- Bổn bang quả có đên Vận Thành tìm người và có đụng chạm với Thần Ngưu Giáo, nhưng việc đốt nhà hoàn toàn không có!
Quân giáo chủ quát vang:
- Không phải bọn ngươi thì ai vào đây nữa? Đừng nhiều lời ngụy bịên uổng công!
Vu Sơn Sơn Chủ bỗng lên tiếng:
- Quân Khải Siêu! Phải chăng ngươi là hậu nhân của Thanh Ngưu lão tổ Quân Thường Khanh?
Họ Quân biến sắc mặt nạt:
- Tiểu tử kia! Sao ngươi dám gọi tên tiên phụ ta như vậy?
Bộc Ly Bôi ngửa cổ cười dài, tiếng cười hùng mạnh như sấm mùa xuân, xoáy vào màng nhĩ mọi người khiến ai nấy đều phải bịt tai!
Dứt tràng cười thị uy, Bộc Ly Bôi nghiêm giọng:
- Lão phu là Vu Sơn Sơn Chủ đây! Năm xưa cha ngươi gặp ta còn phải tôn là huynh trưởng đấy!
Trong đám quần hùng lập tức có tiếng người xen vào:
- Quân giáo chủ đừng tin, Ngũ Long Bang thấy sang bắt quàng làm họ đấy thôi!
Lại có người mỉa mai:
- Hắn mà là Vu Sơn Sơn Chủ thì tại hạ là Thái Thượng Lão Quân giáng phàm.
Giọng y rất hoạt kê nên cử tọa đều phá lên cười!
Quân Khải Siêu dương cờ gióng trống đến đây, chẳng thể rút lui vì một lời nói. Lão cười nhạt bảo:
- Dù tôn giá có là Vu Sơn Sơn Chủ thì bổn đạo cũng không thể ngán sợ.
Mối hận thiêu hủy cơ nghiệp phải rửa bằng máu mới xong!
Dứt lời, lão phất tay ra hiệu tấn công. Phe Thần Ngưu Giáo đều mặc bảo y và không sợ độc nên hung hãn xông lên, lao vào đối phương.
Hai lão mũ bạc đón đánh Hứa Hiểu Tinh, tám lão còn lại quần thảo với mười tám tay kiếm thủ Đồ đệ Vu Sơn Sơn Chủ! Còn bản thân Quân Khải Siêu thì đấu với Bộc Ly Bôi!
Sư phụ Hãn Thanh là Bất Biệt Cư Sĩ đã từng kể cho chàng nghe về Thanh Ngưu lão tổ Quân Thường Khanh, ông ta chỉ thua cao sư tổ mười lăm tuổi, chuyên luyện Mãng Ngưu khí công, lúc xuất trận thường mặc áo Tê Ngưu Tây Tạng, chân khí làm căng phồng bảo y, chống lại được đao kiếm, quyền chưởng. Ngoài ra họ Quân còn giỏi cả phép kiếm chưởng hợp nhất, chiêu xuất như lôi, chỉ tiến chứ không lùi.
Giờ đây Thần Ngưu Giáo chủ cũng có đấu pháp y hệt như vậy. Thanh kiếm của lão to bản, lực đạo vô cùng mãnh liệt. Lão hùng hục lao đến như con trâu điên, không hề biết sợ là gì.
Nhưng rất tiếc, bản lĩnh của Vu Sơn Sơn Chủ còn cao cường hơn cả Thanh Ngưu lão tổ nên dễ dàng đối phó với họ Quân. Thân hình lão nhẹ nhàng bay lượn, tựa như nương theo kiếm phong của đối phương vậy!
Trong Thiên Tiên Diên Du mở đầu Nam Hoa Kinh, Trang Tử có nhắc đến việc Liệt Tử cỡi gió mà đi. Nay Vu Sơn Sơn Chủ luyện thành Xung Hư Bí Kíp, phải chăng đã học được phép ngự phong?
(Theo cổ thư thì Liệt Tử tên thật là Liệt Ngu Khấu, người nước Trịnh, một bậc đại tiên đắc đạo, đã soạn ra quyển Xung Hư Chân Kinh để lại cho đời.
Nhưng điều này vẫn còn là một một nghi vấn, chưa được các học giả nhất trí.) Quần hào choáng váng trước pho khinh công vô thượng của Vu Sơn Sơn Chủ, vỗ tay tán thưởng ầm ỹ. Quân Khải Siêu càng điên tiết, bất ngờ dùng Mãng Ngưu Khí Công gầm lên như sấm sét, kèm theo một đạo chưởng kình vũ bão.
Vu Sơn Sơn Chủ vội cử hữu thủ đỡ đòn, và cước bộ hơi khựng lại, bám chặt lấy Bộc Ly Bôi, chưởng kiếm liên hoàn, không để đối phương tách ra.
Vu Sơn Sơn Chủ động nộ, xuất liền một chiêu tuyệt học, chưởng ảnh chập chờn xuyên qua lưới kiếm, vỗ vào ngực họ Quân.
Chưởng kinh đánh rách áo ngoài nhưng lại bị lớp da áo da Tê Ngưu căng phồng đẩy trượt đi, và Quân Khải Siêu vẫn đủ sức phản đòn. Lão gầm lên, nhưng lần này chân khí từ trong miệng bắn ra, đột ngột giáng vào ngực Vu Sơn Sơn Chủ.
Bộc Ly Bôi luyện thành Tiên Thiên Tam Muội thần công nên cơ thể luôn được bảo vệ bởi một màn cương khí vững chắc. Tuy lão không thọ thương nhưng cũng bị đẩy văng về phía sau vài bước.
Quần hào thấy thế liền hoan hô Thần Ngưu Giáo chủ. Bộc Ly Bôi giận tím mặt đề khí bốc thẳng lên không trung, lướt quanh đầu Quân Khải Siêu, và liên tục giáng xuống những đạo chưởng kình xanh biếc và nóng như lửa lò rèn!
Quân giáo chủ kinh hãi bỏ kiếm cử chưởng đỡ đòn. Cố đánh bạt luồng hơi nóng khủng khiếp kia. Nhưng chiêu thức của đối phương vừa độc hại, vừa ảo diệu vô song. Họ Quân liên tục trúng đòn, y phục bốc cháy và máu miệng trào ra không ngớt!
Hãn Thanh chứng kiến bản lĩnh lãnh đạo vô tiền khoáng hậu kia mà lòng thầm ngao ngán. Nhưng chàng không thể để Thần Ngưu Giáo chủ chết vì muu kế của mình. Lão không có tội gì và cũng chưa bộc lộ dã tâm.
Hãn Thanh lướt đến đấu trường dùng chưởng pháp Kim Sa Ấn xuất chiêu Hậu Nghệ Xạ Kim Ô, tấn công vào mé tả Bộc Ly Bôi!
Chiêu này chàng học được trong lúc ở cạnh Hồ Đạt Lai, và chưa sử dụng bao giờ. Về ý thì cũng tương tự như chiêu Cửu Cửu Nhất Nguyên nhưng ảo diệu hơn nhiều.
Thân hình chàng như mũi tên lao vút đi, song thủ hướng ra phía trước liên tục ve vẩy, tạo thành đến ba chưởng ảnh màu vàng nhạt nối nhau.
Tất nhiên Bộc Ly Bôi đã phát hiện, vung tả thủ vỗ liền mấy đạo chưởng kình hung hãn, Tưởng chừng sẽ thiêu cháy kẻ lạ mặt. Nhưng ba đốm lửa Kim Sa Thủ đã bảo vệ được đầu, còn thân thể thì nhờ công phu Thiên Ma Bách Luyện, nên Hãn Thanh vượt qua được lưới lửa.
Khi Vu Sơn Sơn Chủ phát hiện nguy cơ thì đã chậm mất vài sát na. Lão khoa tay phất thêm một chưởng vào ba chưởng ảnh kia, nhưng chúng đã ập đến, nhập thành một, vỗ vào sườn trái của lão.
Kim Sa Ấn thực chất bao hàm cả phép Cách Sơn Đả Ngưu nên chưởng kình của Hãn Thanh nặng như chiếc thùng sắt, chấn gẫy ba chẻ xương sườn non của họ Bộc. Nếu là người khác thì phủ tạng dập nát, hồn du địa phủ ngay rồi!
Vu Sơn Sơn Chủ đau đớn hự lên, hạ thân xuống đất, máu miệng rỉ ướt ngực áo, lão căm hận rú lên:
- Té ra đệ tử của lão Cao Hán Ngọc lại giỏi nghề cắn trộm!
Quần hào nghe vậy mừng rỡ reo hò:
- Tiểu Hầu gia! Tiểu Hầu gia!
Giáo chủ Thần Ngưu Giáo được chàng cứu mạng, cảm kích thét lên:
- Xem như Quân mỗ nợ Hầu Gia một mạng, giờ hai ta liên thủ giết lão già chết tiệt này!
Y phục lão đã cháy gần hết, để lộ lớp bảo y bằng da Tê Ngưu vàng xám.
Hãn Thanh cũng đập vội lửa trên người rồi cười đáp:
- Vàng dẫn nhiệt, xin giáo chủ bỏ Kim Bôi ra mới mong chiến đấu được.
Quân Khải Siêu biết chàng nói đúng, gỡ phăng ngay chiếc nón mặt nạ sừng Trâu, để lộ dung mạo của một lão nhân lục tuần anh tuấn.
Vu Sơn Sơn Chủ đã có chút thời gian để tự trị thương sơ sài. Lão cười ghê rợn:
- Dù cả hai ngươi liên thủ cũng chẳng thể nào thoát chết, khi lão phu đã động sát cơ!
Hãn Thanh biết lão nói thực, vì lúc nãy chàng đã dồn hết công lực, xuất hiện đột ngột mà vẫn không thể giết chết được lão ta. Nay đối phương đã đề phòng, tất sẽ không còn cơ hội! Nhưng chàng không còn cách nào khác là phải tử chiến đến cùng, liền lướt đến vung chưởng tấn công. Quân giáo chủ cũng hăm hở xông vào, dùng Mãng Ngưu Thần Chưởng mà uy hiếp đối phương vì biết đao kiếm không giết dược họ Bộc, và cũng không ngăn nỗi những đạo chưởng kình nóng rực kia.
Công lực của Quân Khải Siêu và Hãn Thanh cộng lại cũng hơn trăm năm tu vi, tương đương với Vu Sơn Sơn Chủ, nhưng tiếc rằng trong sở học lại không thể một cộng một bằng hai được. Ví như hai đứa trẻ mười tuổi mà đánh với người hai mươi sao thắng nổi.
Hãn Thanh giỏi kiếm hơn chưởng nên rơi vào hoàn cảnh dùng sở đoản của mình đấu với sở trường của người. Nhưng kiếm thường không phá nỗi luồng cương khí hộ thân của đối phương, chàng đành chấp nhận thua thiệt.
Giờ đây, Vu Sơn Sơn Chủ đã nỗi máu sát nhân, đem hết sở học ra thi thố, khiến Hãn Thanh và Quân Khải Siêu vô cùng chật vật. Khinh công của Bộc Ly Bôi tuy không ảo diệu hơn pho Lưu Thủy Hành Vân của Tiểu Thuần, nhưng lão nhờ công lực thâm hậu nên nhanh nhẹn tuyệt luân. Lão nhởn nhơ giữa lưới chưởng, luân phiên chạm chưởng với từng người, nên bao giờ cũng ở thế thượng phong.
Chỉ sau trăm chiêu, Quân Khải Siêu đã trúng bốn chưởng, hộc máu thành vòi, nếu không có bảo hộ y thân thì đã mạng vong.
