1 Ra khỏi ga Kintetsu Fuse, Sasagaki Junzo men theo đường sắt đi thẳng về phía Tây. Đã sang tháng Mười mà trời vẫn oi bức khó chịu, mặt đất cũng khô khốc. Mỗi khi có xe tải chạy vụt qua, bụi đất cuốn lên táp cả vào mặt. Ông nhíu mày, đưa tay dụi mắt, thả những bước không thể nói là nhẹ nhàng. Lẽ ra hôm nay ông không phải đi làm. Ông định sẽ thong thả đọc sách vì đã lâu lắm rồi không được động đến sách vở gì cả. Ông còn đặc biệt để dành cuốn sách mới của Matsumoto Seicho cho ngày hôm nay.
Công viên xuất hiện ở phía bên phải đường, rộng đủ để cùng một lúc tổ chức được hai trận bóng chày kiểu ba chốt. Mấy trò chơi thường thấy như cầu chui, đu quay, cầu trượt... đều có cả. Đây là công viên lớn nhất trong khu vực, tên chính thức là Masumi. Đằng sau công viên có một tòa nhà bảy tầng, thoạt nhìn hết sức bình thường, nhưng Sasagaki biết, bên trong hầu như trống không. Trước khi được điều đến Sở Cảnh sát Osaka, ông đã công tác ở Phòng Cảnh sát Tây Fuse quản hạt chính khu vực này. Những kẻ hóng chuyện, rất nhanh, đã tụ tập thành một đám đông trước tòa nhà, mấy chiếc xe cảnh sát đậu ở đó hầu như bị đám người ấy vây kín. Sasagaki không đi thẳng về phía tòa nhà, mà rẽ sang con đường phía trước công viên. Từ chỗ rẽ, đi đến cửa hàng thứ năm thì gặp tấm biển “Bánh mực nướng”. Mặt tiền cửa hàng rộng hơn mét tám. Quầy nướng bánh hướng ra đường, phía sau có một người đàn bà to béo ngoài năm mươi tuổi đang đọc báo. Bên trong hình như bán cả đồ ăn vặt, nhưng không thấy bóng dáng đứa trẻ nào.
“Bà chủ, nướng cho tôi một cái.” Sasagaki cất tiếng gọi. Người đàn bà vội gấp tờ báo lại. “Vâng, xong ngay, xong ngay đây.”
Bà ta đứng lên, đặt tờ báo xuống ghế. Sasagaki ngậm một điếu Peace, bật diêm châm thuốc, đưa mắt nhìn tờ báo, bắt gặp cái tít “Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi công bố kết quả kiểm nghiệm hàm lượng thủy ngân trong sản phẩm thủy hải sản trên thị trường ”, bên cạnh có một hàng chữ nhỏ hơn, “Dù ăn một lượng cá lớn vẫn dưới mức cho phép”.
Hồi tháng Ba, tòa án đã đưa ra phán quyết cuối cùng cho bệnh Minamata ở tỉnh Kumamoto - cùng với bệnh Minamata ở tỉnh Niigata, bệnh suyễn ở thành phố Yokkaichi, bệnh Itai-itai ở tỉnh Toyama, được gọi chung là “Bốn chứng bệnh lớn do ô nhiễm môi trường”. Kết quả, bên thắng kiện đều là nguyên đơn. Điều này khiến dân chúng trở nên quan tâm hơn đến các vấn đề ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, ngày càng nhiều người nghi ngại rằng các loại cá họ thường ăn đã bị nhiễm độc thủy ngân hoặc PCB.
Mực chắc không có vấn đề gì đâu nhỉ? Sasagaki nhìn tờ báo, thầm nhủ.
Hai miếng sắt dùng để nướng bánh mực gắn với nhau bằng bản lề, ở giữa kẹp con mực đã tẩm bột và trứng, được đặt lên bếp làm nóng. Mùi mực nướng tỏa ra kích thích cảm giác thèm ăn của Sasagaki. Sau khi làm nóng đủ độ, bà chủ mở kẹp sắt, cái bánh giòn xốp, tròn tròn dẹt dẹt dính trên một miếng sắt. Bà phết lên đó một lớp xốt mỏng, gập lại, sau đó bọc bằng tờ giấy màu nâu, buông một tiếng “Xong rồi” và đưa cho khách. Sasagaki liếc mắt nhìn tấm biển đề “Bánh mực nướng bốn mươi yên” rồi trả tiền. Bà chủ niềm nở nói, “Cảm ơn.” Sau đó cầm tờ báo lên, lại ngồi xuống ghế. Sasagaki đang định đi thì một người đàn bà đứng tuổi dừng lại trước cửa hàng, cất tiếng chào bà chủ. Trên tay bà ta xách cái làn, có vẻ là một bà nội trợ ở gần đây.
“Đằng kia đang ồn ào lắm, có phải xảy ra chuyện gì không nhỉ?” Bà ta chỉ tay về phía tòa nhà hỏi.
“Hình như có chuyện đấy, vừa nãy có nhiều xe cảnh sát đến lắm, chắc là có đứa trẻ nào bị thương.” Bà chủ nói.
“Trẻ con à?” Sasagaki quay đầu lại hỏi, “Trong ấy sao lại có trẻ con?”
“Nó đã thành sân chơi của bọn trẻ lâu rồi. Tôi đã lo sớm muộn gì cũng có đứa bị thương mà, quả nhiên xảy ra chuyện, không phải sao?”
“Ừm, trong tòa nhà ấy thì chơi được gì chứ?”
“Ai mà biết chúng nó chơi gì! Tôi thấy cần phải sửa sang lại từ lâu rồi, nguy hiểm quá.”
Ăn xong cái bánh mực nướng, Sasagaki đi về phía tòa nhà.
Bà chủ cửa hàng phía sau lưng ông, chắc hẳn sẽ cho rằng ông là một tay trung niên nhàn rỗi, thích hóng chuyện.
Cảnh sát chăng dây phía trước tòa nhà để ngăn những người tò mò. Thấy Sasagaki chui qua sợi dây vàng, một viên cảnh sát nhìn ông bằng ánh mắt dọa nạt, ông bèn chỉ tay lên ngực, ý bảo phù hiệu cảnh sát của mình ở đây. Viên cảnh sát hiểu được ý nghĩa của động tác ấy, bèn đưa mắt chào. Trong tòa nhà có một nơi tương tự tiền sảnh, theo thiết kế ban đầu có lẽ để lắp cửa kính lớn, nhưng hiện chỉ được che chắn tạm thời bằng các tấm ván ép và gỗ thanh. Một phần ván ép đã được gỡ đi, để tiện việc ra vào. Sau khi chào viên cảnh sát gác cửa, Sasagaki đi thẳng vào trong. Không ngoài dự liệu của ông, bên trong hết sức tối tăm, không khí phảng phất một thứ mùi pha tạp giữa nấm mốc và bụi. Ông đứng yên, cho tới khi cặp mắt thích nghi với bóng tối. Có tiếng nói chuyện không hiểu vẳng lại từ chỗ nào. Một lúc sau, khi đã dần dần phân biệt được cảnh tượng xung quanh, Sasagaki mới biết nơi mình đang đứng có lẽ vốn là sảnh đợi thang máy, vì bên phải là hai cánh cửa thang máy nối tiếp nhau, trước cửa chất đầy vật liệu xây dựng và thiết bị điện. Trước mặt ông là tường, nhưng có khoét một số lớn hình chữ nhật, phía bên kia tối om chẳng trông thấy gì, có lẽ là bãi đỗ xe theo dự kiến ban đầu. Bên trái là một căn phòng, lắp một cánh cửa sần sùi bằng gỗ dán, cảm giác như thể chỉ gá vội vào cho có, bên trên viết nguệch ngoạc hàng chữ “Cấm vào” bằng phấn, có lẽ là chữ của người phụ trách thi công.
Cửa mở, hai người đàn ông bước ra. Sasagaki biết họ. Cả hai đều là cảnh sát hình sự cùng tổ với ông. Trông thấy Sasagaki, họ liền dừng chân.
“Ồ, vất vả quá. Chẳng mấy khi được kỳ nghỉ, cậu đúng là đen đủi thật.” Một người cất tiếng nói với Sasagaki. Ông ta lớn hơn Sasagaki hai tuổi. Tay cảnh sát trẻ còn lại mới được cử đến tổ điều tra này chưa đầy một năm.
“Từ sáng tôi đã có dự cảm không lành. Mấy thứ trực giác kiểu này đâu cần phải chuẩn thế chứ.” Nói xong, Sasagaki lại hạ giọng hỏi: “Tâm trạng ông anh thế nào?”
Người kia chau mày, xua tay. Tay cảnh sát trẻ bên cạnh cười gượng.
“Cũng chẳng trách, ông anh vừa mới nói muốn nghỉ ngơi thư giãn một chút, liền xảy ra chuyện thế này. Giờ bên trong đang làm gì đấy?”
“Giáo sư Matsuno vừa mới đến.”
“Ồ, vậy à?”
“Thôi, bọn tớ phải đi xem xung quanh một chút.”
“Ừm, hai người đi nhé.”
Chắc là được lệnh ra ngoài đi lấy lời khai. Sasagaki nhìn họ bước xa dần, rồi xỏ găng tay, chậm rãi mở cửa. Căn phòng rộng khoảng mười lăm chiếu. Nhờ ánh mặt trời rọi vào qua kính cửa sổ nên ở đây không tối tăm như chỗ sảnh đợi thang máy. Các nhân viên điều tra tập trung bên cạnh bức tường đối diện với cửa sổ. Có mấy gương mặt lạ, chắc là người của Phòng Cảnh sát Tây Fuse quản hạt khu vực này, còn lại đều là người quen cũ. Tổ trưởng Nakatsuka, cũng là người chơi thân nhất với Sasagaki, liếc thấy ông đầu tiên. Ông ta để đầu húi cua, đeo kính gọng vàng, nửa phía trên mắt kính có màu tím nhạt. Ngay cả khi cười, nếp nhăn giữa hai chân mày ông ta cũng không bao giờ biến mất. Nakatsuka không nói “Vất vả quá!” hay “Sao đến muộn vậy?” mà chỉ khẽ hất hàm, ý bảo ông qua đó. Sasagaki liền bước tới.
Trong phòng chẳng có món đồ nội thất nào ra hồn, sát tường kê một cái xô pha giả da màu đen, ngồi dồn lại có thể chứa được ba người lớn. Xác chết nằm ngay trên đó, một người đàn ông. Giáo sư Matsuno Hidetomi thuộc đại học Y Kinki đang kiểm tra cái xác. Ông làm nghề pháp y ở Osaka này đã hơn hai mươi năm, Sasagaki vươn cổ ra phía trước, quan sát cái xác. Người chết khoảng bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi, cao chưa đến một mét bảy. So với chiều cao, thân hình ông ta thuộc dạng béo, trên người mặc áo khoác màu nâu, không thắt cà vạt, quần áo có vẻ đều là hàng cao cấp. Nơi ngực có vết máu màu đỏ thẫm đường kính khoảng mười xen ti mét. Ngoài ra, còn có mấy vết thương khác nhưng không có hiện tượng xuất huyết nghiêm trọng. Sasagaki nhận thấy không có dấu hiệu vật lộn. Người chết quần áo chỉnh tề, không nhàu nát, mái tóc chải lật ra sau cũng gần như không rối.
Giáo sư Matsuno vóc người thấp bé đứng dậy, quay lại phía các điều tra viên.
“Bị giết, không thể sai được.” Ông nói với giọng khẳng định, “Có năm vết đâm. Hai vết ở ngực, ba vết ở vai. Nhát trí mạng có lẽ là vết đâm bên dưới ngực trái, chếch sang phía trái xương ngực mấy xen ti mét. Hung khí hẳn đã xuyên qua khe xương sườn, đâm thẳng vào tim.”
“Chết ngay lập tức à?” Nakatsuka hỏi.
“Đại khái chết trong vòng khoảng một phút, tôi nghĩ là máu chảy ra từ động mạch vành ép lên tim, gây ra hội chứng chèn ép tim cấp.”
“Liệu máu có bắn lên người hung thủ không?”
“Không, tôi nghĩ chắc là không có mấy.”
“Hung khí thì sao?”
Giáo sư trề môi dưới, trầm ngâm suy nghĩ một thoáng mới tiếp tục, “Là một lưỡi dao mảnh và sắc nhọn, có thể còn mảnh hơn dao gọt hoa quả. Tóm lại không phải dao phay hay dao găm.”
Từ đoạn hội thoại này, Sasagaki biết rằng chưa tìm thấy hung khí.
“Dự đoán thời gian tử vong vào khoảng...?” Câu hỏi này là của Sasagaki.
“Hiện tượng thi thể cứng lại sau khi chết đã lan khắp toàn thân, vả lại những vết đốm trên xác cũng không dịch chuyển nữa, giác mạc tương đối đục, có lẽ đã chết được khoảng mười bảy tiếng hoặc gần một ngày rồi, phải xem kết quả giải phẫu mới chuẩn xác được.”
Sasagaki nhìn đồng hồ, giờ là hai giờ bốn mươi phút chiều, trừ ngược thời gian, nạn nhân có lẽ bị sát hại vào khoảng ba giờ chiều đến mười giờ tối ngày hôm qua.
“Vậy nên đưa đi giải phẫu ngay.” Nakatsuka vừa nêu ý kiến, giáo sư Matsuno cũng tán thành, “Vậy là tốt nhất.”
Lúc này, viên cảnh sát hình sự trẻ tuổi Koga bước vào. “Vợ nạn nhân đến rồi.”
“Rốt cuộc cũng đến. Vậy thì để chị ta nhận mặt trước đã.
“Dẫn vào đây đi!”
Koga gật đầu trước chỉ thị của Nakatsuka, xoay người đi ra.
Sasagaki hỏi nhỏ viên cảnh sát hình sự ít tuổi hơn đứng bên cạnh, “Đã biết nhân thân nạn nhân rồi à?”
Viên cảnh sát khẽ gật đầu. “Trên người ông ta có bằng lái xe và danh thiếp, là ông chủ một tiệm cầm đồ ở gần đây.”
“Tiệm cầm đồ? Bị lột mất gì?”
“Không rõ, nhưng vẫn chưa tìm thấy ví tiền.”
Có tiếng động, Koga đã quay trở lại, anh ngoảnh mặt ra phía sau nói “Mời chị vào”. Mấy viên cảnh sát đều tự động lùi xa khỏi xác chết hai ba bước.
Sau lưng Koga xuất hiện một phụ nữ. Thứ đầu tiên đập vào mắt Sasagaki là màu cam rực rỡ, người phụ nữ này mặc một chiếc váy liền thân kẻ ca rô hai màu đen và cam, dưới chân đi một đôi giày gót cao ngót nghét mười phân. Ngoài ra, mái tóc dài cũng được chải chuốt hoàn hảo, cứ như vừa mới bước ra khỏi tiệm làm tóc vậy. Chị ta đưa cặp mắt to được nhấn nhá bằng lớp phấn trang điểm dày về phía chiếc xô pha cạnh tường, giơ hai tay bịt miệng, nấc lên rồi sững lại trong giây lát. Mấy viên cảnh sát đều biết rõ, trong tình huống này có nói gì cũng vô ích, người nào người nấy đều lẳng lặng quan sát diễn biến. Cuối cùng, chị ta bắt đầu chầm chậm nhích lại gần xác chết, dừng lại trước xô pha, cúi đầu nhìn người đàn ông nằm trên đó. Đến cả Sasagaki cũng thấy rõ, cằm chị ta đang khẽ run lên.
“Có phải chồng chị không?” Nakatsuka hỏi.
Chị ta không trả lời, hai tay bưng lấy gò má, rồi chầm chậm đưa lên che kín toàn bộ gương mặt, hai đầu gối khuỵu xuống như thể không chống đỡ nổi thân thể, quỳ sụp xuống đất. Tựa như đang diễn kịch vậy, Sasagaki nghĩ.
Tiếng khóc thút thít vang lên trong lòng bàn tay chị ta.
2
Nạn nhân Kirihara Yosuke là ông chủ của tiệm cầm đồ Kirihara, cửa tiệm kiêm tư gia cách hiện trường khoảng một cây số. Sau khi vợ nạn nhân là Kirihara Yaeko xác nhận nhân thân, xác chết nhanh chóng được đưa đi khỏi hiện trường. Sasagaki lại giúp mấy người trong tổ giám định chuyển cái xác lên cáng. Lúc này, có một vật thu hút sự chú ý của ông.
“Có lẽ nạn nhân bị sát hại sau khi ăn no.” ông lẩm bẩm.
“Sao cơ ạ?” Koga sau lưng ông hỏi lại.
“Nhìn cái này đi!” Sasagaki chỉ vào sợi dây lưng của người bị hại, “Cậu xem, lỗ xỏ thắt lưng nới ra hai nấc so với bình thường.”
“À, quả vậy.”
Kirihara Yosuke đeo thắt lưng hiệu Valentino màu nâu. Trên sợi dây lưng vẫn còn dấu vết của khóa gài ở lỗ xỏ khóa thứ năm tính từ đuôi dây lưng, chứng tỏ bình thường ông ta vẫn sử dụng lỗ xỏ này. Thế nhưng, xác chết hiện giờ lại xỏ khóa gài ở lỗ thứ ba. Sasagaki dặn một nhân viên giám định trẻ đứng bên cạnh chụp ảnh phần ấy lại. Sau khi cái xác được chuyển đi, các nhân viên điều tra tham gia khám nghiệm hiện trường cũng lục tục rời đi thu thập chứng cứ. Những người ở lại, ngoài các nhân viên giám định ra, chỉ còn Sasagaki và Nakatsuka.
Nakatsuka đứng ở chính giữa phòng, đảo mắt nhìn khắp xung quanh một lượt nữa. Ông chống tay trái vào hông, tay phải xoa xoa lên má, đây là thói quen mỗi khi ông đứng suy nghĩ điều gì đó.
“Sasagaki” Nakatsuka nói, “Cậu thấy sao? Cậu nghĩ hung thủ là kẻ như thế nào?”
“Hoàn toàn không đoán ra được.” Ánh mắt Sasagaki cũng quét quanh một vòng, “Hiện giờ cùng lắm chỉ biết đó là người quen với nạn nhân.”
Quần áo, đầu tóc chỉnh tề, không có dấu vết ẩu đả, nhát đâm chính diện, chính là chứng cứ.
Nakatsuka gật đầu, vẻ hoàn toàn nhất trí, “Vấn đề là nạn nhân và hung thủ ở đây làm gì?”
Sasagaki quan sát kỹ mọi đồ vật trong gian phòng một lần nữa. Khi tòa nhà đang thi công, gian phòng này dường như được dùng làm văn phòng tạm thời. Cái xô pha màu đen mà xác chết nằm lên cũng là thứ được sử dụng lúc đó. Ngoài ra, còn một chiếc bàn làm việc bằng sắt, hai cái ghế gấp và một bàn họp gấp lại được, toàn bộ đều kê sát tường. Thứ nào cũng gỉ sét, bên trên phủ một lớp bụi dày, thoạt nhìn như bị rải bột phấn lên vậy. Công trình này đã bị tạm ngưng từ khoảng hai năm rưỡi trước. Ánh mắt Sasagaki dừng lại ở một điểm trên bức tường cạnh chiếc xô pha. Miệng ống thông gió hình chữ nhật ở ngay bên dưới trần nhà, lẽ ra phải che chắn bằng lưới kim loại, nhưng giờ đây không có gì cả. Nếu không có đường ống thông gió, có lẽ cái xác còn được phát hiện muộn hơn nữa, bởi vì người phát hiện ra xác chết đã vào căn phòng này qua đường ống thông gió ấy. Theo lời của nhân viên điều tra Phòng Cảnh sát Tây Fuse, người phát hiện ra cái xác là học sinh lớp ba của trường cấp I gần đây. Hôm nay là thứ Bảy, ở trường chỉ học buổi sáng. Buổi chiều, cậu bé cùng bốn người bạn vào tòa nhà này chơi. Bọn chúng không chơi mấy trò đuổi bắt hay trốn tìm, mà coi hệ thống đường ống thông gió nối khắp tòa nhà là một mê cung. Có lẽ, đối với bọn con trai, bò qua bò lại trong hệ thống thông gió ngoằn ngoèo phức tạp đích thực là một trò chơi kích thích được tinh thần mạo hiểm trong chúng. Tuy không rõ luật chơi của chúng lắm, nhưng hình như có một đứa giữa đường đã bò nhầm sang hướng khác. Cậu bé ấy bị lạc khỏi chúng bạn, lo lắng bò khắp các đường ống thông gió, cuối cùng đến được gian phòng này. Nghe nói, cậu bé ban đầu cũng không nghĩ người đàn ông nằm trên xô pha đã chết, còn sợ khi mình chui ra khỏi ống thông gió sẽ khiến ông ta thức giấc. Thế nhưng, người đàn ông vẫn nằm yên bất động. Cậu bé lấy làm lạ, bèn rón rén lại gần, bấy giờ mới phát hiện ra trên ngực ông ta có vết máu. Khoảng gần một giờ chiều thì cậu bé về nhà, kể lại chuyện ấy. Có điều, phải mất hai mươi phút sau người mẹ mới tin lời con trai kể là thật. Theo ghi chép, thời gian báo án với Phòng Cảnh sát Tây Fuse là một giờ ba mươi ba phút chiều.
“Tiệm cầm đồ...” Nakatsuka buột miệng, “Chủ tiệm cầm đồ có chuyện gì mà phải hẹn người ta gặp mặt ở nơi thế này nhỉ?”
“Chắc là không muốn bị người khác trông thấy, hoặc nếu bị nhìn thấy sẽ không hay ho gì.”
“Cứ cho là vậy thì cũng đâu nhất thiết phải chọn nơi thế này chứ, địa điểm có thể nói chuyện riêng tư, tránh được tai mắt người khác nhiều lắm mà. Nếu thật sự sợ bị người khác trông thấy, chắc sẽ cố gắng tìm nơi nào cách xa nhà một chút, chẳng phải vậy sao?”
“Chính xác.” Sasagaki gật đầu, gãi gãi cằm, cảm nhận được mấy sợi râu cứng cọ vào lòng bàn tay. Hôm nay vội đi, ông thậm chí chẳng kịp cạo râu.
“Chị vợ ông ta ăn mặc cũng lòe loẹt thật.” Nakatsuka nêu lên một chủ đề khác, nhắc tới vợ của Kirihara Yosuke, Yaeko, “Chắc khoảng hơn ba mươi gì đấy, nạn nhân năm nay năm mươi hai tuổi, chênh lệch cũng khá xa nhỉ.”
“Chắc chị ta đã từng làm cái nghề đó.” Sasagaki khẽ đáp.
“Ừm...” Nakatsuka gật đầu với cái cằm chẻ, “Đàn bà thật là đáng sợ! Hiện trường cách nhà có mấy bước chân, vậy mà còn phải trang điểm xong mới đến. Có điều, bộ dạng khóc lóc của chị ta khi nhìn thấy xác chồng mới thật là hay ho.”
“Kiểu khóc với cách trang điểm đều hơi quá khoa trương, phải không?”
“Tôi không nói vậy đâu nhé.” Nakatsuka nhe răng cười đầy ý tứ, rồi lập tức lấy lại vẻ nghiêm túc, “Chắc là cũng thẩm vấn xong người đàn bà đó rồi, Sasagaki, ngại quá, có thể phiền cậu đưa chị ta về nhà không?”
“Được.” Sasagaki cúi đầu chào, đoạn xoay người đi ra cửa.
Bên ngoài tòa nhà, đám người hóng chuyện đã bớt đi nhiều, nhưng bắt đầu xuất hiện bóng dáng các phóng viên, hình như cả người của đài truyền hình cũng có mặt. Sasagaki đưa mắt nhìn về phía mấy xe cảnh sát đậu trước cửa tòa nhà, Kirihara Yaeko đang ngồi trên ghế sau chiếc xe thứ hai trước mặt ông. Bên cạnh chị ta là cảnh sát hình sự Kobayashi, Koga ngồi ở ghế phụ lái. Sasagaki bước đến gõ lên cửa kính sau, Kobayashi mở cửa xe bước ra.
“Tình hình thế nào?” Sasagaki hỏi.
“Đã hỏi sơ qua, vừa mới xong. Nhưng nói thật, trạng thái tinh thần của chị ta vẫn không ổn định lắm.” Kobayashi lấy tay che miệng hạ giọng.
“Chị ta xác nhận các đồ tùy thân chưa?”
“Xác nhận rồi. Quả nhiên, mất ví tiền, và bật lửa nữa.”
“Bật lửa?”
“Nghe nói là hàng cao cấp của hãng Dunhill.”
“Ừm. Thế, chồng chị ta mất tích từ lúc nào?”
“Chị ta nói, chồng mình ra ngoài khoảng hai ba giờ chiều hôm qua, không biết là đi đâu. Đến sáng hôm nay vẫn chưa thấy về nên chị ta rất lo lắng, đang định đợi thêm chút nữa nếu vẫn không thấy sẽ trình báo cảnh sát, thì nhận được thông báo phát hiện ra thi thể chồng.”
“Ai đó đã gọi cho chồng chị ta à?”
“Chị ta bảo không biết, không nhớ trước lúc ra khỏi nhà chồng mình có nhận điện thoại hay không.”
“Tâm trạng của chồng chị ta lúc ra khỏi nhà như thế nào?”
“Thấy bảo không có gì khác thường.”
Sasagaki lấy ngón trỏ gãi má, hoàn toàn không tìm được đầu mối từ những lời khai của chị ta.
“Xem ra chị ta cũng không có manh mối gì về hung thủ rồi.”
“Đúng thế.” Kobayashi hơi nhíu mày.
“Đã hỏi xem chị ta có biết gì về tòa nhà này chưa?”
“Hỏi rồi. Trước đây chị ta từng biết ở đây có một tòa nhà, nhưng không rõ là tòa nhà gì, hôm nay mới lần đầu tiên đặt chân vào bên trong, cũng chưa bao giờ nghe chồng mình nhắc đến nơi này cả.”
Sasagaki bất giác cười chua chát. “Từ đầu đến cuối toàn là câu phủ định cả à.”
“Tôi xin lỗi.”
“Không phải lỗi của cậu.” Sasagaki vỗ vỗ lên ngực người đồng nghiệp trẻ, “Tôi sẽ đưa chị ta về, bảo Koga lái xe, được không?”
“Vâng, mời anh.”
Sasagaki lên xe, bảo Koga lái về phía nhà Kirihara.
“Đi đường vòng một chút, đám báo chí vẫn chưa phát hiện ra nhà nạn nhân ở gần đây.”
“Vâng.” Koga đáp.
Sasagaki xoay người hướng về phía Yaeko ngồi bên cạnh, chính thức tự giới thiệu. Yaeko chỉ khẽ gật đầu, đoán chừng cũng không muốn tốn công nhớ họ tên cảnh sát làm gì.
“Ở nhà giờ có người không?”
“Có, có người đang trông cửa tiệm, con trai tôi cũng ở trường về rồi.” Chị ta đáp mà không ngẩng đầu lên.
“Chị có con à, mấy tuổi rồi?”
“Đang học lớp năm.”
Vậy là khoảng mười đến mười một tuổi. Sasagaki nhẩm tính, rồi lại quan sát Yaeko. Tuy đã được lớp trang điểm che phủ, nhưng có thể thấy da chị ta đã bắt đầu khô ráp, những nếp nhăn li ti cũng rất rõ ràng. Vì vậy chẳng có gì lạ khi con chị ta lớn nhường ấy.
“Nghe nói hôm qua chồng chị ra ngoài mà không nói gì. Điều này có thường xuyên không?”
“Cũng có, đều là đi uống rượu. Hôm qua tôi cũng tưởng thế, nên không để tâm cho lắm.”
“Đi đến sáng mới về à?”
“Hiếm lắm.”
“Trường hợp như vậy ông nhà có gọi điện về không?”
“Anh ấy ít khi gọi điện. Không biết bao nhiêu lần tôi nhắc anh ấy về muộn thì phải gọi điện báo, nhưng anh ấy chỉ hứa miệng mà chẳng bao giờ gọi cả, tôi cũng quen rồi. Có điều, không bao giờ tôi ngờ được anh ấy...” Yaeko đưa tay bụm miệng lại.
Chiếc xe chở bọn Sasagaki đi lòng vòng một lúc, rồi dừng lại bên cạnh cột điện có ghi Oe-Sanchome. Những căn biệt thự liền kề nằm hai bên con đường nhỏ hẹp.
“Phía đằng kia.” Koga chỉ qua lớp kính chắn gió phía trước. Cách chỗ họ khoảng hai mươi mét, xuất hiện tấm biển “Tiệm cầm đồ Kirihara”. Phía truyền thông hình như vẫn chưa nắm được thông tin về gốc tích của người bị hại, ngoài cửa tiệm không thấy bóng ai.
“Tôi đưa chị Kirihara về nhà, cậu về trước đi.” Sasagaki dặn dò Koga.
Cửa cuốn của tiệm cầm đồ kéo xuống cao ngang mặt Sasagaki. Ông đi theo sau Yaeko, cúi người chui qua cửa cuốn. Phía sau cánh cửa là tủ trưng bày và lối vào. Trên cánh cửa kính mờ ở lối vào có dòng chữ màu vàng “Kirihara” viết bằng bút lông. Yaeko mở cửa đi vào, Sasagaki đi phía sau.
“À, bà về rồi.” Người đàn ông ở sau quầy cất tiếng chào. Người này tuổi trạc tứ tuần, thân hình gầy gò, cằm nhọn, mái tóc đen tuyền rẽ ngôi bảy ba đều tăm tắp.
Yaeko thở dài, ngồi xuống một chiếc ghế có lẽ dùng để tiếp khách.
“Sao rồi ạ?” Người đàn ông kia hỏi, ánh mắt dịch chuyển qua lại giữa chị ta và Sasagaki.
Yaeko đưa tay bưng mặt nói, “Đúng là anh ấy.”
“Sao lại thế được?” Người đàn ông sầm nét mặt. Giữa hai chân mày xuất hiện một vết hằn sâu, “Đúng là... ông ấy đã bị giết?”
Chị ta khẽ gật đầu, “Ừm.”
“Sao lại thế được? Sao lại xảy ra chuyện thế này?” Người đàn ông bụm miệng, cúi gầm mặt xuống, tựa như đang sắp xếp lại mạch suy nghĩ, không ngừng chớp mắt.
“Tôi là Sasagaki, Sở Cảnh sát Osaka. Tôi thực sự rất lấy làm tiếc về chuyện này.” Sasagaki giơ phù hiệu cảnh sát ra và tự giới thiệu, “Anh là...”
“Tôi họ Matsuura, làm việc ở đây.” Người đàn ông mở ngăn kéo tủ, lấy ra một tấm danh thiếp.
Sasagaki cúi đầu đáp lễ, đón lấy tấm danh thiếp từ tay đối phương. Lúc này, ông nhìn thấy trên ngón út bàn tay phải của người đàn ông đeo một chiếc nhẫn bạch kim. Đàn ông đàn ang, sao lại đeo trang sức kiểu này, Sasagaki thầm nhủ. Người đàn ông tên là Matsuura Isamu, chức danh ghi là “Quản lý tiệm cầm đồ Kirihara”.
“Anh làm việc ở đây lâu rồi phải không?” Sasagaki hỏi.
“Vâng, tính đến giờ đã là năm thứ năm rồi.”
Sasagaki tự nhủ, năm năm không phải là dài. Trước đó làm việc ở đâu? Vì duyên cớ gì mà đến đây làm việc? Sasagaki rất muốn hỏi những câu này, nhưng quyết định tạm thời nhẫn nại, vì ông vẫn còn phải tới đây vài lần nữa.
“Nghe nói ông Kirihara ra ngoài từ chiều ngày hôm qua.”
“Vâng ạ, tôi nhớ chắc vào khoảng hai giờ rưỡi gì đó.”
“Ông ấy không nói là đi làm việc gì ư?”
“Không ạ. Ông chủ rất độc đoán, hiếm khi nào bàn bạc chuyện công việc với chúng tôi.”
“Lúc ra ngoài, ông ấy có gì khác với bình thường không? Chẳng hạn như ăn mặc hơi khác thường, hoặc mang theo thứ gì đó mà anh chưa thấy bao giờ?”
“Chuyện này thì, tôi không chú ý lắm.” Matsuura nghiêng đầu, đưa tay trái lên gãi gãi sau gáy, “Có điều, hình như ông ấy rất để ý đến thời gian.”
“Ừm, để ý thời gian.”
“Hình như ông ấy xem đồng hồ đến mấy lần. Có điều, cũng có thể là do tôi cả nghĩ quá thôi.”
Sasagaki hờ hững đảo mắt một vòng trong gian tiệm. Sau lưng Matsuura là một cánh cửa kéo kiểu Nhật đóng kín, sau cửa có lẽ là phòng khách, bên trái quầy có chỗ để ngồi tháo giày, từ phía đó lên là phòng ở. Đi lên trên, phía bên trái có một cánh cửa, nếu đó là phòng chứa đồ thì vị trí như thế cũng thật kỳ lạ.
“Hôm qua cửa tiệm mở đến mấy giờ?”
“Việc này,” Matsuura nhìn cái đồng hồ hình tròn treo trên tường, “bình thường sáu giờ là đóng cửa, có điều, hôm qua cứ có việc lần khân, mở đến tận gần bảy giờ.”
“Chỉ có mình anh Matsuura trông tiệm thôi ư?”
“Vâng ạ, hầu như những lúc ông chủ không có mặt đều thế cả.”
“Sau khi đóng cửa thì sao?”
“Tôi đi về nhà.”
“Nhà anh ở đâu?”
“Teradacho.”
“Teradacho? Lái xe đi làm à?”
“Không, tôi đi tàu điện.”
Nếu là đi tàu điện, tính cả thời gian đổi tàu, đến Teradacho áng chừng mất khoảng ba mươi phút. Nếu bảy giờ hơn ra về, muộn nhất là tám giờ cũng về đến nhà rồi.
“Anh Matsuura, nhà anh có những ai?”
“Không có. Tôi ly hôn từ sáu năm trước, giờ thuê nhà sống một mình.”
“Nói như vậy, tối qua sau khi anh về, cũng chỉ có một mình thôi?”
“Đúng thế.”
Tức là không có bằng chứng ngoại phạm chứ gì, Sasagaki thầm xác nhận. Song ông không tỏ thái độ gì cả.
“Chị Kirihara này, bình thường chị không ra ngoài trông cửa tiệm ư?” Sasagaki hỏi Yaeko đang ngồi trên ghế dùng tay bóp trán.
“Vì chuyện trong cửa tiệm tôi chẳng hiểu gì cả.” Chị ta trả lời một cách yếu ớt.
“Hôm qua chị có ra ngoài không?”
“Không, tôi ở nhà cả ngày.”
“Không đi đâu cả à? Cũng không đi mua đồ gì ư?”
“Ừm.” Chị ta gật đầu, sau đó mệt mỏi đứng lên, “Xin phép, tôi có thể đi nghỉ được chưa ạ? Tôi mệt quá, đến ngồi cũng cảm thấy khó chịu.”
“Dĩ nhiên, xin lỗi chị. Mời chị đi nghỉ.”
Yaeko loạng choạng tháo giày, vịn vào tay nắm cánh cửa bên trái kéo mở ra, bên trong là cầu thang. Thì ra thế, Sasagaki bấy giờ mới hiểu tác dụng của cánh cửa đó.
Đợi cho tiếng bước chân lên tầng của chị ta xa dần sau cánh cửa đóng kín, Sasagaki tiếp tục hỏi Matsuura, “Chuyện ông Kirihara đêm qua không về nhà, sáng nay anh mới nghe nói phải không?”
“Vâng. Bà chủ và tôi đều lấy làm lạ và rất lo lắng. Thế rồi nhận được điện thoại của cảnh sát...”
“Hẳn hai người ngạc nhiên lắm.”
“Tất nhiên!” Matsuura nói, “Sao lại thế được chứ? Tôi vẫn không dám tin, ông chủ lại... nhất định có nhầm lẫn ở đâu đó rồi.”
“Vậy là, anh cũng hoàn toàn không có manh mối gì?”
“Lấy đâu ra manh mối chứ?”
“Nhưng mà, các anh làm nghề này, khách đến cũng có cả trăm hạng khác nhau. Có vị khách nào vì tiền mà nảy sinh tranh chấp với ông chủ của anh chưa?”
“Tất nhiên, chúng tôi cũng có một số vị khách kỳ quặc. Đã đi mượn tiền mà còn oán người ta. Nhưng, dù thế nào cũng không đến nỗi phải giết ông chủ...” Matsuura ngước nhìn Sasagaki, lắc đầu, “Tôi thực sự khó mà tưởng tượng nổi.”
“Cũng khó trách, các anh là người làm ăn, không thể nói xấu khách hàng được. Có điều, thế này thì chúng tôi chẳng biết điều tra từ đâu nữa. Nếu anh có danh sách các khách hàng gần đây cho chúng tôi xem, thì sẽ giúp được chúng tôi rất nhiều.”
“Danh sách à...” Matsuura nhíu mày vẻ khó xử.
“Nhất định có chứ, bằng không biết là cho ai mượn tiền, cũng chẳng thể nào quản lý được các thứ người ta đem đến cầm.”
“Có thì đúng là có thật.”
“Phiền anh cho tôi mượn một chút”. Sasagaki xòe tay ra, “Tôi mang bản chính về, sau khi chụp lại sẽ lập tức mang trả. Đương nhiên, chúng tôi sẽ hết sức cẩn thận, không để người khác thấy.”
“Chuyện này tôi không quyết định được...”
“Cũng được, tôi đợi ở đây, có thể phiền anh lên hỏi ý kiến bà chủ được không?”
“Ừm.” Matsuura chau mày suy nghĩ giây lát, cuối cùng cũng gật đầu, “Thôi được. Đã vậy có thể cho các ông mượn, nhưng mà, xin các ông giữ gìn cẩn thận giùm.”
“Cảm ơn, không cần hỏi ý kiến của bà chủ trước sao?”
“Chắc là cho mượn được, để lát tôi nói với bà ấy sau. Nghĩ lại thì, ông chủ cũng không còn nữa rồi.”
Matsuura ngồi trên ghế xoay một góc chín mươi độ, mở tủ hồ sơ bên cạnh, bên trong xếp mấy kẹp tài liệu dày cộp. Sasagaki đang nhổm người về phía trước nhòm ngó, thì liếc thấy cánh cửa cầu thang bỗng lặng lẽ mở ra, ông ngoảnh nhìn về phía đó, chợt giật thót. Sau cánh cửa có một cậu bé đang đứng, khoảng mười tuổi, mặc áo thể thao dài tay, quần bò, thân hình gầy nhỏ. Sasagaki giật mình, không phải vì không nghe thấy tiếng cậu bé đi xuống tầng, mà bởi trong khoảnh khắc hai ánh mắt chạm nhau, ông bị chấn động trước sự tối tăm ẩn sâu trong đôi mắt đó.
“Cháu là con của ông Kirihara à?” Sasagaki hỏi.
Cậu bé không trả lời. Matsuura ngoảnh đầu lại đáp thay, “Vâng, đúng thế.”
Cậu bé không nói một lời, bắt đầu đi giày thể thao, nét mặt không một xúc cảm.
“Ryoji, cháu đi đâu đấy? Hôm nay nên ở nhà thì hơn.”
Cậu bé chẳng buồn để ý đến Matsuura, cứ thế đi ra cửa.
“Đáng thương thật, hẳn là thằng bé bị sốc khá nặng.” Sasagaki nói.
“Có lẽ vậy. Nhưng mà, thằng bé đó cũng hơi đặc biệt.”
“Đặc biệt như thế nào?”
“Chuyện này, tôi cũng không tiện nói.” Matsuura lấy trong tủ hồ sơ ra một kẹp tài liệu, đặt trước mặt Sasagaki, “Đây là danh sách các khách hàng gần đây nhất.”
“Tôi xin phép.” Sasagaki nhận lấy, bắt đầu lật giở các trang. Những cái tên đàn ông đàn bà ken thành một hàng dày đặc trong kẹp tài liệu. Mắt ông đọc tài liệu, trong đầu lại hồi tưởng đến ánh mắt u uất của cậu bé kia.
3
Chiều ngày thứ hai sau khi phát hiện ra cái xác, báo cáo giải phẫu được gửi đến tổ chuyên án đặt ở Phòng Cảnh sát Tây Fuse. Kết quả trong bản báo cáo chứng thực, nguyên nhân cái chết và thời gian tử vong ước lượng không mấy sai lệch với những gì giáo sư Matsuno đã nói. Chỉ có điều, xem đến đoạn mô tả các vật tìm thấy trong dạ dày, Sasagaki không khỏi thắc mắc. Trên bản báo cáo ghi rằng “Mì soba, hành, cá trích chưa tiêu hóa hết. Chết sau khi ăn khoảng hai đến hai tiếng rưỡi.”
“Nếu đúng như vậy, thì chuyện cái thắt lưng kia phải giải thích thế nào đây?” Sasagaki nhìn xuống Nakatsuka đang ngồi hai tay khoanh trước ngực.
“Thắt lưng?”
“Thắt lưng bị nới ra hai nấc. Thông thường, sau khi ăn no người ta mới làm vậy, nhưng hai tiếng đồng hồ thì chắc cũng phải kéo lại rồi chứ.”
“Chắc là quên thôi, chuyện bình thường mà.”
“Nhưng tôi đã kiểm tra quần của người bị hại, so với thân hình ông ta thì lưng quần hơi rộng một chút. Nếu nới thắt lưng ra hai nấc, quần sẽ tụt xuống, làm sao mà đi được?”
“Ừm.” Nakatsuka lấp lửng gật đầu. Ông chau mày lại, nhìn chằm chằm vào bản báo cáo giải phẫu trên bàn họp. “Nếu vậy, Sasagaki, anh nghĩ tại sao ông ta lại nới thắt lưng ra thế?”
Sasagaki đảo mắt một vòng xung quanh, rồi ghé sát mặt lại gần Nakatsuka, “Tôi thấy, sau khi nạn nhân đến hiện trường đã làm chuyện gì đó cần phải cởi thắt lưng quần ra, lúc cài lại đã nới ra hai nấc. Có điều, người cài trở lại là bản thân nạn nhân hay hung thủ thì không biết được.”
“Chuyện gì cần cởi thắt lưng quần ra nhỉ?” Nakatsuka ngước mắt lên nhìn Sasagaki.
“Vậy mà còn phải hỏi nữa à? Cởi thắt lưng, tức là muốn tụt quần rồi.” Sasagaki nở một nụ cười mờ ám.
Nakatsuka dựa lưng vào ghế, chiếc ghế sắt phát ra những tiếng cót két. “Người trưởng thành tử tế, lại đến cái nơi bẩn thỉu đầy bụi đó hẹn hò à?”
“Chuyện này, đúng là có chút không tự nhiên.”
Nghe Sasagaki úp úp mở mở, Nakatsuka xua tay như thể đuổi ruồi. “Nghe thì cũng hay ho ra phết, nhưng trước khi dùng đến trực giác, cần phải có trong tay đầy đủ căn cứ đã. Đi điều tra hành tung của người bị hại, trước tiên là tiệm mì soba.”
Người phụ trách chuyên án là Nakatsuka đã nói vậy, Sasagaki không thể làm trái, ông buông một tiếng “Tôi biết rồi”, đoạn chào rồi rời đi.
Không mất nhiều thời gian để tìm được tiệm mì soba nơi Kirihara Yosuke dùng bữa. Yaeko nói, ông ta thường ghé quán Saganoya ở khu phố buôn bán gần ga Tây Fuse. Nhân viên điều tra lập tức đến nắm tình hình và thu thập được lời khai khẳng định rằng, vào khoảng bốn giờ chiều ngày thứ Sáu, Kirihara quả thực đã đến đó. Kirihara đã ăn mì soba ở Saganoya. Từ tình trạng tiêu hóa suy ngược lại, thời gian tử vong ước lượng vào khoảng sáu giờ chiều cho đến bảy giờ tối ngày thứ Sáu. Khi điều tra chứng cứ ngoại phạm, cần kéo dài khoảng thời gian này ra thêm chút nữa, đặc biệt lưu tâm thời gian từ năm giờ chiều đến tám giờ tối. Thế nhưng, theo lời khai của Matsuura và Yaeko, Kirihara rời khỏi nhà lúc hai giờ rưỡi. Hơn một tiếng đồng hồ trước khi đến Saganoya, ông ta đã đi đâu? Từ nhà ông ta đến Saganoya, có đi chậm đến mấy cũng chỉ mất chừng mười phút. Nghi vấn này được giải đáp vào thứ Hai. Một cuộc điện thoại gọi đến Phòng Cảnh sát Tây Fuse đã hé lộ chân tướng sự việc. Người gọi tới là một nữ nhân viên chi nhánh Fuse của ngân hàng Sankyo, trong điện thoại cô cho biết, thứ Sáu tuần trước, trước giờ ngừng giao dịch, Kirihara Yosuke có đến ngân hàng. Sasagaki và Koga lập tức đến chi nhánh ngân hàng nằm đối diện cửa phía Nam ga Kintetsu Fuse. Người gọi điện là nữ nhân viên trẻ làm việc ở quầy giao dịch. Cô có gương mặt tròn trịa ưa nhìn, hợp với mái tóc ngắn. Sasagaki ngồi đối diện cô trong khu vực tiếp khách được ngăn lại bằng bình phong.
“Hôm qua thấy tên ở trên báo, tôi cứ nghĩ ngợi mãi, chẳng biết có phải chính là ông Kirihara đó hay không? Vì vậy, sáng nay sau khi xác nhận lại tên họ một lần nữa, và hỏi ý kiến cấp trên, tôi đã mạnh dạn gọi điện cho các ông.” Cô ưỡn thẳng lưng. “Ông Kirihara đến lúc nào vậy?” Sasagaki hỏi.
“Lúc gần ba giờ.”
“Ông ấy đến làm gì?”
Nghe thấy câu hỏi này, cô nhân viên ngân hàng thoáng lộ vẻ chần chừ, có lẽ khó để quyết đoán xem nên tiết lộ bí mật của khách hàng đến mức độ nào. Nhưng, cuối cùng, cô vẫn mở miệng nói, “Ông ấy đến đóng sổ tiết kiệm có kỳ hạn và rút toàn bộ khoản tiền đó ra.”
“Số tiền là bao nhiêu?”
Cô lại do dự lần nữa, khẽ liếm môi, liếc mắt nhìn cấp trên ở đằng xa, rồi khẽ nói, “Một triệu yên chẵn.”
“Ồ...” Sasagaki bặm môi. Bình thường đây không phải là số tiền có thể mang theo người. “Ông Kirihara có nhắc đến việc dùng số tiền ấy làm gì không?”
“Không, hoàn toàn không nhắc đến.”
“Vậy ông Kirihara để một triệu yên ấy vào đâu?”
“Tôi không rõ lắm... hình như để bên trong cái túi do ngân hàng chúng tôi cung cấp.” Cô nghiêng đầu, vẻ hơi bối rối.
“Trước đây, ông Kirihara đã từng đột ngột hủy bỏ hợp đồng gửi tiền có kỳ hạn, rút đi tới con số triệu yên như vậy bao giờ chưa?”
“Theo tôi được biết, thì đây là lần đầu tiên. Có điều, từ cuối năm ngoái tôi mới tiếp quản hồ sơ tiền gửi có kỳ hạn của ông Kirihara.”
“Lúc rút tiền, ông Kirihara trông như thế nào? Có vẻ tiếc nuối hay rất vui vẻ?”
“Không rõ.” Cô lại hơi nghiêng đầu nói, “Không giống như là đang tiếc nuối. Có điều ông ấy nói, không lâu sau sẽ lại gửi vào một khoản tương đương như vậy.”
“Không lâu... ừm.”
Sau khi báo cáo lại tình hình với tổ chuyên án, Sasagaki và Koga đến tiệm cầm đồ Kirihara để hỏi xem Yaeko và Matsuura có biết gì về việc Kirihara Yosuke rút tiền trước hạn không. Đến gần nhà Kirihara, hai người dừng chân lại. Trước cửa tiệm cầm đồ tụ tập mấy người mặc đồ tang.
“Phải rồi, hôm nay họ cử hành tang lễ.”
“Tôi quên béng đi mất. Giờ trông thấy mới nhớ ra, buổi sáng có nghe nói rồi mà.”
Sasagaki và Koga cùng đứng cách một quãng xa quan sát diễn biến tang lễ, xem chừng họ đến vừa kịp lúc đưa linh cữu ra xe, xe tang đã chạy tới trước cửa nhà Kirihara. Cửa tiệm mở rộng, Kirihara Yaeko là người đầu tiên bước ra ngoài. Sắc mặt chị ta thoạt trông có vẻ kém hơn hôm trước, người cũng gầy đi nhiều, nhưng lại khiến người ta cảm giác chị ta tăng thêm mấy phần lẳng lơ. Cũng có thể đó là do sự hấp dẫn khó tin đến từ bộ áo tang kia. Rõ ràng chị ta đã quen mặc kimono, đến cả cách bước đi dường như cũng được dày công tính toán sao cho mình trông hấp dẫn nhất. Nếu cho rằng chị ta đang diễn vai một bà quả phụ trẻ tuổi xinh đẹp than khóc đầy bi ai, thì đó quả thực là một vai diễn hoàn hảo... Sasagaki thầm mai mỉa. Phía cảnh sát đã điều tra được, chị ta từng làm tiếp viên ở Kitashinchi. Con trai Kirihara Yosuke ôm tấm di ảnh đã được lồng trong khung, bước theo sau chị ta. Ryoji, cái tên ấy đã nhập vào trí óc Sasagaki, mặc dù bọn họ vẫn chưa nói chuyện với nhau lần nào. Gương mặt Kirihara Ryoji hôm nay vẫn không hề bộc lộ cảm xúc. Trong cặp mắt u tối không gợn lên bất cứ tình cảm gì. Đôi mắt trông như thể mắt giả của cậu bé nhìn chằm chằm xuống chân bà mẹ đang đi phía trước. Buổi tối, Sasagaki và Koga lại đến tiệm cầm đồ Kirihara lần nữa. Giống như lần trước, cửa cuốn mở một nửa, nhưng cửa bên trong đã khóa. Cạnh cửa có nút chuông, Sasagaki ấn nút, liền nghe thấy tiếng chuông bên trong vẳng ra.
“Hay họ ra ngoài rồi?” Koga hỏi.
“Nếu ra ngoài, cửa cuốn phải kéo xuống chứ.”
Một lát sau có tiếng mở khóa lách cách. Cánh cửa hé ra khoảng hai chục xen ti mét, để lộ gương mặt của Matsuura.
“A, ông cảnh sát.” Matsuura thoáng kinh ngạc.
“Chúng tôi muốn hỏi chút chuyện, giờ có tiện không?”
“Ừm... Tôi cũng không biết nữa. Hai vị làm ơn đợi để tôi lên hỏi bà chủ.” Matsuura nói xong, liền đóng cửa lại.
Sasagaki đưa mắt nhìn Koga, Koga hơi nghiêng đầu. Giây lát sau, cửa lại mở ra. “Bà chủ nói được, mời hai vị vào.”
Sasagaki nói “Xin phép”, rồi bước vào. Trong nhà thoang thoảng có mùi nhang, “Tang lễ cử hành thuận lợi chứ?” Sasagaki nhớ Matsuura là người khiêng quan tài.
“Ừm, cũng ổn ạ, tuy có hơi mệt” Matsuura vừa nói vừa vuốt phẳng tóc. Trên người anh ta vẫn mặc bộ quần áo lúc tham gia tang lễ, nhưng không thắt cà vạt, cúc thứ nhất, thứ hai trên áo sơ mi đều đã cởi ra. Cánh cửa vuông phía sau quầy mở ra, Yaeko xuất hiện. Chị ta đã thay đồ tang, mặc một chiếc váy liền thân màu lam sẫm, mái tóc búi lên ban chiều cũng buông xõa xuống.
“Thật xin lỗi vì đã làm phiền vào lúc chị đang mệt thế này.” Sasagaki cúi đầu chào.
“Đâu có gì.” Chị ta khẽ lắc đầu, “Đã phát hiện được gì rồi ạ?”
“Chúng tôi đang thu thập thông tin, thấy có một điểm nghi vấn, nên đến để xác minh.” Sasagaki chỉ tay vào cánh cửa vuông, “Trước đó, có thể cho phép tôi thắp nén nhang được không? Tôi muốn bày tỏ đôi lời với người đã khuất.”
Trong nháy mắt, gương mặt Yaeko tỏ vẻ hoảng hốt. Chị ta đưa ánh mắt nhìn Matsuura, rồi mới quay trở lại phía Sasagaki. “Vâng, không có gì ạ.”
“Làm phiền chị. Vậy tôi xin phép.”
Sasagaki cởi giày ở bên cạnh quầy giao dịch, đang định bước qua bậu cửa, đột nhiên trông thấy trên tay nắm cánh cửa che lối lên cầu thang bên cạnh treo một cái khóa sắt. Xem ra, đứng ở phía cầu thang không thể nào mở cửa được.
“Mạo muội hỏi một câu, cái khóa này dùng để làm gì vậy?”
“Ồ, cái đó hả,” Yaeko trả lời, “là để phòng kẻ trộm nửa đêm từ tầng hai vào.”
“Từ tầng hai vào?”
“Khu vực này nhà cửa san sát, bọn trộm rất dễ dàng lẻn vào từ tầng hai, tiệm đồng hồ ở gần đây cũng vì vậy mà mất trộm đấy. Thế nên chồng tôi đã lắp cái khóa này, ngộ nhỡ có bị trộm, thì chúng cũng không xuống dưới này được.”
“Nếu kẻ trộm xuống được tầng dưới thì tổn thất nặng nề lắm ư?”
“Vì két an toàn ở dưới này.” Matsuura từ phía sau trả lời, “Đồ đạc khách hàng đem cầm cũng để hết dưới tầng một.”
“Nói như vậy, thì buổi tối trên tầng không có người à?”
“Đúng thế, tôi cũng để cả con trai ngủ ở tầng một luôn.”
“Thì ra vậy.” Sasagaki vuốt cằm, gật đầu, “Tôi hiểu rồi, nhưng tại sao bây giờ cũng khóa vào vậy? Ban ngày cũng khóa à?”
“À, đó là,” Yaeko đến bên cạnh Sasagaki, mở khóa ra, “vì thành thói quen rồi, cứ lên xuống là khóa lại thôi.”
“Ừm.” Sasagaki thầm nghĩ, cũng tức là bên trên không có người.
Kéo cánh cửa ra, bên trong là một căn phòng kiểu Nhật rộng chừng sáu chiếu. Phía sau hình như vẫn còn một phòng nữa, nhưng vướng cửa kéo nên không nhìn rõ. Sasagaki đoán đó có lẽ là phòng ngủ của hai vợ chồng. Theo cách nói của Yaeko, Ryoji cũng ngủ chung với họ, vậy thì chuyện sinh hoạt của hai vợ chồng xử lý như thế nào nhỉ? Ông bất giác thấy tò mò. Ban thờ đặt sát bức tường phía Tây, bên cạnh là một khung nhỏ lồng ảnh Kirihara Yosuke mặc đồ Tây miệng mỉm cười, có vẻ được chụp hồi trẻ. Sasagaki thắp hương, chắp tay cầu cho người đã khuất được yên nghỉ trong khoảng mười giây. Yaeko pha trà bưng lên. Sasagaki đáp lễ trong tư thế quỳ ngồi, đưa tay đón lấy tách trà, Koga cũng làm theo. Sasagaki hỏi Yaeko xem có nghĩ ra manh mối gì liên quan tới án mạng hay không. Chị ta lập tức lắc đầu, Matsuura ngồi trên ghế cũng không mở miệng.
Sasagaki thủng thẳng nói ra chuyện Kirihara Yosuke rút một triệu yên ở ngân hàng. Cả Yaeko và Matsuura đều tỏ ra khá kinh ngạc trước sự việc này.
“Một triệu yên! Chuyện này tôi chưa từng nghe anh ấy nhắc đến bao giờ.”
“Tôi cũng vậy.” Matsuura nói, “Tuy rằng ông chủ rất độc đoán, chỉ làm theo ý mình, nhưng nếu dùng đến số tiền lớn như vậy của cửa tiệm, chắc hẳn cũng sẽ nói với tôi một tiếng.”
“Ông Kirihara có thú tiêu khiển gì tốn kém hay không? Như đánh bạc chẳng hạn?”
“Anh ấy chưa bao giờ đánh bạc, cũng không có sở thích gì đặc biệt cả.”
“Ông chủ là kiểu người chỉ đam mê mỗi việc làm ăn.” Matsuura ở bên cạnh xen vào.
“Ừm,” Sasagaki hơi ngần ngừ một chút, rồi mới cất tiếng hỏi, “Còn việc kia?”
“Việc kia?” Yaeko chau mày.
“Chính là... quan hệ nam nữ ấy.”
“À.” Chị ta gật đầu, phỏng chừng chẳng hề bị kích động chút nào, “Tôi không tin anh ấy có đàn bà bên ngoài, anh ấy không phải hạng người làm được những chuyện đó.” Chị ta nói với giọng rất chắc chắn.
“Nghĩa là chị tin chồng mình.”
“Ông nói là tin ấy à?” Yaeko bỏ lửng câu nói, rồi cúi gằm mặt.
Hỏi thêm mấy câu nữa, Sasagaki và Koga đứng dậy cáo từ. Thực sự không thể nói là có thu hoạch gì được.
Lúc đi giày, đôi giày thể thao hơi dính bẩn ở chỗ cởi giày đập vào mắt ông, chắc là của Ryoji. Thì ra cậu bé ở trên tầng hai.
Nhìn cánh cửa treo lủng lẳng ổ khóa, Sasagaki nghĩ không biết cậu bé ở trên đó làm gì.
4
Càng điều tra, hành tung của Kirihara Yosuke hôm gặp nạn càng rõ dần. Hai giờ rưỡi chiều ngày thứ Sáu, sau khi rời khỏi tư gia, ông ta đến chi nhánh ngân hàng Sankyo rút ra một triệu yên tiền mặt, đến tiệm Saganoya ở gần đấy ăn mì soba cá trích khoảng hơn bốn giờ thì đi khỏi. Vấn đề là ở sau thời điểm đó. Lời khai của nhân viên trong tiệm cho thấy, Kirihara Yosuke hình như đi theo hướng ngược với ga tàu điện. Nếu đây là sự thực, vậy thì nhiều khả năng Kirihara không lên tàu điện và ông ta đến ga Kintetsu Fuse, hoàn toàn chỉ để rút tiền mặt. Các thành viên tổ chuyên án tiếp tục tập trung điều tra khu vực xung quanh ga Fuse và hiện trường tìm thấy xác chết. Kết quả phát hiện ra hành tung của Kirihara Yosuke ở một nơi không thể ngờ đến. Có một người đàn ông được mô tả khá giống với Kirihara Yosuke từng đến hàng bánh ngọt Harmony, trong chuỗi cửa hàng Chord ở phố buôn bán phía trước cửa ga Fuse. Ông ta hỏi nhân viên cửa hàng, “Có loại pudding bên trên có rất nhiều hoa quả không?” Chắc là ông ta muốn chỉ loại pudding hoa quả thập cẩm, đó chính là sản phẩm làm nên thương hiệu của chuỗi cửa hàng Chord. Nhưng thật không may, khi đó bánh pudding hoa quả thập cẩm đã bán hết. Ông ta bèn hỏi nhân viên cửa hàng xem có thể mua thứ ấy ở đâu khác. Cô nhân viên trẻ nói với ông ta, trên phố lớn cũng có một cửa hàng Chord, khuyên ông ta đến đó thử xem sao, cô còn lấy cả bản đồ, chỉ rõ địa điểm nữa. Lúc ông ta xem xong vị trí của cửa hàng ấy, liền nói một câu thế này, “Ồ, thì ra ở đây cũng có một cửa hàng giống thế! Cũng gần chỗ tôi muốn đến lắm, hỏi sớm một chút có phải tốt không.”
Cửa hàng mà cô nhân viên kia chỉ nằm ở tiểu khu số 6 Tây Oe. Nhân viên điều tra ngay lập tức đến cửa hàng đó xác nhận chiều tối ngày thứ Sáu quả có một người đàn ông giống với Kirihara Yosuke từng ghé đến. Ông ta mua bốn cái bánh pudding hoa quả thập cẩm, nhưng sau đó đi đâu không biết. Ông ta không thể nào mua bốn cái bánh pudding mang đi gặp mặt đàn ông được, các nhân viên điều tra đều nhất trí, người Kirihara muốn gặp nhất định là phụ nữ. Không lâu sau, tên một người phụ nữ xuất hiện. Đó là Nishimoto Fuiniyo, tên của cô ta có trong danh sách của tiệm cầm đồ Kirihara, và cô ta sống ở tiểu khu số 7 Tây Oe.
Sasagaki và Koga được cử đến gặp Nishimoto Fumiyo. Trong cả khu vực san sát những ngôi nhà chắp vá bởi các tấm sắt và ván gỗ, có một khu nhà đề biển “Chung cư Yoshida”. Bức tường ngoài xam xám như bị hun khói, dính đầy những vết bẩn đen sẫm, những vết xi măng chạy ngoằn ngoèo như rắn bò khắp mặt tường, chắc hắn là những chỗ nứt nẻ nghiêm trọng. Nishimoto Fumiyo trú ở phòng 103, vì ở sát ngay tòa nhà bên cạnh, nên tầng một gần như không lấy được chút ánh sáng nào. Trên hành lang tối tăm ẩm thấp, có dựng một chiếc xe đạp gỉ hoen gỉ hoét. Sasagaki vòng qua những chiếc máy giặt đặt phía trước mỗi cánh cửa tìm kiếm. Trên cánh cửa thứ ba, có dán một tờ giấy, bên trên dùng bút đánh dấu viết “Nishimoto”. Sasagaki gõ cửa.
Đằng sau cánh cửa vẳng ra tiếng, “Cháu ra đây.” Giọng của con gái. Nhưng cửa không mở ngay, mà người bên trong lại cất tiếng, “Ai đấy ạ?”
Phỏng chừng là trẻ con đang trông nhà rồi.
“Mẹ cháu có nhà không?” Sasagaki hỏi với qua cánh cửa.
Người bên trong không trả lời, mà hỏi lại lần nữa, “Ai đấy ạ?”
Sasagaki nhìn Koga cười thiểu não. Chắc đứa nhỏ đã được người lớn dặn dò, nếu là người lạ thì tuyệt đối không mở cửa. Đương nhiên, đây không phải là chuyện gì xấu. Sasagaki điều chỉnh giọng vừa đủ để cô bé sau cánh cửa nghe thấy, nhưng cũng không vang quá để hàng xóm hóng được. “Bác là cảnh sát, có chút việc muốn hỏi thăm mẹ cháu.”
Cô bé im lặng, Sasagaki giải thích động thái đó là do cô bé không biết phải làm sao. Nghe tiếng đoán tuổi cô bé này nếu không phải học sinh cấp I thì cũng là cấp II. Trẻ con tuổi này nghe thấy có cảnh sát đến nhà, dĩ nhiên sẽ cảm thấy căng thẳng. Tiếng mở khóa lách cách vang lên, cửa hé ra, nhưng vẫn mắc dây xích chống trộm. Sau khe cửa rộng khoảng mười xen ti mét lộ ra gương mặt một bé gái có đôi mắt to, làn da trắng mịn màng như đồ sứ.
“Mẹ cháu vẫn chưa về.” Giọng cô bé hết sức kiên định.
“Đi mua đồ à?”
“Không ạ, mẹ cháu đi làm.”
“Bình thường khoảng mấy giờ mẹ cháu về?” Sasagaki nhìn đồng hồ, hơn năm giờ.
“Chắc là sắp rồi ạ.”
“Ừm vậy bác đợi ở đây một lát nhé.”
Nghe Sasagaki nói vậy, cô bé khẽ gật gật đầu, rồi đóng cửa lại. Sasagaki đưa tay lấy bao thuốc lá để bên trong túi ngầm của áo khoác ngoài, thấp giọng nói với Koga, “Một đứa trẻ chững chạc nhỉ!”
“Vâng.” Koga trả lời, “Với lại...”
Viên cảnh sát trẻ mới nói được một nửa, cánh cửa lại mở ra. Lần này sợi xích chống trộm đã được gỡ xuống.
“Cho cháu xem cái đó được không?” Cô bé hỏi.
“Cái gì?”
“Thẻ cảnh sát.”
“À,” sau khi biết mục đích của cô bé, Sasagaki không khỏi mỉm cười. “Được, đây cháu xem đi.” Ông lấy giấy tờ ra, lật trang có dán ảnh cho cô bé xem.
Cô bé đối chiếu gương mặt trong ảnh với Sasagaki, rồi nói “Mời bác vào”, đoạn mở cửa rộng hơn.
Sasagaki hơi ngạc nhiên. “Không cần, bác đứng đây đợi cũng được rồi.”
Cô bé lại lắc đầu. “Đợi bên ngoài, người xung quanh sẽ thấy tò mò đấy ạ.”
Sasagaki đưa mắt nhìn Koga, rất muốn gượng cười, nhưng nén lại được.
Sasagaki nói “Làm phiền cháu”, rồi bước vào nhà. Đúng như những gì ông nghĩ khi quan sát từ bên ngoài, bên trong quá chật hẹp cho một gia đình sinh sống. Vừa vào cửa là khoảng sàn gỗ rộng chừng năm chiếu có một bồn rửa tay nhỏ. Bên trong là căn phòng kiểu Nhật, cùng lắm cũng chỉ rộng khoảng sáu chiếu. Trên khoảng sàn gỗ bày một bộ ghế và bàn ăn xù xì thô ráp. Theo lời mời của cô bé, hai người ngồi xuống ghế. Cả nhà chỉ có hai chiếc ghế, dường như chỉ có hai mẹ con cô bé sống với nhau ở đây. Trên bàn trải khăn kẻ ca rô màu hồng phấn và trắng bằng nhựa dẻo, phía mép có vệt cháy tàn thuốc lá. Cô bé ngồi trong căn phòng kiểu Nhật, dựa vào chiếc tủ âm tường, bắt đầu đọc sách. Gáy cuốn sách có dán nhãn, xem ra là sách mượn ở thư viện.
“Cháu đang đọc gì vậy?” Koga bắt chuyện với cô bé.
Cô bé lặng lẽ giơ bìa cuốn sách ra, Koga ghé lại nhìn rồi ồ lên đầy khâm phục, “Đọc sách khó vậy cơ à!”
“Sách gì thế?” Sasagaki hỏi Koga.
“Cuốn theo chiều gió.”
“Chà!” Lần này đến lượt Sasagaki kinh ngạc, “Tôi xem phim ấy rồi.”
“Tôi cũng xem rồi, phim đó hay thật đấy. Có điều, tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ đọc nguyên tác cả.”
“Dạo này tôi không đọc sách mấy.”
“Tôi cũng thế. Từ khi bộ Ashita no Joe ra hết, đến cả truyện tranh tôi cũng rất ít xem.”
“Gì hả? Ashita no Joe cuối cùng cũng ra hết rồi à?”
“Kết thúc từ tháng Năm năm nay rồi. Sau Kyojin no Hoshi và Ashita no Joe thì chẳng còn gì để xem cả.”
“Thế chẳng phải rất tốt sao? Người lớn lại đi đọc truyện tranh, thật chẳng ra làm sao cả.”
“Vậy cũng phải ạ.”
Trong lúc Sasagaki và Koga đối thoại, cô bé cũng không ngẩng đầu lên, tiếp tục đọc sách. Có thể cô nghĩ rằng mấy người lớn ngớ ngẩn kia đang nói chuyện phiếm cho qua thời gian. Dường như Koga cũng cảm nhận được điều này, bèn lặng thinh. Hai tay anh rỗi việc quá chẳng biết làm gì, cứ lấy đầu ngón tay gõ lên bàn ăn, phát ra những tiếng cóc cóc. Cô bé ngẩng đầu lên, nét mặt khó chịu, khiến anh đành phải dừng động tác ấy lại. Sasagaki hờ hững đảo mắt nhìn quanh gian phòng. Chỉ có những đồ đạc cần thiết tối thiểu và các nhu yếu phẩm cho cuộc sống, hoàn toàn không có thứ gì có thể gọi là đồ xa xỉ cả. Không có bàn học, cũng không có giá sách. Tuy bên cạnh cửa sổ có kê một chiếc ti vi, nhưng là loại cực kỳ cũ kỹ, phải lắp ăng ten râu mới xem được. Ông hình dung, ti vi này chắc là loại đen trắng, bật lên rồi còn phải đợi một lúc hình ảnh mới xuất hiện, và quá nửa là trên hình có mấy vệt ngang rất chướng mắt. Không chỉ ít đồ đạc, nơi này rõ ràng là nhà của phụ nữ, vậy mà hoàn toàn không hề có cảm giác sáng sủa sạch sẽ. Căn phòng khiến người ta cảm thấy tối tăm, rõ ràng không chỉ vì bóng đèn tuýp trên trần đã quá cũ. Bên cạnh Sasagaki, có hai hộp giày chồng lên nhau, ông gảy nắp hộp ra, nghiêng đầu nhìn vào. Bên trong nhét đầy ếch đồ chơi bằng cao su, loại ấn xuống tức khắc sẽ nhảy bật lên, thường hay bán ở các chợ đêm mỗi khi có lễ hội. Xem ra, là đồ Nishimoto Fumiyo nhận về gia công tại nhà.
“Cô bé, cháu tên gì?” Sasagaki hỏi cô bé. Thông thường, ông hay gọi là “em bé”, nhưng đối với cô bé này, ông cảm thấy gọi vậy không thích hợp cho lắm.
Đôi mắt cô bé vẫn không rời khỏi cuốn sách, miệng đáp, “Nishimoto Yukiho.”
“Yukiho. Ừm, viết thế nào nhỉ?”
“ ‘Yuki’ là bông tuyết, ‘ho’ là bông lúa.”
“À, Yukiho, tên hay thật, phải không?” Ông quay sang hỏi Koga.
Koga gật đầu tán thành, cô bé cũng không có phản ứng gì.
“Yukiho, cháu có biết một tiệm cầm đồ tên là Kirihara không?” Sasagaki hỏi.
Yukiho không trả lời ngay, cô bé liếm liếm môi, rồi khẽ gật đầu, “Có lúc mẹ cháu đến đó.”
“Ừm, hình như là thế. Cháu đã gặp ông chủ tiệm đó bao giờ chưa?”
“Gặp rồi.”
“Ông ấy đến nhà cháu bao giờ chưa?”
Nghe câu hỏi này, Yukiho nghiêng nghiêng đầu, trả lời, “Hình như là có.”