Hãn Thanh nhờ phối hợp thân pháp Lưu Thủy Hành Vân vào Cửu Cung Mê Bộ nên khá hơn họ Quân, chỉ trúng phớt có một chưởng cháy da.
Có điều Vu Sơn Sơn Chủ đã quyết giết bớt đối thủ yếu hơn để rãnh tay tiêu diệt kẻ còn lại, lão nhếch mép cười ghê rợn, chưởng kình dệt lưới quanh thân, như trái cầu lửa xanh mờ lao vút về phía Quân Khải Siêu.
Họ Quân biết mình khó thoát chết nhưng cũng cắn răng vung song thủ giáng thẳng vào thân hình mờ mờ của đối phương. Tiếc là chiêu tuyệt chưởng mà Bộc Ly Bôi thi triển đã hóa giải được lực đạo Mãng Ngưu Thần Chưởng, và tiếp tục ập đến. Quân Khải Siêu kinh hoàng nhận ra mình sắp chết.
Nhưng Hãn Thanh không kể tử sinh, cố cứu cho được họ Quân. Chàng nhoài người nằm sấp, lướt trên mặt cỏ lao vào chân Vu Sơn Sơn Chủ. Thân hình họ Bộc lúc này bốc cao hơn mặt đất gần sải tay, nên Hãn Thanh ở ngay dưới hai bàn chân lão.
Chiêu thức quái dị, chưa hề được nhắc đến bao giờ này đã khiến Sơn Chủ bối rối, đành bỏ Quân Khải Siêu, lật chưởng giáng thẳng xuống. Tuy nhiên Hãn Thanh kịp vỗ một chưởng cách không vào sườn trái của lão, đúng ngay vị trí ba rẻ xương sườn non gẫy lúc nãy. Chỗ này đã bị tổn thương nên lớp cương khí rất mỏng, nay trúng thêm đòn nữa, lại gẫy rời và đau đớn khủng khiếp.
Chân khí lập tức gián đoạn, chưởng kình của họ Bộc yếu hẳn và lệch đi, nên Hãn Thanh thoát chết. Chàng lăn tròn ra sau lưng đối phương lộn người lên định tấn công tiếp. Nhưng Vu Sơn Sơn Chủ đã thọ thương, mất cả ý chí chiến đấu, phi thân đào tẩu mất, vì bốn lão Khôi đã rảnh tay chạy đến tham chiến.
Hãn Thanh nói mau:
- Phải giết sạch đối phương để trừ hậu họa, Hứa Hiểu Tinh là người rất nguy hiểm!
Dứt lời, chàng rút kiếm phi thân đến trận địa của họ Hứa. Quân giáo chủ cũng gầm vang:
- Giết hết chúng cho ta!
Phe Ngũ Long Bang thấy Thái Thượng giáo chủ đào vong, hồn phi phách tán chạy theo, nhưng không thoát khỏi kiếm trận của Thần Ngưu Giáo. Bọn Ngưu Giáo Đồng Khôi này là lực lượng tinh nhuệ nhất của họ Quân, lại có mũ đồng và áo da hộ thân nên rất lợi hại. Lại thêm Quân Khải Siêu căm hận Vu Sơn Sơn Chủ đánh mình gần chết, nên đổ giận lên đầu bọn đệ tử Ngũ Long Bang cuối cùng chẳng tên nào sống sót cả!
Chỉ còn một mình Hứa Hiểu Tinh đang liều chết chống trả với Hãn Thanh. Lão múa tít bảo đao, đem hết sở học ra đổi mạng. Nhưng Hãn Thanh kiếm thuật cao siêu. Ung dung giải phá và còn mở miệng nói:
- Hứa Hiểu Tinh! Ta biết lão là người đã bày ra trò tập kích Hầu phủ, vì tâm cơ bọn Quỷ Trảo, Thần Đao không đủ thâm độc như vậy. Còn Tư Không Nhạ thì e ngại Bắc Thiên Tổng Giám nên cũng chẳng nỡ tuyệt tình! Ta suy luận như vậy có đúng không?
Họ Hứa rít lên:
- Đúng thế đấy tiểu cẩu ạ!
Quần hùng nghe rõ quát vang:
- Hầu gia còn chờ gì mà không giết quách lão ta cho rồi!
Hãn Thanh quắc mắt xuất chiêu thái cực sinh lưỡng nghi, kiếm ảnh hợp thành một vòng tròn trĩnh đi qua lưới đao, và bao phủ thân hình đối thủ.
Chiêu này lấy ý của đao pháp nên kết thúc bằng lưỡi chứ không phải bằng mũi kiếm. Họ Hứa rú lên thảm thiết và thân thể đứt thành hai đoạn.
Quần hào đồng thanh chúc mừng sự trở về của Tiểu Hầu Gia rồi cáo từ.
Quân Khải Siêu bước đến vòng tay vái dài:
- én đức này bổn giáo nguyện ghi lòng tạc dạ. Sau này Hầu gia có gì sai bảo xin cứ đến Vận Thành!
Hãn Thanh mỉm cười hỏi:
- Nghe nói quý giáo có gặp hỏa tai, chẳng hay có ai thương vong không?
Quân Giáo nhăn mặt:
- Tuy không có ai chết nhưng nhà cửa cháy hơn nửa, muốn dựng lại càng khó vì bổn giáo rất nghèo!
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Phải chăng Giáo chủ cũng nuôi mộng bá chủ nên mới khổ công đào luyện một đạo quân tinh nhuệ như vậy?
Quân lão gượng cười:
- Tiểu Hầu Gia hiểu lầm rồi, lão phu có mối thù sâu sắc với Hắc Hồ Bảo ở Diên An nên mới phải chuẩn bị lực lượng. Nhân mã của kẻ thù đông đến gần ngàn, lại giỏi nghề cũng nỏ, áo da và mũ đồng chính là khắc chế sở trường của đối phương!
Hãn Thanh hiếu kỳ hỏi:
- Chẳng lẽ Hắc Hồ Bảo lại lợi hại đến thế sao?
Quân Khải Siêu gật đầu:
- Hắc Hồ Bảo chủ Tôn Cự Mộc vốn là đồ đệ của Sách Huyết Tôn Giả Phí Hòa. Lão ác ma này đã chín mươi sáu tuổi mà vẫn còn sống, và đang ẩn mình trong Hắc Hồ Bảo!
Hãn Thanh thầm lo ngại vì chẳng biết Sách Huyết Tôn Giả là kẻ cùng hung cực ác, bản lãnh cao cường, lại quen biết với Vu Sơn Sơn Chủ. Nếu Bộc Ly Bôi lôi kéo cả lão đại ác ma họ Phí xuất đạo thì tai họa khó lường!
Hãn Thanh hỏi thêm:
- Nghe nói có hai con vượn trắng cõng hai nữ nhân chạy lạc vào trọng địa, chẳng hay quý giáo truy bắt được chưa?
Quân Khải Siêu giật mình:
- Làm gì có hai nữ nhân nào? Khoảng cuối tháng tư, bổn giáo phát hiện có hai con vượn trắng, ngực đeo chuỗi ngọc đột nhập vào dược thất lấy trộm linh đan, liền truy bắt. Chúng liền trèo lên ngay tảng đá Kình Thiên, nơi lão phu tế thần mỗi đêm rằm, và tử thủ quyết không chịu xuống. Khi bọn Ngũ Long Bang đốt nhà thì hai con vượn đó cũng biến mất!
Hãn Thanh thở phào biết họ Quân không có lỗi gì, chàng lấy ra tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng, nhét vào tay lão rồi dịu giọng:
- Số vàng này là để bồi thường cho giáo chủ. Kẻ đốt nhà hôm ấy chính là tại hạ, vì hiểu nhầm nên tại hạ hải phóng hỏa đánh lạc hướng để cứu hai hiền thê đang ở trên đỉnh Kình Thiên. Trong đêm Hầu Phủ bị tập kích, đôi vượn kia đã đưa họ đào thoát, lạc đến Vận Thành! Thực may là tại hạ không hề giết một đệ tử nào của giáo chủ.
Quân Khải Siêu hiểu ra, vỗ vào chàng cười ha hả:
- Vài nếp nhà tranh nào có đáng gì, ơn cứu mạng của Hầu Gia còn mang nặng đâu dám nhận bồi thường!
Hãn Thanh chính sắc nói:
- Cuộc chiến với Ngũ Long Bang và Hắc Hồ Bảo sẽ rất khốc liệt, xin giáo chủ cứ nhận lấy mà xây dựng tổng đàn cho thật kiên cố. Vu Sơn Sơn Chủ và Sách Huyết Tôn Giả là bằng hữu với nhau không chừng sẽ liên thủ để đối phó với Thần Ngưu Giáo, mong giáo chủ cẩn trọng!
Quân Khải Siêu xiết chặt vai chàng đáp:
- Đã có Hầu Gia bên cạnh Quân mỗ không biết sợ là gì!
Hãn Thanh nghe lòng ấm áp tình bằng hữu, gật đầu hứa:
- Giáo chủ yên tâm! Chúng ta sẽ sát cánh với nhau!
Hai người bàn bạc việc lập đường dây liên lạc giữa Vận Thành và Lạc Dương. Quân Khải Siêu nhìn những vết nám đen trên da thịt Hãn Thanh, xót xa nói:
- Lão phu thật sơ ý, không nhớ rằng Hầu Gia bị phỏng!
Lão quát thuộc hạ dùng nước sạch rửa cho chàng và bôi lên người một thứ mỡ màu trắng. Hãn Thanh nghe da mát rượi, nhìn lão với vẻ dọ hỏi. Quân Khải Siêu cười khà khà:
- Đây là mỡ trăn chứ chẳng phải mỡ trâu đâu!
Chàng chỉ nhớ rằng mình có biết một đại nhân vật ở địa phương này, và cần lão giúp đỡ.
Người ấy là Giang Nam Thần Côn Bùi Toản, bang chủ Thần Côn Bang, bá chủ phủ Chiết Giang. Họ Bùi có đến dự đại hỉ của Hãn Thanh.
Lúc này trên người chàng là bộ y phục vải thô cũ kỹ của một tay thủy thủ tốt bụng. Người trên thuyền buôn đã gom góp tặng Hãn Thanh vài chục lượng bạc và ít quần áo cũ. Chàng đã gầy đi nhiều, gương mặt cháy đen vì nắng biển, râu ria phủ đầy, trông rất tiều tụy và hốc hác. Dù chàng có dỡ chiếc nón rộng vành đan bằng mây ra thì cũng chẳng ai nhận ra được Tiểu Hầu Gia.
Hãn Thanh đi về phía Nam thành Hàng Châu, đến phân đàn Nam Giao để tìm tổng đàn Thần Côn Bang. Chàng giật mình nhận ra trên nóc đại sảnh đang phất phới lá cờ lớn thêu hình năm con rồng xanh của Ngũ Long Bang.
Hãn Thanh hiểu rằng trong thời gian chàng lưu lạc ngoài biển Đông, bọn Nam Thiên Tổng Giám đã về đến Trung thổ và nỗ lực bành trướng thế lực! Chàng bỗng lo lắng cho an nguy của Hầu Phủ và thân quyến.
Hãn Thanh đành bỏ ý định tìm Giang Nam Thần Côn, vượt sông Tiền Đường, đi về hướng Nam. Chàng quyết định trở lại Ôn Châu báo tin dữ cho gia đình lão chủ hãng thuyền Nam Dương.
Không đủ tiền để mua ngựa Hãn Thanh đã dùng khinh công để vượt đoạn đường ba trăm dặm.