“Lúc cháu có nhà, ông ấy có đến không?”
“Chắc là có. Nhưng mà, cháu không nhớ.”
“Ông ấy đến làm gì?”
“Cháu không biết.”
Chất vấn một cô bé ở nơi thế này có lẽ không phải cách hay. Sasagaki cảm thấy, sau này vẫn còn khá nhiều cơ hội để hỏi cô.
Ông lại đưa mắt nhìn quanh nhà, cũng không có mục đích gì cụ thể. Nhưng, khi liếc thấy thùng rác bên cạnh tủ lạnh, cặp mắt ông bất giác mở to. Phía trên thùng rác đã đầy ngập đó, là gói giấy có in logo của chuỗi cửa hàng Chord. Sasagaki đưa mắt nhìn Yukiho, ánh mắt ông chạm phải ánh mắt cô bé. Yukiho lập tức nhìn ra chỗ khác, lại tiếp tục tư thế cúi đầu đọc sách. Trực giác của Sasagaki nói cho ông biết, cô bé cũng đang nhìn cùng một thứ với ông. Lát sau, cô bé đột nhiên ngẩng đầu lên, gấp sách lại, nhìn về phía lối ra vào. Sasagaki dỏng tai lên, nghe thấy tiếng lê dép xăng đan. Koga hình như cũng chú ý đến, hơi hé miệng. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần, rồi dừng lại trước cửa. Ngoài cửa vang lên tiếng kim loại leng keng, hình như đang lấy chìa khóa. Yukiho bước đến cạnh cửa nói, “Cửa không khóa.”
“Sao lại không khóa? Nguy hiểm quá.” Tiếng nói vừa cất lên, cánh cửa cũng bật mở. Một phụ nữ mặc áo sơ mi xanh nhạt bước vào. Cô ta áng chừng khoảng ba mươi lăm tuổi, tóc buộc sau đầu. Nishimoto Fumiyo lập tức chú ý đến Sasagaki và Koga. Cô ta lộ vẻ kinh hoảng, tròn mắt nhìn con gái, rồi lại nhìn hai người đàn ông lạ mặt.
“Họ là cảnh sát.” Cô bé giải thích.
“Cảnh sát...” Gương mặt Fumiyo hiện lên vẻ sợ hãi.
“Tôi là Sasagaki ở Cục Cảnh sát Osaka. Còn đây là Koga.” Sasagaki đứng dậy chào hỏi, Koga cũng đứng lên theo.
Fumiyo rõ ràng khá lo lắng, sắc mặt tái mét, bộ dạng như thể không biết phải làm sao, cứ cầm cái túi giấy đứng đờ ra đó, quên cả đóng cửa lại.
“Chúng tôi đang điều tra một vụ án, có một số việc muốn hỏi chị Nishimoto, nên mới đến quấy rầy. Rất xin lỗi, đã tự tiện vào nhà lúc chị đi vắng.”
“Điều tra vụ án.”
“Hình như là chuyện của bác ở tiệm cầm đồ.” Yukiho ở bên cạnh nói.
Trong khoảnh khắc, Fumiyo dường như hít sâu vào một hơi. Nhìn thái độ hai mẹ con, Sasagaki tin rằng họ đã biết tin về cái chết của Kirihara Yosuke, và còn trao đổi với nhau về cái chết đó nữa.
Koga đứng dậy nói, “Mời chị ngồi.” vẻ hoảng hốt bất an trên gương mặt Fumiyo hoàn toàn không bớt đi chút nào. Chị ta đờ đẫn ngồi xuống đối diện với Sasagaki.
Một người phụ nữ ngũ quan cân đối, đây là ấn tượng đầu tiên của Sasagaki. Khóe mắt đã lờ mờ xuất hiện nếp nhăn, nhưng nếu trang điểm kỹ càng, nhất định vẫn có thể coi là người đẹp. Lại là một người đẹp lạnh lùng nữa. Yukiho rõ ràng rất giống mẹ. Chắc có không ít đàn ông trung niên phải điên đảo vì cô ta, Sasagaki nghĩ. Kirihara Yosuke năm mươi hai tuổi, cho dù động lòng với người phụ nữ này thì cũng không có gì lạ.
“Vô phép, xin hỏi chồng chị...”
“Anh ấy qua đời từ bảy năm trước rồi. Gặp tai nạn khi làm việc ở công trường...”
“Ồ, tội quá, tội quá. Vậy giờ chị đang làm việc ở đâu?”
“Tôi làm việc trong một quán mì udon ở Imazato.”
Cô ta nói quán mì ấy tên là Kikuya, thời gian làm việc từ mười một giờ trưa đến bốn giờ chiều các ngày từ thứ Hai đến thứ Bảy.
“Mì udon ở đấy ăn có ngon không?” Có lẽ để đối phương bớt phần căng thẳng, Koga cười cười hỏi. Fumiyo vẫn chỉ đờ đẫn nghiêng nghiêng đầu, buông một tiếng “Không biết”.
“Ừm, chị biết chuyện ông Kirihara Yosuke bị hại phải không?” Sasagaki đi thẳng vào chủ đề chính.
“Biết,” cô ta lí nhí đáp, “Tôi thật sự rất bất ngờ.”
Yukiho vòng qua sau lưng mẹ, đi vào gian phòng kiểu Nhật, rồi dựa lưng vào tủ âm tường ngồi xuống giống lúc nãy. Sasagaki quan sát động tác của cô bé, rồi ánh mắt lại quay trở về phía Fumiyo.
“Rất có thể ông Kirihara có dính dáng đến sự việc gì đó, chúng tôi đang điều tra hành tung của ông ấy sau khi rời khỏi nhà vào buổi chiều ngày thứ Sáu. Kết quả cho thấy, hình như ông ấy có ghé qua nhà chị, vậy nên...”
“Không, chuyện ấy, chỗ tôi...”
“Bác ở tiệm cầm đồ có đến mà,” Yukiho ngắt lời Fumiyo đang lắp ba lắp bắp, xen vào, “còn mang cả bánh pudding của Chord nữa, chính là cái bác ấy mà.”
Sasagaki biết rõ Fumiyo đang bối rối. Môi cô ta khẽ run lên một chập, cuối cùng cũng cất được tiếng, “À, đúng thế. Hôm thứ Sáu ông Kirihara đã ghé qua đây.”
“Khoảng mấy giờ?”
“Tôi nhớ hình như là...” Fumiyo đưa mắt sang phía phải Sasagaki, bên đó có một tủ lạnh hai buồng, trên nóc tủ bày một chiếc đồng hồ nhỏ. “Tôi nghĩ... là khoảng gần năm giờ. Vì tôi vừa về đến nhà, thì ông ấy đến.”
“Ông Kirihara đến tìm chị có việc gì vậy?”
“Tôi nghĩ là chẳng có việc gì cả. Ông ấy nói có việc ở gần đây, tiện thể ghé qua. Kirihara biết rõ tình hình tài chính của hai mẹ con chúng tôi rất khó khăn, thi thoảng ông ấy cũng ghé đến, có rất nhiều chuyện tôi hỏi ý kiến ông ấy.”
“Ông ấy có việc ở gần đây à? Thế thì lạ thật.” Sasagaki chỉ vào gói giấy của tiệm bánh Chord trong thùng rác, “Đây là của ông Kirihara mang đến đúng không? Ông ấy vốn định mua bánh ở phố buôn bán trước cửa ga Fuse. Cũng có nghĩa là, từ lúc ở gần ga Fuse, ông ấy đã chuẩn bị đến đây rồi. Từ chỗ này đến Fuse cũng cách một quãng đường tương đối, theo lẽ thường, suy luận hợp lý là ngay từ đầu ông ấy đã định đến nhà chị rồi.”
“Ông nói vậy, nhưng ông Kirihara bảo như thế, tôi cũng chẳng có cách gì, ông ấy nói có việc ở gần đây, tiện thể ghé qua...” Fumiyo cúi đầu nói.
“Tôi hiểu. Chúng ta cứ coi là vậy đi, ông Kirihara ở đây đến mấy giờ?”
“Sáu giờ... tôi nghĩ chắc khoảng gần sáu giờ thì ông ấy về.”
“Gần sáu giờ, chị chắc chứ?”
“Có lẽ không sai.”
“Nói vậy, thì ông Kirihara ở đây khoảng tầm một tiếng đồng hồ. Hai người nói chuyện gì vậy?”
“Nói chuyện gì à... thì chuyện phiếm bình thường thôi.”
“Chuyện phiếm bình thường cũng có nhiều loại lắm, chẳng hạn như thời tiết, tiền nong gì đó.”
“À, ông ấy nhắc đến chiến tranh...”
“Chiến tranh? Chiến tranh Thái Bình Dương?”
Kirihara Yosuke từng ở trong quân ngũ thời Thế chiến thứ hai. Sasagaki tưởng ông ta kể chuyện thời đó, nhưng Fumiyo lại lắc đầu.
“Là chiến tranh ở nước ngoài. Ông Kirihara nói, lần này giá dầu nhất định sẽ tăng cao.”
“À, chiến tranh Trung Đông.” Có vẻ, Kirihara nói đến cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ tư vừa nổ ra đầu tháng này.
“Ông ấy nói, vì thế mà kinh tế Nhật Bản sẽ lại bất ổn. Không chỉ vậy, các sản phẩm liên quan đến dầu mỏ cũng sẽ tăng giá, cuối cùng còn có khả năng khan hiếm nữa. Thế giới sau này, phải xem ai có tiền có thế hơn.”
“Ừm.”
Nhìn Fumiyo đang cúi đầu cụp mắt, Sasagaki thầm nghĩ, những lời này có thể là thật. Vấn đề là tại sao Kirihara lại nói những điều này với cô ta? Sasagaki tưởng tượng, có lẽ Kirihara muốn ngầm ám chỉ, tôi có tiền có thế, cô em hãy nghĩ cho bản thân mình, tốt nhất là theo tôi đi. Theo ghi chép của tiệm cầm đồ Kirihara, Nishimoto Fumiyo chưa bao giờ chuộc lại các món đồ đem cầm. Rất có thể, Kirihara định lợi dụng tình trạng khó khăn của cô ta. Sasagaki liếc nhanh sang Yukiho. “Lúc đó con gái chị đang ở đâu?”
“À, nó ở thư viện... phải không?” Cô ta xác nhận với Yukiho.
Yukiho “ừm” một tiếng.
“Ồ, cuốn sách kia chính là mượn về lúc ấy à? Cháu có thường hay đến thư viện không?” Ông trực tiếp hỏi Yukiho.
“Mỗi tuần một, hai lần.” Cô bé trả lời.
“Sau khi tan học à?”
“Vâng.”
“Có ngày cố định không? Như là thứ Hai, thứ Sáu hoặc thứ Ba, thứ Sáu chẳng hạn.”
“Không ạ.”
“Như vậy mẹ cháu không lo lắng à? Con gái chưa về, cũng không biết có phải đến thư viện hay không?”
“À, nhưng khoảng hơn sáu giờ thì nhất định nó sẽ về nhà.” Fumiyo nói.
“Hôm thứ Sáu cháu cũng về vào khoảng giờ đó à?” Ông lại hỏi Yukiho.
Cô bé không nói gì, khẽ gật đầu.
“Sau khi ông Kirihara đi, chị vẫn ở nhà chứ?”
“Không, sau đó, tôi ra ngoài mua đồ. Đến Marukaneya.”
Siêu thị Marukaneya cách nơi này chỉ khoảng mấy phút đi bộ.
“Ở siêu thị, chị có gặp người quen nào không?”
Fumiyo ngẫm nghĩ giây lát, rồi trả lời, “Gặp chị Kinoshita, mẹ bạn cùng lớp của Yukiho.”
“Chị có cách gì liên lạc với chị ấy không?”
“Có.” Fumiyo lấy cuốn sổ địa chỉ bên cạnh điện thoại, đặt lên bàn mở ra, chỉ tay vào chỗ đề Kinoshita, “Người này.”
Nhìn Koga chép lại số điện thoại, Sasagaki lại tiếp tục hỏi, “Lúc chị đi mua đồ, con gái chị đã về chưa?”
“Chưa, lúc đó nó vẫn chưa về.”
“Chị mua đồ xong trở về là khoảng mấy giờ?”
“Chắc khoảng bảy rưỡi gì đó.”
“Lúc ấy con gái chị về chưa?”
“Vâng, đã về rồi.”
“Sau đó chị không ra ngoài nữa à?”
“Đúng vậy.” Fumiyo gật đầu.
Sasagaki nhìn Koga, hỏi bằng ánh mắt, tạm thời dừng ở đây thôi nhỉ? Koga khẽ gật đầu.
“Chúng tôi xin lỗi đã làm phiền chị lâu như vậy. Sau này có thể chúng tôi vẫn có chuyện cần hỏi chị, lúc ấy mong chị giúp cho.” Sasagaki đứng dậy.
Fumiyo tiễn hai viên cảnh sát ra cửa. Nhân lúc Yukiho không có ở đó, Sasagaki lại hỏi thêm một câu:
“Chị Nishimoto, câu này chắc là hơi mạo muội, có điều, mong chị chớ để ý được không?”
“Chuyện gì vậy ạ?” Fumiyo lập tức lộ vẻ bất an.
“Ông Kirihara đã từng mời chị đi ăn, hoặc hẹn chị ra ngoài gặp mặt chưa?”
Câu hỏi của Sasagaki khiến Fumiyo trợn tròn mắt lên, cô ta lắc đầu thật mạnh, “Chưa bao giờ.”
“Ừm, tôi đang nghĩ, tại sao ông Kirihara lại đối tốt với mẹ con chị vậy nhỉ?”
“Tôi nghĩ có lẽ ông ấy thương hại mẹ con tôi. Dám hỏi ông cảnh sát, có phải các ông nghi ngờ tôi có liên quan đến vụ việc ông Kirihara bị hại hay không?”
“Không có, không có, làm gì có chuyện đó. Tôi chỉ muốn xác nhận một chút.”
Sasagaki tỏ ý xin lỗi, rồi cất bước rời khỏi. Khi qua chỗ ngoặt, không nhìn thấy khu nhà đó nữa, ông mới bảo Koga, “Rất khả nghi.”
Viên cảnh sát trẻ tuổi cũng đồng ý, “Đích xác là vậy.”
“Lúc tôi hỏi Fumiyo xem hôm thứ Sáu Kirihara có đến không, thoạt đầu hình như chị ta định trả lời là không. Nhưng vì Yukiho ở bên cạnh nhắc chuyện bánh pudding, chị ta đành phải nói thật. Yukiho cũng vậy, vốn định giấu giếm chuyện Kirihara từng ghé qua nhà, có điều, vì tôi chú ý đến cái túi giấy đựng bánh pudding, cô bé mới đoán ra, nói dối ngược lại còn phiền phức hơn.”
“Đúng thế, cô bé ấy rất tinh ý.”
“Fumiyo hết giờ làm từ tiệm mì udon về nhà, đại khái khoảng năm giờ chiều, Kirihara đến vào lúc đó. Mà khi ấy Yukiho vừa khéo lại tới thư viện, sau khi Kirihara đi mới về nhà. Tôi cứ có cảm giác thời gian dường như căn quá chuẩn thì phải.”
“Fumiyo có phải là tình nhân của Kirihara không nhỉ? Khi mẹ và người đàn ông đó ở với nhau, con gái phải ra ngoài giết thời gian.”
“Cũng có thể. Có điều, nếu là tình nhân, ít nhiều cũng có thể lấy được chút tiền, không cần thiết phải mang đồ về nhà gia công làm gì.”
“Có lẽ Kirihara đang theo đuổi chị ta?”
“Có khả năng.”
Hai người vội trở về tổ chuyên án đặt ở Phòng Cảnh sát Tây Fuse.
“Có thể là nhất thời bị kích động mà ra tay.” Báo cáo với Nakatsuka xong, Sasagaki nói, “Hẳn là Kirihara đã cho Fumiyo xem một triệu yên vừa mới rút ở ngân hàng ra.”
“Vậy nên, cô ta mới giết người vì tiền à? Nhưng nếu ra tay ở nhà mình, cô ta không thể nào chuyển cái xác đến tòa nhà được.” Nakatsuka nói.
“Vì vậy cô ta có thể tìm một cái cớ nào đó, hẹn ông ấy đến tòa nhà kia. Tôi không nghĩ là họ đi cùng nhau.”
“Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, dù là phụ nữ, cũng có khả năng gây ra những vết thương trên xác chết.”
“Nếu là Fumiyo, Kirihara sẽ không đề phòng.”
“Xác nhận chứng cứ ngoại phạm của Fumiyo trước rồi hãy tính.” Nakatsuka thận trọng nói.
Lúc đó, ấn tượng về Fumiyo trong lòng Sasagaki đã đến mức gần như cực xấu. Ông cảm thấy nghi ngờ cả thái độ căng thẳng, sợ hãi của cô ta. Thế nhưng, kết quả điều tra lại mang đến cho tổ chuyên án những thông tin hoàn toàn bất ngờ, Nishimoto Fumiyo có chứng cứ ngoại phạm gần như hoàn hảo.
5
Trước cửa chính siêu thị Marukaneya có một công viên nhỏ. Trong không gian nhỏ ấy không thể chơi bóng được, chỉ có mấy trò như xích đu, cầu trượt và hố cát, vừa khéo tiện cho các bà mẹ để lũ trẻ con tới đây chơi đùa trong lúc mình mua đồ. Công viên này cũng là nơi các bà nội trợ tán chuyện gia đình, trao đổi thông tin. Họ có thể gửi con cho những người quen còn mình thì vào siêu thị. Khá nhiều bà nội trợ đến Marukaneya mua đồ cũng chính vì sự tiện lợi này. Khoảng sáu giờ ruỡi chiều hôm Kirihara Yosuke bị hại, Kinoshita Yumie ở gần đấy tình cờ gặp Nishimoto Fumiyo ở siêu thị. Fumiyo dường như đã mua xong đồ đang định đi thanh toán. Còn Kinoshita Yumie thì vừa vào siêu thị, giỏ đồ vẫn rỗng không. Bọn họ trò chuyện với nhau vài ba câu rồi chào tạm biệt. Lúc Kinoshita Yumie mua xong đồ, ra khỏi siêu thị đã là hơn bảy giờ. Cô leo lên chiếc xe đạp dựng cạnh công viên, định đi về nhà, thì trông thấy Fumiyo đang ngồi trên xích du. Fumiyo dường như nghĩ ngợi gì đó, thẫn thờ đung đưa chiếc đu tới lui. Khi cảnh sát muốn cô xác nhận xem người cô trông thấy có đúng là Nishimoto Fumiyo hay không, Kinoshita Yumie khẳng định chắc chắn mình không nhìn lầm. Tựa như để chứng minh cho lời khai của cô, cảnh sát lại tìm được một người khác cũng trông thấy Fumiyo ngồi trên xích đu. Đó là ông chủ sạp hàng bán bạch tuộc viên nướng trước cửa siêu thị. Gần tám giờ, lúc siêu thị sắp đóng cửa, ông ta đã rất ngạc nhiên khi thấy một phụ nữ đang ngồi trên cái xích đu gần đó. Người phụ nữ theo miêu tả của ông, có lẽ chính là Fumiyo. Đồng thời, cảnh sát cũng nhận được thông tin mới về hành tung của Kirihara Yosuke. Khoảng sáu giờ chiều ngày thứ Sáu, ông chủ cửa hàng thuốc nhìn thấy Kirihara một mình đi trên đường. Chủ cửa hàng thuốc nói, ông ta vốn định gọi Kirihara, nhưng thấy ông ấy dường như đang vội nên lại thôi. Nơi ông ta trông thấy Kirihara, vừa khéo ở giữa khu nhà Yoshida và hiện trường phát hiện ra xác chết. Ước đoán thời gian tử vong của Kirihara là từ năm giờ đến tám giờ, nên nếu Fumiyo đứng lên khỏi xích đu bèn lập tức chạy đến hiện trường giết người, thì cũng không phải không có khả năng. Nhưng, đa số các nhân viên điều tra đều cho rằng khả năng đó rất thấp. Vốn dĩ, việc kéo dài thời gian tử vong ước lượng đến tám giờ đã hơi có chút khiên cưỡng rồi. Phương pháp suy đoán thời gian tử vong dựa vào thức ăn chưa tiêu hóa hết trong dạ dày vốn cực kỳ chính xác, có lúc thậm chí còn chuẩn đến tận từng phút. Vậy nên, khả năng cao là thời gian tử vong rơi vào khoảng từ sáu giờ đến bảy giờ. Ngoài ra còn một căn cứ nữa để suy đoán thời gian gây án muộn nhất cũng không quá bảy giờ rưỡi, chính là tình trạng ở hiện trường. Căn phòng phát hiện ra xác chết không có thiết bị chiếu sáng, ban ngày còn đỡ, nhưng đến tối, bên trong sẽ tối om như mực. Tuy nhiên, trong thời gian tòa nhà đối diện còn bật đèn, ánh sáng từ đó sẽ hắt nhẹ vào phòng, đủ sáng để sau khi mắt nhìn quen có thể nhận ra mặt mũi đối phương. Tòa nhà đối diện sau bảy rưỡi sẽ tắt đèn. Nếu trước đó Fumiyo đã chuẩn bị sẵn đèn pin, thì cũng vẫn có khả năng gây án. Có điều, nghĩ đến tâm lý của Kirihara, trong tình trạng ấy, khó mà tưởng tượng được ông ta lại không hề có chút cảnh giác nào. Tuy cho rằng Fumiyo rất đáng nghi, nhưng cũng buộc phải thừa nhận, khả năng cô ta gây án là rất thấp.
Trong lúc nghi ngờ về Nishimoto Fumiyo giảm dần, những điều tra viên khác lại có được thông tin mới liên quan tới tiệm cầm đồ Kirihara. Tiến hành điều tra các khách hàng gần nhất theo danh sách của Matsuura cung cấp, họ phát hiện trong buổi chiều Kirihara Yosuke gặp nạn, có người đã đến tiệm cầm đồ Kirihara. Đó là một phụ nữ, sống ở Tatsumi, cách Oe mấy cây số về phía Nam. Người phụ nữ trung niên này sống một mình, kể từ sau khi chồng bà ta mắc bệnh qua đời năm kia, bà ta thường xuyên ghé đến tiệm cầm đồ Kirihara. Sở dĩ bà ta chọn tiệm Kirihara cách nhà mình một quãng khá xa, là vì không muốn bị người quen nhìn thấy ra vào tiệm cầm đồ. Chiều ngày thứ Sáu xảy ra án mạng đó, bà ta mang theo cặp đồng hồ đeo tay cùng mua với chồng hồi trước đến tiệm cầm đồ Kirihara vào khoảng năm giờ rưỡi chiều. Người phụ nữ nói, tuy tiệm cầm đồ vẫn đang làm việc, nhưng cửa lại khóa. Bà ta ấn chuông mấy lượt mà không ai trả lời. Cuối cùng, bà ta đành phải rời đi, ra chợ gần đấy mua thức ăn cho bữa tối, sau đó trên đường về nhà mới ghé qua lần nữa. Bấy giờ khoảng sáu giờ rưỡi, nhưng cửa vẫn khóa. Bà ta không ấn chuông mà về nhà ba ngày sau, đem cầm cặp đồng hồ ở một tiệm khác. Bà ta không đọc báo, mãi đến khi có nhân viên điều tra đến hỏi, mới biết chuyện Kirihara Yosuke bị giết. Những thông tin này đương nhiên khiến tổ chuyên án chuyển hướng nghi ngờ sang Kirihara Yaeko và Matsuura Isamu. Bọn họ từng khai rằng hôm ấy cửa tiệm mở đến bảy giờ tối.
Vậy là, Sasagaki, Koga và hai viên cảnh sát nữa lại đến tiệm cầm đồ Kirihara.
Matsuura đang trông tiệm trợn tròn hai mắt, “Xin hỏi rốt cuộc có chuyện gì vậy?”
“Bà chủ của anh có nhà không thế?” Sasagaki hỏi.
“Có.”
“Phiền anh gọi bà ấy được không?”
Matsuura lộ vẻ kinh ngạc, kéo cánh cửa phía sau ra một chút, “Cảnh sát đến.”
Bên trong vẳng ra tiếng động, cửa mở rộng hơn, Yaeko mặc áo len màu trắng và quần bò bước ra. Chị ta chau mày nhìn mấy cảnh sát. “Có chuyện gì vậy?”
“Có thể xin chị một chút thời gian không ạ? Chúng tôi có chuyện muốn hỏi.” Sasagaki nói.
“Được thôi... có chuyện gì vậy?”
“Bọn tôi muốn mời chị đi một lát.” Một viên cảnh sát đi cùng lên tiếng, “Ra quán cà phê đằng kia, không tốn nhiều thời gian đâu.”
Yaeko thoáng lộ vẻ khó chịu, nhưng vẫn trả lời “Được ạ”, sau đó đi dép xăng đan. Sasagaki trông thấy rõ chị ta lo lắng liếc nhìn Matsuura. Để Sasagaki và Koga ở lại, hai viên cảnh sát dẫn Yaeko đi. Họ vừa ra khỏi cửa, Sasagaki liền lại gần quầy, “Tôi cũng có chuyện muốn hỏi anh Matsuura một chút.”
“Chuyện gì vậy ạ?” Matsuura tuy vẫn nở nụ cười thân thiện, nhưng rõ ràng đã có phòng bị.
“Chuyện hôm xảy ra án mạng. Sau khi điều tra, chúng tôi phát hiện, có một số sự việc mâu thuẫn với lời khai của anh.” Sasagaki cố ý nói thật chậm.
“Mâu thuẫn?” Nụ cười của Matsuura như cứng lại. Sasagaki thuật lại lời khai của người phụ nữ sống ở Tatsumi, Matsuura chăm chú lắng nghe, nụ cười trên mặt hoàn toàn biến mất.
“Thế là thế nào? Anh nói tiệm mở đến bảy giờ, nhưng có người nói trong khoảng từ năm giờ rưỡi đến sáu giờ rưỡi, cửa tiệm lại khóa chặt. Nói thế nào thì việc này cũng rất kỳ lạ, không phải vậy sao?” Sasagaki nhìn thẳng vào mặt Matsuura.
Matsuura tránh ánh mắt của Sasagaki, nhìn lên trần nhà. “Ừm, lúc đó,” Matsuura khoanh hai tay trước ngực ậm ừ nói vậy rồi vỗ tay đánh “bốp”, “phải rồi! Đúng là lúc đó! Tôi nhớ ra rồi. Tôi đang ở trong kho.”
“Kho?”
“Kho bảo hiểm ở bên trong. Tôi nhớ là có nói với ông rồi, chúng tôi để những đồ giá trị mà khách gửi lại trong đó. Đợi các ông xem rồi biết ngay, đó là một nhà kho kiên cố có khóa. Tôi muốn xác nhận lại một số thứ, nên mới vào trong, ở trong kho nhiều khi cũng không nghe thấy tiếng chuông cửa.”
“Những lúc như thế đều không có ai trông tiệm à?”
“Bình thường thì có ông chủ, nhưng lúc đó thì chỉ có mỗi mình tôi nên mới khóa cửa lại.”
“Bà chủ và con trai thì sao?”
“Bọn họ đều ở trong phòng khách.”
“Nếu là thế, hai người họ nhất định phải nghe thấy tiếng chuông cửa chứ?”
“Ừm, việc này...” Matsuura ngập ngừng mở miệng, im lặng mấy giây rồi mới nói, “Có lẽ họ ở phòng trong xem ti vi, nên không nghe thấy.”
Sasagaki nhìn gương mặt có xương gò má nhô cao của Matsuura, rồi bảo Koga, “Cậu ấn chuông thử xem.”
“Vâng.” Koga đáp và đi ra cửa. Tiếng chuông cửa lập tức vang lên trên đỉnh đầu, âm thanh có thể nói là “hơi chói tai”.
“Âm thanh cũng lớn lắm mà.” Sasagaki nói, “Tôi nghĩ, dù xem ti vi chăm chú đến mấy, cũng không thể nào không nghe thấy được.”
Matsuura nhăn mặt, nhưng vẫn rặn ra một nụ cười gượng gạo, “Bà chủ xưa nay không để ý đến chuyện cửa tiệm. Khách đến, có khi bà ấy còn chẳng chào hỏi tử tế, Ryoji cũng chưa bao giờ trông tiệm. Có lẽ họ cũng nghe thấy tiếng chuông, nhưng cứ để mặc đó.”
“Ừm, cứ để mặc à?”
Cả người phụ nữ tên Yaeko hay cậu bé tên Ryoji, đích thực đều không giống mẫu người chịu giúp đỡ chuyện kinh doanh trong tiệm cầm đồ.
“Xin hỏi, có phải các ông đang nghi ngờ tôi không? Hình như các ông đang có ý ám chỉ tôi đã giết ông chủ.”
“Không có, không có.” Sasagaki xua tay, “Chỉ là một khi phát hiện có mâu thuẫn, thì dù chuyện nhỏ bằng hạt vừng cũng phải điều tra rõ ràng, đây là yêu cầu cơ bản để phá án. Nếu các vị hiểu được điểm này, thì chúng tôi dễ làm việc lắm.”
“Vậy ạ? Dù sao, cảnh sát các vị có nghi ngờ gì thì tôi cũng chẳng sợ.” Matsuura để lộ hàm răng hơi ngả vàng, nói móc.
“Cũng không hẳn là nghi ngờ, có điều, tốt nhất vẫn phải có chứng cứ rõ ràng để chứng minh. Vậy là, trong khoảng từ sáu giờ đến bảy giờ, có gì chứng thực anh luôn ở trong tiệm hay không?”
“Sáu giờ đến bảy giờ... bà chủ và Ryoji đều có thể làm nhân chứng, như vậy không được ạ?”
“Nhân chứng, tốt nhất là những người hoàn toàn không liên quan đến sự việc này.”
“Nói như vậy, có khác nào bảo chúng tôi là đồng phạm!” Matsuura giận dữ trừng mắt lên.
“Cảnh sát cần phải nghĩ đến tất cả mọi khả năng có thể xảy ra.” Sasagaki điềm đạm trả lòi.
“Thật nực cười! Giết ông chủ đối với tôi có lợi gì chứ? Ông ấy tuy ở bên ngoài thì vung tiền như nước, nhưng thực chất có tài sản gì đâu.”
Sasagaki không trả lời, chỉ mỉm cười thầm nhủ, khiến cho tay Matsuura nhất thời tức giận lộ ra thêm chút thông tin cũng không phải là tệ. Nhưng Matsuura không nói gì thêm nữa.
“Sáu giờ đến bảy giờ? Nếu nghe điện thoại thì có tính không?”
“Điện thoại? Với ai?”
“Người ở nghiệp đoàn, thảo luận việc tụ họp tháng sau.”
“Là anh gọi điện đi à?”
“Ừm, không, là bọn họ gọi tới.”
“Khoảng mấy giờ vậy?”
“Lần đầu tiên là khoảng sáu giờ, khoảng ba mươi phút sau thì gọi lại lần nữa.”
“Gọi hai lần à?”
“Vâng.”
Sasagaki sắp xếp lại trục thời gian trong đầu. Nếu Matsuura nói thật thì trong khoảng sáu giờ đến sáu giờ rưỡi, anh ta có chứng cứ không có mặt ở hiện trường. Ông lấy đây làm tiền đề để suy xét khả năng Matsuura có phải hung thủ hay không. Rất khó, ông đưa ra kết luận.
Sasagaki lại hỏi họ tên và cách liên hệ với người ở nghiệp đoàn gọi điện đến, Matsuura lấy tập danh thiếp ra tìm kiếm. Đúng lúc ấy, cửa cầu thang mở ra. Trong khe cửa he hé xuất hiện gương mặt cậu bé. Phát hiện ra ánh mắt của Sasagaki, Ryoji tức thì đóng cửa lại, sau đó là tiếng bước chân chạy lên cầu thang.
“Cậu bé nhà Kirihara ở nhà à?”
“À? Vâng, cậu ấy vừa tan học về.”
“Tôi có thể lên đó một chút được không?” Sasagaki chỉ tay về phía cầu thang.
“Lên tầng hai?”
“Vâng.”
“Chuyện này... tôi nghĩ là không có vấn đề gì đâu.”
Sasagaki dặn dò Koga, “Cậu ghi lại địa chỉ liên hệ của người ở nghiệp đoàn, rồi nhờ anh Matsuura dẫn vào xem kho bảo hiểm.” Đoạn ông bắt đầu tháo giày.
Ông mở cửa, nhìn lên cầu thang, chỉ thấy tối tăm u ám, đầy mùi vôi ve, bề mặt cầu thang gỗ trải qua nhiều năm đã bị bít tất mài cho đen bóng. Sasagaki vịn tay vào tường, cẩn thận đi lên. Đến cuối cầu thang, có hai gian phòng đối diện nhau, cách một hành lang nhỏ hẹp, một bên là cửa kéo kiểu Nhật, một bên là cửa có ô kính vuông. Cuối hành lang cũng có một cánh cửa, nhưng có lẽ nếu không phải kho chứa đồ thì cũng là nhà vệ sinh.
“Ryoji, bác là cảnh sát, có thể hỏi cháu vài câu được không?” Sasagaki đứng ngoài hành lang cất tiếng hỏi.
Đợi một lúc mà không có tiếng trả lời. Đúng lúc Sasagaki hít một hơi, định hỏi lại lần nữa, thì nghe tiếng “cạch” sau cánh cửa kéo kiểu Nhật. Sasagaki kéo cửa ra. Ryoji đang ngồi trước bàn học nên chỉ nhìn thấy lưng cậu bé.
“Có thể làm phiền cháu một chút không?” Sasagaki bước vào phòng. Đây là một gian phòng kiểu Nhật rộng chừng mười mét vuông, có lẽ cửa sổ hướng về phía Tây Nam, ánh mặt trời tràn trề ùa vào qua cửa sổ.
“Cháu chẳng biết gì cả.” Ryoji vẫn xoay lưng lại với ông.
“Không sao, chuyện gì không biết thì cứ nói là không biết, bác chỉ tham khảo thôi. Bác ngồi đây được không?” Sasagaki chỉ vào cái nệm ngồi trên chiếu tatami.
Ryoji ngoảnh đầu lại nhìn một cái, rồi trả lời, “Mời bác ngồi.”
Sasagaki ngồi xếp bằng, ngẩng đầu nhìn cậu bé ngồi trên ghế. “Chuyện bố cháu... bác rất tiếc.”
Ryoji không trả lời, vẫn quay lưng lại với Sasagaki. Sasagaki đảo mắt quan sát căn phòng. Phòng ốc được dọn dẹp tương đối sạch sẽ. Đối với phòng của một học sinh cấp một, thậm chí còn khiến người ta có cảm giác hơi giản dị. Trong phòng không dán poster của Yamaguchi Momoe hoặc Sakurada Junko, cũng không trang trí tranh ảnh xe đua siêu cấp. Trên giá sách không có truyện tranh, chỉ có các sách phổ cập kiến thức khoa học cho nhi đồng như Bách khoa toàn thư, Cấu tạo xe hơi, Cấu tạo ti vi. Thứ thu hút sự chú ý của Sasagaki là khung ảnh treo trên tường, bên trong là một con thuyền buồm cắt từ giấy trắng, đến cả dây thừng cũng được thể hiện một cách rất khéo léo. Sasagaki nhớ là mình đã từng xem nghệ nhân cắt giấy biểu diễn trong buổi liên hoan, nhưng tác phẩm này tinh xảo hơn nhiều. “Cái này đẹp thật đấy! Cháu làm à?”
Ryoji liếc nhìn khung ảnh một cái, khe khẽ gật đầu.
“Ừm!” Sasagaki thật lòng thốt lên một tiếng kinh ngạc, “Cháu khéo tay quá, cái này mang đi bày bán cũng được ấy chứ.”
“Bác muốn hỏi gì cháu ạ?” Ryoji dường như không có tâm trạng nói chuyện gẫu với người đàn ông trung niên lạ mặt này.
“À, nhắc mới nhớ,” Sasagaki điều chỉnh lại tư thế ngồi, “hôm ấy cháu ở nhà đúng không nhỉ?”
“Hôm nào ạ?”
“Hôm bố cháu qua đời ấy.”
“À... vâng, cháu ở nhà.”
“Từ khoảng sáu giờ đến bảy giờ, cháu làm gì?”
“Sáu giờ đến bảy giờ?”
“Ừ, không nhớ nữa hả?”
Cậu bé nghiêng nghiêng đầu, sau đó trả lời, “Cháu ở dưới nhà xem ti vi.”
“Một mình cháu xem à?”
“Xem với mẹ cháu.”
“À.” Sasagaki gật gật đầu. Giọng cậu bé vẫn không có vẻ gì là sợ hãi.
“Bác xin lỗi, nhưng cháu có thể nhìn bác nói chuyện được không?”
Ryoji thở ra một hơi, chầm chậm xoay ghế lại. Sasagaki nghĩ, ánh mắt cậu bé hẳn phải đầy sự phản kháng. Thế nhưng, trong ánh mắt cúi nhìn người cảnh sát của cậu lại không hề có vẻ ý. Ánh mắt cậu thậm chí còn có thể nói là “trống rỗng”, giống như một nhà khoa học đang tiến hành quan sát mẫu vật của mình vậy. Sasagaki thầm nghĩ, cậu bé đang quan sát mình sao?
“Cháu xem đến mấy giờ?”
“Khoảng bảy giờ rưỡi.”
“Sau đó thì sao?”
“Ăn cơm tối với mẹ cháu ạ.”
“Thế à. Bố cháu không về, hai mẹ con hẳn phải lo lắng lắm nhỉ.”
“Ừm...” Ryoji khe khẽ trả lời, sau đó lại thở dài một tiếng nhìn ra cửa sổ. Bị ảnh hưởng từ cậu bé, Sasagaki cũng đưa mắt nhìn theo, bầu trời hoàng hôn đỏ rực.
“Bác làm mất thời gian của cháu rồi. Học hành chăm chỉ nhé.” Sasagaki đứng dậy, vỗ vỗ lên vai cậu bé.
Sasagaki và Koga trở lại tổ chuyên án, đối chiếu lại lời khai với hai viên cảnh sát hỏi Yaeko, không phát hiện ra mâu thuẫn gì lớn giữa lời kể của Matsuura và Yaeko cả. Giống như Matsuura, Yaeko cũng nói lúc người phụ nữ kia đến, chị ta đang xem ti vi với Ryoji ở phòng trong. Chị ta nói, có lẽ nghe thấy tiếng chuông cửa, nhưng không nhớ lắm, tiếp khách không phải việc của chị ta, nên cũng không để tâm. Yaeko còn bảo, chị ta không biết lúc mình đang xem ti vi thì Matsuura làm gì. Ngoài ra nội dung chương trình ti vi mà Yaeko kể lại đại để cũng tương đồng với Ryoji. Nếu chỉ có Yaeko và Matsuura, muốn thông đồng lời khai từ trước không phải việc khó. Nhưng cả Ryoji con trai nạn nhân cũng có mặt, thì lại là chuyện khác. Có lẽ bọn họ nói thật... Bầu không khí trong tổ chuyên án mỗi lúc một nặng nề.
Sự việc này nhanh chóng được xác minh. Cú điện thoại mà Matsuura nói đúng là được gọi đến vào khoảng sáu giờ và sáu giờ rưỡi ngày hôm đó. Cán sự nghiệp đoàn cầm đồ gọi điện tới đã chứng thực người nói chuyện với anh ta chính là Matsuura. Cuộc điều tra lại trở về điểm xuất phát. Cảnh sát tiếp tục thẩm vấn các khách hàng quen của tiệm cầm đồ Kirihara. Thời gian cứ trôi đi. Ở giải bóng chày chuyên nghiệp, đội Yomiuri Giants giành chức vô địch Central Leage lần thứ chín liên tiếp. Esaki Reona phát hiện ra hiệu ứng đường hầm lượng tử của chất bán dẫn giành được giải Nobel Vật lý. Đồng thời, bị ảnh hưởng từ chiến tranh Trung Đông, giá dầu ở Nhật Bản ngày một tăng cao. Bầu không khí trước cơn bão tố bao trùm cả nước Nhật.
Khi tổ chuyên án bắt đầu nôn nóng, thì chợt nhận được một manh mối mới. Manh mối này do viên cảnh sát phụ trách điều tra Nishimoto Fumiyo tìm ra.
6
Tiệm Kikuya có cánh cửa bằng gỗ bạch là một tiệm mì udon nhỏ, sạch sẽ. Ngoài cửa treo một tấm vải che màu xanh sẫm, biển hiệu được ghi bằng chữ trắng. Cửa tiệm làm ăn có vẻ rất tốt, mới sáng đã có khách, đến tận hơn một giờ chiều, khách vẫn cứ ra vào nườm nượp. Một giờ rưỡi, một chiếc xe chở hàng màu trắng dừng lại cách cửa tiệm một quãng xa. Trên thân xe sơn một hàng chữ đen lớn: Thương mại Ageha.
Người đàn ông ngồi sau vô lăng xuống xe. Anh ta mặc áo jacket xám, dáng người thấp đậm, thoạt trông khoảng chừng bốn mươi tuổi. Bên trong áo jacket là sơ mi trắng, đeo cà vạt. Anh ta đi thẳng vào tiệm Kikuya, vẻ vội vã.
“Tin tức quả không sai, đúng là xuất hiện vào khoảng một giờ rưỡi.” Sasagaki nhìn đồng hồ, thán phục nói. Ông đang ngồi trong quán cà phê đối diện với tiệm Kikuya, từ đây có thể quan sát tình hình bên ngoài qua cửa kính.
“Còn một thông tin bổ sung nữa, y đang ở trong đó ăn mì tempura.” Người vừa lên tiếng là viên cảnh sát hình sự Kanamura ngồi đối diện với Tengo. Anh mỉm cười, để lộ hàm răng bị thiếu một chiếc răng cửa.
“Mì tempura? Thật không đấy?”
“Tôi có thể cược với anh. Tôi đã cùng vào vài lần và tận mắt thấy mà. Terasaki lúc nào cũng gọi món mì tempura.”
“Hừm, y ăn chẳng biết chán là gì cả nhỉ.” Ánh mắt Sasagaki dịch chuyển trở lại phía tiệm Kikuya. Nhắc đến mì udon làm ông nhớ ra mình chưa ăn gì.
Tuy Nishimoto Fumiyo có chứng cứ ngoại phạm, nhưng nghi vấn đối với cô ta vẫn không được loại trừ hoàn toàn. Việc cô ta là người cuối cùng Kirihara Yosuke gặp lúc còn sống đã khiến tổ chuyên án không thể dứt bỏ nghi ngờ. Nếu cô ta liên quan đến án mạng của Kirihara thì điều đầu tiên họ nghĩ tới chính là cô ta hẳn phải có đồng phạm. Phải chăng bà quả phụ Fumiyo có tình nhân trẻ tuổi... cảnh sát đã dựa trên suy luận này để làm xuất phát điểm điều tra, cuối cùng phát hiện ra Terasaki Tadao.
Terasaki chuyên bán buôn đồ trang điểm, mỹ phẩm, nước gội đầu và thuốc tẩy rửa. Anh ta không chỉ giao buôn cho các tiệm bán lẻ, mà còn nhận đơn đặt hàng trực tiếp của khách rồi tự mình đưa hàng tới. Tuy có công ty tên là “Thương mại Ageha”, nhưng ngoài anh ta ra thì không còn nhân viên nào khác. Cảnh sát để ý đến Terasaki, là bởi họ nghe ngóng được một số tin đồn ở khu nhà Yoshida nơi Nishimoto Fumiyo ở. Một bà nội trợ gần đó đã mấy lần trông thấy một người đàn ông lái xe chở hàng màu trắng vào nhà của Nishimoto. Chị ta nói trên xe chở hàng dường như có đề tên công ty, chỉ là chị ta cũng không nhìn rõ lắm. Cảnh sát tiếp tục theo dõi xung quanh khu nhà Yoshida, nhưng chiếc xe chở hàng được nhắc đến ấy mãi vẫn không xuất hiện, về sau, mới phát hiện ra chiếc xe khả nghi đó ở nơi khác. Một người đàn ông ngày nào cũng đến ăn trưa ở tiệm mì Kikuya nơi Fumiyo làm việc đi trên chiếc xe chở hàng màu trắng. Từ tên công ty Thương mại Ageha trên thân xe, lập tức có thể điều tra ra thân phận của người đàn ông ấy.
“Ồ, ra rồi.” Koga nói. Họ nhìn thấy Terasaki bước ra khỏi Kikuya, nhưng không trở lại xe ngay, mà nán lại trước cửa tiệm. Điều này cũng giống với những gì được ghi trong báo cáo của nhóm Kanamura.
Không lâu sau, Fumiyo đeo tạp dề trắng từ trong tiệm bước ra. Hai người nói với nhau vài câu rồi Fumiyo trở vào trong tiệm, Terasaki đi về phía ô tô, cả hai đều không có vẻ gì e ngại ánh mắt của những người khác.
“Ừm, đi thôi.” Sasagaki dụi điếu thuốc Peace vào gạt tàn, nhổm người đứng dậy.
Terasaki vừa mở cửa xe, Koga bèn cất tiếng gọi. Terasaki ngạc nhiên trợn tròn hai mắt, kế đó lại trông thấy Sasagaki và Kanamura, nét mặt anh ta liền cứng đờ. Khi cảnh sát nói muốn hỏi vài vấn đề, Terasaki tỏ ra tương đối hợp tác. Họ hỏi anh ta xem có muốn tìm cửa tiệm nào đó ngồi không, nhưng Tarasaki nói ngồi trong xe luôn cũng được. Vậy là, bốn người bèn chui vào chiếc xe hàng nhỏ. Terasaki ngồi trên ghế lái, ghế phụ là Sasagaki, Koga và Kanamura ngồi ghế sau. Trước tiên Sasagaki hỏi anh ta có biết vụ án ông chủ tiệm cầm đồ ở Oe bị sát hại hay không, Terasaki nhìn thẳng về phía trước, gật đầu “Tôi xem trên báo và ti vi rồi. Nhưng vụ án đó thì liên quan gì tới tôi chứ?”
“Nơi nạn nhân Kirihara xuất hiện lần cuối cùng là nhà của chị Nishimoto. Tất nhiên là anh quen chị Nishimoto đúng không?”
Có thể thấy rõ Terasaki đang nuốt nước bọt. Anh ta đang nghĩ xem phải trả lời như thế nào.
“Chị Nishimoto... ý anh là, người phụ nữ làm việc trong tiệm mì udon đó hả? Đúng, có thể coi như tôi quen biết chị ấy.”
“Chúng tôi cho rằng, chị Nishimoto có thể liên quan đến vụ án này.”
“Chị Nishimoto? Sao có thể được chứ?” Terasaki nhếch miệng cười.
“Chà, có vấn đề gì sao?”
“Dĩ nhiên, chị ấy làm sao lại liên quan đến một vụ án mạng như thế được.”
“Hai người chỉ coi như có quen biết, mà anh lại bênh chị ta nhỉ!”
“Tôi đâu có bênh gì chứ.”
“Có người thường thấy một chiếc xe chở hàng màu trắng ở gần khu chung cư Yoshida, còn nói người lái xe thường xuyên ra vào nhà chị Nishimoto. Anh Terasaki, có phải đó là anh không?”
Câu hỏi của Sasagaki rõ ràng đã khiến Terasaki hết sức bối rối. Anh ta liếm liếm môi, nói, “Tôi tìm chị ấy vì công việc thôi.”
“Công việc?”
“Tôi giao các thứ chị ấy mua tới, mấy thứ kiểu như đồ trang điểm và thuốc tẩy rửa, có vậy thôi.”
“Anh Terasaki, đừng nói dối nữa. Chuyện này chỉ cần điều tra một chút là biết ngay. Người nhìn thấy nói, anh đến chỗ chị Nishimoto khá thường xuyên, không phải vậy sao? Đồ trang điểm và thuốc tẩy rửa cần phải đưa thường xuyên như thế à?” Terasaki khoanh tay, mắt nhắm lại. Chắc đang suy nghĩ xem nên trả lời thế nào.
“Anh Terasaki này, giờ mà anh nói dối, thì sẽ phải nói dối mãi. Chúng tôi sẽ tiếp tục giám sát anh chặt chẽ, chờ cho đến khi nào anh gặp chị Nishimoto. Như vậy anh sẽ xử lý thế nào? Anh định cả đời này không gặp chị ấy nữa sao? Anh làm được không? Phiền anh nói thực cho chúng tôi biết, quan hệ giữa anh và chị Nishimoto có gì đặc biệt?”
Terasaki vẫn trầm ngâm một lúc lâu. Sasagaki không nói gì, chỉ lặng lẽ quan sát phản ứng của đối phương.
Cuối cùng, Terasaki thở hắt ra một hơi, mở mắt, “Tôi nghĩ như vậy cũng không có vấn đề gì. Tôi độc thân, còn chồng cô ấy cũng chết rồi.”
“Có thể hiểu đó là quan hệ nam nữ không?”
“Chúng tôi qua lại một cách nghiêm túc.” Giọng Terasaki hơi rít lên.
“Bắt đầu từ khi nào?”
“Cả điều đó cũng phải nói à?”
“Xin lỗi, để làm tư liệu tham khảo thôi.” Sasagaki nở một nụ cười điềm đạm.
“Khoảng nửa năm trước.” Terasaki đanh mặt lại trả lời.
“Vì duyên cớ gì mà bắt đầu quan hệ?”
“Chẳng có gì đặc biệt cả. Thường gặp nhau trong cửa tiệm, rồi thân.”
“Chị Nishimoto kể những gì về ông Kirihara với anh?”
“Chỉ nói, đó là ông chủ tiệm cầm đồ cô ấy hay tới.”
“Chị Nishimoto có nhắc đến việc ông ấy thỉnh thoảng đến nhà mình không?”
“Cô ấy nói, ông ta có đến vài lần.”
“Nghe chị ấy nói thế, anh thấy thế nào?”
Câu hỏi của Sasagaki khiến Terasaki nhíu mày lại tỏ vẻ không vui, “Ý anh là sao?”
“Anh không cho rằng ông Kirihara có ý đồ gì khác sao?”
“Nghĩ mấy chuyện ấy thì ích gì? Fumiyo chẳng bao giờ để ý đến ông ta cả.”
“Nhưng chị Nishimoto hình như đã nhận khá nhiều sự chiếu cố của ông Kirihara, nói không chừng cũng nhận cả trợ giúp về mặt tiền bạc nữa. Như vậy, nếu đối phương bức bách quá, chẳng phải là rất khó từ chối sao?”
“Chuyện này tôi chưa bao giờ nghe nói tới. Xin hỏi, rốt cuộc ông muốn nói gì vậy?”
“Chúng tôi chỉ suy luận theo lẽ thường thôi, một người đàn ông thường xuyên ra vào nhà người phụ nữ anh có qua lại, người phụ nữ đó vì thường xuyên nhận được ưu đãi đặc biệt từ ông ta, nên cũng không thể tiếp đón qua loa có lệ. Về sau, người đàn ông ấy lại được đằng chân lân đằng đầu cứ liên tục dồn ép, là bạn trai người phụ nữ đó, nếu biết chuyện này, hẳn sẽ rất tức giận...”
“Ông muốn nói là vì vậy mà tôi nổi xung lên giết ông ta, phải không? Xin ông đừng nói linh tinh nữa, tôi đâu có ngu đến mức đó.” Terasaki cao giọng, làm chấn động cả không gian chật hẹp bên trong chiếc xe chở hàng nhỏ.
“Đây thuần túy chỉ là suy đoán, tôi rất xin lỗi nếu như khiến anh khó chịu. Vậy, khoảng sáu đến bảy giờ tối ngày thứ Sáu, 12 tháng này, anh đang ở đâu?”
“Điều tra chứng cứ ngoại phạm à?” Terasaki nhướng mắt. “Đúng vậy.” Sasagaki cười cười với anh ta. Vì dạo này phim hình sự rất thịnh hành, cụm từ “chứng cứ ngoại phạm” đã trở nên rất thông dụng.
Terasaki lấy một cuốn sổ nhỏ, mở phần lịch ngày ra. “Chiều tối ngày 12 tôi ở Toyonaka, đi đưa hàng cho khách.”
“Khoảng mấy giờ?”
“Tôi nghĩ, đến đó là khoảng sáu giờ.”
Nếu đây là sự thật, vậy thì anh ta có chứng cứ ngoại phạm. Chuyến này lại hụt nữa rồi, Sasagaki nghĩ. “Anh giao hàng cho khách chưa?”
“Chưa, hôm ấy bị lỡ hẹn với khách. Khách không có nhà, tôi kẹp danh thiếp ở cửa rồi trở về.”
“Khách không biết anh sẽ đến à?”
“Tôi có liên lạc rồi. Trước đó, tôi có nói qua điện thoại là ngày 12 sẽ tới, nhưng có vẻ tôi nói không rõ làm người ta không hiểu.”
“Nói như vậy, anh không gặp ai ở đó mà đã trở về luôn, phải không?”
“Đúng thế, nhưng tôi đã để lại danh thiếp.”
Sasagaki gật đầu thầm nghĩ, chuyện đó làm lúc nào chẳng được.
Sau khi hỏi Terasaki địa chỉ và số điện thoại của người khách kia, Sasagaki quyết định thả cho anh ta đi.
Về tổ chuyên án báo cáo xong, như thường lệ, Nakatsuka lại hỏi quan điểm của Sasagaki.
“Năm mươi năm mươi.” Sasagaki thành thực trả lời, “không có chứng cứ ngoại phạm, lại có động cơ gây án. Nếu cùng Nishimoto Fumiyo bắt tay gây án, hẳn có thể tiến hành một cách thuận lợi. Chỉ có một điểm tương đối kỳ lạ, nếu bọn họ đúng là hung thủ, vậy thì hành động tiếp sau đấy của hai người này hình như hơi quá khinh suất thì phải. Nhưng Terasaki lại vẫn như trước, cứ đến trưa là tới tiệm Fumiyo làm việc ăn mì udon. Điểm này thì tôi nghĩ không thông được.”
Nakatsu lặng im lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Cặp môi khép chặt trễ xuống ở hai đầu, chứng minh ông cũng có chung ý kiến.
Cảnh sát tiến hành điều tra triệt để đối với Terasaki. Anh ta sống một mình trong căn hộ thuê ở quận Hiremo, từng kết hôn, năm năm trước đã thỏa thuận ly hôn. Đánh giá của khách hàng đối với anh ta rất tốt, làm việc nhanh nhẹn, yêu cầu khó khăn thế nào cũng đáp ứng được, giá cả lại rất thấp. Đối với các chủ cửa hàng bán lẻ, anh ta là nhà cung cấp lý tưởng. Đương nhiên, cũng không thể vì vậy mà nhận định anh ta không có khả năng gây án mạng. Ngoài ra việc làm ăn của anh ta chỉ có thể coi là gắng gượng chèo chống, véo chỗ này bù chỗ kia, lại càng khiến cảnh sát chú ý hơn.
“Tôi nghĩ anh ta có ý định giết Kirihara vì ông này cứ bám riết lấy Fumiyo, nhưng cũng có thể anh ta mờ mắt trước số tiền một triệu yên Kirihara mang theo.” Viên cảnh sát điều tra tình hình kinh doanh của Terasaki phân tích như vậy trong cuộc họp, đại đa số thành viên tổ chuyên án cũng đồng tình.
Đã xác nhận xong việc Terasaki không có bằng chứng ngoại phạm. Điều tra viên đã đến căn nhà mà anh ta nói là để lại danh thiếp, tìm hiểu được chủ nhà hôm đó đi thăm họ hàng ở xa, mãi đến mười một giờ đêm mới về. Trên cửa đúng là có gài một tấm danh thiếp của Terasaki, nhưng như vậy chưa đủ để đoán định anh ta đến đây vào thời điểm nào. Ngoài ra đối với câu hỏi Terasaki có hẹn trước vào ngày 12 hay không, bà chủ nhà đó trả lời, “Anh ta nói sẽ đến vào một ngày nào đó trong khoảng thời gian này, nhưng tôi không nhớ là có hẹn vào ngày 12.” Thậm chí chị ta còn thêm một câu, “Tôi nhớ trong điện thoại có nói với anh Terasaki, ngày 12 tôi không rảnh.”
Lời khai này có ý nghĩa rất lớn. Nghĩa là, có thể cho rằng Terasaki biết rõ khách hàng này không có nhà, nhưng sau khi gây án vẫn đến nhà chị ta để lại danh thiếp, ý đồ ngụy tạo bằng chứng ngoại phạm.
Sự nghi ngờ của các điều tra viên đối với Terasaki, có thể nói đã ở mức báo động.
Thế nhưng, không có vật chứng nào hết. Trong các sợi lông, tóc thu thập được ở hiện trường, không có sợi nào giống với của Terasaki, cả dấu vân tay cũng vậy. Không có lời chứng nào là đã nhìn thấy anh ta. Giả dụ Nishimoto Fumiyo và Terasaki là đồng phạm, hai người hẳn phải có liên lạc với nhau, nhưng cảnh sát cũng không phát hiện được dấu vết gì của việc này. Một vài cảnh sát giàu kinh nghiệm chủ trương bắt giam trước rồi tiến hành thẩm vấn triệt để, có lẽ hung thủ sẽ cung khai. Nhưng trong tình huống hiện nay, cảnh sát thực sự không thể xin được lệnh bắt.
7
Một tháng trôi qua mà không có tiến triển gì. Các thành viên tổ chuyên án sau nhiều ngày ngủ lại cơ quan dần dần trở về nhà, Sasagaki cũng ngâm mình trong chiếc bồn tắm lớn đã lâu không sử dụng của nhà mình. Ông và vợ sống trong khu căn hộ trước cửa ga Kintetsu Yao. Katsuko, vợ ông lớn hơn ông ba tuổi. Hai người không có con.
Sáng sớm hôm sau, Sasagaki đang ngủ trong chăn thì bị tiếng ồn làm thức giấc. Katsuko đang thay quần áo, kim đồng hồ vừa chỉ bảy giờ. “Sớm vậy, mình làm gì thế? Định đi đâu à?” Sasagaki nằm trong chăn hỏi.
“À! Xin lỗi, đánh thức mình rồi. Em ra siêu thị mua đồ.”
“Mua đồ? Sớm thế à?”
“Không đi sớm xếp hàng, không khéo lại không kịp mất.”
“Không kịp? Mình mua gì thế?”
“Còn phải hỏi à? Dĩ nhiên là mua giấy vệ sinh rồi.”
“Giấy vệ sinh?”
“Hôm qua em cũng đi rồi. Quy định là mỗi người chỉ được mua một bịch, thực ra em cũng muốn gọi mình cùng đi đấy.”
“Mua nhiều giấy vệ sinh thế làm gì?”
“Không có thời gian giải thích với mình nữa, em đi trước đây.” Katsuko khoác chiếc áo len lông cừu cài khuy lên rồi cầm ví tiền vội vội vàng vàng đi ra cửa. Sasagaki chẳng hiểu gì cả. Dạo gần đây trong đầu ông chỉ nghĩ chuyện điều tra phá án, gần như không quan tâm trên thế giới đang xảy ra chuyện gì. Ông có nghe là dầu mỏ bị thiếu, nhưng không hiểu tại sao phải đi mua giấy vệ sinh, lại còn vừa sáng sớm đã đi xếp hàng nữa.
Đợi Katsuko về phải hỏi kỹ mới được, ông thầm nhủ trong lòng rồi nhắm mắt lại. Chỉ một chốc sau, chuông điện thoại reo lên. Ông lật người trong chăn, vươn tay với lấy chiếc điện thoại màu đen để ở cuối giường. Đầu hơi nhức, hai mắt vẫn chưa mở ra được.
“A lô, Sasagaki nghe.”
Hơn mười giây sau, ông bật dậy khỏi đống chăn, cơn buồn ngủ đã hoàn toàn tan biến.
Cú điện thoại đó thông báo cái chết của Terasaki Tadao. Chết trên đường cao tốc Osaka Kobe. Vòng cua không đủ rộng, húc vào dải phân cách, một trường hợp điển hình của việc ngủ gật khi lái xe. Lúc đó trên xe chở hàng của anh ta có một lượng lớn xà phòng và thuốc tẩy rửa. Sau này Sasagaki mới biết, sau giấy vệ sinh, dân chúng bắt đầu tranh nhau mua tích trữ các mặt hàng này, vị khách hàng muốn nhập thêm, Terasaki đã không ngủ nghỉ gì, đi khắp nơi thu xếp kiếm mối hàng.
Sasagaki và mấy người nữa đến nơi ở của Terasaki lục soát, định tìm vật chứng liên quan đến vụ sát hại Kirihara Yosuke, nhưng không thể phủ nhận, đó là một hành động uổng công phí sức. Dù có phát hiện gì chăng nữa, thì hung thủ cũng không còn trên thế gian này. Không lâu sau đó, một cảnh sát phát hiện ra vật chứng quan trọng bên trong thùng xe chở hàng, chiếc bật lửa Dunhill, hình chữ nhật, góc cạnh rõ ràng. Mọi thành viên tổ chuyên án đều nhớ rõ, Kirihara Yosuke cũng bị mất một cái y hệt thế. Thế nhưng, trên chiếc bật lửa này không phát hiện ra vân tay của Kirihara Yosuke. Nói chính xác hơn, trên đó không có vân tay của bất cứ người nào... như thể đã được lau bằng vải hay thứ gì đó tương tự.
Cảnh sát cho Kirihara Yaeko xem chiếc bật lửa, nhưng chị ta chỉ hoang mang lắc đầu nói, giống thì giống thật đấy, song không thể khẳng định có phải là vật của chồng mình hay không. Phía cảnh sát lòng như lửa đốt, lại gọi Nishimoto Fumiyo thẩm vấn, tìm đủ mọi cách khiến cô ta thừa nhận. Viên cảnh sát phụ trách thẩm vấn thậm chí còn ngấm ngầm ám chỉ đã xác nhận chiếc bật lửa đó đích thực là của Kirihara.
“Dù suy luận thế nào, thì Terasaki có thứ này cũng là một điều hết sức kỳ lạ. Không phải cô lấy trên người nạn nhân đưa cho anh ta, thì là Terasaki tự lấy, chỉ có hai khả năng này thôi. Rốt cuộc là thế nào? Cô nói đi!” Viên cảnh sát phụ trách thẩm vấn đưa bật lửa cho Nishimoto Fumiyo xem, ép cô ta phải khai nhận.
Nhưng Nishimoto vẫn một mực phủ nhận, thái độ không chút dao động. Cái chết của Terasaki có lẽ khiến cô ta khá sốc nhưng từ thái độ của cô ta, không hề nhận ra vẻ ngập ngừng do dự.
Nhất định có nhầm lẫn ở đâu đó, chúng ta đã đi vào một con đường hoàn toàn sai lầm... Sasagaki ở bên cạnh quan sát toàn bộ quá trình thẩm vấn, tự nhủ.
8
Vừa đọc bản tin thể thao, Tagawa Toshio vừa nhớ lại trận đấu tối qua, tâm trạng khó chịu lại một lần nữa cuộn trào. Đội Yomiuri Giants thua rồi thì thôi, vấn đề là quá trình trận đấu ấy. Vào thời điểm quan trọng nhất, Nagashima lại không đánh được. Tay đánh bóng số 4 xưa nay vẫn là trụ cột chống đỡ cho đội Giants luôn giành phần thắng, trong suốt trận đấu hôm qua đã thể hiện hết sức nửa vời, khiến đám đông khán giả sốt hết cả ruột. Vào thời điểm cần thiết nhất; anh ấy nhất định sẽ không phụ lòng khán giả, đó mới là Nagashima Shigeo! Dù cú đánh có bị tiếp sát thì cũng phải đánh một cú khiến các fan thỏa lòng, đó mới là bản lĩnh đàn ông của người được gọi là Mr. Giant chứ!
Nhưng mùa bóng này lại rất bất thường. Không, hai ba năm trước đã xuất hiện dấu hiệu rồi, nhưng Tagawa không muốn chấp nhận sự thực tàn khốc ấy, mới cố ý lờ đi đến tận bây giờ. Anh luôn tự nói với mình, chuyện này không thể xảy ra với Mr. Giants được. Thế nhưng, nhìn vào sự thực trước mắt, dù là một fan trung thành của Nagashima từ thuở thiếu thời, Tagawa vẫn buộc phải thừa nhận, bất cứ ai đến một ngày nào đó cũng phải già đi, dẫu tuyển thủ tài năng nổi tiếng đến mấy, cũng phải có ngày rời xa sân bóng. Nhìn bức ảnh Nagashima nhíu chặt lông mày sau khi bị “strike out”, Tagawa thầm nghĩ, có lẽ là năm nay rồi. Tuy mùa bóng mới bắt đầu, nhưng cứ đà này, chưa đến mùa hè, mọi người chắc sẽ bắt đầu xôn xao bàn tán chuyện Nagashima giải nghệ. Tagawa có một dự cảm chẳng lành, nếu đội Giants không thể đoạt chức vô địch, việc này rất có khả năng, năm nay muốn giành chức vô địch thực sự quá khó. Tuy năm ngoái, đội Giants đã đạt kỷ lục vô địch chín lần liên tiếp với khí thế áp đảo, nhưng ai ai cũng thấy rõ như ban ngày, cả đội bóng đã bắt đầu mệt mỏi, Nagashima chính là minh chứng cho điều đó. Lướt mắt xem qua bài báo nói về trận thắng của đội Chumchi Dragons xong, Tagawa gập báo lại. Anh ngước nhìn đồng hồ trên tường, đã bốn giờ hơn. Hôm nay chắc không có khách nữa rồi, anh tự nhủ. Trước ngày phát lương, hiếm có người nào đến trả tiền thuê phòng.
Đang há miệng ngáp vặt, anh chợt trông thấy phía sau cánh cửa kính dán thông báo thấp thoáng bóng người. Nhìn cái chân lộ ra là biết không phải người lớn. Chiếc bóng ấy đi giày thể thao. Tagawa nghĩ, chắc là đứa học sinh cấp I nào đấy tan học về đứng lại đọc thông báo giết thời gian. Nhưng mấy giây sau, cánh cửa kính mở ra. Một cô bé mặc áo sơ mi, bên ngoài khoác áo len cài khuy e dè bước vào. Đôi mắt tròn to khiến người ta liên tưởng đến một giống mèo quý gây cho Tagawa ấn tượng sâu sắc. Có vẻ cô bé là học sinh cuối cấp I.
“Có chuyện gì vậy?” Tagawa hỏi, chính anh cũng cảm thấy giọng mình rất dịu dàng. Nếu người đẩy cửa bước vào là đám nhãi bẩn thỉu mắt la mày lét ở gần đấy, giọng anh ta chắc hẳn sẽ rất lạnh lùng hờ hững, không thể so với lúc này được.
“Chào chú ạ, cháu họ Nishimoto.”
“Nishimoto? Nishimoto nào nhỉ?”
“Nishimoto ở khu nhà Yoshida ấy ạ.”
Giọng cô bé rành rọt. Tagawa nghe rất lạ tai. Lũ trẻ con mà anh quen biết toàn những đứa cứ mở mồm ra là biết ngay rặt một lũ xấc xược con nhà thiếu giáo dục.
“Khu nhà Yoshida... à?” Tagawa gật gật đầu, rút ra tập hồ sơ ở giá sách bên cạnh. Khu nhà Yoshida có tám hộ gia đình, nhà Nishimoto thuê phòng 103 nằm ở chính giữa tầng một. Tagawa xác nhận nhà Nishimoto đã hai tháng chưa trả tiền nhà, cần phải gọi điện giục rồi. “Vậy là,” ánh mắt anh trở lại với cô bé “cháu là con gái của chị Nishimoto?”
“Vâng ạ.” Cô bé gật đầu.
Tagawa xem lại bản đăng ký thuê nhà, chủ hộ là Nishimoto Fumiyo sống chung với con gái tên Yukiho. Khi họ mới chuyển đến mười năm trước, còn có người chồng, nhưng không lâu sau đó thì anh ta qua đời.
“Cháu đến trả tiền thuê phòng à?” Tagawa hỏi.
Nishimoto Yukiho cụp mắt xuống, lắc lắc đầu. Tagawa thầm nghĩ, biết ngay mà. “Vậy cháu có việc gì?”
“Cháu muốn nhờ chú mở cửa.”
“Mở cửa?”
“Cháu không có chìa khóa nên không vào nhà được, cháu không mang chìa khóa.”
“À.” Tagawa rốt cuộc cũng hiểu cô bé muốn nói gì, “Mẹ cháu khóa cửa ra ngoài rồi à?”
Yukiho gật đầu, nét mặt cô bé khi cúi đầu ngước mắt lên có một vẻ đẹp khiến người ta quên bẵng cô chỉ là học sinh cấp I, nhất thời, Tagawa cũng không khỏi rung động.
“Cháu không biết mẹ đi đâu à?”
“Không ạ. Mẹ cháu bảo hôm nay không đi đâu... nên cháu mới không mang chìa khóa theo.”
“Vậy sao?”
Tagawa nghĩ, tính sao nhỉ, rồi nhìn đồng hồ, lúc này mà đóng cửa thì sớm quá. Bố anh hôm qua đã đi thăm người họ hàng, đến tối mới về. Nhưng cũng không thể đưa chìa khóa dự phòng cho Yukiho được. Lúc sử dụng chìa khóa dự phòng, nhất định phải có mặt người của công ty bất động sản Tagawa tại đó, đây là một điều khoản trong hợp đồng giữa họ và người sở hữu khu nhà cho thuê ấy.
Đợi lát nữa mẹ cháu sẽ về thôi... nếu là bình thường anh sẽ nói thế, nhưng thấy nét mặt bất an của Yukiho đang nhìn chăm chăm vào mình, anh thật khó thốt ra những lời hờ hững như vậy.
“Được rồi, chú sẽ đi mở cửa hộ cháu. Đợi chú một lát.” Tagawa đứng dậy, bước lại gần két bảo hiểm để chùm chìa khóa dự phòng của các căn hộ cho thuê.