Ngọc Nữ Nhất ém tâm pháp và Nhất Nguyên Thần Công có những điểm tương đồng, nên Tiểu Thuần đã truyền lại cho Hãn Thanh khẩu quyết của pho khinh công Lưu Thủy Hành Vân. Đây là tuyệt học gia truyền của riêng dòng họ Trịnh, ngay giáo chủ Thiên Sư Giáo cũng không biết được.
Hãn Thanh nóng ruột nên lướt đi như nước chảy mây trôi, khiến lữ khách trên đường kinh hãi. Chiều hôm sau, chàng đã có mặt ở Ôn Châu, gõ cửa Hách Gia Trang.
Bọn gia đinh ngơ ngẩn khi chàng giới thiệu mình là Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh, thượng khách của Hách Khai Nguyên hai tháng trước.
Nhưng khi nhìn thấy kim bài Hầu Tước, chúng vội chạy vào thông báo.
Hãn Thanh hân hoan khi thấy Hách Khai Nguyên còn sống và đích thân ra đón khách! Lão cũng mừng sa lệ Ôm Hãn Thanh khóc ròng.
Chàng vội vã hỏi:
- Hách chủ nhân! Có bao nhiêu người thoát nạn?
Thâm tâm chàng nuôi hy vọng rằng bọn Tiểu Thuần cũng còn sống.
Nhưng câu trả lời của họ Hách khiến chàng chết lặng.
- Bẩm hầu gia! Lão phu và sáu gã thủy thủ bám vào những thanh gỗ trôi dạt ba ngày, rồi được thuyền buôn vớt lên. Những người khác thì không biết lành dữ thế nào!
Lão đưa chàng vào đại sảnh, buồn rầu nói:
- Họa vô đơn chí! Mong Hầu gia bình tâm nghe lão phu báo thêm một hung tin!
Hãn Thanh choáng váng, hít một hơi chân khí, cố trấn tỉnh hỏi:
- Phải chăng đó là tin từ Lạc Dương?
- Thưa phải! Hầu tước phủ đã bị cường địch tấn công vào đêm mùng chín tháng tư, trừ hoa viên phía sau, nhà cửa đều bị thiêu hủy. Có hơn hai trăm người cháy nám đen nên không ai biết tung tích của lão Hầu Gia và những người còn lại đâu cả! Hiện nay Hầu phủ chỉ còn là một đống gạch vụn điêu tàn.
Nỗi đau thương to lớn kia thấm sâu vào tâm hồn Hãn Thanh, chàng ngồi lặng lẽ, chỉ có đôi mắt là biểu hiện sự thống khổ vô bờ! Hách lão sợ hãi vội an ủi:
- Lão Hầu gia một đời tu nhân tích đức, chắc sẽ được hoàng thiên bảo hựu, mong công tử đừng quá bi ai!
Hãn Thanh lẩm bẩm:
- Tử sinh, họa phúc không khác nhau ư? Ta biết phải làm sao đây?
Hai mươi ngày sau, tức là sau Tết đoan ngọ năm ngày, Hãn Thanh đã về đến Lạc Dương. Chàng vào phạn điếm an qua quýt vài chén cơm rồi lần đến Hầu Phủ. Lúc này chiều đã buông ánh hoàng hôn đỏ rực nhưộm hồng cảnh hoang phế, ngổn ngang gạch đá nám đen.
Phía trước của đại môn có hai gã lính lệ canh gác, nên Hãn Thanh vòng ra mé hông vượt tường mà vào. Chàng vượt thẳng đến tòa giả sơn to lớn, cao ba trượng giữa hoa viên, mừng rỡ nhận ra cửa ngầm vẫn còn nguyên vẹn.
Hãn Thanh ấn mạnh vào ba viên đá lồi theo một thứ tự nhất định, cánh cửa đá thụt xuống, để lộ đường vào mật thất. Đấy là nơi bí mật nhất Hầu Phủ.
Chỉ có lão Hầu Gia và chàng biết được. Hầm ngầm này được xây dựng từ thời cao tằng tổ Mộ Dung Bích, để cất giấu của cải và ẩn thân khi binh biến. Lương thực và nước uống dự trữ đủ cho mười người sống suốt nửa năm. Ngoài ra còn có di hài của nội tổ mẫu Hãn Thanh. Mộ Dung Cẩn rất yêu thương bà nên bỏ ra ngàn lượng vàng, mời giáo chủ Thiên Độc Giáo ở Vân Nam đến ướp xác ái thê, đặt vào hòm bạc, nắp đậy pha lê Hà Lan. Lão Hầu Gia thường xuống mật thất một mình hàn huyên với thi hài của người mình yêu dấu.
Hãn Thanh bước xuống thang đá, phát động cơ quan đóng cửa, rồi nhanh chóng tiến vào. Vượt hết mấy chục bậc thang thoai thoải là đến cửa đá thứ hai. Cạnh cửa cũng có những ô gạch màu trắng, phải biết cách ấn mới mở được.
Cánh cửa hé ra, để lộ ánh nến bên trong khiến lòng Hãn Thanh bừng lên hy vọng. Chàng vẫn thầm van vái rằng trong lúc nguy cấp, lão Hầu gia sẽ đưa mọi người xuống đây lánh nạn!
Nhưng cạnh chiếc bàn bát tiên kia chỉ có một mình Mộ Dung Cẩn đang ngồi đọc sách! Hãn Thanh lao đến như cơn lốc, quỳ phục trước mặt ông sụt sùi:
- Gia gia! Tiểu tôn còn được thấy người!
Mộ Dung Cẩn ôm cháu khóc ròng:
- Ta đoán rằng thế nào cháu cũng sống sót trở về.
Hãn Thanh nghẹn ngào nói hỏi:
- Gia gia! Mọi người đâu cả rồi?
Lão Hầu gia buồn bã đáp:
- Đêm ấy! Ta vì lo lắng cho ngươi nên không sao ngủ được, liền âm thầm xuống mật thất tâm sự với nội tổ mẫu của ngươi. Ta có uống mấy chén rượu nên ngủ thiếp đi, không hay biết chuyện gì trên mặt đất. Đến cuối canh tư, ta trở lên thì Hầu Phủ đã biến thành biển lửa và không còn ai nữa cả! Ta bèn trở xuống mật thất chờ đợi cháu về.
Gương mặt Mộ Dung Cẩn hốc hác, sầu héo, mất hẳn vẻ phương phi, an lạc cố hữu. Hãn Thanh dù rất lo lắng nhưng vẫn gượng cười an ủi ông - Chu đại thúc là người cơ trí còn Tề nhạc phụ cùng các Phán Quan đều có võ công cao cường, chắc đã kịp đưa mọi người đào thoát. Tiểu tôn sẽ đi U Linh Cốc tìm họ!
Mộ Dung Cẩn gật đầu, nhưng bỗng nhớ ra rằng Hãn Thanh chỉ về có một mình, dung mạo lại tiều tụy khác thường! Ông kinh hãi hỏi:
- Bọn Thuần nhi, Vân nhi đâu sao không đi theo ngươi?
Hãn Thanh đành phải kể lại việc gặp bão bị đắm thuyền, và luôn miệng trấn an ông nội rằng:
Nếu bọn Hách Khai Nguyên và chàng sống sót thì những người còn lại cũng vậy! Võ công họ cao siêu nên dù có phải lênh đênh hàng tháng cũng không thể chết được.
Thực lòng, chàng chỉ tin vào khả năng sống sót của Tiểu Thuần. Nàng luyện Ngọc Nữ Nhất ém Công đã đến lớp thứ tám, có thể nhịn ăn, nhịn thở rất lâu. Lúc thuyền bị sóng đánh vỡ thì hai nàng ở dưới khoang, có lẽ đủ thời gian chuẩn bị cho tai họa.
Ngay đêm ấy, Hãn Thanh cùng lão Hầu Gia rời Hầu Phủ. Chàng đã đến Vạn An lữ điếm tìm Lục Tâm Hiền. Họ Lục rất mừng khi thấy Hãn Thanh và lão Hầu Gia. Lão cho biết Nhất Bất Thông Chu Minh và người khác không hề về đây! Ngoài ra, Lục Tâm Hiền còn tiết lộ việc Tổng binh thành Lạc Dương đã bị thuyên chuyển từ trước ngày xảy ra vụ tập kích Hầu Phủ Mùng chín tháng tư!
Tân Tổng binh là Tạ Dương Nhân đã dẫn quân rời thành vào trưa ngày tám tháng tư để đi Tảo Phủ ở Thiển Huyện. nhưng Lục Tâm Hiền đã cho người dò la ra rằng Thiển Huyện chẳng hề có tên giặc cỏ nào cả!
Hãn Thanh đoán rằng việc này có bàn tay của Hải Trừng Công Chu Kích nhúng tay vào. Như vậy, hiện nay Ngũ Long Bang đã trở thành tay chân họ Chu!
Sáng hôm sau, Hãn Thanh gởi lão Hầu Gia lại Vạn An lữ điếm rồi lên đường đi U Linh Cốc. Gương mặt đen đủi đầy râu và bộ y phục lái buôn đã biến chàng thành một khách thương hồ vùng Duyên Hải. Chiếc nón tre rộng vành cũng là đặc sản của đất triều Châu Phía Bắc Phúc Kiến! Trước khi tìm ra tung tích người thân, chàng không muốn phí thời gian đụng độ với kẻ thù.
Mười ngày sau, Hãn Thanh đã đến nơi, chàng kinh hãi nhận ra U Linh Cốc bị tàn phá chẳng kém gì Hầu Phủ, và không còn một bóng người! Vậy là bọn Tề Phi Tuyết đã trở về đây và bị Ngũ Long Bang đuổi theo đến tận sào huyệt, phải đào tẩu thêm một lần nữa.
Hãn Thanh nhớ lời kể của Tề Đạm Vân, vào cuối cốc tìm đường thông lộ bí mật, trổ xuyên lòng núi.
Cánh cửa đá nặng vạn cân vẫn còn khép kín, dù bãi cỏ phía trước bị dày xéo bởi hàng trăm dấu chân, và máu đọng lại thành vũng đen sì.
Hãn Thanh phát động cơ quan để mở cửa, lại thấy vết máu và băng vải nằm rải rác. Như vậy là người trong cốc đã thoát qua đường này.
Chàng vận công nhìn xuyên bóng tối, lướt nhanh dọc đường ngầm, ra đến thung lung bên kia núi. Hãn Thanh vận công gọi vang nhưng không thấy có hồi âm. Chàng thất vọng quay bước, trở lại U Linh Cốc, rồi lên ngựa đi ngay.
Hãn Thanh quyết định về Lạc Dương và sẽ đến Tổng Đàn Ngũ Long Bang đại náo một phen. Tuy không chắc sẽ giết được năm lão ma đầu, nhưng cũng chẳng thể cầm chân chàng. Trận chiến sẽ đánh động cho bọn Tề Phi Tuyết, Chu Minh biết chàng còn sống mà đến hợp lực.
Sau bảy ngày dong ruỗi, Hãn Thanh chỉ còn cách Hoàng Hà ba trăm dặm. Đến một giao lộ thì trời đã gần trưa, chàng ghé vào phạn điếm dùng bữa.
Đây là một ngã tư, rẽ hướng Tây là đến Vận Thành, còn hướng Đông là sang đất Hà Nam.