Từ văn phòng bất động sản Tagawa đến khu nhà Yoshida mất chừng mười phút đi bộ. Tagawa Toshio vừa nhìn phía sau thân hình nhỏ nhắn của Nishimoto Yukiho vừa bước đi trong con ngõ nhỏ được lát gạch một cách sơ sài. Yukiho không đeo cặp sách của học sinh cấp I, mà chỉ xách một cái túi bằng nhựa dẻo màu hồng. Mỗi khi chuyển động, trên người cô bé lại ra tiếng chuông đinh đinh đang đang. Tagawa lấy làm tò mò không biết đó là chuông gì, bèn để ý quan sát, nhưng nhìn bề ngoài không nhận ra được. Để ý cách ăn mặc của Yukiho, biết ngay cô bé không phải con nhà giàu có. Giày thể thao đã mòn vẹt, áo len xù lên, còn có mấy chỗ bị rút sợi, cả chiếc váy kẻ ca rô cũng khá sờn cũ. Mặc dù vậy, trên người cô bé này lại toát ra một vẻ quý phái mà trước đây Tagawa hiếm có cơ hội được tiếp xúc. Anh cảm thấy hết sức khó tin, tại sao lại như vậy chứ? Anh biết rõ mẹ của Yukiho. Nishimoto Fumiyo là một người đàn bà trầm tính, chẳng có gì nổi bật. Vả lại chị ta giống như những người sống ở cùng khu, trong mắt lúc nào cũng thấp thoáng vẻ thô lậu tầm thường. Tagawa ngạc nhiên vì Yukiho lại được thế này dù sống bên một người mẹ như vậy.
“Cháu học trường nào thế?” Tagawa hỏi vọng từ đằng sau.
“Trường cấp I Oe ạ.” Yukiho không dừng bước, hơi ngoảnh mặt lại trả lời.
“Oe? Chà...”
Tagawa thầm nghĩ, quả nhiên là vậy. Hầu hết trẻ con trong khu này đều học trường cấp I công lập Oe. Trường này mỗi năm đều có học sinh bị bắt vì tội trộm cắp, có mấy đứa chán cảnh nhà nên nửa đêm bỏ đi biệt tích. Buổi chiều đi qua đó, sẽ ngửi thấy mùi thức ăn thừa. Đến giờ tan học, sẽ có mấy tên không rõ lai lịch cưỡi xe đạp xuất hiện gạt tiền tiêu vặt của bọn trẻ. Chỉ có điều, trẻ con ở trường cấp I Oe không ngây thơ đến nỗi bị đám lừa đảo vớ vẩn ấy gạt gẫm. Nhìn Nishimoto Yukiho, Tagawa thực sự không cho rằng cô bé sẽ học ở loại trường như thế, nên mới mở miệng hỏi. Kỳ thực, chỉ cần nghĩ một chút, sẽ biết ngay với gia cảnh đó, cô bé không thể học trường tư được. Anh nghĩ, cô bé này ở trường hẳn là rất tách biệt với những đứa khác.
Đến khu nhà Yoshida, Tagawa đứng trứớc cửa phòng 103, gõ cửa mấy tiếng, rồi gọi “Chị Nishimoto”, nhưng không ai trả lời.
“Mẹ cháu hình như vẫn chưa về.” Anh nói với Yukiho.
Cô bé khẽ gật đầu, trên người lại vang lên tiếng chuông đinh đang. Tagawa cắm chìa dự phòng vào ổ khóa, vặn sang bên phải, tiếng ổ khóa vang lên lách cách. Đúng vào khoảnh khắc ấy, một cảm giác dị thường bùng nổ, dự cảm chẳng lành chợt lóe lên. Nhưng Tagawa vẫn tiếp tục vặn tay nắm mở cửa ra. Tagawa bước vào nhà, liền nhìn thấy một người đàn bà đang nằm trong phòng kiểu Nhật phía bên trong. Chị ta mặc áo len màu vàng nhạt và quần bò, nằm trên chiếu tatami, nhìn không rõ mặt mũi, nhưng chắc là Nishimoto Fumiyo.
Ồ thì ra chị ta ở nhà... vừa nghĩ đến đây, Tagawa bỗng ngửi thấy một mùi lạ.
“Hơi gas! Nguy hiểm!”
Anh vội đưa tay ra sau ngăn Yukiho đang định bước vào cửa, bịt chặt mũi miệng, rồi lập tức quay đầu sang nhìn kệ bếp bên cạnh. Trên bếp gas đặt một cái nồi, nút bếp được vặn mở, nhưng không thấy lửa. Tagawa nín thở vặn van gas tổng lại, mở cửa sổ phía trên kệ bếp, rồi đi vào phòng trong, vừa liếc nhìn Fumiyo đang nằm gục bên cạnh chiếc bàn thấp, vừa mở cửa sổ, sau đó thò đầu ra ngoài, há miệng hít thở mạnh, sâu trong óc vẫn cảm thấy tê tê. Anh ngoảnh đầu lại nhìn Fumiyo. Sắc mặt chị ta tím tái, làn da đã hoàn toàn không còn sinh khí. Không cứu được rồi... trực giác cho anh biết điều đó. Trong góc phòng có một chiếc điện thoại màu đen. Tagawa cầm ống nghe lên, bắt đầu quay số. Nhưng lúc này, anh lại do dự. Gọi 119 à? Không, tốt nhất vẫn cứ nên gọi 110 trước... đầu óc Tagawa hỗn loạn. Ngoài ông nội chết bệnh ra, anh chưa từng thấy cái xác nào khác. Sau khi quay số 11, anh do dự giây lát, rồi đưa ngón trỏ nhấn vào số 0. Đúng lúc ấy, có tiếng “Chết rồi ạ?” từ ngoài cửa vọng vào.
Nishimoto Yukiho đứng ở chỗ tháo giày. Cánh cửa mở ra, ánh sáng ngược khiến Tagawa không nhìn rõ được nét mặt cô bé.
“Mẹ cháu chết rồi ạ?” Cô bé lại hỏi thêm lần nữa, giọng nói đã pha lẫn tiếng khóc nghẹn ngào.
“Giờ vẫn chưa biết được.” Ngón tay Tagawa dịch từ số 0 sang số 9, dứt khoát quay số.
Công viên xuất hiện ở phía bên phải đường, rộng đủ để cùng một lúc tổ chức được hai trận bóng chày kiểu ba chốt. Mấy trò chơi thường thấy như cầu chui, đu quay, cầu trượt... đều có cả. Đây là công viên lớn nhất trong khu vực, tên chính thức là Masumi. Đằng sau công viên có một tòa nhà bảy tầng, thoạt nhìn hết sức bình thường, nhưng Sasagaki biết, bên trong hầu như trống không. Trước khi được điều đến Sở Cảnh sát Osaka, ông đã công tác ở Phòng Cảnh sát Tây Fuse quản hạt chính khu vực này. Những kẻ hóng chuyện, rất nhanh, đã tụ tập thành một đám đông trước tòa nhà, mấy chiếc xe cảnh sát đậu ở đó hầu như bị đám người ấy vây kín. Sasagaki không đi thẳng về phía tòa nhà, mà rẽ sang con đường phía trước công viên. Từ chỗ rẽ, đi đến cửa hàng thứ năm thì gặp tấm biển “Bánh mực nướng”. Mặt tiền cửa hàng rộng hơn mét tám. Quầy nướng bánh hướng ra đường, phía sau có một người đàn bà to béo ngoài năm mươi tuổi đang đọc báo. Bên trong hình như bán cả đồ ăn vặt, nhưng không thấy bóng dáng đứa trẻ nào.
“Bà chủ, nướng cho tôi một cái.” Sasagaki cất tiếng gọi. Người đàn bà vội gấp tờ báo lại. “Vâng, xong ngay, xong ngay đây.”
Bà ta đứng lên, đặt tờ báo xuống ghế. Sasagaki ngậm một điếu Peace, bật diêm châm thuốc, đưa mắt nhìn tờ báo, bắt gặp cái tít “Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi công bố kết quả kiểm nghiệm hàm lượng thủy ngân trong sản phẩm thủy hải sản trên thị trường ”, bên cạnh có một hàng chữ nhỏ hơn, “Dù ăn một lượng cá lớn vẫn dưới mức cho phép”.
Hồi tháng Ba, tòa án đã đưa ra phán quyết cuối cùng cho bệnh Minamata ở tỉnh Kumamoto - cùng với bệnh Minamata ở tỉnh Niigata, bệnh suyễn ở thành phố Yokkaichi, bệnh Itai-itai ở tỉnh Toyama, được gọi chung là “Bốn chứng bệnh lớn do ô nhiễm môi trường”. Kết quả, bên thắng kiện đều là nguyên đơn. Điều này khiến dân chúng trở nên quan tâm hơn đến các vấn đề ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, ngày càng nhiều người nghi ngại rằng các loại cá họ thường ăn đã bị nhiễm độc thủy ngân hoặc PCB.
Mực chắc không có vấn đề gì đâu nhỉ? Sasagaki nhìn tờ báo, thầm nhủ.
Hai miếng sắt dùng để nướng bánh mực gắn với nhau bằng bản lề, ở giữa kẹp con mực đã tẩm bột và trứng, được đặt lên bếp làm nóng. Mùi mực nướng tỏa ra kích thích cảm giác thèm ăn của Sasagaki. Sau khi làm nóng đủ độ, bà chủ mở kẹp sắt, cái bánh giòn xốp, tròn tròn dẹt dẹt dính trên một miếng sắt. Bà phết lên đó một lớp xốt mỏng, gập lại, sau đó bọc bằng tờ giấy màu nâu, buông một tiếng “Xong rồi” và đưa cho khách. Sasagaki liếc mắt nhìn tấm biển đề “Bánh mực nướng bốn mươi yên” rồi trả tiền. Bà chủ niềm nở nói, “Cảm ơn.” Sau đó cầm tờ báo lên, lại ngồi xuống ghế. Sasagaki đang định đi thì một người đàn bà đứng tuổi dừng lại trước cửa hàng, cất tiếng chào bà chủ. Trên tay bà ta xách cái làn, có vẻ là một bà nội trợ ở gần đây.
“Đằng kia đang ồn ào lắm, có phải xảy ra chuyện gì không nhỉ?” Bà ta chỉ tay về phía tòa nhà hỏi.
“Hình như có chuyện đấy, vừa nãy có nhiều xe cảnh sát đến lắm, chắc là có đứa trẻ nào bị thương.” Bà chủ nói.
“Trẻ con à?” Sasagaki quay đầu lại hỏi, “Trong ấy sao lại có trẻ con?”
“Nó đã thành sân chơi của bọn trẻ lâu rồi. Tôi đã lo sớm muộn gì cũng có đứa bị thương mà, quả nhiên xảy ra chuyện, không phải sao?”
“Ừm, trong tòa nhà ấy thì chơi được gì chứ?”
“Ai mà biết chúng nó chơi gì! Tôi thấy cần phải sửa sang lại từ lâu rồi, nguy hiểm quá.”
Ăn xong cái bánh mực nướng, Sasagaki đi về phía tòa nhà.
Bà chủ cửa hàng phía sau lưng ông, chắc hẳn sẽ cho rằng ông là một tay trung niên nhàn rỗi, thích hóng chuyện.
Cảnh sát chăng dây phía trước tòa nhà để ngăn những người tò mò. Thấy Sasagaki chui qua sợi dây vàng, một viên cảnh sát nhìn ông bằng ánh mắt dọa nạt, ông bèn chỉ tay lên ngực, ý bảo phù hiệu cảnh sát của mình ở đây. Viên cảnh sát hiểu được ý nghĩa của động tác ấy, bèn đưa mắt chào. Trong tòa nhà có một nơi tương tự tiền sảnh, theo thiết kế ban đầu có lẽ để lắp cửa kính lớn, nhưng hiện chỉ được che chắn tạm thời bằng các tấm ván ép và gỗ thanh. Một phần ván ép đã được gỡ đi, để tiện việc ra vào. Sau khi chào viên cảnh sát gác cửa, Sasagaki đi thẳng vào trong. Không ngoài dự liệu của ông, bên trong hết sức tối tăm, không khí phảng phất một thứ mùi pha tạp giữa nấm mốc và bụi. Ông đứng yên, cho tới khi cặp mắt thích nghi với bóng tối. Có tiếng nói chuyện không hiểu vẳng lại từ chỗ nào. Một lúc sau, khi đã dần dần phân biệt được cảnh tượng xung quanh, Sasagaki mới biết nơi mình đang đứng có lẽ vốn là sảnh đợi thang máy, vì bên phải là hai cánh cửa thang máy nối tiếp nhau, trước cửa chất đầy vật liệu xây dựng và thiết bị điện. Trước mặt ông là tường, nhưng có khoét một số lớn hình chữ nhật, phía bên kia tối om chẳng trông thấy gì, có lẽ là bãi đỗ xe theo dự kiến ban đầu. Bên trái là một căn phòng, lắp một cánh cửa sần sùi bằng gỗ dán, cảm giác như thể chỉ gá vội vào cho có, bên trên viết nguệch ngoạc hàng chữ “Cấm vào” bằng phấn, có lẽ là chữ của người phụ trách thi công.
Cửa mở, hai người đàn ông bước ra. Sasagaki biết họ. Cả hai đều là cảnh sát hình sự cùng tổ với ông. Trông thấy Sasagaki, họ liền dừng chân.
“Ồ, vất vả quá. Chẳng mấy khi được kỳ nghỉ, cậu đúng là đen đủi thật.” Một người cất tiếng nói với Sasagaki. Ông ta lớn hơn Sasagaki hai tuổi. Tay cảnh sát trẻ còn lại mới được cử đến tổ điều tra này chưa đầy một năm.
“Từ sáng tôi đã có dự cảm không lành. Mấy thứ trực giác kiểu này đâu cần phải chuẩn thế chứ.” Nói xong, Sasagaki lại hạ giọng hỏi: “Tâm trạng ông anh thế nào?”
Người kia chau mày, xua tay. Tay cảnh sát trẻ bên cạnh cười gượng.
“Cũng chẳng trách, ông anh vừa mới nói muốn nghỉ ngơi thư giãn một chút, liền xảy ra chuyện thế này. Giờ bên trong đang làm gì đấy?”
“Giáo sư Matsuno vừa mới đến.”
“Ồ, vậy à?”
“Thôi, bọn tớ phải đi xem xung quanh một chút.”
“Ừm, hai người đi nhé.”
Chắc là được lệnh ra ngoài đi lấy lời khai. Sasagaki nhìn họ bước xa dần, rồi xỏ găng tay, chậm rãi mở cửa. Căn phòng rộng khoảng mười lăm chiếu. Nhờ ánh mặt trời rọi vào qua kính cửa sổ nên ở đây không tối tăm như chỗ sảnh đợi thang máy. Các nhân viên điều tra tập trung bên cạnh bức tường đối diện với cửa sổ. Có mấy gương mặt lạ, chắc là người của Phòng Cảnh sát Tây Fuse quản hạt khu vực này, còn lại đều là người quen cũ. Tổ trưởng Nakatsuka, cũng là người chơi thân nhất với Sasagaki, liếc thấy ông đầu tiên. Ông ta để đầu húi cua, đeo kính gọng vàng, nửa phía trên mắt kính có màu tím nhạt. Ngay cả khi cười, nếp nhăn giữa hai chân mày ông ta cũng không bao giờ biến mất. Nakatsuka không nói “Vất vả quá!” hay “Sao đến muộn vậy?” mà chỉ khẽ hất hàm, ý bảo ông qua đó. Sasagaki liền bước tới.
Trong phòng chẳng có món đồ nội thất nào ra hồn, sát tường kê một cái xô pha giả da màu đen, ngồi dồn lại có thể chứa được ba người lớn. Xác chết nằm ngay trên đó, một người đàn ông. Giáo sư Matsuno Hidetomi thuộc đại học Y Kinki đang kiểm tra cái xác. Ông làm nghề pháp y ở Osaka này đã hơn hai mươi năm, Sasagaki vươn cổ ra phía trước, quan sát cái xác. Người chết khoảng bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi, cao chưa đến một mét bảy. So với chiều cao, thân hình ông ta thuộc dạng béo, trên người mặc áo khoác màu nâu, không thắt cà vạt, quần áo có vẻ đều là hàng cao cấp. Nơi ngực có vết máu màu đỏ thẫm đường kính khoảng mười xen ti mét. Ngoài ra, còn có mấy vết thương khác nhưng không có hiện tượng xuất huyết nghiêm trọng. Sasagaki nhận thấy không có dấu hiệu vật lộn. Người chết quần áo chỉnh tề, không nhàu nát, mái tóc chải lật ra sau cũng gần như không rối.
Giáo sư Matsuno vóc người thấp bé đứng dậy, quay lại phía các điều tra viên.
“Bị giết, không thể sai được.” Ông nói với giọng khẳng định, “Có năm vết đâm. Hai vết ở ngực, ba vết ở vai. Nhát trí mạng có lẽ là vết đâm bên dưới ngực trái, chếch sang phía trái xương ngực mấy xen ti mét. Hung khí hẳn đã xuyên qua khe xương sườn, đâm thẳng vào tim.”
“Chết ngay lập tức à?” Nakatsuka hỏi.
“Đại khái chết trong vòng khoảng một phút, tôi nghĩ là máu chảy ra từ động mạch vành ép lên tim, gây ra hội chứng chèn ép tim cấp.”
“Liệu máu có bắn lên người hung thủ không?”
“Không, tôi nghĩ chắc là không có mấy.”
“Hung khí thì sao?”
Giáo sư trề môi dưới, trầm ngâm suy nghĩ một thoáng mới tiếp tục, “Là một lưỡi dao mảnh và sắc nhọn, có thể còn mảnh hơn dao gọt hoa quả. Tóm lại không phải dao phay hay dao găm.”
Từ đoạn hội thoại này, Sasagaki biết rằng chưa tìm thấy hung khí.
“Dự đoán thời gian tử vong vào khoảng...?” Câu hỏi này là của Sasagaki.
“Hiện tượng thi thể cứng lại sau khi chết đã lan khắp toàn thân, vả lại những vết đốm trên xác cũng không dịch chuyển nữa, giác mạc tương đối đục, có lẽ đã chết được khoảng mười bảy tiếng hoặc gần một ngày rồi, phải xem kết quả giải phẫu mới chuẩn xác được.”
Sasagaki nhìn đồng hồ, giờ là hai giờ bốn mươi phút chiều, trừ ngược thời gian, nạn nhân có lẽ bị sát hại vào khoảng ba giờ chiều đến mười giờ tối ngày hôm qua.
“Vậy nên đưa đi giải phẫu ngay.” Nakatsuka vừa nêu ý kiến, giáo sư Matsuno cũng tán thành, “Vậy là tốt nhất.”
Lúc này, viên cảnh sát hình sự trẻ tuổi Koga bước vào. “Vợ nạn nhân đến rồi.”
“Rốt cuộc cũng đến. Vậy thì để chị ta nhận mặt trước đã.
“Dẫn vào đây đi!”
Koga gật đầu trước chỉ thị của Nakatsuka, xoay người đi ra.
Sasagaki hỏi nhỏ viên cảnh sát hình sự ít tuổi hơn đứng bên cạnh, “Đã biết nhân thân nạn nhân rồi à?”
Viên cảnh sát khẽ gật đầu. “Trên người ông ta có bằng lái xe và danh thiếp, là ông chủ một tiệm cầm đồ ở gần đây.”
“Tiệm cầm đồ? Bị lột mất gì?”
“Không rõ, nhưng vẫn chưa tìm thấy ví tiền.”
Có tiếng động, Koga đã quay trở lại, anh ngoảnh mặt ra phía sau nói “Mời chị vào”. Mấy viên cảnh sát đều tự động lùi xa khỏi xác chết hai ba bước.
Sau lưng Koga xuất hiện một phụ nữ. Thứ đầu tiên đập vào mắt Sasagaki là màu cam rực rỡ, người phụ nữ này mặc một chiếc váy liền thân kẻ ca rô hai màu đen và cam, dưới chân đi một đôi giày gót cao ngót nghét mười phân. Ngoài ra, mái tóc dài cũng được chải chuốt hoàn hảo, cứ như vừa mới bước ra khỏi tiệm làm tóc vậy. Chị ta đưa cặp mắt to được nhấn nhá bằng lớp phấn trang điểm dày về phía chiếc xô pha cạnh tường, giơ hai tay bịt miệng, nấc lên rồi sững lại trong giây lát. Mấy viên cảnh sát đều biết rõ, trong tình huống này có nói gì cũng vô ích, người nào người nấy đều lẳng lặng quan sát diễn biến. Cuối cùng, chị ta bắt đầu chầm chậm nhích lại gần xác chết, dừng lại trước xô pha, cúi đầu nhìn người đàn ông nằm trên đó. Đến cả Sasagaki cũng thấy rõ, cằm chị ta đang khẽ run lên.
“Có phải chồng chị không?” Nakatsuka hỏi.
Chị ta không trả lời, hai tay bưng lấy gò má, rồi chầm chậm đưa lên che kín toàn bộ gương mặt, hai đầu gối khuỵu xuống như thể không chống đỡ nổi thân thể, quỳ sụp xuống đất. Tựa như đang diễn kịch vậy, Sasagaki nghĩ.
Tiếng khóc thút thít vang lên trong lòng bàn tay chị ta.
2
Nạn nhân Kirihara Yosuke là ông chủ của tiệm cầm đồ Kirihara, cửa tiệm kiêm tư gia cách hiện trường khoảng một cây số. Sau khi vợ nạn nhân là Kirihara Yaeko xác nhận nhân thân, xác chết nhanh chóng được đưa đi khỏi hiện trường. Sasagaki lại giúp mấy người trong tổ giám định chuyển cái xác lên cáng. Lúc này, có một vật thu hút sự chú ý của ông.
“Có lẽ nạn nhân bị sát hại sau khi ăn no.” ông lẩm bẩm.
“Sao cơ ạ?” Koga sau lưng ông hỏi lại.
“Nhìn cái này đi!” Sasagaki chỉ vào sợi dây lưng của người bị hại, “Cậu xem, lỗ xỏ thắt lưng nới ra hai nấc so với bình thường.”
“À, quả vậy.”
Kirihara Yosuke đeo thắt lưng hiệu Valentino màu nâu. Trên sợi dây lưng vẫn còn dấu vết của khóa gài ở lỗ xỏ khóa thứ năm tính từ đuôi dây lưng, chứng tỏ bình thường ông ta vẫn sử dụng lỗ xỏ này. Thế nhưng, xác chết hiện giờ lại xỏ khóa gài ở lỗ thứ ba. Sasagaki dặn một nhân viên giám định trẻ đứng bên cạnh chụp ảnh phần ấy lại. Sau khi cái xác được chuyển đi, các nhân viên điều tra tham gia khám nghiệm hiện trường cũng lục tục rời đi thu thập chứng cứ. Những người ở lại, ngoài các nhân viên giám định ra, chỉ còn Sasagaki và Nakatsuka.
Nakatsuka đứng ở chính giữa phòng, đảo mắt nhìn khắp xung quanh một lượt nữa. Ông chống tay trái vào hông, tay phải xoa xoa lên má, đây là thói quen mỗi khi ông đứng suy nghĩ điều gì đó.
“Sasagaki” Nakatsuka nói, “Cậu thấy sao? Cậu nghĩ hung thủ là kẻ như thế nào?”
“Hoàn toàn không đoán ra được.” Ánh mắt Sasagaki cũng quét quanh một vòng, “Hiện giờ cùng lắm chỉ biết đó là người quen với nạn nhân.”
Quần áo, đầu tóc chỉnh tề, không có dấu vết ẩu đả, nhát đâm chính diện, chính là chứng cứ.
Nakatsuka gật đầu, vẻ hoàn toàn nhất trí, “Vấn đề là nạn nhân và hung thủ ở đây làm gì?”
Sasagaki quan sát kỹ mọi đồ vật trong gian phòng một lần nữa. Khi tòa nhà đang thi công, gian phòng này dường như được dùng làm văn phòng tạm thời. Cái xô pha màu đen mà xác chết nằm lên cũng là thứ được sử dụng lúc đó. Ngoài ra, còn một chiếc bàn làm việc bằng sắt, hai cái ghế gấp và một bàn họp gấp lại được, toàn bộ đều kê sát tường. Thứ nào cũng gỉ sét, bên trên phủ một lớp bụi dày, thoạt nhìn như bị rải bột phấn lên vậy. Công trình này đã bị tạm ngưng từ khoảng hai năm rưỡi trước. Ánh mắt Sasagaki dừng lại ở một điểm trên bức tường cạnh chiếc xô pha. Miệng ống thông gió hình chữ nhật ở ngay bên dưới trần nhà, lẽ ra phải che chắn bằng lưới kim loại, nhưng giờ đây không có gì cả. Nếu không có đường ống thông gió, có lẽ cái xác còn được phát hiện muộn hơn nữa, bởi vì người phát hiện ra xác chết đã vào căn phòng này qua đường ống thông gió ấy. Theo lời của nhân viên điều tra Phòng Cảnh sát Tây Fuse, người phát hiện ra cái xác là học sinh lớp ba của trường cấp I gần đây. Hôm nay là thứ Bảy, ở trường chỉ học buổi sáng. Buổi chiều, cậu bé cùng bốn người bạn vào tòa nhà này chơi. Bọn chúng không chơi mấy trò đuổi bắt hay trốn tìm, mà coi hệ thống đường ống thông gió nối khắp tòa nhà là một mê cung. Có lẽ, đối với bọn con trai, bò qua bò lại trong hệ thống thông gió ngoằn ngoèo phức tạp đích thực là một trò chơi kích thích được tinh thần mạo hiểm trong chúng. Tuy không rõ luật chơi của chúng lắm, nhưng hình như có một đứa giữa đường đã bò nhầm sang hướng khác. Cậu bé ấy bị lạc khỏi chúng bạn, lo lắng bò khắp các đường ống thông gió, cuối cùng đến được gian phòng này. Nghe nói, cậu bé ban đầu cũng không nghĩ người đàn ông nằm trên xô pha đã chết, còn sợ khi mình chui ra khỏi ống thông gió sẽ khiến ông ta thức giấc. Thế nhưng, người đàn ông vẫn nằm yên bất động. Cậu bé lấy làm lạ, bèn rón rén lại gần, bấy giờ mới phát hiện ra trên ngực ông ta có vết máu. Khoảng gần một giờ chiều thì cậu bé về nhà, kể lại chuyện ấy. Có điều, phải mất hai mươi phút sau người mẹ mới tin lời con trai kể là thật. Theo ghi chép, thời gian báo án với Phòng Cảnh sát Tây Fuse là một giờ ba mươi ba phút chiều.
“Tiệm cầm đồ...” Nakatsuka buột miệng, “Chủ tiệm cầm đồ có chuyện gì mà phải hẹn người ta gặp mặt ở nơi thế này nhỉ?”
“Chắc là không muốn bị người khác trông thấy, hoặc nếu bị nhìn thấy sẽ không hay ho gì.”
“Cứ cho là vậy thì cũng đâu nhất thiết phải chọn nơi thế này chứ, địa điểm có thể nói chuyện riêng tư, tránh được tai mắt người khác nhiều lắm mà. Nếu thật sự sợ bị người khác trông thấy, chắc sẽ cố gắng tìm nơi nào cách xa nhà một chút, chẳng phải vậy sao?”
“Chính xác.” Sasagaki gật đầu, gãi gãi cằm, cảm nhận được mấy sợi râu cứng cọ vào lòng bàn tay. Hôm nay vội đi, ông thậm chí chẳng kịp cạo râu.
“Chị vợ ông ta ăn mặc cũng lòe loẹt thật.” Nakatsuka nêu lên một chủ đề khác, nhắc tới vợ của Kirihara Yosuke, Yaeko, “Chắc khoảng hơn ba mươi gì đấy, nạn nhân năm nay năm mươi hai tuổi, chênh lệch cũng khá xa nhỉ.”
“Chắc chị ta đã từng làm cái nghề đó.” Sasagaki khẽ đáp.
“Ừm...” Nakatsuka gật đầu với cái cằm chẻ, “Đàn bà thật là đáng sợ! Hiện trường cách nhà có mấy bước chân, vậy mà còn phải trang điểm xong mới đến. Có điều, bộ dạng khóc lóc của chị ta khi nhìn thấy xác chồng mới thật là hay ho.”
“Kiểu khóc với cách trang điểm đều hơi quá khoa trương, phải không?”
“Tôi không nói vậy đâu nhé.” Nakatsuka nhe răng cười đầy ý tứ, rồi lập tức lấy lại vẻ nghiêm túc, “Chắc là cũng thẩm vấn xong người đàn bà đó rồi, Sasagaki, ngại quá, có thể phiền cậu đưa chị ta về nhà không?”
“Được.” Sasagaki cúi đầu chào, đoạn xoay người đi ra cửa.
Bên ngoài tòa nhà, đám người hóng chuyện đã bớt đi nhiều, nhưng bắt đầu xuất hiện bóng dáng các phóng viên, hình như cả người của đài truyền hình cũng có mặt. Sasagaki đưa mắt nhìn về phía mấy xe cảnh sát đậu trước cửa tòa nhà, Kirihara Yaeko đang ngồi trên ghế sau chiếc xe thứ hai trước mặt ông. Bên cạnh chị ta là cảnh sát hình sự Kobayashi, Koga ngồi ở ghế phụ lái. Sasagaki bước đến gõ lên cửa kính sau, Kobayashi mở cửa xe bước ra.
“Tình hình thế nào?” Sasagaki hỏi.
“Đã hỏi sơ qua, vừa mới xong. Nhưng nói thật, trạng thái tinh thần của chị ta vẫn không ổn định lắm.” Kobayashi lấy tay che miệng hạ giọng.
“Chị ta xác nhận các đồ tùy thân chưa?”
“Xác nhận rồi. Quả nhiên, mất ví tiền, và bật lửa nữa.”
“Bật lửa?”
“Nghe nói là hàng cao cấp của hãng Dunhill.”
“Ừm. Thế, chồng chị ta mất tích từ lúc nào?”
“Chị ta nói, chồng mình ra ngoài khoảng hai ba giờ chiều hôm qua, không biết là đi đâu. Đến sáng hôm nay vẫn chưa thấy về nên chị ta rất lo lắng, đang định đợi thêm chút nữa nếu vẫn không thấy sẽ trình báo cảnh sát, thì nhận được thông báo phát hiện ra thi thể chồng.”
“Ai đó đã gọi cho chồng chị ta à?”
“Chị ta bảo không biết, không nhớ trước lúc ra khỏi nhà chồng mình có nhận điện thoại hay không.”
“Tâm trạng của chồng chị ta lúc ra khỏi nhà như thế nào?”
“Thấy bảo không có gì khác thường.”
Sasagaki lấy ngón trỏ gãi má, hoàn toàn không tìm được đầu mối từ những lời khai của chị ta.
“Xem ra chị ta cũng không có manh mối gì về hung thủ rồi.”
“Đúng thế.” Kobayashi hơi nhíu mày.
“Đã hỏi xem chị ta có biết gì về tòa nhà này chưa?”
“Hỏi rồi. Trước đây chị ta từng biết ở đây có một tòa nhà, nhưng không rõ là tòa nhà gì, hôm nay mới lần đầu tiên đặt chân vào bên trong, cũng chưa bao giờ nghe chồng mình nhắc đến nơi này cả.”
Sasagaki bất giác cười chua chát. “Từ đầu đến cuối toàn là câu phủ định cả à.”
“Tôi xin lỗi.”
“Không phải lỗi của cậu.” Sasagaki vỗ vỗ lên ngực người đồng nghiệp trẻ, “Tôi sẽ đưa chị ta về, bảo Koga lái xe, được không?”
“Vâng, mời anh.”
Sasagaki lên xe, bảo Koga lái về phía nhà Kirihara.
“Đi đường vòng một chút, đám báo chí vẫn chưa phát hiện ra nhà nạn nhân ở gần đây.”
“Vâng.” Koga đáp.
Sasagaki xoay người hướng về phía Yaeko ngồi bên cạnh, chính thức tự giới thiệu. Yaeko chỉ khẽ gật đầu, đoán chừng cũng không muốn tốn công nhớ họ tên cảnh sát làm gì.
“Ở nhà giờ có người không?”
“Có, có người đang trông cửa tiệm, con trai tôi cũng ở trường về rồi.” Chị ta đáp mà không ngẩng đầu lên.
“Chị có con à, mấy tuổi rồi?”
“Đang học lớp năm.”
Vậy là khoảng mười đến mười một tuổi. Sasagaki nhẩm tính, rồi lại quan sát Yaeko. Tuy đã được lớp trang điểm che phủ, nhưng có thể thấy da chị ta đã bắt đầu khô ráp, những nếp nhăn li ti cũng rất rõ ràng. Vì vậy chẳng có gì lạ khi con chị ta lớn nhường ấy.
“Nghe nói hôm qua chồng chị ra ngoài mà không nói gì. Điều này có thường xuyên không?”
“Cũng có, đều là đi uống rượu. Hôm qua tôi cũng tưởng thế, nên không để tâm cho lắm.”
“Đi đến sáng mới về à?”
“Hiếm lắm.”
“Trường hợp như vậy ông nhà có gọi điện về không?”
“Anh ấy ít khi gọi điện. Không biết bao nhiêu lần tôi nhắc anh ấy về muộn thì phải gọi điện báo, nhưng anh ấy chỉ hứa miệng mà chẳng bao giờ gọi cả, tôi cũng quen rồi. Có điều, không bao giờ tôi ngờ được anh ấy...” Yaeko đưa tay bụm miệng lại.
Chiếc xe chở bọn Sasagaki đi lòng vòng một lúc, rồi dừng lại bên cạnh cột điện có ghi Oe-Sanchome. Những căn biệt thự liền kề nằm hai bên con đường nhỏ hẹp.
“Phía đằng kia.” Koga chỉ qua lớp kính chắn gió phía trước. Cách chỗ họ khoảng hai mươi mét, xuất hiện tấm biển “Tiệm cầm đồ Kirihara”. Phía truyền thông hình như vẫn chưa nắm được thông tin về gốc tích của người bị hại, ngoài cửa tiệm không thấy bóng ai.
“Tôi đưa chị Kirihara về nhà, cậu về trước đi.” Sasagaki dặn dò Koga.
Cửa cuốn của tiệm cầm đồ kéo xuống cao ngang mặt Sasagaki. Ông đi theo sau Yaeko, cúi người chui qua cửa cuốn. Phía sau cánh cửa là tủ trưng bày và lối vào. Trên cánh cửa kính mờ ở lối vào có dòng chữ màu vàng “Kirihara” viết bằng bút lông. Yaeko mở cửa đi vào, Sasagaki đi phía sau.
“À, bà về rồi.” Người đàn ông ở sau quầy cất tiếng chào. Người này tuổi trạc tứ tuần, thân hình gầy gò, cằm nhọn, mái tóc đen tuyền rẽ ngôi bảy ba đều tăm tắp.
Yaeko thở dài, ngồi xuống một chiếc ghế có lẽ dùng để tiếp khách.
“Sao rồi ạ?” Người đàn ông kia hỏi, ánh mắt dịch chuyển qua lại giữa chị ta và Sasagaki.
Yaeko đưa tay bưng mặt nói, “Đúng là anh ấy.”
“Sao lại thế được?” Người đàn ông sầm nét mặt. Giữa hai chân mày xuất hiện một vết hằn sâu, “Đúng là... ông ấy đã bị giết?”
Chị ta khẽ gật đầu, “Ừm.”
“Sao lại thế được? Sao lại xảy ra chuyện thế này?” Người đàn ông bụm miệng, cúi gầm mặt xuống, tựa như đang sắp xếp lại mạch suy nghĩ, không ngừng chớp mắt.
“Tôi là Sasagaki, Sở Cảnh sát Osaka. Tôi thực sự rất lấy làm tiếc về chuyện này.” Sasagaki giơ phù hiệu cảnh sát ra và tự giới thiệu, “Anh là...”
“Tôi họ Matsuura, làm việc ở đây.” Người đàn ông mở ngăn kéo tủ, lấy ra một tấm danh thiếp.
Sasagaki cúi đầu đáp lễ, đón lấy tấm danh thiếp từ tay đối phương. Lúc này, ông nhìn thấy trên ngón út bàn tay phải của người đàn ông đeo một chiếc nhẫn bạch kim. Đàn ông đàn ang, sao lại đeo trang sức kiểu này, Sasagaki thầm nhủ. Người đàn ông tên là Matsuura Isamu, chức danh ghi là “Quản lý tiệm cầm đồ Kirihara”.
“Anh làm việc ở đây lâu rồi phải không?” Sasagaki hỏi.
“Vâng, tính đến giờ đã là năm thứ năm rồi.”
Sasagaki tự nhủ, năm năm không phải là dài. Trước đó làm việc ở đâu? Vì duyên cớ gì mà đến đây làm việc? Sasagaki rất muốn hỏi những câu này, nhưng quyết định tạm thời nhẫn nại, vì ông vẫn còn phải tới đây vài lần nữa.
“Nghe nói ông Kirihara ra ngoài từ chiều ngày hôm qua.”
“Vâng ạ, tôi nhớ chắc vào khoảng hai giờ rưỡi gì đó.”
“Ông ấy không nói là đi làm việc gì ư?”
“Không ạ. Ông chủ rất độc đoán, hiếm khi nào bàn bạc chuyện công việc với chúng tôi.”
“Lúc ra ngoài, ông ấy có gì khác với bình thường không? Chẳng hạn như ăn mặc hơi khác thường, hoặc mang theo thứ gì đó mà anh chưa thấy bao giờ?”
“Chuyện này thì, tôi không chú ý lắm.” Matsuura nghiêng đầu, đưa tay trái lên gãi gãi sau gáy, “Có điều, hình như ông ấy rất để ý đến thời gian.”
“Ừm, để ý thời gian.”
“Hình như ông ấy xem đồng hồ đến mấy lần. Có điều, cũng có thể là do tôi cả nghĩ quá thôi.”
Sasagaki hờ hững đảo mắt một vòng trong gian tiệm. Sau lưng Matsuura là một cánh cửa kéo kiểu Nhật đóng kín, sau cửa có lẽ là phòng khách, bên trái quầy có chỗ để ngồi tháo giày, từ phía đó lên là phòng ở. Đi lên trên, phía bên trái có một cánh cửa, nếu đó là phòng chứa đồ thì vị trí như thế cũng thật kỳ lạ.
“Hôm qua cửa tiệm mở đến mấy giờ?”
“Việc này,” Matsuura nhìn cái đồng hồ hình tròn treo trên tường, “bình thường sáu giờ là đóng cửa, có điều, hôm qua cứ có việc lần khân, mở đến tận gần bảy giờ.”
“Chỉ có mình anh Matsuura trông tiệm thôi ư?”
“Vâng ạ, hầu như những lúc ông chủ không có mặt đều thế cả.”
“Sau khi đóng cửa thì sao?”
“Tôi đi về nhà.”
“Nhà anh ở đâu?”
“Teradacho.”
“Teradacho? Lái xe đi làm à?”
“Không, tôi đi tàu điện.”
Nếu là đi tàu điện, tính cả thời gian đổi tàu, đến Teradacho áng chừng mất khoảng ba mươi phút. Nếu bảy giờ hơn ra về, muộn nhất là tám giờ cũng về đến nhà rồi.
“Anh Matsuura, nhà anh có những ai?”
“Không có. Tôi ly hôn từ sáu năm trước, giờ thuê nhà sống một mình.”
“Nói như vậy, tối qua sau khi anh về, cũng chỉ có một mình thôi?”
“Đúng thế.”
Tức là không có bằng chứng ngoại phạm chứ gì, Sasagaki thầm xác nhận. Song ông không tỏ thái độ gì cả.
“Chị Kirihara này, bình thường chị không ra ngoài trông cửa tiệm ư?” Sasagaki hỏi Yaeko đang ngồi trên ghế dùng tay bóp trán.
“Vì chuyện trong cửa tiệm tôi chẳng hiểu gì cả.” Chị ta trả lời một cách yếu ớt.
“Hôm qua chị có ra ngoài không?”
“Không, tôi ở nhà cả ngày.”
“Không đi đâu cả à? Cũng không đi mua đồ gì ư?”
“Ừm.” Chị ta gật đầu, sau đó mệt mỏi đứng lên, “Xin phép, tôi có thể đi nghỉ được chưa ạ? Tôi mệt quá, đến ngồi cũng cảm thấy khó chịu.”
“Dĩ nhiên, xin lỗi chị. Mời chị đi nghỉ.”
Yaeko loạng choạng tháo giày, vịn vào tay nắm cánh cửa bên trái kéo mở ra, bên trong là cầu thang. Thì ra thế, Sasagaki bấy giờ mới hiểu tác dụng của cánh cửa đó.
Đợi cho tiếng bước chân lên tầng của chị ta xa dần sau cánh cửa đóng kín, Sasagaki tiếp tục hỏi Matsuura, “Chuyện ông Kirihara đêm qua không về nhà, sáng nay anh mới nghe nói phải không?”
“Vâng. Bà chủ và tôi đều lấy làm lạ và rất lo lắng. Thế rồi nhận được điện thoại của cảnh sát...”
“Hẳn hai người ngạc nhiên lắm.”
“Tất nhiên!” Matsuura nói, “Sao lại thế được chứ? Tôi vẫn không dám tin, ông chủ lại... nhất định có nhầm lẫn ở đâu đó rồi.”
“Vậy là, anh cũng hoàn toàn không có manh mối gì?”
“Lấy đâu ra manh mối chứ?”
“Nhưng mà, các anh làm nghề này, khách đến cũng có cả trăm hạng khác nhau. Có vị khách nào vì tiền mà nảy sinh tranh chấp với ông chủ của anh chưa?”
“Tất nhiên, chúng tôi cũng có một số vị khách kỳ quặc. Đã đi mượn tiền mà còn oán người ta. Nhưng, dù thế nào cũng không đến nỗi phải giết ông chủ...” Matsuura ngước nhìn Sasagaki, lắc đầu, “Tôi thực sự khó mà tưởng tượng nổi.”
“Cũng khó trách, các anh là người làm ăn, không thể nói xấu khách hàng được. Có điều, thế này thì chúng tôi chẳng biết điều tra từ đâu nữa. Nếu anh có danh sách các khách hàng gần đây cho chúng tôi xem, thì sẽ giúp được chúng tôi rất nhiều.”
“Danh sách à...” Matsuura nhíu mày vẻ khó xử.
“Nhất định có chứ, bằng không biết là cho ai mượn tiền, cũng chẳng thể nào quản lý được các thứ người ta đem đến cầm.”
“Có thì đúng là có thật.”
“Phiền anh cho tôi mượn một chút”. Sasagaki xòe tay ra, “Tôi mang bản chính về, sau khi chụp lại sẽ lập tức mang trả. Đương nhiên, chúng tôi sẽ hết sức cẩn thận, không để người khác thấy.”
“Chuyện này tôi không quyết định được...”
“Cũng được, tôi đợi ở đây, có thể phiền anh lên hỏi ý kiến bà chủ được không?”
“Ừm.” Matsuura chau mày suy nghĩ giây lát, cuối cùng cũng gật đầu, “Thôi được. Đã vậy có thể cho các ông mượn, nhưng mà, xin các ông giữ gìn cẩn thận giùm.”
“Cảm ơn, không cần hỏi ý kiến của bà chủ trước sao?”
“Chắc là cho mượn được, để lát tôi nói với bà ấy sau. Nghĩ lại thì, ông chủ cũng không còn nữa rồi.”
Matsuura ngồi trên ghế xoay một góc chín mươi độ, mở tủ hồ sơ bên cạnh, bên trong xếp mấy kẹp tài liệu dày cộp. Sasagaki đang nhổm người về phía trước nhòm ngó, thì liếc thấy cánh cửa cầu thang bỗng lặng lẽ mở ra, ông ngoảnh nhìn về phía đó, chợt giật thót. Sau cánh cửa có một cậu bé đang đứng, khoảng mười tuổi, mặc áo thể thao dài tay, quần bò, thân hình gầy nhỏ. Sasagaki giật mình, không phải vì không nghe thấy tiếng cậu bé đi xuống tầng, mà bởi trong khoảnh khắc hai ánh mắt chạm nhau, ông bị chấn động trước sự tối tăm ẩn sâu trong đôi mắt đó.
“Cháu là con của ông Kirihara à?” Sasagaki hỏi.
Cậu bé không trả lời. Matsuura ngoảnh đầu lại đáp thay, “Vâng, đúng thế.”
Cậu bé không nói một lời, bắt đầu đi giày thể thao, nét mặt không một xúc cảm.
“Ryoji, cháu đi đâu đấy? Hôm nay nên ở nhà thì hơn.”
Cậu bé chẳng buồn để ý đến Matsuura, cứ thế đi ra cửa.
“Đáng thương thật, hẳn là thằng bé bị sốc khá nặng.” Sasagaki nói.
“Có lẽ vậy. Nhưng mà, thằng bé đó cũng hơi đặc biệt.”
“Đặc biệt như thế nào?”
“Chuyện này, tôi cũng không tiện nói.” Matsuura lấy trong tủ hồ sơ ra một kẹp tài liệu, đặt trước mặt Sasagaki, “Đây là danh sách các khách hàng gần đây nhất.”
“Tôi xin phép.” Sasagaki nhận lấy, bắt đầu lật giở các trang. Những cái tên đàn ông đàn bà ken thành một hàng dày đặc trong kẹp tài liệu. Mắt ông đọc tài liệu, trong đầu lại hồi tưởng đến ánh mắt u uất của cậu bé kia.
3
Chiều ngày thứ hai sau khi phát hiện ra cái xác, báo cáo giải phẫu được gửi đến tổ chuyên án đặt ở Phòng Cảnh sát Tây Fuse. Kết quả trong bản báo cáo chứng thực, nguyên nhân cái chết và thời gian tử vong ước lượng không mấy sai lệch với những gì giáo sư Matsuno đã nói. Chỉ có điều, xem đến đoạn mô tả các vật tìm thấy trong dạ dày, Sasagaki không khỏi thắc mắc. Trên bản báo cáo ghi rằng “Mì soba, hành, cá trích chưa tiêu hóa hết. Chết sau khi ăn khoảng hai đến hai tiếng rưỡi.”
“Nếu đúng như vậy, thì chuyện cái thắt lưng kia phải giải thích thế nào đây?” Sasagaki nhìn xuống Nakatsuka đang ngồi hai tay khoanh trước ngực.
“Thắt lưng?”
“Thắt lưng bị nới ra hai nấc. Thông thường, sau khi ăn no người ta mới làm vậy, nhưng hai tiếng đồng hồ thì chắc cũng phải kéo lại rồi chứ.”
“Chắc là quên thôi, chuyện bình thường mà.”
“Nhưng tôi đã kiểm tra quần của người bị hại, so với thân hình ông ta thì lưng quần hơi rộng một chút. Nếu nới thắt lưng ra hai nấc, quần sẽ tụt xuống, làm sao mà đi được?”
“Ừm.” Nakatsuka lấp lửng gật đầu. Ông chau mày lại, nhìn chằm chằm vào bản báo cáo giải phẫu trên bàn họp. “Nếu vậy, Sasagaki, anh nghĩ tại sao ông ta lại nới thắt lưng ra thế?”
Sasagaki đảo mắt một vòng xung quanh, rồi ghé sát mặt lại gần Nakatsuka, “Tôi thấy, sau khi nạn nhân đến hiện trường đã làm chuyện gì đó cần phải cởi thắt lưng quần ra, lúc cài lại đã nới ra hai nấc. Có điều, người cài trở lại là bản thân nạn nhân hay hung thủ thì không biết được.”
“Chuyện gì cần cởi thắt lưng quần ra nhỉ?” Nakatsuka ngước mắt lên nhìn Sasagaki.
“Vậy mà còn phải hỏi nữa à? Cởi thắt lưng, tức là muốn tụt quần rồi.” Sasagaki nở một nụ cười mờ ám.
Nakatsuka dựa lưng vào ghế, chiếc ghế sắt phát ra những tiếng cót két. “Người trưởng thành tử tế, lại đến cái nơi bẩn thỉu đầy bụi đó hẹn hò à?”
“Chuyện này, đúng là có chút không tự nhiên.”
Nghe Sasagaki úp úp mở mở, Nakatsuka xua tay như thể đuổi ruồi. “Nghe thì cũng hay ho ra phết, nhưng trước khi dùng đến trực giác, cần phải có trong tay đầy đủ căn cứ đã. Đi điều tra hành tung của người bị hại, trước tiên là tiệm mì soba.”
Người phụ trách chuyên án là Nakatsuka đã nói vậy, Sasagaki không thể làm trái, ông buông một tiếng “Tôi biết rồi”, đoạn chào rồi rời đi.
Không mất nhiều thời gian để tìm được tiệm mì soba nơi Kirihara Yosuke dùng bữa. Yaeko nói, ông ta thường ghé quán Saganoya ở khu phố buôn bán gần ga Tây Fuse. Nhân viên điều tra lập tức đến nắm tình hình và thu thập được lời khai khẳng định rằng, vào khoảng bốn giờ chiều ngày thứ Sáu, Kirihara quả thực đã đến đó. Kirihara đã ăn mì soba ở Saganoya. Từ tình trạng tiêu hóa suy ngược lại, thời gian tử vong ước lượng vào khoảng sáu giờ chiều cho đến bảy giờ tối ngày thứ Sáu. Khi điều tra chứng cứ ngoại phạm, cần kéo dài khoảng thời gian này ra thêm chút nữa, đặc biệt lưu tâm thời gian từ năm giờ chiều đến tám giờ tối. Thế nhưng, theo lời khai của Matsuura và Yaeko, Kirihara rời khỏi nhà lúc hai giờ rưỡi. Hơn một tiếng đồng hồ trước khi đến Saganoya, ông ta đã đi đâu? Từ nhà ông ta đến Saganoya, có đi chậm đến mấy cũng chỉ mất chừng mười phút. Nghi vấn này được giải đáp vào thứ Hai. Một cuộc điện thoại gọi đến Phòng Cảnh sát Tây Fuse đã hé lộ chân tướng sự việc. Người gọi tới là một nữ nhân viên chi nhánh Fuse của ngân hàng Sankyo, trong điện thoại cô cho biết, thứ Sáu tuần trước, trước giờ ngừng giao dịch, Kirihara Yosuke có đến ngân hàng. Sasagaki và Koga lập tức đến chi nhánh ngân hàng nằm đối diện cửa phía Nam ga Kintetsu Fuse. Người gọi điện là nữ nhân viên trẻ làm việc ở quầy giao dịch. Cô có gương mặt tròn trịa ưa nhìn, hợp với mái tóc ngắn. Sasagaki ngồi đối diện cô trong khu vực tiếp khách được ngăn lại bằng bình phong.
“Hôm qua thấy tên ở trên báo, tôi cứ nghĩ ngợi mãi, chẳng biết có phải chính là ông Kirihara đó hay không? Vì vậy, sáng nay sau khi xác nhận lại tên họ một lần nữa, và hỏi ý kiến cấp trên, tôi đã mạnh dạn gọi điện cho các ông.” Cô ưỡn thẳng lưng. “Ông Kirihara đến lúc nào vậy?” Sasagaki hỏi.
“Lúc gần ba giờ.”
“Ông ấy đến làm gì?”
Nghe thấy câu hỏi này, cô nhân viên ngân hàng thoáng lộ vẻ chần chừ, có lẽ khó để quyết đoán xem nên tiết lộ bí mật của khách hàng đến mức độ nào. Nhưng, cuối cùng, cô vẫn mở miệng nói, “Ông ấy đến đóng sổ tiết kiệm có kỳ hạn và rút toàn bộ khoản tiền đó ra.”
“Số tiền là bao nhiêu?”
Cô lại do dự lần nữa, khẽ liếm môi, liếc mắt nhìn cấp trên ở đằng xa, rồi khẽ nói, “Một triệu yên chẵn.”
“Ồ...” Sasagaki bặm môi. Bình thường đây không phải là số tiền có thể mang theo người. “Ông Kirihara có nhắc đến việc dùng số tiền ấy làm gì không?”
“Không, hoàn toàn không nhắc đến.”
“Vậy ông Kirihara để một triệu yên ấy vào đâu?”
“Tôi không rõ lắm... hình như để bên trong cái túi do ngân hàng chúng tôi cung cấp.” Cô nghiêng đầu, vẻ hơi bối rối.
“Trước đây, ông Kirihara đã từng đột ngột hủy bỏ hợp đồng gửi tiền có kỳ hạn, rút đi tới con số triệu yên như vậy bao giờ chưa?”
“Theo tôi được biết, thì đây là lần đầu tiên. Có điều, từ cuối năm ngoái tôi mới tiếp quản hồ sơ tiền gửi có kỳ hạn của ông Kirihara.”
“Lúc rút tiền, ông Kirihara trông như thế nào? Có vẻ tiếc nuối hay rất vui vẻ?”
“Không rõ.” Cô lại hơi nghiêng đầu nói, “Không giống như là đang tiếc nuối. Có điều ông ấy nói, không lâu sau sẽ lại gửi vào một khoản tương đương như vậy.”
“Không lâu... ừm.”
Sau khi báo cáo lại tình hình với tổ chuyên án, Sasagaki và Koga đến tiệm cầm đồ Kirihara để hỏi xem Yaeko và Matsuura có biết gì về việc Kirihara Yosuke rút tiền trước hạn không. Đến gần nhà Kirihara, hai người dừng chân lại. Trước cửa tiệm cầm đồ tụ tập mấy người mặc đồ tang.
“Phải rồi, hôm nay họ cử hành tang lễ.”
“Tôi quên béng đi mất. Giờ trông thấy mới nhớ ra, buổi sáng có nghe nói rồi mà.”
Sasagaki và Koga cùng đứng cách một quãng xa quan sát diễn biến tang lễ, xem chừng họ đến vừa kịp lúc đưa linh cữu ra xe, xe tang đã chạy tới trước cửa nhà Kirihara. Cửa tiệm mở rộng, Kirihara Yaeko là người đầu tiên bước ra ngoài. Sắc mặt chị ta thoạt trông có vẻ kém hơn hôm trước, người cũng gầy đi nhiều, nhưng lại khiến người ta cảm giác chị ta tăng thêm mấy phần lẳng lơ. Cũng có thể đó là do sự hấp dẫn khó tin đến từ bộ áo tang kia. Rõ ràng chị ta đã quen mặc kimono, đến cả cách bước đi dường như cũng được dày công tính toán sao cho mình trông hấp dẫn nhất. Nếu cho rằng chị ta đang diễn vai một bà quả phụ trẻ tuổi xinh đẹp than khóc đầy bi ai, thì đó quả thực là một vai diễn hoàn hảo... Sasagaki thầm mai mỉa. Phía cảnh sát đã điều tra được, chị ta từng làm tiếp viên ở Kitashinchi. Con trai Kirihara Yosuke ôm tấm di ảnh đã được lồng trong khung, bước theo sau chị ta. Ryoji, cái tên ấy đã nhập vào trí óc Sasagaki, mặc dù bọn họ vẫn chưa nói chuyện với nhau lần nào. Gương mặt Kirihara Ryoji hôm nay vẫn không hề bộc lộ cảm xúc. Trong cặp mắt u tối không gợn lên bất cứ tình cảm gì. Đôi mắt trông như thể mắt giả của cậu bé nhìn chằm chằm xuống chân bà mẹ đang đi phía trước. Buổi tối, Sasagaki và Koga lại đến tiệm cầm đồ Kirihara lần nữa. Giống như lần trước, cửa cuốn mở một nửa, nhưng cửa bên trong đã khóa. Cạnh cửa có nút chuông, Sasagaki ấn nút, liền nghe thấy tiếng chuông bên trong vẳng ra.
“Hay họ ra ngoài rồi?” Koga hỏi.
“Nếu ra ngoài, cửa cuốn phải kéo xuống chứ.”
Một lát sau có tiếng mở khóa lách cách. Cánh cửa hé ra khoảng hai chục xen ti mét, để lộ gương mặt của Matsuura.
“A, ông cảnh sát.” Matsuura thoáng kinh ngạc.
“Chúng tôi muốn hỏi chút chuyện, giờ có tiện không?”
“Ừm... Tôi cũng không biết nữa. Hai vị làm ơn đợi để tôi lên hỏi bà chủ.” Matsuura nói xong, liền đóng cửa lại.
Sasagaki đưa mắt nhìn Koga, Koga hơi nghiêng đầu. Giây lát sau, cửa lại mở ra. “Bà chủ nói được, mời hai vị vào.”
Sasagaki nói “Xin phép”, rồi bước vào. Trong nhà thoang thoảng có mùi nhang, “Tang lễ cử hành thuận lợi chứ?” Sasagaki nhớ Matsuura là người khiêng quan tài.
“Ừm, cũng ổn ạ, tuy có hơi mệt” Matsuura vừa nói vừa vuốt phẳng tóc. Trên người anh ta vẫn mặc bộ quần áo lúc tham gia tang lễ, nhưng không thắt cà vạt, cúc thứ nhất, thứ hai trên áo sơ mi đều đã cởi ra. Cánh cửa vuông phía sau quầy mở ra, Yaeko xuất hiện. Chị ta đã thay đồ tang, mặc một chiếc váy liền thân màu lam sẫm, mái tóc búi lên ban chiều cũng buông xõa xuống.
“Thật xin lỗi vì đã làm phiền vào lúc chị đang mệt thế này.” Sasagaki cúi đầu chào.
“Đâu có gì.” Chị ta khẽ lắc đầu, “Đã phát hiện được gì rồi ạ?”
“Chúng tôi đang thu thập thông tin, thấy có một điểm nghi vấn, nên đến để xác minh.” Sasagaki chỉ tay vào cánh cửa vuông, “Trước đó, có thể cho phép tôi thắp nén nhang được không? Tôi muốn bày tỏ đôi lời với người đã khuất.”
Trong nháy mắt, gương mặt Yaeko tỏ vẻ hoảng hốt. Chị ta đưa ánh mắt nhìn Matsuura, rồi mới quay trở lại phía Sasagaki. “Vâng, không có gì ạ.”
“Làm phiền chị. Vậy tôi xin phép.”
Sasagaki cởi giày ở bên cạnh quầy giao dịch, đang định bước qua bậu cửa, đột nhiên trông thấy trên tay nắm cánh cửa che lối lên cầu thang bên cạnh treo một cái khóa sắt. Xem ra, đứng ở phía cầu thang không thể nào mở cửa được.
“Mạo muội hỏi một câu, cái khóa này dùng để làm gì vậy?”
“Ồ, cái đó hả,” Yaeko trả lời, “là để phòng kẻ trộm nửa đêm từ tầng hai vào.”
“Từ tầng hai vào?”
“Khu vực này nhà cửa san sát, bọn trộm rất dễ dàng lẻn vào từ tầng hai, tiệm đồng hồ ở gần đây cũng vì vậy mà mất trộm đấy. Thế nên chồng tôi đã lắp cái khóa này, ngộ nhỡ có bị trộm, thì chúng cũng không xuống dưới này được.”
“Nếu kẻ trộm xuống được tầng dưới thì tổn thất nặng nề lắm ư?”
“Vì két an toàn ở dưới này.” Matsuura từ phía sau trả lời, “Đồ đạc khách hàng đem cầm cũng để hết dưới tầng một.”
“Nói như vậy, thì buổi tối trên tầng không có người à?”
“Đúng thế, tôi cũng để cả con trai ngủ ở tầng một luôn.”
“Thì ra vậy.” Sasagaki vuốt cằm, gật đầu, “Tôi hiểu rồi, nhưng tại sao bây giờ cũng khóa vào vậy? Ban ngày cũng khóa à?”
“À, đó là,” Yaeko đến bên cạnh Sasagaki, mở khóa ra, “vì thành thói quen rồi, cứ lên xuống là khóa lại thôi.”
“Ừm.” Sasagaki thầm nghĩ, cũng tức là bên trên không có người.
Kéo cánh cửa ra, bên trong là một căn phòng kiểu Nhật rộng chừng sáu chiếu. Phía sau hình như vẫn còn một phòng nữa, nhưng vướng cửa kéo nên không nhìn rõ. Sasagaki đoán đó có lẽ là phòng ngủ của hai vợ chồng. Theo cách nói của Yaeko, Ryoji cũng ngủ chung với họ, vậy thì chuyện sinh hoạt của hai vợ chồng xử lý như thế nào nhỉ? Ông bất giác thấy tò mò. Ban thờ đặt sát bức tường phía Tây, bên cạnh là một khung nhỏ lồng ảnh Kirihara Yosuke mặc đồ Tây miệng mỉm cười, có vẻ được chụp hồi trẻ. Sasagaki thắp hương, chắp tay cầu cho người đã khuất được yên nghỉ trong khoảng mười giây. Yaeko pha trà bưng lên. Sasagaki đáp lễ trong tư thế quỳ ngồi, đưa tay đón lấy tách trà, Koga cũng làm theo. Sasagaki hỏi Yaeko xem có nghĩ ra manh mối gì liên quan tới án mạng hay không. Chị ta lập tức lắc đầu, Matsuura ngồi trên ghế cũng không mở miệng.
Sasagaki thủng thẳng nói ra chuyện Kirihara Yosuke rút một triệu yên ở ngân hàng. Cả Yaeko và Matsuura đều tỏ ra khá kinh ngạc trước sự việc này.
“Một triệu yên! Chuyện này tôi chưa từng nghe anh ấy nhắc đến bao giờ.”
“Tôi cũng vậy.” Matsuura nói, “Tuy rằng ông chủ rất độc đoán, chỉ làm theo ý mình, nhưng nếu dùng đến số tiền lớn như vậy của cửa tiệm, chắc hẳn cũng sẽ nói với tôi một tiếng.”
“Ông Kirihara có thú tiêu khiển gì tốn kém hay không? Như đánh bạc chẳng hạn?”
“Anh ấy chưa bao giờ đánh bạc, cũng không có sở thích gì đặc biệt cả.”
“Ông chủ là kiểu người chỉ đam mê mỗi việc làm ăn.” Matsuura ở bên cạnh xen vào.
“Ừm,” Sasagaki hơi ngần ngừ một chút, rồi mới cất tiếng hỏi, “Còn việc kia?”
“Việc kia?” Yaeko chau mày.
“Chính là... quan hệ nam nữ ấy.”
“À.” Chị ta gật đầu, phỏng chừng chẳng hề bị kích động chút nào, “Tôi không tin anh ấy có đàn bà bên ngoài, anh ấy không phải hạng người làm được những chuyện đó.” Chị ta nói với giọng rất chắc chắn.
“Nghĩa là chị tin chồng mình.”
“Ông nói là tin ấy à?” Yaeko bỏ lửng câu nói, rồi cúi gằm mặt.
Hỏi thêm mấy câu nữa, Sasagaki và Koga đứng dậy cáo từ. Thực sự không thể nói là có thu hoạch gì được.
Lúc đi giày, đôi giày thể thao hơi dính bẩn ở chỗ cởi giày đập vào mắt ông, chắc là của Ryoji. Thì ra cậu bé ở trên tầng hai.
Nhìn cánh cửa treo lủng lẳng ổ khóa, Sasagaki nghĩ không biết cậu bé ở trên đó làm gì.
4
Càng điều tra, hành tung của Kirihara Yosuke hôm gặp nạn càng rõ dần. Hai giờ rưỡi chiều ngày thứ Sáu, sau khi rời khỏi tư gia, ông ta đến chi nhánh ngân hàng Sankyo rút ra một triệu yên tiền mặt, đến tiệm Saganoya ở gần đấy ăn mì soba cá trích khoảng hơn bốn giờ thì đi khỏi. Vấn đề là ở sau thời điểm đó. Lời khai của nhân viên trong tiệm cho thấy, Kirihara Yosuke hình như đi theo hướng ngược với ga tàu điện. Nếu đây là sự thực, vậy thì nhiều khả năng Kirihara không lên tàu điện và ông ta đến ga Kintetsu Fuse, hoàn toàn chỉ để rút tiền mặt. Các thành viên tổ chuyên án tiếp tục tập trung điều tra khu vực xung quanh ga Fuse và hiện trường tìm thấy xác chết. Kết quả phát hiện ra hành tung của Kirihara Yosuke ở một nơi không thể ngờ đến. Có một người đàn ông được mô tả khá giống với Kirihara Yosuke từng đến hàng bánh ngọt Harmony, trong chuỗi cửa hàng Chord ở phố buôn bán phía trước cửa ga Fuse. Ông ta hỏi nhân viên cửa hàng, “Có loại pudding bên trên có rất nhiều hoa quả không?” Chắc là ông ta muốn chỉ loại pudding hoa quả thập cẩm, đó chính là sản phẩm làm nên thương hiệu của chuỗi cửa hàng Chord. Nhưng thật không may, khi đó bánh pudding hoa quả thập cẩm đã bán hết. Ông ta bèn hỏi nhân viên cửa hàng xem có thể mua thứ ấy ở đâu khác. Cô nhân viên trẻ nói với ông ta, trên phố lớn cũng có một cửa hàng Chord, khuyên ông ta đến đó thử xem sao, cô còn lấy cả bản đồ, chỉ rõ địa điểm nữa. Lúc ông ta xem xong vị trí của cửa hàng ấy, liền nói một câu thế này, “Ồ, thì ra ở đây cũng có một cửa hàng giống thế! Cũng gần chỗ tôi muốn đến lắm, hỏi sớm một chút có phải tốt không.”
Cửa hàng mà cô nhân viên kia chỉ nằm ở tiểu khu số 6 Tây Oe. Nhân viên điều tra ngay lập tức đến cửa hàng đó xác nhận chiều tối ngày thứ Sáu quả có một người đàn ông giống với Kirihara Yosuke từng ghé đến. Ông ta mua bốn cái bánh pudding hoa quả thập cẩm, nhưng sau đó đi đâu không biết. Ông ta không thể nào mua bốn cái bánh pudding mang đi gặp mặt đàn ông được, các nhân viên điều tra đều nhất trí, người Kirihara muốn gặp nhất định là phụ nữ. Không lâu sau, tên một người phụ nữ xuất hiện. Đó là Nishimoto Fuiniyo, tên của cô ta có trong danh sách của tiệm cầm đồ Kirihara, và cô ta sống ở tiểu khu số 7 Tây Oe.
Sasagaki và Koga được cử đến gặp Nishimoto Fumiyo. Trong cả khu vực san sát những ngôi nhà chắp vá bởi các tấm sắt và ván gỗ, có một khu nhà đề biển “Chung cư Yoshida”. Bức tường ngoài xam xám như bị hun khói, dính đầy những vết bẩn đen sẫm, những vết xi măng chạy ngoằn ngoèo như rắn bò khắp mặt tường, chắc hắn là những chỗ nứt nẻ nghiêm trọng. Nishimoto Fumiyo trú ở phòng 103, vì ở sát ngay tòa nhà bên cạnh, nên tầng một gần như không lấy được chút ánh sáng nào. Trên hành lang tối tăm ẩm thấp, có dựng một chiếc xe đạp gỉ hoen gỉ hoét. Sasagaki vòng qua những chiếc máy giặt đặt phía trước mỗi cánh cửa tìm kiếm. Trên cánh cửa thứ ba, có dán một tờ giấy, bên trên dùng bút đánh dấu viết “Nishimoto”. Sasagaki gõ cửa.
Đằng sau cánh cửa vẳng ra tiếng, “Cháu ra đây.” Giọng của con gái. Nhưng cửa không mở ngay, mà người bên trong lại cất tiếng, “Ai đấy ạ?”
Phỏng chừng là trẻ con đang trông nhà rồi.
“Mẹ cháu có nhà không?” Sasagaki hỏi với qua cánh cửa.
Người bên trong không trả lời, mà hỏi lại lần nữa, “Ai đấy ạ?”
Sasagaki nhìn Koga cười thiểu não. Chắc đứa nhỏ đã được người lớn dặn dò, nếu là người lạ thì tuyệt đối không mở cửa. Đương nhiên, đây không phải là chuyện gì xấu. Sasagaki điều chỉnh giọng vừa đủ để cô bé sau cánh cửa nghe thấy, nhưng cũng không vang quá để hàng xóm hóng được. “Bác là cảnh sát, có chút việc muốn hỏi thăm mẹ cháu.”
Cô bé im lặng, Sasagaki giải thích động thái đó là do cô bé không biết phải làm sao. Nghe tiếng đoán tuổi cô bé này nếu không phải học sinh cấp I thì cũng là cấp II. Trẻ con tuổi này nghe thấy có cảnh sát đến nhà, dĩ nhiên sẽ cảm thấy căng thẳng. Tiếng mở khóa lách cách vang lên, cửa hé ra, nhưng vẫn mắc dây xích chống trộm. Sau khe cửa rộng khoảng mười xen ti mét lộ ra gương mặt một bé gái có đôi mắt to, làn da trắng mịn màng như đồ sứ.
“Mẹ cháu vẫn chưa về.” Giọng cô bé hết sức kiên định.
“Đi mua đồ à?”
“Không ạ, mẹ cháu đi làm.”
“Bình thường khoảng mấy giờ mẹ cháu về?” Sasagaki nhìn đồng hồ, hơn năm giờ.
“Chắc là sắp rồi ạ.”
“Ừm vậy bác đợi ở đây một lát nhé.”
Nghe Sasagaki nói vậy, cô bé khẽ gật gật đầu, rồi đóng cửa lại. Sasagaki đưa tay lấy bao thuốc lá để bên trong túi ngầm của áo khoác ngoài, thấp giọng nói với Koga, “Một đứa trẻ chững chạc nhỉ!”
“Vâng.” Koga trả lời, “Với lại...”
Viên cảnh sát trẻ mới nói được một nửa, cánh cửa lại mở ra. Lần này sợi xích chống trộm đã được gỡ xuống.
“Cho cháu xem cái đó được không?” Cô bé hỏi.
“Cái gì?”
“Thẻ cảnh sát.”
“À,” sau khi biết mục đích của cô bé, Sasagaki không khỏi mỉm cười. “Được, đây cháu xem đi.” Ông lấy giấy tờ ra, lật trang có dán ảnh cho cô bé xem.
Cô bé đối chiếu gương mặt trong ảnh với Sasagaki, rồi nói “Mời bác vào”, đoạn mở cửa rộng hơn.
Sasagaki hơi ngạc nhiên. “Không cần, bác đứng đây đợi cũng được rồi.”
Cô bé lại lắc đầu. “Đợi bên ngoài, người xung quanh sẽ thấy tò mò đấy ạ.”
Sasagaki đưa mắt nhìn Koga, rất muốn gượng cười, nhưng nén lại được.
Sasagaki nói “Làm phiền cháu”, rồi bước vào nhà. Đúng như những gì ông nghĩ khi quan sát từ bên ngoài, bên trong quá chật hẹp cho một gia đình sinh sống. Vừa vào cửa là khoảng sàn gỗ rộng chừng năm chiếu có một bồn rửa tay nhỏ. Bên trong là căn phòng kiểu Nhật, cùng lắm cũng chỉ rộng khoảng sáu chiếu. Trên khoảng sàn gỗ bày một bộ ghế và bàn ăn xù xì thô ráp. Theo lời mời của cô bé, hai người ngồi xuống ghế. Cả nhà chỉ có hai chiếc ghế, dường như chỉ có hai mẹ con cô bé sống với nhau ở đây. Trên bàn trải khăn kẻ ca rô màu hồng phấn và trắng bằng nhựa dẻo, phía mép có vệt cháy tàn thuốc lá. Cô bé ngồi trong căn phòng kiểu Nhật, dựa vào chiếc tủ âm tường, bắt đầu đọc sách. Gáy cuốn sách có dán nhãn, xem ra là sách mượn ở thư viện.