Hãn Thanh thấy hàng đoàn kỵ sĩ lũ lượt kéo về hướng Tây, có cả đoàn quân của Ngũ Long Bang nữa. Chàng hiếu kỳ hỏi gã tiểu nhị, thì được nghe đáp rằng:
- Bẩm quý khách, mười ngày trước, người ta phát hiện ở bìa một cánh rừng già ở gần Vận Thành có hai con vượn trắng, cổ đeo chuỗi ngọc một tím, một lam. Khi bị đuổi bắt thì chúng chạy vào sâu trong cánh rừng. Do vậy, thiên hạ đồn rằng cánh rừng ấy có một kho báu rất lớn. Hàng ngàn người đã đổ xô đến để tìm kiếm, nhưng chưa có kết quả.
Hãn Thanh vui mừng khôn xiết vì biết đấy là Đại Bạch và Tiểu Bạch. Hai chuỗi ngọc kia chính là của lão Hầu Gia tặng Ngũ Đài Ma cơ và Viên Nguyệt Hằng Nga. Chàng bảo tiểu nhị tính tiền và thưởng thêm cho gã. Hãn Thanh vội vã lên đường, theo các hào khách đến Vận Thành.
Lòng chàng luôn khắc khoải, bởi nhiều nghi vấn:
một là vì sao lực lượng Hầu Phủ đông đảo và tinh nhuệ như vậy lại phải tháo chạy trước Ngũ Long Bang. Phải chăng đối phương đã có thêm cao thủ hoặc có vũ khí gì rất lợi hại?
Hai là, vì sao đôi vượn kia lại đeo chuỗi ngọc của Lạc Bình và Hà Hồng Hương? Hay là trong đêm ấy, chúng đã đưa hai nàng đào thoát, chứ không đi chung với bọn Tề Phi Tuyết? Nhưng sao đã hơn tháng mà họ vẫn còn ở lại cánh rừng kia mà không đi U Linh Cốc.
Hãn Thanh nóng lòng thúc ngựa phi mau, vượt đi trước, cuối giờ mùi đã đến nơi. Lúc này, ở bìa rừng mé tả đã xảy ra cuộc chiến khốc liệt giữa mấy trăm đao thủ áo xanh của Ngũ Long Bang và một lực lượng áo trắng.
Bọn Bạch y kia sử dụng trường kiếm, đầu chụp mũ sắt, có hai sừng, trông rất quái dị. Hãn Thanh không nhận ra lai lịch của bang hội lạ lùng này, nhưng rất ngạc nhiên trước kiếm pháp hiểm ác của họ.
Xem ra bản lĩnh của các kiếm thủ áo trắng lợi hại hơn hẳn bọn đệ tử của Ngũ Long Bang Vốn là người của Kiếm bang và Tân bang hợp thành. Nhưng lát nữa đây, khi toán tiếp viện tới nơi, có lẽ tình hình sẽ khác hẳn. Chàng đã nhận ra hơn trăm gã áo xanh trên đường là thủ hạ Nam Thiên Quỷ Hồ Thập Bát Trại, vì hông chúng có đeo túi da đựng độc phấn!
Còn có một lực lượng thứ ba đứng ngoài quan chiến. Đó là những hào khách võ lâm đến tìm kho báu. Họ không ưa gì Ngũ Long Bang nên khoanh tay tọa sơn quan hổ đấu.
Dù hiện nay, Ngũ Long Bang đã uy hiếp được hầu hết các phái võ lâm, nhưng đối với đám cao thủ độc hành này thì đành bó tay. Họ ung dung tự tại dong duổi giang hồ, chẳng có gì để mất nên không biết sợ ai?
Võ lâm là chốn tanh máu, ân oán chất chồng, vì vậy, có rất nhiều người giấu kín lai lịch, dùng danh tính giả mà xuất đạo. ít nhất thì việc này cũng giúp họ không bị quan nha đến tận nhà truy bắt vì tội giết người.
Lần này phe Ngũ Long Bang được thống lãnh bởi Bang chủ Hứa Hữu Tinh và Bạch Diện Vũ Sĩ Hà Lai Minh Nam tử của Quỷ Trảo. Hà Lai Minh giờ đây đã trở thành Hộ Pháp của bang.
Đối thủ của họ là ba lão già râu đen tuổi lục tuần, đội mũ sừng bằng bạc.
Phép liên thủ của hai thanh trường kiếm kia rất lợi hại nên song phương vẫn ở thế quân bình.
Toán quân mã tiếp viện của Ngũ Long Bang đã đến nơi, và được dẫn đầu bởi một hán tử tam tuần áo xanh thẫm, ngự trên năm con rồng nhỏ bằng chỉ bạc Giống như Bạch Diện Vũ Sĩ vậy. Còn Hứa Hữu Tinh thì biểu hiện vai trò Bang chủ bằng Ngũ Long thêu chỉ vàng.
Họ Hứa quát vang:
- Tư Không Hộ Pháp! Mau tấn công vào sườn tả!
Hãn Thanh nghe vậy, đoán gã là Tư Không Cổn, con trai Nam Thiên Tổng Giám!
Dung mạo y không thô kệch như Tư Không Nhạ mà lại khá anh tuấn, trắng trẻo. Tuy nhiên, đôi mắt thâm quần vì tửu sắc kia vẫn tỏa ra ánh yêu mị, tà quái!
Tư Không Cổn cười hang hắc:
- Hứa giáo chủ yên tâm, thuộc hạ sẽ quét sạch chúng ngay thôi mà!
Dứt lời, gã ra lênh tấn công. ®o ®nh thân pháp và chất kỳ độc Vạn Hương Lạc Phách lập tức phát huy diệu dụng, loại liền mấy chục tên áo trắng.
Lão già đội mũ sừng bạc vội hú vang, gọi viện binh. Và từ trong rừng mà ra một đạo quân kỳ lạ.
Bọn này đội mũ sừng bằng đồng che kín cả mặt, thân phủ lớp áo da đen bóng. Thanh kiếm của chúng dài và có bản lớn hơn kiếm thường. Độc đáo hơn nữa là đám này không sợ độc và chiến đấu bằng kiếm trận.
Phe Tư Không Cổn đành phải dùng đao và chưởng pháp để đối phó vì chất độc không còn tác dụng. Vòng vây kiếm trận xiết dần lại, hạn chế sự di chuyển của ®o ®nh Thân Pháp và bắt buộc đối phương phải chấp nhận cận chiến.
Giờ đây mới thấy rõ sự lợi hại của hai trăm gã mũ đồng. Họ rất nhanh nhẹn, dũng mãnh và không sợ chết là gì, mỗi nhát kiếm tung ra đều mạnh mẽ như chẻ núi, chẳng hề chùng bước dù vũ khí kẻ địch sắp chạm vào người.
Thì ra họ được lớp bảo y đen bóng kia che chở, làm giảm mức độ tổn thương nên sẳng sàng đổi mạng. Lối đánh của họ đã khiến phe Tư Không Cổn khiếp sợ và thương vong rất nhiều.
Hãn Thanh tự nhủ:
- Chủ nhân của đám người đội mũ sừng kia chắc cũng là kẻ có dã tâm không nhỏ nên mới âm thầm đào luyện một đạo quân kiên dũng như thế này.
Bỗng chàng nghe từ sâu trong rừng vọng ra tiếng hú ai oán của con Đại Bạch, chàng liền thúc ngựa đi ngược trở về, vài chục trượng. Đến chỗ vắng vẻ Hãn Thanh giấu ngựa rồi lướt vào rừng.
Thỉnh thoảng, chàng gặp vài gã áo da, mũ đồng đứng canh gác, nhưng không nỡ giết, chỉ tránh mặt chúng. Thủ pháp Kim Sa ấn có thể đánh vở gạch đá nên dù chúng mặc áo da cũng không thoát chết! Đây chính là phép Cách Sơn Đả Ngưu thất truyền từ lâu, chỉ mình Bất Biệt Cư Sĩ luyện thành, và truyền lại cho Hãn Thanh! Nhưng chỉ sau khi ăn Băng Hỏa Quả, có hơn hoa giáp công lực chàng mới thi triển nổi.
Hãn Thanh định hướng bằng tiếng hú não ruột cao vút của đôi vượn, băng mấy dặm đường rừng, tiến vào trọng địa của bang hội quái dị kia.
Cuối cùng, trước mắt chàng hiện ra một trảng cỏ rộng lớn giữa có một tảng đá khổng lồ, cao đến hai ba mươi trượng, đường kính độ tám trượng, trên dưới bằng nhau như chiếc trụ.
Bốn bề tuy không hoàn toàn nhẳn nhụi nhưng cũng không ai trèo lên nỗi. Do vậy, người nào đó đã khổ công đục lỗ ở sườn Nam, cắm thân gỗ vào để làm thang lên xuống!
Và giờ đây, đôi Tuyết Viên đang vắt vẻo trên lưng chừng thang, cố đẩy lùi bước tiến của bọn mũ sừng đồng. Hỗ trợ cho bọn này là hàng trăm tên mũ sắt trang bị trường cung. Chúng nhắm vào Đại Bạch và bắn như mưa.
Chỉ huy đạo quân này là lão đội mũ sừng bằng vàng diệp, che kín cả mặt, chỉ còn để lộ chùm râu dài đến ngực đen nhánh. Bên cạnh lão ta còn có bẩy lão đội ngân khôi. Hãn Thanh biết mình có xuất hiện cũng chưa chắc cứu được người thân, liền lặng lẽ trèo lên một cây Chương Hương cao vút.
Từ vị trí này, chàng đã nhìn thấy sào huyệt đối phương trong cánh rừng mé tả, cuối trảng cỏ. Hãn Thanh thấy Tiểu Bạch múa tít một cành cây lớn còn cả lá, đánh bạt những mũi tên, che chở cho Đại Bạch giáng chưởng xuống đầu kẻ địch. Chàng yên tâm thi hành kế sách của mình.
Hãn Thanh tuột xuống, cắt rừng đi vòng về phía trọng địa của bọn mũ sừng. Chàng lướt như bay, mặc cho gai góc cào rách bộ y phục trên người.
Nửa khắc sau chàng đã đến nơi, vòng ra phía Nam xem xét. Thì ra toàn bộ công trình nơi đây đều bằng gỗ, mái lợp lá, được bao quanh bởi một phòng tuyến sâu sáu trượng, dầy đặc bụi cây gai độc.
Hãn Thanh đã đọc qua Độc Kinh nên biết đây là loại cây Thiên May Thảo của đất Qúy Châu. Không những gai có độc mà cả mùi hương cũng có thể giết chết được người. Lại thêm bọn ong độc rất thích làm tổ trên cây Thiên May Thảo, vì hoa của loài cây này rất nhiều phấn.
Nhưng Hãn Thanh không có ý định vượt qua phòng tuyến nguy hiểm ấy để vào trong chàng nhắm hướng gió, bật hỏa tập đốt một đoạn dài.
Nắng tháng năm đã làm cho cây cỏ héo úa, khô cằn, chỉ cần một mồi lửa là bốc cháy. Gió Nam lồng lộng đưa ngọn lửa lan vào những bụi cây Thiên May Thảo. Lớp lá rụng tích tụ bao năm dưới gốc cây bốc cháy ngùn ngụt, tiến như vũ bão vào trong.
Tiếng chiêng báo cháy vang dội cả khu rừng vắng, vì tàn lửa đã đáp vào những mái tranh, lá, khiến các kiến trúc phát hỏa, dù lửa chưa lan tới nơi.
Hãn Thanh không cần biết kết quả. Quay lại ngay trảng trống để xem tình hình của đôi vượn. Chàng tin rằng vì có người trên đỉnh tảng đá kia nên Đại Bạch và Tiểu Bạch mới không bỏ đi, mà chống cự quyết liệt như thế!