“Cháu đang đọc gì vậy?” Koga bắt chuyện với cô bé.
Cô bé lặng lẽ giơ bìa cuốn sách ra, Koga ghé lại nhìn rồi ồ lên đầy khâm phục, “Đọc sách khó vậy cơ à!”
“Sách gì thế?” Sasagaki hỏi Koga.
“Cuốn theo chiều gió.”
“Chà!” Lần này đến lượt Sasagaki kinh ngạc, “Tôi xem phim ấy rồi.”
“Tôi cũng xem rồi, phim đó hay thật đấy. Có điều, tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ đọc nguyên tác cả.”
“Dạo này tôi không đọc sách mấy.”
“Tôi cũng thế. Từ khi bộ Ashita no Joe ra hết, đến cả truyện tranh tôi cũng rất ít xem.”
“Gì hả? Ashita no Joe cuối cùng cũng ra hết rồi à?”
“Kết thúc từ tháng Năm năm nay rồi. Sau Kyojin no Hoshi và Ashita no Joe thì chẳng còn gì để xem cả.”
“Thế chẳng phải rất tốt sao? Người lớn lại đi đọc truyện tranh, thật chẳng ra làm sao cả.”
“Vậy cũng phải ạ.”
Trong lúc Sasagaki và Koga đối thoại, cô bé cũng không ngẩng đầu lên, tiếp tục đọc sách. Có thể cô nghĩ rằng mấy người lớn ngớ ngẩn kia đang nói chuyện phiếm cho qua thời gian. Dường như Koga cũng cảm nhận được điều này, bèn lặng thinh. Hai tay anh rỗi việc quá chẳng biết làm gì, cứ lấy đầu ngón tay gõ lên bàn ăn, phát ra những tiếng cóc cóc. Cô bé ngẩng đầu lên, nét mặt khó chịu, khiến anh đành phải dừng động tác ấy lại. Sasagaki hờ hững đảo mắt nhìn quanh gian phòng. Chỉ có những đồ đạc cần thiết tối thiểu và các nhu yếu phẩm cho cuộc sống, hoàn toàn không có thứ gì có thể gọi là đồ xa xỉ cả. Không có bàn học, cũng không có giá sách. Tuy bên cạnh cửa sổ có kê một chiếc ti vi, nhưng là loại cực kỳ cũ kỹ, phải lắp ăng ten râu mới xem được. Ông hình dung, ti vi này chắc là loại đen trắng, bật lên rồi còn phải đợi một lúc hình ảnh mới xuất hiện, và quá nửa là trên hình có mấy vệt ngang rất chướng mắt. Không chỉ ít đồ đạc, nơi này rõ ràng là nhà của phụ nữ, vậy mà hoàn toàn không hề có cảm giác sáng sủa sạch sẽ. Căn phòng khiến người ta cảm thấy tối tăm, rõ ràng không chỉ vì bóng đèn tuýp trên trần đã quá cũ. Bên cạnh Sasagaki, có hai hộp giày chồng lên nhau, ông gảy nắp hộp ra, nghiêng đầu nhìn vào. Bên trong nhét đầy ếch đồ chơi bằng cao su, loại ấn xuống tức khắc sẽ nhảy bật lên, thường hay bán ở các chợ đêm mỗi khi có lễ hội. Xem ra, là đồ Nishimoto Fumiyo nhận về gia công tại nhà.
“Cô bé, cháu tên gì?” Sasagaki hỏi cô bé. Thông thường, ông hay gọi là “em bé”, nhưng đối với cô bé này, ông cảm thấy gọi vậy không thích hợp cho lắm.
Đôi mắt cô bé vẫn không rời khỏi cuốn sách, miệng đáp, “Nishimoto Yukiho.”
“Yukiho. Ừm, viết thế nào nhỉ?”
“ ‘Yuki’ là bông tuyết, ‘ho’ là bông lúa.”
“À, Yukiho, tên hay thật, phải không?” Ông quay sang hỏi Koga.
Koga gật đầu tán thành, cô bé cũng không có phản ứng gì.
“Yukiho, cháu có biết một tiệm cầm đồ tên là Kirihara không?” Sasagaki hỏi.
Yukiho không trả lời ngay, cô bé liếm liếm môi, rồi khẽ gật đầu, “Có lúc mẹ cháu đến đó.”
“Ừm, hình như là thế. Cháu đã gặp ông chủ tiệm đó bao giờ chưa?”
“Gặp rồi.”
“Ông ấy đến nhà cháu bao giờ chưa?”
Nghe câu hỏi này, Yukiho nghiêng nghiêng đầu, trả lời, “Hình như là có.”
“Lúc cháu có nhà, ông ấy có đến không?”
“Chắc là có. Nhưng mà, cháu không nhớ.”
“Ông ấy đến làm gì?”
“Cháu không biết.”
Chất vấn một cô bé ở nơi thế này có lẽ không phải cách hay. Sasagaki cảm thấy, sau này vẫn còn khá nhiều cơ hội để hỏi cô.
Ông lại đưa mắt nhìn quanh nhà, cũng không có mục đích gì cụ thể. Nhưng, khi liếc thấy thùng rác bên cạnh tủ lạnh, cặp mắt ông bất giác mở to. Phía trên thùng rác đã đầy ngập đó, là gói giấy có in logo của chuỗi cửa hàng Chord. Sasagaki đưa mắt nhìn Yukiho, ánh mắt ông chạm phải ánh mắt cô bé. Yukiho lập tức nhìn ra chỗ khác, lại tiếp tục tư thế cúi đầu đọc sách. Trực giác của Sasagaki nói cho ông biết, cô bé cũng đang nhìn cùng một thứ với ông. Lát sau, cô bé đột nhiên ngẩng đầu lên, gấp sách lại, nhìn về phía lối ra vào. Sasagaki dỏng tai lên, nghe thấy tiếng lê dép xăng đan. Koga hình như cũng chú ý đến, hơi hé miệng. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần, rồi dừng lại trước cửa. Ngoài cửa vang lên tiếng kim loại leng keng, hình như đang lấy chìa khóa. Yukiho bước đến cạnh cửa nói, “Cửa không khóa.”
“Sao lại không khóa? Nguy hiểm quá.” Tiếng nói vừa cất lên, cánh cửa cũng bật mở. Một phụ nữ mặc áo sơ mi xanh nhạt bước vào. Cô ta áng chừng khoảng ba mươi lăm tuổi, tóc buộc sau đầu. Nishimoto Fumiyo lập tức chú ý đến Sasagaki và Koga. Cô ta lộ vẻ kinh hoảng, tròn mắt nhìn con gái, rồi lại nhìn hai người đàn ông lạ mặt.
“Họ là cảnh sát.” Cô bé giải thích.
“Cảnh sát...” Gương mặt Fumiyo hiện lên vẻ sợ hãi.
“Tôi là Sasagaki ở Cục Cảnh sát Osaka. Còn đây là Koga.” Sasagaki đứng dậy chào hỏi, Koga cũng đứng lên theo.
Fumiyo rõ ràng khá lo lắng, sắc mặt tái mét, bộ dạng như thể không biết phải làm sao, cứ cầm cái túi giấy đứng đờ ra đó, quên cả đóng cửa lại.
“Chúng tôi đang điều tra một vụ án, có một số việc muốn hỏi chị Nishimoto, nên mới đến quấy rầy. Rất xin lỗi, đã tự tiện vào nhà lúc chị đi vắng.”
“Điều tra vụ án.”
“Hình như là chuyện của bác ở tiệm cầm đồ.” Yukiho ở bên cạnh nói.
Trong khoảnh khắc, Fumiyo dường như hít sâu vào một hơi. Nhìn thái độ hai mẹ con, Sasagaki tin rằng họ đã biết tin về cái chết của Kirihara Yosuke, và còn trao đổi với nhau về cái chết đó nữa.
Koga đứng dậy nói, “Mời chị ngồi.” vẻ hoảng hốt bất an trên gương mặt Fumiyo hoàn toàn không bớt đi chút nào. Chị ta đờ đẫn ngồi xuống đối diện với Sasagaki.
Một người phụ nữ ngũ quan cân đối, đây là ấn tượng đầu tiên của Sasagaki. Khóe mắt đã lờ mờ xuất hiện nếp nhăn, nhưng nếu trang điểm kỹ càng, nhất định vẫn có thể coi là người đẹp. Lại là một người đẹp lạnh lùng nữa. Yukiho rõ ràng rất giống mẹ. Chắc có không ít đàn ông trung niên phải điên đảo vì cô ta, Sasagaki nghĩ. Kirihara Yosuke năm mươi hai tuổi, cho dù động lòng với người phụ nữ này thì cũng không có gì lạ.
“Vô phép, xin hỏi chồng chị...”
“Anh ấy qua đời từ bảy năm trước rồi. Gặp tai nạn khi làm việc ở công trường...”
“Ồ, tội quá, tội quá. Vậy giờ chị đang làm việc ở đâu?”
“Tôi làm việc trong một quán mì udon ở Imazato.”
Cô ta nói quán mì ấy tên là Kikuya, thời gian làm việc từ mười một giờ trưa đến bốn giờ chiều các ngày từ thứ Hai đến thứ Bảy.
“Mì udon ở đấy ăn có ngon không?” Có lẽ để đối phương bớt phần căng thẳng, Koga cười cười hỏi. Fumiyo vẫn chỉ đờ đẫn nghiêng nghiêng đầu, buông một tiếng “Không biết”.
“Ừm, chị biết chuyện ông Kirihara Yosuke bị hại phải không?” Sasagaki đi thẳng vào chủ đề chính.
“Biết,” cô ta lí nhí đáp, “Tôi thật sự rất bất ngờ.”
Yukiho vòng qua sau lưng mẹ, đi vào gian phòng kiểu Nhật, rồi dựa lưng vào tủ âm tường ngồi xuống giống lúc nãy. Sasagaki quan sát động tác của cô bé, rồi ánh mắt lại quay trở về phía Fumiyo.
“Rất có thể ông Kirihara có dính dáng đến sự việc gì đó, chúng tôi đang điều tra hành tung của ông ấy sau khi rời khỏi nhà vào buổi chiều ngày thứ Sáu. Kết quả cho thấy, hình như ông ấy có ghé qua nhà chị, vậy nên...”
“Không, chuyện ấy, chỗ tôi...”
“Bác ở tiệm cầm đồ có đến mà,” Yukiho ngắt lời Fumiyo đang lắp ba lắp bắp, xen vào, “còn mang cả bánh pudding của Chord nữa, chính là cái bác ấy mà.”
Sasagaki biết rõ Fumiyo đang bối rối. Môi cô ta khẽ run lên một chập, cuối cùng cũng cất được tiếng, “À, đúng thế. Hôm thứ Sáu ông Kirihara đã ghé qua đây.”
“Khoảng mấy giờ?”
“Tôi nhớ hình như là...” Fumiyo đưa mắt sang phía phải Sasagaki, bên đó có một tủ lạnh hai buồng, trên nóc tủ bày một chiếc đồng hồ nhỏ. “Tôi nghĩ... là khoảng gần năm giờ. Vì tôi vừa về đến nhà, thì ông ấy đến.”
“Ông Kirihara đến tìm chị có việc gì vậy?”
“Tôi nghĩ là chẳng có việc gì cả. Ông ấy nói có việc ở gần đây, tiện thể ghé qua. Kirihara biết rõ tình hình tài chính của hai mẹ con chúng tôi rất khó khăn, thi thoảng ông ấy cũng ghé đến, có rất nhiều chuyện tôi hỏi ý kiến ông ấy.”
“Ông ấy có việc ở gần đây à? Thế thì lạ thật.” Sasagaki chỉ vào gói giấy của tiệm bánh Chord trong thùng rác, “Đây là của ông Kirihara mang đến đúng không? Ông ấy vốn định mua bánh ở phố buôn bán trước cửa ga Fuse. Cũng có nghĩa là, từ lúc ở gần ga Fuse, ông ấy đã chuẩn bị đến đây rồi. Từ chỗ này đến Fuse cũng cách một quãng đường tương đối, theo lẽ thường, suy luận hợp lý là ngay từ đầu ông ấy đã định đến nhà chị rồi.”
“Ông nói vậy, nhưng ông Kirihara bảo như thế, tôi cũng chẳng có cách gì, ông ấy nói có việc ở gần đây, tiện thể ghé qua...” Fumiyo cúi đầu nói.
“Tôi hiểu. Chúng ta cứ coi là vậy đi, ông Kirihara ở đây đến mấy giờ?”
“Sáu giờ... tôi nghĩ chắc khoảng gần sáu giờ thì ông ấy về.”
“Gần sáu giờ, chị chắc chứ?”
“Có lẽ không sai.”
“Nói vậy, thì ông Kirihara ở đây khoảng tầm một tiếng đồng hồ. Hai người nói chuyện gì vậy?”
“Nói chuyện gì à... thì chuyện phiếm bình thường thôi.”
“Chuyện phiếm bình thường cũng có nhiều loại lắm, chẳng hạn như thời tiết, tiền nong gì đó.”
“À, ông ấy nhắc đến chiến tranh...”
“Chiến tranh? Chiến tranh Thái Bình Dương?”
Kirihara Yosuke từng ở trong quân ngũ thời Thế chiến thứ hai. Sasagaki tưởng ông ta kể chuyện thời đó, nhưng Fumiyo lại lắc đầu.
“Là chiến tranh ở nước ngoài. Ông Kirihara nói, lần này giá dầu nhất định sẽ tăng cao.”
“À, chiến tranh Trung Đông.” Có vẻ, Kirihara nói đến cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ tư vừa nổ ra đầu tháng này.
“Ông ấy nói, vì thế mà kinh tế Nhật Bản sẽ lại bất ổn. Không chỉ vậy, các sản phẩm liên quan đến dầu mỏ cũng sẽ tăng giá, cuối cùng còn có khả năng khan hiếm nữa. Thế giới sau này, phải xem ai có tiền có thế hơn.”
“Ừm.”
Nhìn Fumiyo đang cúi đầu cụp mắt, Sasagaki thầm nghĩ, những lời này có thể là thật. Vấn đề là tại sao Kirihara lại nói những điều này với cô ta? Sasagaki tưởng tượng, có lẽ Kirihara muốn ngầm ám chỉ, tôi có tiền có thế, cô em hãy nghĩ cho bản thân mình, tốt nhất là theo tôi đi. Theo ghi chép của tiệm cầm đồ Kirihara, Nishimoto Fumiyo chưa bao giờ chuộc lại các món đồ đem cầm. Rất có thể, Kirihara định lợi dụng tình trạng khó khăn của cô ta. Sasagaki liếc nhanh sang Yukiho. “Lúc đó con gái chị đang ở đâu?”
“À, nó ở thư viện... phải không?” Cô ta xác nhận với Yukiho.
Yukiho “ừm” một tiếng.
“Ồ, cuốn sách kia chính là mượn về lúc ấy à? Cháu có thường hay đến thư viện không?” Ông trực tiếp hỏi Yukiho.
“Mỗi tuần một, hai lần.” Cô bé trả lời.
“Sau khi tan học à?”
“Vâng.”
“Có ngày cố định không? Như là thứ Hai, thứ Sáu hoặc thứ Ba, thứ Sáu chẳng hạn.”
“Không ạ.”
“Như vậy mẹ cháu không lo lắng à? Con gái chưa về, cũng không biết có phải đến thư viện hay không?”
“À, nhưng khoảng hơn sáu giờ thì nhất định nó sẽ về nhà.” Fumiyo nói.
“Hôm thứ Sáu cháu cũng về vào khoảng giờ đó à?” Ông lại hỏi Yukiho.
Cô bé không nói gì, khẽ gật đầu.
“Sau khi ông Kirihara đi, chị vẫn ở nhà chứ?”
“Không, sau đó, tôi ra ngoài mua đồ. Đến Marukaneya.”
Siêu thị Marukaneya cách nơi này chỉ khoảng mấy phút đi bộ.
“Ở siêu thị, chị có gặp người quen nào không?”
Fumiyo ngẫm nghĩ giây lát, rồi trả lời, “Gặp chị Kinoshita, mẹ bạn cùng lớp của Yukiho.”
“Chị có cách gì liên lạc với chị ấy không?”
“Có.” Fumiyo lấy cuốn sổ địa chỉ bên cạnh điện thoại, đặt lên bàn mở ra, chỉ tay vào chỗ đề Kinoshita, “Người này.”
Nhìn Koga chép lại số điện thoại, Sasagaki lại tiếp tục hỏi, “Lúc chị đi mua đồ, con gái chị đã về chưa?”
“Chưa, lúc đó nó vẫn chưa về.”
“Chị mua đồ xong trở về là khoảng mấy giờ?”
“Chắc khoảng bảy rưỡi gì đó.”
“Lúc ấy con gái chị về chưa?”
“Vâng, đã về rồi.”
“Sau đó chị không ra ngoài nữa à?”
“Đúng vậy.” Fumiyo gật đầu.
Sasagaki nhìn Koga, hỏi bằng ánh mắt, tạm thời dừng ở đây thôi nhỉ? Koga khẽ gật đầu.
“Chúng tôi xin lỗi đã làm phiền chị lâu như vậy. Sau này có thể chúng tôi vẫn có chuyện cần hỏi chị, lúc ấy mong chị giúp cho.” Sasagaki đứng dậy.
Fumiyo tiễn hai viên cảnh sát ra cửa. Nhân lúc Yukiho không có ở đó, Sasagaki lại hỏi thêm một câu:
“Chị Nishimoto, câu này chắc là hơi mạo muội, có điều, mong chị chớ để ý được không?”
“Chuyện gì vậy ạ?” Fumiyo lập tức lộ vẻ bất an.
“Ông Kirihara đã từng mời chị đi ăn, hoặc hẹn chị ra ngoài gặp mặt chưa?”
Câu hỏi của Sasagaki khiến Fumiyo trợn tròn mắt lên, cô ta lắc đầu thật mạnh, “Chưa bao giờ.”
“Ừm, tôi đang nghĩ, tại sao ông Kirihara lại đối tốt với mẹ con chị vậy nhỉ?”
“Tôi nghĩ có lẽ ông ấy thương hại mẹ con tôi. Dám hỏi ông cảnh sát, có phải các ông nghi ngờ tôi có liên quan đến vụ việc ông Kirihara bị hại hay không?”
“Không có, không có, làm gì có chuyện đó. Tôi chỉ muốn xác nhận một chút.”
Sasagaki tỏ ý xin lỗi, rồi cất bước rời khỏi. Khi qua chỗ ngoặt, không nhìn thấy khu nhà đó nữa, ông mới bảo Koga, “Rất khả nghi.”
Viên cảnh sát trẻ tuổi cũng đồng ý, “Đích xác là vậy.”
“Lúc tôi hỏi Fumiyo xem hôm thứ Sáu Kirihara có đến không, thoạt đầu hình như chị ta định trả lời là không. Nhưng vì Yukiho ở bên cạnh nhắc chuyện bánh pudding, chị ta đành phải nói thật. Yukiho cũng vậy, vốn định giấu giếm chuyện Kirihara từng ghé qua nhà, có điều, vì tôi chú ý đến cái túi giấy đựng bánh pudding, cô bé mới đoán ra, nói dối ngược lại còn phiền phức hơn.”
“Đúng thế, cô bé ấy rất tinh ý.”
“Fumiyo hết giờ làm từ tiệm mì udon về nhà, đại khái khoảng năm giờ chiều, Kirihara đến vào lúc đó. Mà khi ấy Yukiho vừa khéo lại tới thư viện, sau khi Kirihara đi mới về nhà. Tôi cứ có cảm giác thời gian dường như căn quá chuẩn thì phải.”
“Fumiyo có phải là tình nhân của Kirihara không nhỉ? Khi mẹ và người đàn ông đó ở với nhau, con gái phải ra ngoài giết thời gian.”
“Cũng có thể. Có điều, nếu là tình nhân, ít nhiều cũng có thể lấy được chút tiền, không cần thiết phải mang đồ về nhà gia công làm gì.”
“Có lẽ Kirihara đang theo đuổi chị ta?”
“Có khả năng.”
Hai người vội trở về tổ chuyên án đặt ở Phòng Cảnh sát Tây Fuse.
“Có thể là nhất thời bị kích động mà ra tay.” Báo cáo với Nakatsuka xong, Sasagaki nói, “Hẳn là Kirihara đã cho Fumiyo xem một triệu yên vừa mới rút ở ngân hàng ra.”
“Vậy nên, cô ta mới giết người vì tiền à? Nhưng nếu ra tay ở nhà mình, cô ta không thể nào chuyển cái xác đến tòa nhà được.” Nakatsuka nói.
“Vì vậy cô ta có thể tìm một cái cớ nào đó, hẹn ông ấy đến tòa nhà kia. Tôi không nghĩ là họ đi cùng nhau.”
“Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, dù là phụ nữ, cũng có khả năng gây ra những vết thương trên xác chết.”
“Nếu là Fumiyo, Kirihara sẽ không đề phòng.”
“Xác nhận chứng cứ ngoại phạm của Fumiyo trước rồi hãy tính.” Nakatsuka thận trọng nói.
Lúc đó, ấn tượng về Fumiyo trong lòng Sasagaki đã đến mức gần như cực xấu. Ông cảm thấy nghi ngờ cả thái độ căng thẳng, sợ hãi của cô ta. Thế nhưng, kết quả điều tra lại mang đến cho tổ chuyên án những thông tin hoàn toàn bất ngờ, Nishimoto Fumiyo có chứng cứ ngoại phạm gần như hoàn hảo.
5
Trước cửa chính siêu thị Marukaneya có một công viên nhỏ. Trong không gian nhỏ ấy không thể chơi bóng được, chỉ có mấy trò như xích đu, cầu trượt và hố cát, vừa khéo tiện cho các bà mẹ để lũ trẻ con tới đây chơi đùa trong lúc mình mua đồ. Công viên này cũng là nơi các bà nội trợ tán chuyện gia đình, trao đổi thông tin. Họ có thể gửi con cho những người quen còn mình thì vào siêu thị. Khá nhiều bà nội trợ đến Marukaneya mua đồ cũng chính vì sự tiện lợi này. Khoảng sáu giờ ruỡi chiều hôm Kirihara Yosuke bị hại, Kinoshita Yumie ở gần đấy tình cờ gặp Nishimoto Fumiyo ở siêu thị. Fumiyo dường như đã mua xong đồ đang định đi thanh toán. Còn Kinoshita Yumie thì vừa vào siêu thị, giỏ đồ vẫn rỗng không. Bọn họ trò chuyện với nhau vài ba câu rồi chào tạm biệt. Lúc Kinoshita Yumie mua xong đồ, ra khỏi siêu thị đã là hơn bảy giờ. Cô leo lên chiếc xe đạp dựng cạnh công viên, định đi về nhà, thì trông thấy Fumiyo đang ngồi trên xích du. Fumiyo dường như nghĩ ngợi gì đó, thẫn thờ đung đưa chiếc đu tới lui. Khi cảnh sát muốn cô xác nhận xem người cô trông thấy có đúng là Nishimoto Fumiyo hay không, Kinoshita Yumie khẳng định chắc chắn mình không nhìn lầm. Tựa như để chứng minh cho lời khai của cô, cảnh sát lại tìm được một người khác cũng trông thấy Fumiyo ngồi trên xích đu. Đó là ông chủ sạp hàng bán bạch tuộc viên nướng trước cửa siêu thị. Gần tám giờ, lúc siêu thị sắp đóng cửa, ông ta đã rất ngạc nhiên khi thấy một phụ nữ đang ngồi trên cái xích đu gần đó. Người phụ nữ theo miêu tả của ông, có lẽ chính là Fumiyo. Đồng thời, cảnh sát cũng nhận được thông tin mới về hành tung của Kirihara Yosuke. Khoảng sáu giờ chiều ngày thứ Sáu, ông chủ cửa hàng thuốc nhìn thấy Kirihara một mình đi trên đường. Chủ cửa hàng thuốc nói, ông ta vốn định gọi Kirihara, nhưng thấy ông ấy dường như đang vội nên lại thôi. Nơi ông ta trông thấy Kirihara, vừa khéo ở giữa khu nhà Yoshida và hiện trường phát hiện ra xác chết. Ước đoán thời gian tử vong của Kirihara là từ năm giờ đến tám giờ, nên nếu Fumiyo đứng lên khỏi xích đu bèn lập tức chạy đến hiện trường giết người, thì cũng không phải không có khả năng. Nhưng, đa số các nhân viên điều tra đều cho rằng khả năng đó rất thấp. Vốn dĩ, việc kéo dài thời gian tử vong ước lượng đến tám giờ đã hơi có chút khiên cưỡng rồi. Phương pháp suy đoán thời gian tử vong dựa vào thức ăn chưa tiêu hóa hết trong dạ dày vốn cực kỳ chính xác, có lúc thậm chí còn chuẩn đến tận từng phút. Vậy nên, khả năng cao là thời gian tử vong rơi vào khoảng từ sáu giờ đến bảy giờ. Ngoài ra còn một căn cứ nữa để suy đoán thời gian gây án muộn nhất cũng không quá bảy giờ rưỡi, chính là tình trạng ở hiện trường. Căn phòng phát hiện ra xác chết không có thiết bị chiếu sáng, ban ngày còn đỡ, nhưng đến tối, bên trong sẽ tối om như mực. Tuy nhiên, trong thời gian tòa nhà đối diện còn bật đèn, ánh sáng từ đó sẽ hắt nhẹ vào phòng, đủ sáng để sau khi mắt nhìn quen có thể nhận ra mặt mũi đối phương. Tòa nhà đối diện sau bảy rưỡi sẽ tắt đèn. Nếu trước đó Fumiyo đã chuẩn bị sẵn đèn pin, thì cũng vẫn có khả năng gây án. Có điều, nghĩ đến tâm lý của Kirihara, trong tình trạng ấy, khó mà tưởng tượng được ông ta lại không hề có chút cảnh giác nào. Tuy cho rằng Fumiyo rất đáng nghi, nhưng cũng buộc phải thừa nhận, khả năng cô ta gây án là rất thấp.
Trong lúc nghi ngờ về Nishimoto Fumiyo giảm dần, những điều tra viên khác lại có được thông tin mới liên quan tới tiệm cầm đồ Kirihara. Tiến hành điều tra các khách hàng gần nhất theo danh sách của Matsuura cung cấp, họ phát hiện trong buổi chiều Kirihara Yosuke gặp nạn, có người đã đến tiệm cầm đồ Kirihara. Đó là một phụ nữ, sống ở Tatsumi, cách Oe mấy cây số về phía Nam. Người phụ nữ trung niên này sống một mình, kể từ sau khi chồng bà ta mắc bệnh qua đời năm kia, bà ta thường xuyên ghé đến tiệm cầm đồ Kirihara. Sở dĩ bà ta chọn tiệm Kirihara cách nhà mình một quãng khá xa, là vì không muốn bị người quen nhìn thấy ra vào tiệm cầm đồ. Chiều ngày thứ Sáu xảy ra án mạng đó, bà ta mang theo cặp đồng hồ đeo tay cùng mua với chồng hồi trước đến tiệm cầm đồ Kirihara vào khoảng năm giờ rưỡi chiều. Người phụ nữ nói, tuy tiệm cầm đồ vẫn đang làm việc, nhưng cửa lại khóa. Bà ta ấn chuông mấy lượt mà không ai trả lời. Cuối cùng, bà ta đành phải rời đi, ra chợ gần đấy mua thức ăn cho bữa tối, sau đó trên đường về nhà mới ghé qua lần nữa. Bấy giờ khoảng sáu giờ rưỡi, nhưng cửa vẫn khóa. Bà ta không ấn chuông mà về nhà ba ngày sau, đem cầm cặp đồng hồ ở một tiệm khác. Bà ta không đọc báo, mãi đến khi có nhân viên điều tra đến hỏi, mới biết chuyện Kirihara Yosuke bị giết. Những thông tin này đương nhiên khiến tổ chuyên án chuyển hướng nghi ngờ sang Kirihara Yaeko và Matsuura Isamu. Bọn họ từng khai rằng hôm ấy cửa tiệm mở đến bảy giờ tối.
Vậy là, Sasagaki, Koga và hai viên cảnh sát nữa lại đến tiệm cầm đồ Kirihara.
Matsuura đang trông tiệm trợn tròn hai mắt, “Xin hỏi rốt cuộc có chuyện gì vậy?”
“Bà chủ của anh có nhà không thế?” Sasagaki hỏi.
“Có.”
“Phiền anh gọi bà ấy được không?”
Matsuura lộ vẻ kinh ngạc, kéo cánh cửa phía sau ra một chút, “Cảnh sát đến.”
Bên trong vẳng ra tiếng động, cửa mở rộng hơn, Yaeko mặc áo len màu trắng và quần bò bước ra. Chị ta chau mày nhìn mấy cảnh sát. “Có chuyện gì vậy?”
“Có thể xin chị một chút thời gian không ạ? Chúng tôi có chuyện muốn hỏi.” Sasagaki nói.
“Được thôi... có chuyện gì vậy?”
“Bọn tôi muốn mời chị đi một lát.” Một viên cảnh sát đi cùng lên tiếng, “Ra quán cà phê đằng kia, không tốn nhiều thời gian đâu.”
Yaeko thoáng lộ vẻ khó chịu, nhưng vẫn trả lời “Được ạ”, sau đó đi dép xăng đan. Sasagaki trông thấy rõ chị ta lo lắng liếc nhìn Matsuura. Để Sasagaki và Koga ở lại, hai viên cảnh sát dẫn Yaeko đi. Họ vừa ra khỏi cửa, Sasagaki liền lại gần quầy, “Tôi cũng có chuyện muốn hỏi anh Matsuura một chút.”
“Chuyện gì vậy ạ?” Matsuura tuy vẫn nở nụ cười thân thiện, nhưng rõ ràng đã có phòng bị.
“Chuyện hôm xảy ra án mạng. Sau khi điều tra, chúng tôi phát hiện, có một số sự việc mâu thuẫn với lời khai của anh.” Sasagaki cố ý nói thật chậm.
“Mâu thuẫn?” Nụ cười của Matsuura như cứng lại. Sasagaki thuật lại lời khai của người phụ nữ sống ở Tatsumi, Matsuura chăm chú lắng nghe, nụ cười trên mặt hoàn toàn biến mất.
“Thế là thế nào? Anh nói tiệm mở đến bảy giờ, nhưng có người nói trong khoảng từ năm giờ rưỡi đến sáu giờ rưỡi, cửa tiệm lại khóa chặt. Nói thế nào thì việc này cũng rất kỳ lạ, không phải vậy sao?” Sasagaki nhìn thẳng vào mặt Matsuura.
Matsuura tránh ánh mắt của Sasagaki, nhìn lên trần nhà. “Ừm, lúc đó,” Matsuura khoanh hai tay trước ngực ậm ừ nói vậy rồi vỗ tay đánh “bốp”, “phải rồi! Đúng là lúc đó! Tôi nhớ ra rồi. Tôi đang ở trong kho.”
“Kho?”
“Kho bảo hiểm ở bên trong. Tôi nhớ là có nói với ông rồi, chúng tôi để những đồ giá trị mà khách gửi lại trong đó. Đợi các ông xem rồi biết ngay, đó là một nhà kho kiên cố có khóa. Tôi muốn xác nhận lại một số thứ, nên mới vào trong, ở trong kho nhiều khi cũng không nghe thấy tiếng chuông cửa.”
“Những lúc như thế đều không có ai trông tiệm à?”
“Bình thường thì có ông chủ, nhưng lúc đó thì chỉ có mỗi mình tôi nên mới khóa cửa lại.”
“Bà chủ và con trai thì sao?”
“Bọn họ đều ở trong phòng khách.”
“Nếu là thế, hai người họ nhất định phải nghe thấy tiếng chuông cửa chứ?”
“Ừm, việc này...” Matsuura ngập ngừng mở miệng, im lặng mấy giây rồi mới nói, “Có lẽ họ ở phòng trong xem ti vi, nên không nghe thấy.”
Sasagaki nhìn gương mặt có xương gò má nhô cao của Matsuura, rồi bảo Koga, “Cậu ấn chuông thử xem.”
“Vâng.” Koga đáp và đi ra cửa. Tiếng chuông cửa lập tức vang lên trên đỉnh đầu, âm thanh có thể nói là “hơi chói tai”.
“Âm thanh cũng lớn lắm mà.” Sasagaki nói, “Tôi nghĩ, dù xem ti vi chăm chú đến mấy, cũng không thể nào không nghe thấy được.”
Matsuura nhăn mặt, nhưng vẫn rặn ra một nụ cười gượng gạo, “Bà chủ xưa nay không để ý đến chuyện cửa tiệm. Khách đến, có khi bà ấy còn chẳng chào hỏi tử tế, Ryoji cũng chưa bao giờ trông tiệm. Có lẽ họ cũng nghe thấy tiếng chuông, nhưng cứ để mặc đó.”
“Ừm, cứ để mặc à?”
Cả người phụ nữ tên Yaeko hay cậu bé tên Ryoji, đích thực đều không giống mẫu người chịu giúp đỡ chuyện kinh doanh trong tiệm cầm đồ.
“Xin hỏi, có phải các ông đang nghi ngờ tôi không? Hình như các ông đang có ý ám chỉ tôi đã giết ông chủ.”
“Không có, không có.” Sasagaki xua tay, “Chỉ là một khi phát hiện có mâu thuẫn, thì dù chuyện nhỏ bằng hạt vừng cũng phải điều tra rõ ràng, đây là yêu cầu cơ bản để phá án. Nếu các vị hiểu được điểm này, thì chúng tôi dễ làm việc lắm.”
“Vậy ạ? Dù sao, cảnh sát các vị có nghi ngờ gì thì tôi cũng chẳng sợ.” Matsuura để lộ hàm răng hơi ngả vàng, nói móc.
“Cũng không hẳn là nghi ngờ, có điều, tốt nhất vẫn phải có chứng cứ rõ ràng để chứng minh. Vậy là, trong khoảng từ sáu giờ đến bảy giờ, có gì chứng thực anh luôn ở trong tiệm hay không?”
“Sáu giờ đến bảy giờ... bà chủ và Ryoji đều có thể làm nhân chứng, như vậy không được ạ?”
“Nhân chứng, tốt nhất là những người hoàn toàn không liên quan đến sự việc này.”
“Nói như vậy, có khác nào bảo chúng tôi là đồng phạm!” Matsuura giận dữ trừng mắt lên.
“Cảnh sát cần phải nghĩ đến tất cả mọi khả năng có thể xảy ra.” Sasagaki điềm đạm trả lòi.
“Thật nực cười! Giết ông chủ đối với tôi có lợi gì chứ? Ông ấy tuy ở bên ngoài thì vung tiền như nước, nhưng thực chất có tài sản gì đâu.”
Sasagaki không trả lời, chỉ mỉm cười thầm nhủ, khiến cho tay Matsuura nhất thời tức giận lộ ra thêm chút thông tin cũng không phải là tệ. Nhưng Matsuura không nói gì thêm nữa.
“Sáu giờ đến bảy giờ? Nếu nghe điện thoại thì có tính không?”
“Điện thoại? Với ai?”
“Người ở nghiệp đoàn, thảo luận việc tụ họp tháng sau.”
“Là anh gọi điện đi à?”
“Ừm, không, là bọn họ gọi tới.”
“Khoảng mấy giờ vậy?”
“Lần đầu tiên là khoảng sáu giờ, khoảng ba mươi phút sau thì gọi lại lần nữa.”