Lúc này lão già đội Ngưu Giác Kim Khôi đã phát hiện Tổng đàn bốc cháy.
Lão căm hận gầm lên:
- Ngũ Long Bang! Thần Ngưu Giáo ta thề sẽ không tha cho các ngươi.
Lão ta vội vã rút hết lực lượng về chữa cháy chỉ để lại ba tên mũ sắt canh giữ chân tảng đá!
Chờ lão đi khuất, Hãn Thanh lập tức ra tay, chỉ trong một chiêu Thủ Hụy Ngũ Quyền đã điểm huyệt ba gã đệ tử Thần Ngưu Giáo.
Hãn Thanh lướt nhanh trên những thân gỗ. Đại Bạch định vung chưởng giáng xuống thì nghe tiếng hú quen thuộc, ngơ ngác dừng tay. Hãn Thanh nói mau:
- Ta đây mà!
Nhận ra giọng nói của chủ nhân đôi vượn mừng rỡ hú vang, nhẩy đến ôm chàng. Hãn Thanh mang cả hai đi hết những bậc thang cuối cùng, lên đến đỉnh tảng đá.
Trong tòa Tiểu Đình bát giác, mái lợp cỏ kia có hai nữ nhân đang nằm bất động. Hãn Thanh vừa mừng vừa lo, buông đôi vượn rồi chạy đến, tuy gương mặt họ lem luốc và tiều tụy nhưng vẫn là dung mạo của hai người vợ trẻ của chàng. Hãn Thanh lay gọi không được, liền bắt mạch, rồi dùng phép Bảo Nguyên Đại Pháp truyền công lực và phong tỏa mười hai đại huyệt trước ngực.
Phương pháp này sẽ duy trì nguyên khí nơi tâm mạch, chờ đến lúc tìm thấy danh y. Chàng hành động rất nhanh chóng, giao Hà Hồng Hương cho Tiểu Bạch, còn mình ẳm ngửa Lạc Bình. Hai nàng đều mang thai đến tháng thứ năm, bụng nhô cao nên chàng rất cẫn trọng.
Hãn Thanh dặn dò đôi vượn rồi dẫn chúng rời tảng đá, may mà không ai phát hiện ra. Chàng không trở lại chỗ giấu ngựa mà nhắm hướng Đông băng rừng đi thẳng. Xẩm tối mới đến đường quan đạo Bắc Nam.
Cách đấy hơn dặm là Trấn Quế Sơn, Hãn Thanh giao Lạc Bình cho Đại Bạch, bảo đôi vượn chờ ở bìa rừng, rồi vào trấn mua xe song mã mui kín!
Chiều ngày mồng một tháng sáu Hãn Thanh đánh xe vào cửa sau của Vạn An lữ điếm. Lão Hầu gia hân hoan khi thấy hai cháu dâu vẫn còn sống. Hồ Đại Phu, một danh y đất Lạc Dương, vốn là chỗ thân tín của Hầu Phủ lập tức được mời đến. Ông ta ngẹn ngào khi thấy bộ mặt Mộ Dung Cẩn:
- Trời cao có mắt nên lão Hầu Gia đã thoát khỏi cuộc hỏa hoạn kia!
Mộ Dung cười khổ:
- Lão phu đã quá già, sống chết cũng không quan hệ, chỉ mong Hồ Lão đệ cố cứu lấy hai đứa cháu dâu kia!
Hồ đại phu sốt sắng hứa sẽ tận lực. Ông chẩn đoán rất lâu, cuối cùng thở dài bảo:
- Nhị vị thiếu phu nhân đây không hề bị thương hay mắc chứng bệnh gì cả! Lão phu đoán chắc rằng họ bị trúng một loại mê dược gì đấy nên mới mê man thế thôi! Xét tình trạng thai nhi thì có thể đoán họ mới chỉ trúng độc vài ngày nay nếu không thì thai nhi đã chết vì thiếu dinh dưỡng rồi!
Hãn Thanh nhớ đến đống trái cây cạnh hai nàng, liền nhắm mắt cố mường tượng ra.
Trên sàn tiểu đình có khá nhiều hột và vỏ, chứng tỏ Lạc Bình và Hồng Huong vẫn tỉnh táo và ăn uống bình thường. Có lẽ hai con vượn đã hái lầm quả độc nên mới rơi vào tình trạng này.
Cuối cùng, với trí nhớ phi thường, chàng đã tìm ra nguyên nhân:
- Hồ đại phu có biết cây Thiên May Thảo đất biên cương hay không?
Họ Hồ gật đầu, Hãn Thanh hỏi tiếp:
- Tại hạ cho rằng hai nàng đã ăn nhầm quả của cây Thiên May Thảo.
Mong đại phu cho biết cao kiến.
Hồ đại phu ngẩn người suy nghĩ một lúc, vỗ đùi xác nhận:
- Đúng vậy. May mà Hầu gia nhắc nhở, nếu không lão phu chẳng bao giờ nghĩ đến việc ấy, vì Trung Nguyên làm gì có trồng loại độc này?
Hãn Thanh xác nhận:
- Gần nơi giam giữ họ có cả một rừng đầy những cây Thiên May Thảo đang kết trái, và bên cạnh hai nàng cũng có vài quả!
Hồ lão gật gù:
- Nếu đúng như thế thì chẳng có gì đáng lo. lão phu sẽ kê toa giải độc, chỉ ít thang là có kết quả.
Canh hai đêm ấy, có một bóng đen âm thầm đột nhập Tổng đàn Cái Bang ở của Đông thành Lạc Dương. Thân ảnh người này lướt đi nhanh đến nỗi chỉ còn là bóng mờ, nên bọn hóa tử tuần phòng chẳng thể nào phát hiện ra!
Cơ ngơi của ăn mày thì chẳng thể nguy nga, tráng lệ được, có điều, những gian nhà gỗ kia rất rộng và sạch sẽ.
Thấy tầng trên của mộc lâu vẫn sáng đèn, bóng đen lao vút lên ẩn mình trên vây cổ thụ cạnh lan can. Từ đây, gã có thể quan sát và nghe ngóng rất thuận lợi.
Đà La Cái Đặng Vân Nhạc cùng hai vị trưởng lão đang ngồi bên mâm rượu bàn bạc bang vụ.
Lão Hóa Tử có đôi mắt to như mắt trâu kia chính là Truyền Công trưởng lão, Đại Nhãn Cái Cốc Quy Điền. Ông nhăn mặt nói:
- Năm nay hai tỉnh Hồ Nam Giang Tây mất mùa, lê thứ đói khổ nên đệ tử bổn bang càng thảm hại. Quỹ các phân đà cạn kiệt, anh em không có cháo mà cầm hơi. Một số không giữ được khí tiết, trở thành trộm cắp, cường đạo! Nếu Tổng đàn mau chóng hỗ trợ thì thanh danh Cái Bang bị chìm xuống bùn nhơ.
Mong Bang chủ đại ca trổ tài thuyết khách, quyên góp các đại phú trong thành Lạc Dương để có bạc mà gửi xuống Miền Nam.
Đà La Cái thở dài thườn thượt:
- Ta sẽ thử nhưng chỉ được vài trăm lượng, nào có thấm gì so với năm vạn đệ tử hai phủ Giang Tây, Hồ Nam!
Chấp pháp trưởng lão Đường Quân Hạ có cái đầu hói bóng tròn như trái dưa, nên được đặt biệt danh là Qua Tử Cái. Họ Đường trợn mắt nói:
- Năm năm trước, Lưỡng Quảng bị hạn hán, sao đại ca có thể kiếm ra được ba ngàn lượng vàng để cứu đói cho anh em?
Đà La Cái Đặng Vân Nhạc buồn rầu đáp:
- Số vàng ấy là do lão Hầu Gia ban cho, và dặn ta không được nói ra. Nay Hầu Phủ đã cháy rụi. Họ Mộ Dung nhà tan cửa nát, ta còn biết hỏi ai? Hơn nữa, Cái Bang đã bất lực, không cứu được Hầu Phủ, lòng ta thẹn vô cùng!
Đường Quân Hạ vội an ủi:
- Đêm ấy! Quan quân khóa chặt cửa thành, không cho chúng ta qua để cứu viện Hầu Phủ, đấy nào phải lỗi của Cái Bang.
Đại Nhãn Cái tiếp lời:
- Tin từ Giang Nam đưa về báo rằng:
Dường như thuyền của Tiểu Hầu Gia đã gặp bão, chìm ở Đông Hải. Lão chủ thuyền Hách Khai Nguyên sống sót trở về đang huy động hàng trăm thuyền lục soát các đảo lớn nhỏ, cố tìm ra Tiểu Hầu gia và thân quyến!
Đa Là Cái ngửa cổ than trời:
- Cái Bang chịu ơn sâu của họ Mộ Dung và Bất Biệt Cư Sĩ, thế mà đành phải khoanh tay nhìn tai họa giáng xuống Hầu Phủ. Lão phu còn mặt mũi nào mà gặp tiên phụ Ở chốn suối vàng!
ö ông muốn nhắc đến việc Cao Hán Ngọc chặt tay Hải Hà Tiên Tử, cứu cố bang chủ Đặng Nghi Trung hơn bốn mươi năm trước!
Hãn Thanh đã nghe hết những lời đối thoại, yên tâm xuất hiện. Chàng từ cành cây phi thân xuyên qua cửa sổ, nhẹ nhàng hạ thân xuống cạnh bàn.
Ba lão Hóa Tử chấn động nhưng vẫn cố giữ vẻ trầm tỉnh cho xứng với thân phận. Vả lại, có la toán lên cũng chẳng được gì, vì đối phương đã vào đến tận nơi rồi.
Đà La Cái nhìn người bịt mặt, lạnh lùng hỏi:
- Các hạ là ai mà lại giá lâm vào lúc nửa đêm thế này?
Lão không dám trách đối phương đã nghe trộm chuyện cơ mật của Cái Bang. Họ đều là những cao thủ hạng nhất mà không phát hiện được người ẩn mình cách ba trượng, nói ra càng thêm xấu hổ.
Người bịt mặt lặng lẽ móc ra một xấp ngân phiếu, đếm đến ba tờ, đặt lên bàn rồi nói:
- Tại hạ muốn mua của Cái Bang vài chén rượu!
Nói xong, gã thản nhiên ngồi xuống. Đặng bang chủ nghi hoặc, cầm ngân phiếu lên xem thử, thấy rõ tiêu chí của Tứ Hải Tiền Trang. Hiệu buôn tiền này lớn nhất Trung Hoa, có trụ sở đặt tại Tinh Châu, Sơn Tây.
Ngân phiếu của họ được in bằng bảng khắc đồng, đường nét tinh xảo không ai làm giả được! Hơn nữa, chủ nhân Tứ Hải Tiền Trang là anh em cô cậu với Đương Kim Hoàng Hậu, thế lực bao trùm thiên hạ nên uy tín rất cao!
Dân Sơn Tây nắm hầu hết ngành kinh doanh tiền tệ Ở Trung Hoa và Hải Thượng Sinh Chủ nhân Tứ Hải Tiền Trang Là người giàu nhất, giỏi nhất.
Chính đương kim Thiên Tử Minh Cảnh còn là con nợ của ông ta.
(Nói ra chẳng ai tin, nhưng thực sự là những vị vua sau này đều bạc nhược bất tài, thua xa Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và Minh Thành Tổ Chu Lệ, vì vậy kinh tế lụi bại, khắp nơi loạn lạc. Tuy sưu cao thuế nặng liên tiếp được ban hành, nhưng quốc khố luôn trống rỗng vì nạn tham quan, vì kinh phí binh bị quá lớn. Do đó, các nhà vua thường phải vay mượn bọn đại phú để trang trải chi tiêu và phát lương cho bá quan!) Trở lại với Tổng đàn Cái Bang, chúng ta sẽ thấy bộ mặt ngơ ngác của Đà La Cái Đặng Vân Nhạc và hai trưởng lão. Họ đã nhìn ra ngân phiếu thực, nhưng vẫn chưa dám nhận lấy.
Đặng Vân e hèm và hỏi:
- Chẳng hay các hạ thực tâm muốn dùng ba ngàn lượng này để đổi lấy cái gì? Nếu là vàng của Ngũ Long Bang thì lão phu không thể nhận được!
Người bịt mặt thản nhiên rót rượu, vén khăn uống cạn rồi lẩm bẩm:
- Hôm trước, họ đến Hầu Phủ dự hôn lễ, mình đãi toàn rượu thượng hạng. Thế mà hôm nay họ cho mình uống loại rượu hạng bét này! Xem ra lỗ vốn rồi!
Ba lão Hóa Tử đồng thanh rú lên:
- Tiểu Hầu Gia!
Đặng Lão giật phăng khăn che mặt, ôm Hãn Thanh cười ha hả:
- Hảo Hoàng Thiên, tạ Ơn lão đã không tuyệt đường họ Mộ Dung!
Hãn Thanh nhăn mặt:
- Đặng Bang chủ nói khẽ thôi, tại hạ chưa thể lộ tung tích được!
Họ Đặng ngượng ngùng ngồi xuống ghế, hạ giọng hỏi:
- Hầu gia mau kể cho bọn lão phu nghe cuộc hành trình đi Đông Hải!
Hãn Thanh chỉ nói sơ qua rồi hỏi lại:
- Tại hạ muốn biết rõ thực lực của Ngũ Long Bang. Vì sao họ lại đột nhiên mạnh đến mức đánh bại lực lượng của Hầu Phủ quá dễ dàng như vậy?
Chấp Pháp Trưởng Lão đỡ lời:
- Lão phu đích thân điều tra nên nắm rõ hơn Bang chủ. Số là đã có một lão Đại Ma đầu trăm tuổi đến núi Bách Phong nhận chức Thái Thượng bang chủ, lão ta ẩn cư đã bốn mươi năm, trước đây có danh hiệu là Vu Sơn Sơn Chủ Bộc Ly Bôi. Họ Bộc đã từng thủ hòa với Bất Biệt Cư Sĩ trong một lần cùng đến núi Võ Đang dự lễ thượng thọ. Nhưng sau đấy, thiên hạ đồn rằng Bộc Ly Bôi tìm được bí kíp thượng cổ nên bế quan tu luyện. Nay mới biết lão ta chính là sư phụ của Hứa Hiểu Tinh, nguyên bang chủ Tây Bang. Đệ tử Cái Bang đã rình rập suốt mười ngày, nhìn rõ mặt Vu Sơn Sơn chủ. Quả là kinh thế hãi tục khi họ Bộc có dung mạo của một người tuổi ba mươi! Ngoài ra, Bộc Ly Bôi còn đào tạo được mười tám gã kiếm thủ cực kỳ lợi hại. Lão phu cho rằng võ công Vu Sơn Sơn Chủ đã tiến đến mức phản lão hoàn đồng, tất không ai địch lại!
Hãn Thanh gật gù đáp:
- Tại hạ có nghe gia sư nhắc đến Vu Sơn Sơn Chủ. Người bảo rằng khi Bộc Ly Bôi luyện thành Xung Hư Bí Lục thì thiên hạ sẽ đại loạn!
Đặng Bang chủ giật mình:
- Lão phu chỉ nghe nói đến Xung Hư Chân Kinh của Liệt Tử, sao lại có thêm Xung Hư Bí Kíp?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Liệt Tử, tức Liệt Ngự Khấu, chỉ được Trang Tử nhắc đến, chứ chưa chắc đã có người thực. Nhưng thế gian lại có Xung Hư Chân Kinh, thì việc bậc kỳ nhân võ học nào đó viết ra Xung Hư bí kíp cũng có thể xảy ra.
Chàng trao thêm cho Đặng bang chủ ngàn lượng vàng, nhờ lão truy tìm tung tích bọn Tề Phi Tuyết và nói đường dây liên lạc với mình.
Ba lão hóa tử thề sẽ tận lực giúp chàng, kể cả việc đối phó với Ngũ Long Bang, Thần Ngưu Giáo và Hải Trừng Công! Hãn Thanh cùng họ bàn bạc đến tận cuối canh tư mới cáo lui!
Đặng bang chủ hứa sẽ dến Vạn An lữ điếm vấn an lão Hầu Gia ngay ngày mai!
Hãn Thanh về đến khách điếm thấy Mộ Dung Cẩn vẫn chờ mình, đành phải kể lại sự tình!
Lão Hầu Gia hài lòng bảo:
- May mà ta bảo ngươi dến hỏi thăm bọn Cái Bang, mới biết được sự hiện diện của Vu Sơn Sơn Chủ, nếu không ngươi đã liều lĩnh tấn công Tổng đàn Ngũ Long Bang rồi!
Mộ Dung Cẩn rót trà cho cháu rồi nghiêm giọng:
- Lực kém thì dùng trí! Nay đã có sự hậu thuẩn của Cái Bang, Thanh nhi hãy đưa ra kế sách cho Gia Gia nghe thử? Gia Cát Lượng chỉ là bậc nho sĩ mà lưu danh muôn thuở cũng nhờ trí tuệ!
Hãn Thanh ngượng ngùng trầm ngâm rất lâu rồi mới dám dáp:
- Bẩm gia gia! Tiểu tôn định dùng kế Tá Đao Sát Nhân để đối phó với Hải Trừng Công Chu Kích và Ngũ Long Bang.
Lão Hầu Gia mỉm cười hài lòng, khuyến khích chàng trình bày. Nghe xong, ông cười khà khà:
- Quả là diệu kế! Tài trí của ngươi nào có thua gì gã Nhất Bất Thông!
Sáng hôm sau, bang chủ Cái Bang giả làm lão ăn mày, âm thầm đi vào cửa vườn phía sau. Đặng Vân Nhạc lên chấp chưởng Cái Bang đã hơn hai mươi năm, không còn phải cắp nón đi ăn xin, nay đóng vai đệ tử không khỏi có điều ngượng ngập!
Vài khắc sau, họ Đặng ra về và phát động toàn Bang thực hiện kế hoạch của Hãn Thanh!
Cái Bang tuy không có thành tựu về võ học, nhưng với lực lượng đệ tử đông dến mấy chục vạn và hệ thống truyền tin nhanh nhậy, luôn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Trung Hoa!
Bọn Hóa tử có mặt khắp nơi nên thu lượm thông tin dễ dàng, và phao tin cũng không khó. Đến rằm tháng sáu thì cả thành Bắc Kinh truyền tai nhau việc Hải Trừng Công Chu Kích đang chuẩn bị tạo phản. Bách tính sợ hãi lo tích trữ lương thực khiến giá ngũ cốc tăng cao!
Tất nhiên tin này cũng lọt vào tai Đông Xưởng, cơ quan mật vụ của triều đình. Họ lập tức điều tra ráo riết, thì được biết rằng tin kia xuất phát từ kỹ viện.
Khổ thay, kỹ viện lại là nơi phức tạp nhất trên đời, và không hề hỏi thẻ đinh của khách làng chơi bao giờ cả!
Bọn kỹ nữ khai rằng có mấy trăm hảo hán mang vũ khí, tiền bạc ghé chơi. Trong lúc say rượu, say tình, họ đã tiết lộ rằng mình đến dưới trướng Hoàng Thân Chu Kích.
Đám kỹ nữ trong thành lại là bạn tình của bọn Cấm Quân và Cẩm Y thị vệ, vì vậy, họ lo lắng cho tình lang nên ghé tai cảnh báo, mong người thương bảo trọng tấm thân khi có biến.
Người của Đông Xưởng lại đến Sơn Đông điều tra Hải Trừng Công, thì lại nghe đồn trong dinh tổng đốc có người Mãn Châu ẩn náu, và tháng ba vừa rồi, Chu Kích đã âm thầm vượt biển sang quần đảo Phù Tang để ký kết liên minh.
Từ xưa đến giờ, Phù Tang tức Nhật Bản luôn là tai họa đối với vùng duyên hải Trung Hoa. Những đoàn thuyền của bọn hải tặc Phù Tang, từ biển Đông thường bất thần xâm nhập vùng ven biển từ Bắc xuống Nam, cướp phá rồi bỏ chạy. Thủy quân và lục quân Trung Quốc không sao đối phó kịp.
Chính vì vậy, tin này khiến bọn mật thám Đông Xưởng rụng rời, chẳng dám bỏ qua. Họ đến dinh Thủy Sư Đề Đốc Sơn Đông kiểm tra, thì phát hiện trong sổ sách có ghi rõ việc cho Hải Trừng Công Chu Kích mượn bốn chiếc thuyền hôm tháng hai, và chỉ có một chiếc trở về!
Tuy chứng cớ chưa rõ ràng, nhưng cũng đủ để Đông Xưởng mật tấu lên Thiên tử. Minh Cảnh Tông tuy hiền lành, nhu nhược, luôn sủng ái Chu Kích, nhưng sợ mất ngôi nên hạ chỉ bắt Hải Trừng Công.
Mấy ngày sau, Chu Kích về Bắc Kinh dự chầu thì bị tống giam vào thiên lao.
Sau khi lục soát tư dinh họ Chu ở Tế Châu, Đông Xưởng phát hiện rất nhiều tang chứng quan trọng đủ để khép Hải Trừng Công vào tội chết!
Thế là bước đầu của diệu kế Tá Đao Sát Nhân đã thành công mỹ mãn.
Không hề tốn giọt máu mà vẫn tiêu diệt được tai họa cho xã tắc!
Lão Hầu Gia hết lời khen ngợi Cái Bang, tặng họ thêm ngàn lượng vàng nữa!
Sau ngày giỗ Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên Mùng bốn tháng bẩy ông cháu Hãn Thanh đưa Lạc Bình, Hà Hồng Hương về nơi ở mới. Đó là một tòa trang viện kín đáo, rộng rãi, nằm ở ngoài cửa Đông thành, chỉ cách tổng đàn Cái Bang hơn trăm dặm.
Khu rừng cây phí sau trang kéo dài đến tận bờ Nam Lạc Hà, rộng đến mấy trăm mẫu, đủ cho đôi Tuyết Viên chạy nhảy.
Hai người vợ của Hãn Thanh đã bình phục hoàn toàn, chuẩn bị cho ngày khai hoa nở nhụy.
Trước đó, phần hai của kế hoạch Tá Đao Sát Nhân đã có kết quả. Thần Ngưu Giáo chính thức khiêu chiến với Ngũ Long Bang vào ngày rằm tháng bẩy, dưới chân núi Ngũ Hành Sơn!
Không hiểu sao tin này lại lọt ra ngoài rất sớm và lan nhanh như gió, nên hào kiệt bốn phương lũ lượt kéo đến quan chiến.
Ngọn Cực Nam của dãy Ngũ Hành Sơn hay Thái Hàng Sơn chỉ cách bờ bắc Hoàng Hà hơn hai trăm dặm, xem như ở khoảng giữa Vận Thành và Lạc Dương.
Sáng sớm ngày rằm tháng bảy, Hãn Thanh đã có mặt, hòa lẫn trong mấy ngàn hào khách. Không ai nhận ra Tiểu Hầu Gia vì chàng đã được hóa trang cẩn thận! Hơn nữa, cả võ lâm đều tin rằng Hãn Thanh đã chết ngoài khơi Đông Hải.
Giữa giờ Thìn, hai phe Ngũ Long Bang và Thần Ngưu Giáo xuất hiện, mỗi bên mang theo trăm thủ hạ, đúng như giao ước!
Phía Thần Ngưu Giáo gồm có giáo chủ, mười lão Ngân Khôi, và chín mươi Ngưu Giác Đồng Khôi võ sĩ.
Còn đoàn Ngũ Long Bang do thầy trò Hứa Hữu Tinh và mười tám kiếm thủ thống lỉnh tám mươi mốt thủ hạ áo xanh!
Hãn Thanh chú tâm quan sát Vu Sơn Sơn Chủ Bộc Ly Bôi, cố nén tiếng thở dài. Nếu không được Cái Bang báo trước, chàng sẽ tưởng lão ta là con của Hứa Hiểu Tinh.
Thần Ngưu Giáo không ngờ cuộc chiến này lại được võ lâm quan tâm như vậy, liền cố tỏ vẻ ung dung, ra dáng một tôn sư, định nhân dịp này dương danh với đời, lão vòng tay giới thiệu:
- Bổn tọa là Quân Khải Siêu, giáo chủ Thần Ngưu Giáo, xin cảm ơn chư vị đồng đạo đã hạ cố đến quan chiến! Bổn giáo ẩn cư chốn rừng sâu, thờ phượng Ngưu Thần, chỉ lo việc tu hành, nào ngờ Ngũ Long Bang lại vô cớ đến tấn công, thiêu hủy cơ ngơi. Vì vậy, bổn giáo đành phải xuất đạo, hỏi tội Ngũ Long Bang!
Hứa Hiểu Tinh cười nhạt:
- Bổn bang quả có đên Vận Thành tìm người và có đụng chạm với Thần Ngưu Giáo, nhưng việc đốt nhà hoàn toàn không có!
Quân giáo chủ quát vang:
- Không phải bọn ngươi thì ai vào đây nữa? Đừng nhiều lời ngụy bịên uổng công!
Vu Sơn Sơn Chủ bỗng lên tiếng:
- Quân Khải Siêu! Phải chăng ngươi là hậu nhân của Thanh Ngưu lão tổ Quân Thường Khanh?
Họ Quân biến sắc mặt nạt:
- Tiểu tử kia! Sao ngươi dám gọi tên tiên phụ ta như vậy?
Bộc Ly Bôi ngửa cổ cười dài, tiếng cười hùng mạnh như sấm mùa xuân, xoáy vào màng nhĩ mọi người khiến ai nấy đều phải bịt tai!
Dứt tràng cười thị uy, Bộc Ly Bôi nghiêm giọng:
- Lão phu là Vu Sơn Sơn Chủ đây! Năm xưa cha ngươi gặp ta còn phải tôn là huynh trưởng đấy!
Trong đám quần hùng lập tức có tiếng người xen vào:
- Quân giáo chủ đừng tin, Ngũ Long Bang thấy sang bắt quàng làm họ đấy thôi!
Lại có người mỉa mai:
- Hắn mà là Vu Sơn Sơn Chủ thì tại hạ là Thái Thượng Lão Quân giáng phàm.
Giọng y rất hoạt kê nên cử tọa đều phá lên cười!
Quân Khải Siêu dương cờ gióng trống đến đây, chẳng thể rút lui vì một lời nói. Lão cười nhạt bảo:
- Dù tôn giá có là Vu Sơn Sơn Chủ thì bổn đạo cũng không thể ngán sợ.
Mối hận thiêu hủy cơ nghiệp phải rửa bằng máu mới xong!
Dứt lời, lão phất tay ra hiệu tấn công. Phe Thần Ngưu Giáo đều mặc bảo y và không sợ độc nên hung hãn xông lên, lao vào đối phương.
Hai lão mũ bạc đón đánh Hứa Hiểu Tinh, tám lão còn lại quần thảo với mười tám tay kiếm thủ Đồ đệ Vu Sơn Sơn Chủ! Còn bản thân Quân Khải Siêu thì đấu với Bộc Ly Bôi!
Sư phụ Hãn Thanh là Bất Biệt Cư Sĩ đã từng kể cho chàng nghe về Thanh Ngưu lão tổ Quân Thường Khanh, ông ta chỉ thua cao sư tổ mười lăm tuổi, chuyên luyện Mãng Ngưu khí công, lúc xuất trận thường mặc áo Tê Ngưu Tây Tạng, chân khí làm căng phồng bảo y, chống lại được đao kiếm, quyền chưởng. Ngoài ra họ Quân còn giỏi cả phép kiếm chưởng hợp nhất, chiêu xuất như lôi, chỉ tiến chứ không lùi.
Giờ đây Thần Ngưu Giáo chủ cũng có đấu pháp y hệt như vậy. Thanh kiếm của lão to bản, lực đạo vô cùng mãnh liệt. Lão hùng hục lao đến như con trâu điên, không hề biết sợ là gì.
Nhưng rất tiếc, bản lĩnh của Vu Sơn Sơn Chủ còn cao cường hơn cả Thanh Ngưu lão tổ nên dễ dàng đối phó với họ Quân. Thân hình lão nhẹ nhàng bay lượn, tựa như nương theo kiếm phong của đối phương vậy!
Trong Thiên Tiên Diên Du mở đầu Nam Hoa Kinh, Trang Tử có nhắc đến việc Liệt Tử cỡi gió mà đi. Nay Vu Sơn Sơn Chủ luyện thành Xung Hư Bí Kíp, phải chăng đã học được phép ngự phong?
(Theo cổ thư thì Liệt Tử tên thật là Liệt Ngu Khấu, người nước Trịnh, một bậc đại tiên đắc đạo, đã soạn ra quyển Xung Hư Chân Kinh để lại cho đời.
Nhưng điều này vẫn còn là một một nghi vấn, chưa được các học giả nhất trí.) Quần hào choáng váng trước pho khinh công vô thượng của Vu Sơn Sơn Chủ, vỗ tay tán thưởng ầm ỹ. Quân Khải Siêu càng điên tiết, bất ngờ dùng Mãng Ngưu Khí Công gầm lên như sấm sét, kèm theo một đạo chưởng kình vũ bão.
Vu Sơn Sơn Chủ vội cử hữu thủ đỡ đòn, và cước bộ hơi khựng lại, bám chặt lấy Bộc Ly Bôi, chưởng kiếm liên hoàn, không để đối phương tách ra.
Vu Sơn Sơn Chủ động nộ, xuất liền một chiêu tuyệt học, chưởng ảnh chập chờn xuyên qua lưới kiếm, vỗ vào ngực họ Quân.
Chưởng kinh đánh rách áo ngoài nhưng lại bị lớp da áo da Tê Ngưu căng phồng đẩy trượt đi, và Quân Khải Siêu vẫn đủ sức phản đòn. Lão gầm lên, nhưng lần này chân khí từ trong miệng bắn ra, đột ngột giáng vào ngực Vu Sơn Sơn Chủ.
Bộc Ly Bôi luyện thành Tiên Thiên Tam Muội thần công nên cơ thể luôn được bảo vệ bởi một màn cương khí vững chắc. Tuy lão không thọ thương nhưng cũng bị đẩy văng về phía sau vài bước.
Quần hào thấy thế liền hoan hô Thần Ngưu Giáo chủ. Bộc Ly Bôi giận tím mặt đề khí bốc thẳng lên không trung, lướt quanh đầu Quân Khải Siêu, và liên tục giáng xuống những đạo chưởng kình xanh biếc và nóng như lửa lò rèn!
Quân giáo chủ kinh hãi bỏ kiếm cử chưởng đỡ đòn. Cố đánh bạt luồng hơi nóng khủng khiếp kia. Nhưng chiêu thức của đối phương vừa độc hại, vừa ảo diệu vô song. Họ Quân liên tục trúng đòn, y phục bốc cháy và máu miệng trào ra không ngớt!
Hãn Thanh chứng kiến bản lĩnh lãnh đạo vô tiền khoáng hậu kia mà lòng thầm ngao ngán. Nhưng chàng không thể để Thần Ngưu Giáo chủ chết vì muu kế của mình. Lão không có tội gì và cũng chưa bộc lộ dã tâm.
Hãn Thanh lướt đến đấu trường dùng chưởng pháp Kim Sa Ấn xuất chiêu Hậu Nghệ Xạ Kim Ô, tấn công vào mé tả Bộc Ly Bôi!
Chiêu này chàng học được trong lúc ở cạnh Hồ Đạt Lai, và chưa sử dụng bao giờ. Về ý thì cũng tương tự như chiêu Cửu Cửu Nhất Nguyên nhưng ảo diệu hơn nhiều.
Thân hình chàng như mũi tên lao vút đi, song thủ hướng ra phía trước liên tục ve vẩy, tạo thành đến ba chưởng ảnh màu vàng nhạt nối nhau.
Tất nhiên Bộc Ly Bôi đã phát hiện, vung tả thủ vỗ liền mấy đạo chưởng kình hung hãn, Tưởng chừng sẽ thiêu cháy kẻ lạ mặt. Nhưng ba đốm lửa Kim Sa Thủ đã bảo vệ được đầu, còn thân thể thì nhờ công phu Thiên Ma Bách Luyện, nên Hãn Thanh vượt qua được lưới lửa.
Khi Vu Sơn Sơn Chủ phát hiện nguy cơ thì đã chậm mất vài sát na. Lão khoa tay phất thêm một chưởng vào ba chưởng ảnh kia, nhưng chúng đã ập đến, nhập thành một, vỗ vào sườn trái của lão.
Kim Sa Ấn thực chất bao hàm cả phép Cách Sơn Đả Ngưu nên chưởng kình của Hãn Thanh nặng như chiếc thùng sắt, chấn gẫy ba chẻ xương sườn non của họ Bộc. Nếu là người khác thì phủ tạng dập nát, hồn du địa phủ ngay rồi!
Vu Sơn Sơn Chủ đau đớn hự lên, hạ thân xuống đất, máu miệng rỉ ướt ngực áo, lão căm hận rú lên:
- Té ra đệ tử của lão Cao Hán Ngọc lại giỏi nghề cắn trộm!
Quần hào nghe vậy mừng rỡ reo hò:
- Tiểu Hầu gia! Tiểu Hầu gia!
Giáo chủ Thần Ngưu Giáo được chàng cứu mạng, cảm kích thét lên:
- Xem như Quân mỗ nợ Hầu Gia một mạng, giờ hai ta liên thủ giết lão già chết tiệt này!
Y phục lão đã cháy gần hết, để lộ lớp bảo y bằng da Tê Ngưu vàng xám.
Hãn Thanh cũng đập vội lửa trên người rồi cười đáp:
- Vàng dẫn nhiệt, xin giáo chủ bỏ Kim Bôi ra mới mong chiến đấu được.
Quân Khải Siêu biết chàng nói đúng, gỡ phăng ngay chiếc nón mặt nạ sừng Trâu, để lộ dung mạo của một lão nhân lục tuần anh tuấn.
Vu Sơn Sơn Chủ đã có chút thời gian để tự trị thương sơ sài. Lão cười ghê rợn:
- Dù cả hai ngươi liên thủ cũng chẳng thể nào thoát chết, khi lão phu đã động sát cơ!
Hãn Thanh biết lão nói thực, vì lúc nãy chàng đã dồn hết công lực, xuất hiện đột ngột mà vẫn không thể giết chết được lão ta. Nay đối phương đã đề phòng, tất sẽ không còn cơ hội! Nhưng chàng không còn cách nào khác là phải tử chiến đến cùng, liền lướt đến vung chưởng tấn công. Quân giáo chủ cũng hăm hở xông vào, dùng Mãng Ngưu Thần Chưởng mà uy hiếp đối phương vì biết đao kiếm không giết dược họ Bộc, và cũng không ngăn nỗi những đạo chưởng kình nóng rực kia.
Công lực của Quân Khải Siêu và Hãn Thanh cộng lại cũng hơn trăm năm tu vi, tương đương với Vu Sơn Sơn Chủ, nhưng tiếc rằng trong sở học lại không thể một cộng một bằng hai được. Ví như hai đứa trẻ mười tuổi mà đánh với người hai mươi sao thắng nổi.
Hãn Thanh giỏi kiếm hơn chưởng nên rơi vào hoàn cảnh dùng sở đoản của mình đấu với sở trường của người. Nhưng kiếm thường không phá nỗi luồng cương khí hộ thân của đối phương, chàng đành chấp nhận thua thiệt.
Giờ đây, Vu Sơn Sơn Chủ đã nỗi máu sát nhân, đem hết sở học ra thi thố, khiến Hãn Thanh và Quân Khải Siêu vô cùng chật vật. Khinh công của Bộc Ly Bôi tuy không ảo diệu hơn pho Lưu Thủy Hành Vân của Tiểu Thuần, nhưng lão nhờ công lực thâm hậu nên nhanh nhẹn tuyệt luân. Lão nhởn nhơ giữa lưới chưởng, luân phiên chạm chưởng với từng người, nên bao giờ cũng ở thế thượng phong.
Chỉ sau trăm chiêu, Quân Khải Siêu đã trúng bốn chưởng, hộc máu thành vòi, nếu không có bảo hộ y thân thì đã mạng vong.
Hãn Thanh nhờ phối hợp thân pháp Lưu Thủy Hành Vân vào Cửu Cung Mê Bộ nên khá hơn họ Quân, chỉ trúng phớt có một chưởng cháy da.
Có điều Vu Sơn Sơn Chủ đã quyết giết bớt đối thủ yếu hơn để rãnh tay tiêu diệt kẻ còn lại, lão nhếch mép cười ghê rợn, chưởng kình dệt lưới quanh thân, như trái cầu lửa xanh mờ lao vút về phía Quân Khải Siêu.
Họ Quân biết mình khó thoát chết nhưng cũng cắn răng vung song thủ giáng thẳng vào thân hình mờ mờ của đối phương. Tiếc là chiêu tuyệt chưởng mà Bộc Ly Bôi thi triển đã hóa giải được lực đạo Mãng Ngưu Thần Chưởng, và tiếp tục ập đến. Quân Khải Siêu kinh hoàng nhận ra mình sắp chết.
Nhưng Hãn Thanh không kể tử sinh, cố cứu cho được họ Quân. Chàng nhoài người nằm sấp, lướt trên mặt cỏ lao vào chân Vu Sơn Sơn Chủ. Thân hình họ Bộc lúc này bốc cao hơn mặt đất gần sải tay, nên Hãn Thanh ở ngay dưới hai bàn chân lão.
Chiêu thức quái dị, chưa hề được nhắc đến bao giờ này đã khiến Sơn Chủ bối rối, đành bỏ Quân Khải Siêu, lật chưởng giáng thẳng xuống. Tuy nhiên Hãn Thanh kịp vỗ một chưởng cách không vào sườn trái của lão, đúng ngay vị trí ba rẻ xương sườn non gẫy lúc nãy. Chỗ này đã bị tổn thương nên lớp cương khí rất mỏng, nay trúng thêm đòn nữa, lại gẫy rời và đau đớn khủng khiếp.
Chân khí lập tức gián đoạn, chưởng kình của họ Bộc yếu hẳn và lệch đi, nên Hãn Thanh thoát chết. Chàng lăn tròn ra sau lưng đối phương lộn người lên định tấn công tiếp. Nhưng Vu Sơn Sơn Chủ đã thọ thương, mất cả ý chí chiến đấu, phi thân đào tẩu mất, vì bốn lão Khôi đã rảnh tay chạy đến tham chiến.
Hãn Thanh nói mau:
- Phải giết sạch đối phương để trừ hậu họa, Hứa Hiểu Tinh là người rất nguy hiểm!
Dứt lời, chàng rút kiếm phi thân đến trận địa của họ Hứa. Quân giáo chủ cũng gầm vang:
- Giết hết chúng cho ta!
Phe Ngũ Long Bang thấy Thái Thượng giáo chủ đào vong, hồn phi phách tán chạy theo, nhưng không thoát khỏi kiếm trận của Thần Ngưu Giáo. Bọn Ngưu Giáo Đồng Khôi này là lực lượng tinh nhuệ nhất của họ Quân, lại có mũ đồng và áo da hộ thân nên rất lợi hại. Lại thêm Quân Khải Siêu căm hận Vu Sơn Sơn Chủ đánh mình gần chết, nên đổ giận lên đầu bọn đệ tử Ngũ Long Bang cuối cùng chẳng tên nào sống sót cả!
Chỉ còn một mình Hứa Hiểu Tinh đang liều chết chống trả với Hãn Thanh. Lão múa tít bảo đao, đem hết sở học ra đổi mạng. Nhưng Hãn Thanh kiếm thuật cao siêu. Ung dung giải phá và còn mở miệng nói:
- Hứa Hiểu Tinh! Ta biết lão là người đã bày ra trò tập kích Hầu phủ, vì tâm cơ bọn Quỷ Trảo, Thần Đao không đủ thâm độc như vậy. Còn Tư Không Nhạ thì e ngại Bắc Thiên Tổng Giám nên cũng chẳng nỡ tuyệt tình! Ta suy luận như vậy có đúng không?
Họ Hứa rít lên:
- Đúng thế đấy tiểu cẩu ạ!
Quần hùng nghe rõ quát vang:
- Hầu gia còn chờ gì mà không giết quách lão ta cho rồi!
Hãn Thanh quắc mắt xuất chiêu thái cực sinh lưỡng nghi, kiếm ảnh hợp thành một vòng tròn trĩnh đi qua lưới đao, và bao phủ thân hình đối thủ.
Chiêu này lấy ý của đao pháp nên kết thúc bằng lưỡi chứ không phải bằng mũi kiếm. Họ Hứa rú lên thảm thiết và thân thể đứt thành hai đoạn.
Quần hào đồng thanh chúc mừng sự trở về của Tiểu Hầu Gia rồi cáo từ.
Quân Khải Siêu bước đến vòng tay vái dài:
- én đức này bổn giáo nguyện ghi lòng tạc dạ. Sau này Hầu gia có gì sai bảo xin cứ đến Vận Thành!
Hãn Thanh mỉm cười hỏi:
- Nghe nói quý giáo có gặp hỏa tai, chẳng hay có ai thương vong không?
Quân Giáo nhăn mặt:
- Tuy không có ai chết nhưng nhà cửa cháy hơn nửa, muốn dựng lại càng khó vì bổn giáo rất nghèo!
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Phải chăng Giáo chủ cũng nuôi mộng bá chủ nên mới khổ công đào luyện một đạo quân tinh nhuệ như vậy?
Quân lão gượng cười:
- Tiểu Hầu Gia hiểu lầm rồi, lão phu có mối thù sâu sắc với Hắc Hồ Bảo ở Diên An nên mới phải chuẩn bị lực lượng. Nhân mã của kẻ thù đông đến gần ngàn, lại giỏi nghề cũng nỏ, áo da và mũ đồng chính là khắc chế sở trường của đối phương!
Hãn Thanh hiếu kỳ hỏi:
- Chẳng lẽ Hắc Hồ Bảo lại lợi hại đến thế sao?
Quân Khải Siêu gật đầu:
- Hắc Hồ Bảo chủ Tôn Cự Mộc vốn là đồ đệ của Sách Huyết Tôn Giả Phí Hòa. Lão ác ma này đã chín mươi sáu tuổi mà vẫn còn sống, và đang ẩn mình trong Hắc Hồ Bảo!
Hãn Thanh thầm lo ngại vì chẳng biết Sách Huyết Tôn Giả là kẻ cùng hung cực ác, bản lãnh cao cường, lại quen biết với Vu Sơn Sơn Chủ. Nếu Bộc Ly Bôi lôi kéo cả lão đại ác ma họ Phí xuất đạo thì tai họa khó lường!
Hãn Thanh hỏi thêm:
- Nghe nói có hai con vượn trắng cõng hai nữ nhân chạy lạc vào trọng địa, chẳng hay quý giáo truy bắt được chưa?
Quân Khải Siêu giật mình:
- Làm gì có hai nữ nhân nào? Khoảng cuối tháng tư, bổn giáo phát hiện có hai con vượn trắng, ngực đeo chuỗi ngọc đột nhập vào dược thất lấy trộm linh đan, liền truy bắt. Chúng liền trèo lên ngay tảng đá Kình Thiên, nơi lão phu tế thần mỗi đêm rằm, và tử thủ quyết không chịu xuống. Khi bọn Ngũ Long Bang đốt nhà thì hai con vượn đó cũng biến mất!
Hãn Thanh thở phào biết họ Quân không có lỗi gì, chàng lấy ra tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng, nhét vào tay lão rồi dịu giọng:
- Số vàng này là để bồi thường cho giáo chủ. Kẻ đốt nhà hôm ấy chính là tại hạ, vì hiểu nhầm nên tại hạ hải phóng hỏa đánh lạc hướng để cứu hai hiền thê đang ở trên đỉnh Kình Thiên. Trong đêm Hầu Phủ bị tập kích, đôi vượn kia đã đưa họ đào thoát, lạc đến Vận Thành! Thực may là tại hạ không hề giết một đệ tử nào của giáo chủ.
Quân Khải Siêu hiểu ra, vỗ vào chàng cười ha hả:
- Vài nếp nhà tranh nào có đáng gì, ơn cứu mạng của Hầu Gia còn mang nặng đâu dám nhận bồi thường!
Hãn Thanh chính sắc nói:
- Cuộc chiến với Ngũ Long Bang và Hắc Hồ Bảo sẽ rất khốc liệt, xin giáo chủ cứ nhận lấy mà xây dựng tổng đàn cho thật kiên cố. Vu Sơn Sơn Chủ và Sách Huyết Tôn Giả là bằng hữu với nhau không chừng sẽ liên thủ để đối phó với Thần Ngưu Giáo, mong giáo chủ cẩn trọng!
Quân Khải Siêu xiết chặt vai chàng đáp:
- Đã có Hầu Gia bên cạnh Quân mỗ không biết sợ là gì!
Hãn Thanh nghe lòng ấm áp tình bằng hữu, gật đầu hứa:
- Giáo chủ yên tâm! Chúng ta sẽ sát cánh với nhau!
Hai người bàn bạc việc lập đường dây liên lạc giữa Vận Thành và Lạc Dương. Quân Khải Siêu nhìn những vết nám đen trên da thịt Hãn Thanh, xót xa nói:
- Lão phu thật sơ ý, không nhớ rằng Hầu Gia bị phỏng!
Lão quát thuộc hạ dùng nước sạch rửa cho chàng và bôi lên người một thứ mỡ màu trắng. Hãn Thanh nghe da mát rượi, nhìn lão với vẻ dọ hỏi. Quân Khải Siêu cười khà khà:
- Đây là mỡ trăn chứ chẳng phải mỡ trâu đâu!
/16
|