“Gọi hai lần à?”
“Vâng.”
Sasagaki sắp xếp lại trục thời gian trong đầu. Nếu Matsuura nói thật thì trong khoảng sáu giờ đến sáu giờ rưỡi, anh ta có chứng cứ không có mặt ở hiện trường. Ông lấy đây làm tiền đề để suy xét khả năng Matsuura có phải hung thủ hay không. Rất khó, ông đưa ra kết luận.
Sasagaki lại hỏi họ tên và cách liên hệ với người ở nghiệp đoàn gọi điện đến, Matsuura lấy tập danh thiếp ra tìm kiếm. Đúng lúc ấy, cửa cầu thang mở ra. Trong khe cửa he hé xuất hiện gương mặt cậu bé. Phát hiện ra ánh mắt của Sasagaki, Ryoji tức thì đóng cửa lại, sau đó là tiếng bước chân chạy lên cầu thang.
“Cậu bé nhà Kirihara ở nhà à?”
“À? Vâng, cậu ấy vừa tan học về.”
“Tôi có thể lên đó một chút được không?” Sasagaki chỉ tay về phía cầu thang.
“Lên tầng hai?”
“Vâng.”
“Chuyện này... tôi nghĩ là không có vấn đề gì đâu.”
Sasagaki dặn dò Koga, “Cậu ghi lại địa chỉ liên hệ của người ở nghiệp đoàn, rồi nhờ anh Matsuura dẫn vào xem kho bảo hiểm.” Đoạn ông bắt đầu tháo giày.
Ông mở cửa, nhìn lên cầu thang, chỉ thấy tối tăm u ám, đầy mùi vôi ve, bề mặt cầu thang gỗ trải qua nhiều năm đã bị bít tất mài cho đen bóng. Sasagaki vịn tay vào tường, cẩn thận đi lên. Đến cuối cầu thang, có hai gian phòng đối diện nhau, cách một hành lang nhỏ hẹp, một bên là cửa kéo kiểu Nhật, một bên là cửa có ô kính vuông. Cuối hành lang cũng có một cánh cửa, nhưng có lẽ nếu không phải kho chứa đồ thì cũng là nhà vệ sinh.
“Ryoji, bác là cảnh sát, có thể hỏi cháu vài câu được không?” Sasagaki đứng ngoài hành lang cất tiếng hỏi.
Đợi một lúc mà không có tiếng trả lời. Đúng lúc Sasagaki hít một hơi, định hỏi lại lần nữa, thì nghe tiếng “cạch” sau cánh cửa kéo kiểu Nhật. Sasagaki kéo cửa ra. Ryoji đang ngồi trước bàn học nên chỉ nhìn thấy lưng cậu bé.
“Có thể làm phiền cháu một chút không?” Sasagaki bước vào phòng. Đây là một gian phòng kiểu Nhật rộng chừng mười mét vuông, có lẽ cửa sổ hướng về phía Tây Nam, ánh mặt trời tràn trề ùa vào qua cửa sổ.
“Cháu chẳng biết gì cả.” Ryoji vẫn xoay lưng lại với ông.
“Không sao, chuyện gì không biết thì cứ nói là không biết, bác chỉ tham khảo thôi. Bác ngồi đây được không?” Sasagaki chỉ vào cái nệm ngồi trên chiếu tatami.
Ryoji ngoảnh đầu lại nhìn một cái, rồi trả lời, “Mời bác ngồi.”
Sasagaki ngồi xếp bằng, ngẩng đầu nhìn cậu bé ngồi trên ghế. “Chuyện bố cháu... bác rất tiếc.”
Ryoji không trả lời, vẫn quay lưng lại với Sasagaki. Sasagaki đảo mắt quan sát căn phòng. Phòng ốc được dọn dẹp tương đối sạch sẽ. Đối với phòng của một học sinh cấp một, thậm chí còn khiến người ta có cảm giác hơi giản dị. Trong phòng không dán poster của Yamaguchi Momoe hoặc Sakurada Junko, cũng không trang trí tranh ảnh xe đua siêu cấp. Trên giá sách không có truyện tranh, chỉ có các sách phổ cập kiến thức khoa học cho nhi đồng như Bách khoa toàn thư, Cấu tạo xe hơi, Cấu tạo ti vi. Thứ thu hút sự chú ý của Sasagaki là khung ảnh treo trên tường, bên trong là một con thuyền buồm cắt từ giấy trắng, đến cả dây thừng cũng được thể hiện một cách rất khéo léo. Sasagaki nhớ là mình đã từng xem nghệ nhân cắt giấy biểu diễn trong buổi liên hoan, nhưng tác phẩm này tinh xảo hơn nhiều. “Cái này đẹp thật đấy! Cháu làm à?”
Ryoji liếc nhìn khung ảnh một cái, khe khẽ gật đầu.
“Ừm!” Sasagaki thật lòng thốt lên một tiếng kinh ngạc, “Cháu khéo tay quá, cái này mang đi bày bán cũng được ấy chứ.”
“Bác muốn hỏi gì cháu ạ?” Ryoji dường như không có tâm trạng nói chuyện gẫu với người đàn ông trung niên lạ mặt này.
“À, nhắc mới nhớ,” Sasagaki điều chỉnh lại tư thế ngồi, “hôm ấy cháu ở nhà đúng không nhỉ?”
“Hôm nào ạ?”
“Hôm bố cháu qua đời ấy.”
“À... vâng, cháu ở nhà.”
“Từ khoảng sáu giờ đến bảy giờ, cháu làm gì?”
“Sáu giờ đến bảy giờ?”
“Ừ, không nhớ nữa hả?”
Cậu bé nghiêng nghiêng đầu, sau đó trả lời, “Cháu ở dưới nhà xem ti vi.”
“Một mình cháu xem à?”
“Xem với mẹ cháu.”
“À.” Sasagaki gật gật đầu. Giọng cậu bé vẫn không có vẻ gì là sợ hãi.
“Bác xin lỗi, nhưng cháu có thể nhìn bác nói chuyện được không?”
Ryoji thở ra một hơi, chầm chậm xoay ghế lại. Sasagaki nghĩ, ánh mắt cậu bé hẳn phải đầy sự phản kháng. Thế nhưng, trong ánh mắt cúi nhìn người cảnh sát của cậu lại không hề có vẻ ý. Ánh mắt cậu thậm chí còn có thể nói là “trống rỗng”, giống như một nhà khoa học đang tiến hành quan sát mẫu vật của mình vậy. Sasagaki thầm nghĩ, cậu bé đang quan sát mình sao?
“Cháu xem đến mấy giờ?”
“Khoảng bảy giờ rưỡi.”
“Sau đó thì sao?”
“Ăn cơm tối với mẹ cháu ạ.”
“Thế à. Bố cháu không về, hai mẹ con hẳn phải lo lắng lắm nhỉ.”
“Ừm...” Ryoji khe khẽ trả lời, sau đó lại thở dài một tiếng nhìn ra cửa sổ. Bị ảnh hưởng từ cậu bé, Sasagaki cũng đưa mắt nhìn theo, bầu trời hoàng hôn đỏ rực.
“Bác làm mất thời gian của cháu rồi. Học hành chăm chỉ nhé.” Sasagaki đứng dậy, vỗ vỗ lên vai cậu bé.
Sasagaki và Koga trở lại tổ chuyên án, đối chiếu lại lời khai với hai viên cảnh sát hỏi Yaeko, không phát hiện ra mâu thuẫn gì lớn giữa lời kể của Matsuura và Yaeko cả. Giống như Matsuura, Yaeko cũng nói lúc người phụ nữ kia đến, chị ta đang xem ti vi với Ryoji ở phòng trong. Chị ta nói, có lẽ nghe thấy tiếng chuông cửa, nhưng không nhớ lắm, tiếp khách không phải việc của chị ta, nên cũng không để tâm. Yaeko còn bảo, chị ta không biết lúc mình đang xem ti vi thì Matsuura làm gì. Ngoài ra nội dung chương trình ti vi mà Yaeko kể lại đại để cũng tương đồng với Ryoji. Nếu chỉ có Yaeko và Matsuura, muốn thông đồng lời khai từ trước không phải việc khó. Nhưng cả Ryoji con trai nạn nhân cũng có mặt, thì lại là chuyện khác. Có lẽ bọn họ nói thật... Bầu không khí trong tổ chuyên án mỗi lúc một nặng nề.
Sự việc này nhanh chóng được xác minh. Cú điện thoại mà Matsuura nói đúng là được gọi đến vào khoảng sáu giờ và sáu giờ rưỡi ngày hôm đó. Cán sự nghiệp đoàn cầm đồ gọi điện tới đã chứng thực người nói chuyện với anh ta chính là Matsuura. Cuộc điều tra lại trở về điểm xuất phát. Cảnh sát tiếp tục thẩm vấn các khách hàng quen của tiệm cầm đồ Kirihara. Thời gian cứ trôi đi. Ở giải bóng chày chuyên nghiệp, đội Yomiuri Giants giành chức vô địch Central Leage lần thứ chín liên tiếp. Esaki Reona phát hiện ra hiệu ứng đường hầm lượng tử của chất bán dẫn giành được giải Nobel Vật lý. Đồng thời, bị ảnh hưởng từ chiến tranh Trung Đông, giá dầu ở Nhật Bản ngày một tăng cao. Bầu không khí trước cơn bão tố bao trùm cả nước Nhật.
Khi tổ chuyên án bắt đầu nôn nóng, thì chợt nhận được một manh mối mới. Manh mối này do viên cảnh sát phụ trách điều tra Nishimoto Fumiyo tìm ra.
6
Tiệm Kikuya có cánh cửa bằng gỗ bạch là một tiệm mì udon nhỏ, sạch sẽ. Ngoài cửa treo một tấm vải che màu xanh sẫm, biển hiệu được ghi bằng chữ trắng. Cửa tiệm làm ăn có vẻ rất tốt, mới sáng đã có khách, đến tận hơn một giờ chiều, khách vẫn cứ ra vào nườm nượp. Một giờ rưỡi, một chiếc xe chở hàng màu trắng dừng lại cách cửa tiệm một quãng xa. Trên thân xe sơn một hàng chữ đen lớn: Thương mại Ageha.
Người đàn ông ngồi sau vô lăng xuống xe. Anh ta mặc áo jacket xám, dáng người thấp đậm, thoạt trông khoảng chừng bốn mươi tuổi. Bên trong áo jacket là sơ mi trắng, đeo cà vạt. Anh ta đi thẳng vào tiệm Kikuya, vẻ vội vã.
“Tin tức quả không sai, đúng là xuất hiện vào khoảng một giờ rưỡi.” Sasagaki nhìn đồng hồ, thán phục nói. Ông đang ngồi trong quán cà phê đối diện với tiệm Kikuya, từ đây có thể quan sát tình hình bên ngoài qua cửa kính.
“Còn một thông tin bổ sung nữa, y đang ở trong đó ăn mì tempura.” Người vừa lên tiếng là viên cảnh sát hình sự Kanamura ngồi đối diện với Tengo. Anh mỉm cười, để lộ hàm răng bị thiếu một chiếc răng cửa.
“Mì tempura? Thật không đấy?”
“Tôi có thể cược với anh. Tôi đã cùng vào vài lần và tận mắt thấy mà. Terasaki lúc nào cũng gọi món mì tempura.”
“Hừm, y ăn chẳng biết chán là gì cả nhỉ.” Ánh mắt Sasagaki dịch chuyển trở lại phía tiệm Kikuya. Nhắc đến mì udon làm ông nhớ ra mình chưa ăn gì.
Tuy Nishimoto Fumiyo có chứng cứ ngoại phạm, nhưng nghi vấn đối với cô ta vẫn không được loại trừ hoàn toàn. Việc cô ta là người cuối cùng Kirihara Yosuke gặp lúc còn sống đã khiến tổ chuyên án không thể dứt bỏ nghi ngờ. Nếu cô ta liên quan đến án mạng của Kirihara thì điều đầu tiên họ nghĩ tới chính là cô ta hẳn phải có đồng phạm. Phải chăng bà quả phụ Fumiyo có tình nhân trẻ tuổi... cảnh sát đã dựa trên suy luận này để làm xuất phát điểm điều tra, cuối cùng phát hiện ra Terasaki Tadao.
Terasaki chuyên bán buôn đồ trang điểm, mỹ phẩm, nước gội đầu và thuốc tẩy rửa. Anh ta không chỉ giao buôn cho các tiệm bán lẻ, mà còn nhận đơn đặt hàng trực tiếp của khách rồi tự mình đưa hàng tới. Tuy có công ty tên là “Thương mại Ageha”, nhưng ngoài anh ta ra thì không còn nhân viên nào khác. Cảnh sát để ý đến Terasaki, là bởi họ nghe ngóng được một số tin đồn ở khu nhà Yoshida nơi Nishimoto Fumiyo ở. Một bà nội trợ gần đó đã mấy lần trông thấy một người đàn ông lái xe chở hàng màu trắng vào nhà của Nishimoto. Chị ta nói trên xe chở hàng dường như có đề tên công ty, chỉ là chị ta cũng không nhìn rõ lắm. Cảnh sát tiếp tục theo dõi xung quanh khu nhà Yoshida, nhưng chiếc xe chở hàng được nhắc đến ấy mãi vẫn không xuất hiện, về sau, mới phát hiện ra chiếc xe khả nghi đó ở nơi khác. Một người đàn ông ngày nào cũng đến ăn trưa ở tiệm mì Kikuya nơi Fumiyo làm việc đi trên chiếc xe chở hàng màu trắng. Từ tên công ty Thương mại Ageha trên thân xe, lập tức có thể điều tra ra thân phận của người đàn ông ấy.
“Ồ, ra rồi.” Koga nói. Họ nhìn thấy Terasaki bước ra khỏi Kikuya, nhưng không trở lại xe ngay, mà nán lại trước cửa tiệm. Điều này cũng giống với những gì được ghi trong báo cáo của nhóm Kanamura.
Không lâu sau, Fumiyo đeo tạp dề trắng từ trong tiệm bước ra. Hai người nói với nhau vài câu rồi Fumiyo trở vào trong tiệm, Terasaki đi về phía ô tô, cả hai đều không có vẻ gì e ngại ánh mắt của những người khác.
“Ừm, đi thôi.” Sasagaki dụi điếu thuốc Peace vào gạt tàn, nhổm người đứng dậy.
Terasaki vừa mở cửa xe, Koga bèn cất tiếng gọi. Terasaki ngạc nhiên trợn tròn hai mắt, kế đó lại trông thấy Sasagaki và Kanamura, nét mặt anh ta liền cứng đờ. Khi cảnh sát nói muốn hỏi vài vấn đề, Terasaki tỏ ra tương đối hợp tác. Họ hỏi anh ta xem có muốn tìm cửa tiệm nào đó ngồi không, nhưng Tarasaki nói ngồi trong xe luôn cũng được. Vậy là, bốn người bèn chui vào chiếc xe hàng nhỏ. Terasaki ngồi trên ghế lái, ghế phụ là Sasagaki, Koga và Kanamura ngồi ghế sau. Trước tiên Sasagaki hỏi anh ta có biết vụ án ông chủ tiệm cầm đồ ở Oe bị sát hại hay không, Terasaki nhìn thẳng về phía trước, gật đầu “Tôi xem trên báo và ti vi rồi. Nhưng vụ án đó thì liên quan gì tới tôi chứ?”
“Nơi nạn nhân Kirihara xuất hiện lần cuối cùng là nhà của chị Nishimoto. Tất nhiên là anh quen chị Nishimoto đúng không?”
Có thể thấy rõ Terasaki đang nuốt nước bọt. Anh ta đang nghĩ xem phải trả lời như thế nào.
“Chị Nishimoto... ý anh là, người phụ nữ làm việc trong tiệm mì udon đó hả? Đúng, có thể coi như tôi quen biết chị ấy.”
“Chúng tôi cho rằng, chị Nishimoto có thể liên quan đến vụ án này.”
“Chị Nishimoto? Sao có thể được chứ?” Terasaki nhếch miệng cười.
“Chà, có vấn đề gì sao?”
“Dĩ nhiên, chị ấy làm sao lại liên quan đến một vụ án mạng như thế được.”
“Hai người chỉ coi như có quen biết, mà anh lại bênh chị ta nhỉ!”
“Tôi đâu có bênh gì chứ.”
“Có người thường thấy một chiếc xe chở hàng màu trắng ở gần khu chung cư Yoshida, còn nói người lái xe thường xuyên ra vào nhà chị Nishimoto. Anh Terasaki, có phải đó là anh không?”
Câu hỏi của Sasagaki rõ ràng đã khiến Terasaki hết sức bối rối. Anh ta liếm liếm môi, nói, “Tôi tìm chị ấy vì công việc thôi.”
“Công việc?”
“Tôi giao các thứ chị ấy mua tới, mấy thứ kiểu như đồ trang điểm và thuốc tẩy rửa, có vậy thôi.”
“Anh Terasaki, đừng nói dối nữa. Chuyện này chỉ cần điều tra một chút là biết ngay. Người nhìn thấy nói, anh đến chỗ chị Nishimoto khá thường xuyên, không phải vậy sao? Đồ trang điểm và thuốc tẩy rửa cần phải đưa thường xuyên như thế à?” Terasaki khoanh tay, mắt nhắm lại. Chắc đang suy nghĩ xem nên trả lời thế nào.
“Anh Terasaki này, giờ mà anh nói dối, thì sẽ phải nói dối mãi. Chúng tôi sẽ tiếp tục giám sát anh chặt chẽ, chờ cho đến khi nào anh gặp chị Nishimoto. Như vậy anh sẽ xử lý thế nào? Anh định cả đời này không gặp chị ấy nữa sao? Anh làm được không? Phiền anh nói thực cho chúng tôi biết, quan hệ giữa anh và chị Nishimoto có gì đặc biệt?”
Terasaki vẫn trầm ngâm một lúc lâu. Sasagaki không nói gì, chỉ lặng lẽ quan sát phản ứng của đối phương.
Cuối cùng, Terasaki thở hắt ra một hơi, mở mắt, “Tôi nghĩ như vậy cũng không có vấn đề gì. Tôi độc thân, còn chồng cô ấy cũng chết rồi.”
“Có thể hiểu đó là quan hệ nam nữ không?”
“Chúng tôi qua lại một cách nghiêm túc.” Giọng Terasaki hơi rít lên.
“Bắt đầu từ khi nào?”
“Cả điều đó cũng phải nói à?”
“Xin lỗi, để làm tư liệu tham khảo thôi.” Sasagaki nở một nụ cười điềm đạm.
“Khoảng nửa năm trước.” Terasaki đanh mặt lại trả lời.
“Vì duyên cớ gì mà bắt đầu quan hệ?”
“Chẳng có gì đặc biệt cả. Thường gặp nhau trong cửa tiệm, rồi thân.”
“Chị Nishimoto kể những gì về ông Kirihara với anh?”
“Chỉ nói, đó là ông chủ tiệm cầm đồ cô ấy hay tới.”
“Chị Nishimoto có nhắc đến việc ông ấy thỉnh thoảng đến nhà mình không?”
“Cô ấy nói, ông ta có đến vài lần.”
“Nghe chị ấy nói thế, anh thấy thế nào?”
Câu hỏi của Sasagaki khiến Terasaki nhíu mày lại tỏ vẻ không vui, “Ý anh là sao?”
“Anh không cho rằng ông Kirihara có ý đồ gì khác sao?”
“Nghĩ mấy chuyện ấy thì ích gì? Fumiyo chẳng bao giờ để ý đến ông ta cả.”
“Nhưng chị Nishimoto hình như đã nhận khá nhiều sự chiếu cố của ông Kirihara, nói không chừng cũng nhận cả trợ giúp về mặt tiền bạc nữa. Như vậy, nếu đối phương bức bách quá, chẳng phải là rất khó từ chối sao?”
“Chuyện này tôi chưa bao giờ nghe nói tới. Xin hỏi, rốt cuộc ông muốn nói gì vậy?”
“Chúng tôi chỉ suy luận theo lẽ thường thôi, một người đàn ông thường xuyên ra vào nhà người phụ nữ anh có qua lại, người phụ nữ đó vì thường xuyên nhận được ưu đãi đặc biệt từ ông ta, nên cũng không thể tiếp đón qua loa có lệ. Về sau, người đàn ông ấy lại được đằng chân lân đằng đầu cứ liên tục dồn ép, là bạn trai người phụ nữ đó, nếu biết chuyện này, hẳn sẽ rất tức giận...”
“Ông muốn nói là vì vậy mà tôi nổi xung lên giết ông ta, phải không? Xin ông đừng nói linh tinh nữa, tôi đâu có ngu đến mức đó.” Terasaki cao giọng, làm chấn động cả không gian chật hẹp bên trong chiếc xe chở hàng nhỏ.
“Đây thuần túy chỉ là suy đoán, tôi rất xin lỗi nếu như khiến anh khó chịu. Vậy, khoảng sáu đến bảy giờ tối ngày thứ Sáu, 12 tháng này, anh đang ở đâu?”
“Điều tra chứng cứ ngoại phạm à?” Terasaki nhướng mắt. “Đúng vậy.” Sasagaki cười cười với anh ta. Vì dạo này phim hình sự rất thịnh hành, cụm từ “chứng cứ ngoại phạm” đã trở nên rất thông dụng.
Terasaki lấy một cuốn sổ nhỏ, mở phần lịch ngày ra. “Chiều tối ngày 12 tôi ở Toyonaka, đi đưa hàng cho khách.”
“Khoảng mấy giờ?”
“Tôi nghĩ, đến đó là khoảng sáu giờ.”
Nếu đây là sự thật, vậy thì anh ta có chứng cứ ngoại phạm. Chuyến này lại hụt nữa rồi, Sasagaki nghĩ. “Anh giao hàng cho khách chưa?”
“Chưa, hôm ấy bị lỡ hẹn với khách. Khách không có nhà, tôi kẹp danh thiếp ở cửa rồi trở về.”
“Khách không biết anh sẽ đến à?”
“Tôi có liên lạc rồi. Trước đó, tôi có nói qua điện thoại là ngày 12 sẽ tới, nhưng có vẻ tôi nói không rõ làm người ta không hiểu.”
“Nói như vậy, anh không gặp ai ở đó mà đã trở về luôn, phải không?”
“Đúng thế, nhưng tôi đã để lại danh thiếp.”
Sasagaki gật đầu thầm nghĩ, chuyện đó làm lúc nào chẳng được.
Sau khi hỏi Terasaki địa chỉ và số điện thoại của người khách kia, Sasagaki quyết định thả cho anh ta đi.
Về tổ chuyên án báo cáo xong, như thường lệ, Nakatsuka lại hỏi quan điểm của Sasagaki.
“Năm mươi năm mươi.” Sasagaki thành thực trả lời, “không có chứng cứ ngoại phạm, lại có động cơ gây án. Nếu cùng Nishimoto Fumiyo bắt tay gây án, hẳn có thể tiến hành một cách thuận lợi. Chỉ có một điểm tương đối kỳ lạ, nếu bọn họ đúng là hung thủ, vậy thì hành động tiếp sau đấy của hai người này hình như hơi quá khinh suất thì phải. Nhưng Terasaki lại vẫn như trước, cứ đến trưa là tới tiệm Fumiyo làm việc ăn mì udon. Điểm này thì tôi nghĩ không thông được.”
Nakatsu lặng im lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Cặp môi khép chặt trễ xuống ở hai đầu, chứng minh ông cũng có chung ý kiến.
Cảnh sát tiến hành điều tra triệt để đối với Terasaki. Anh ta sống một mình trong căn hộ thuê ở quận Hiremo, từng kết hôn, năm năm trước đã thỏa thuận ly hôn. Đánh giá của khách hàng đối với anh ta rất tốt, làm việc nhanh nhẹn, yêu cầu khó khăn thế nào cũng đáp ứng được, giá cả lại rất thấp. Đối với các chủ cửa hàng bán lẻ, anh ta là nhà cung cấp lý tưởng. Đương nhiên, cũng không thể vì vậy mà nhận định anh ta không có khả năng gây án mạng. Ngoài ra việc làm ăn của anh ta chỉ có thể coi là gắng gượng chèo chống, véo chỗ này bù chỗ kia, lại càng khiến cảnh sát chú ý hơn.
“Tôi nghĩ anh ta có ý định giết Kirihara vì ông này cứ bám riết lấy Fumiyo, nhưng cũng có thể anh ta mờ mắt trước số tiền một triệu yên Kirihara mang theo.” Viên cảnh sát điều tra tình hình kinh doanh của Terasaki phân tích như vậy trong cuộc họp, đại đa số thành viên tổ chuyên án cũng đồng tình.
Đã xác nhận xong việc Terasaki không có bằng chứng ngoại phạm. Điều tra viên đã đến căn nhà mà anh ta nói là để lại danh thiếp, tìm hiểu được chủ nhà hôm đó đi thăm họ hàng ở xa, mãi đến mười một giờ đêm mới về. Trên cửa đúng là có gài một tấm danh thiếp của Terasaki, nhưng như vậy chưa đủ để đoán định anh ta đến đây vào thời điểm nào. Ngoài ra đối với câu hỏi Terasaki có hẹn trước vào ngày 12 hay không, bà chủ nhà đó trả lời, “Anh ta nói sẽ đến vào một ngày nào đó trong khoảng thời gian này, nhưng tôi không nhớ là có hẹn vào ngày 12.” Thậm chí chị ta còn thêm một câu, “Tôi nhớ trong điện thoại có nói với anh Terasaki, ngày 12 tôi không rảnh.”
Lời khai này có ý nghĩa rất lớn. Nghĩa là, có thể cho rằng Terasaki biết rõ khách hàng này không có nhà, nhưng sau khi gây án vẫn đến nhà chị ta để lại danh thiếp, ý đồ ngụy tạo bằng chứng ngoại phạm.
Sự nghi ngờ của các điều tra viên đối với Terasaki, có thể nói đã ở mức báo động.
Thế nhưng, không có vật chứng nào hết. Trong các sợi lông, tóc thu thập được ở hiện trường, không có sợi nào giống với của Terasaki, cả dấu vân tay cũng vậy. Không có lời chứng nào là đã nhìn thấy anh ta. Giả dụ Nishimoto Fumiyo và Terasaki là đồng phạm, hai người hẳn phải có liên lạc với nhau, nhưng cảnh sát cũng không phát hiện được dấu vết gì của việc này. Một vài cảnh sát giàu kinh nghiệm chủ trương bắt giam trước rồi tiến hành thẩm vấn triệt để, có lẽ hung thủ sẽ cung khai. Nhưng trong tình huống hiện nay, cảnh sát thực sự không thể xin được lệnh bắt.
7
Một tháng trôi qua mà không có tiến triển gì. Các thành viên tổ chuyên án sau nhiều ngày ngủ lại cơ quan dần dần trở về nhà, Sasagaki cũng ngâm mình trong chiếc bồn tắm lớn đã lâu không sử dụng của nhà mình. Ông và vợ sống trong khu căn hộ trước cửa ga Kintetsu Yao. Katsuko, vợ ông lớn hơn ông ba tuổi. Hai người không có con.
Sáng sớm hôm sau, Sasagaki đang ngủ trong chăn thì bị tiếng ồn làm thức giấc. Katsuko đang thay quần áo, kim đồng hồ vừa chỉ bảy giờ. “Sớm vậy, mình làm gì thế? Định đi đâu à?” Sasagaki nằm trong chăn hỏi.
“À! Xin lỗi, đánh thức mình rồi. Em ra siêu thị mua đồ.”
“Mua đồ? Sớm thế à?”
“Không đi sớm xếp hàng, không khéo lại không kịp mất.”
“Không kịp? Mình mua gì thế?”
“Còn phải hỏi à? Dĩ nhiên là mua giấy vệ sinh rồi.”
“Giấy vệ sinh?”
“Hôm qua em cũng đi rồi. Quy định là mỗi người chỉ được mua một bịch, thực ra em cũng muốn gọi mình cùng đi đấy.”
“Mua nhiều giấy vệ sinh thế làm gì?”
“Không có thời gian giải thích với mình nữa, em đi trước đây.” Katsuko khoác chiếc áo len lông cừu cài khuy lên rồi cầm ví tiền vội vội vàng vàng đi ra cửa. Sasagaki chẳng hiểu gì cả. Dạo gần đây trong đầu ông chỉ nghĩ chuyện điều tra phá án, gần như không quan tâm trên thế giới đang xảy ra chuyện gì. Ông có nghe là dầu mỏ bị thiếu, nhưng không hiểu tại sao phải đi mua giấy vệ sinh, lại còn vừa sáng sớm đã đi xếp hàng nữa.
Đợi Katsuko về phải hỏi kỹ mới được, ông thầm nhủ trong lòng rồi nhắm mắt lại. Chỉ một chốc sau, chuông điện thoại reo lên. Ông lật người trong chăn, vươn tay với lấy chiếc điện thoại màu đen để ở cuối giường. Đầu hơi nhức, hai mắt vẫn chưa mở ra được.
“A lô, Sasagaki nghe.”
Hơn mười giây sau, ông bật dậy khỏi đống chăn, cơn buồn ngủ đã hoàn toàn tan biến.
Cú điện thoại đó thông báo cái chết của Terasaki Tadao. Chết trên đường cao tốc Osaka Kobe. Vòng cua không đủ rộng, húc vào dải phân cách, một trường hợp điển hình của việc ngủ gật khi lái xe. Lúc đó trên xe chở hàng của anh ta có một lượng lớn xà phòng và thuốc tẩy rửa. Sau này Sasagaki mới biết, sau giấy vệ sinh, dân chúng bắt đầu tranh nhau mua tích trữ các mặt hàng này, vị khách hàng muốn nhập thêm, Terasaki đã không ngủ nghỉ gì, đi khắp nơi thu xếp kiếm mối hàng.
Sasagaki và mấy người nữa đến nơi ở của Terasaki lục soát, định tìm vật chứng liên quan đến vụ sát hại Kirihara Yosuke, nhưng không thể phủ nhận, đó là một hành động uổng công phí sức. Dù có phát hiện gì chăng nữa, thì hung thủ cũng không còn trên thế gian này. Không lâu sau đó, một cảnh sát phát hiện ra vật chứng quan trọng bên trong thùng xe chở hàng, chiếc bật lửa Dunhill, hình chữ nhật, góc cạnh rõ ràng. Mọi thành viên tổ chuyên án đều nhớ rõ, Kirihara Yosuke cũng bị mất một cái y hệt thế. Thế nhưng, trên chiếc bật lửa này không phát hiện ra vân tay của Kirihara Yosuke. Nói chính xác hơn, trên đó không có vân tay của bất cứ người nào... như thể đã được lau bằng vải hay thứ gì đó tương tự.
Cảnh sát cho Kirihara Yaeko xem chiếc bật lửa, nhưng chị ta chỉ hoang mang lắc đầu nói, giống thì giống thật đấy, song không thể khẳng định có phải là vật của chồng mình hay không. Phía cảnh sát lòng như lửa đốt, lại gọi Nishimoto Fumiyo thẩm vấn, tìm đủ mọi cách khiến cô ta thừa nhận. Viên cảnh sát phụ trách thẩm vấn thậm chí còn ngấm ngầm ám chỉ đã xác nhận chiếc bật lửa đó đích thực là của Kirihara.
“Dù suy luận thế nào, thì Terasaki có thứ này cũng là một điều hết sức kỳ lạ. Không phải cô lấy trên người nạn nhân đưa cho anh ta, thì là Terasaki tự lấy, chỉ có hai khả năng này thôi. Rốt cuộc là thế nào? Cô nói đi!” Viên cảnh sát phụ trách thẩm vấn đưa bật lửa cho Nishimoto Fumiyo xem, ép cô ta phải khai nhận.
Nhưng Nishimoto vẫn một mực phủ nhận, thái độ không chút dao động. Cái chết của Terasaki có lẽ khiến cô ta khá sốc nhưng từ thái độ của cô ta, không hề nhận ra vẻ ngập ngừng do dự.
Nhất định có nhầm lẫn ở đâu đó, chúng ta đã đi vào một con đường hoàn toàn sai lầm... Sasagaki ở bên cạnh quan sát toàn bộ quá trình thẩm vấn, tự nhủ.
8
Vừa đọc bản tin thể thao, Tagawa Toshio vừa nhớ lại trận đấu tối qua, tâm trạng khó chịu lại một lần nữa cuộn trào. Đội Yomiuri Giants thua rồi thì thôi, vấn đề là quá trình trận đấu ấy. Vào thời điểm quan trọng nhất, Nagashima lại không đánh được. Tay đánh bóng số 4 xưa nay vẫn là trụ cột chống đỡ cho đội Giants luôn giành phần thắng, trong suốt trận đấu hôm qua đã thể hiện hết sức nửa vời, khiến đám đông khán giả sốt hết cả ruột. Vào thời điểm cần thiết nhất; anh ấy nhất định sẽ không phụ lòng khán giả, đó mới là Nagashima Shigeo! Dù cú đánh có bị tiếp sát thì cũng phải đánh một cú khiến các fan thỏa lòng, đó mới là bản lĩnh đàn ông của người được gọi là Mr. Giant chứ!
Nhưng mùa bóng này lại rất bất thường. Không, hai ba năm trước đã xuất hiện dấu hiệu rồi, nhưng Tagawa không muốn chấp nhận sự thực tàn khốc ấy, mới cố ý lờ đi đến tận bây giờ. Anh luôn tự nói với mình, chuyện này không thể xảy ra với Mr. Giants được. Thế nhưng, nhìn vào sự thực trước mắt, dù là một fan trung thành của Nagashima từ thuở thiếu thời, Tagawa vẫn buộc phải thừa nhận, bất cứ ai đến một ngày nào đó cũng phải già đi, dẫu tuyển thủ tài năng nổi tiếng đến mấy, cũng phải có ngày rời xa sân bóng. Nhìn bức ảnh Nagashima nhíu chặt lông mày sau khi bị “strike out”, Tagawa thầm nghĩ, có lẽ là năm nay rồi. Tuy mùa bóng mới bắt đầu, nhưng cứ đà này, chưa đến mùa hè, mọi người chắc sẽ bắt đầu xôn xao bàn tán chuyện Nagashima giải nghệ. Tagawa có một dự cảm chẳng lành, nếu đội Giants không thể đoạt chức vô địch, việc này rất có khả năng, năm nay muốn giành chức vô địch thực sự quá khó. Tuy năm ngoái, đội Giants đã đạt kỷ lục vô địch chín lần liên tiếp với khí thế áp đảo, nhưng ai ai cũng thấy rõ như ban ngày, cả đội bóng đã bắt đầu mệt mỏi, Nagashima chính là minh chứng cho điều đó. Lướt mắt xem qua bài báo nói về trận thắng của đội Chumchi Dragons xong, Tagawa gập báo lại. Anh ngước nhìn đồng hồ trên tường, đã bốn giờ hơn. Hôm nay chắc không có khách nữa rồi, anh tự nhủ. Trước ngày phát lương, hiếm có người nào đến trả tiền thuê phòng.
Đang há miệng ngáp vặt, anh chợt trông thấy phía sau cánh cửa kính dán thông báo thấp thoáng bóng người. Nhìn cái chân lộ ra là biết không phải người lớn. Chiếc bóng ấy đi giày thể thao. Tagawa nghĩ, chắc là đứa học sinh cấp I nào đấy tan học về đứng lại đọc thông báo giết thời gian. Nhưng mấy giây sau, cánh cửa kính mở ra. Một cô bé mặc áo sơ mi, bên ngoài khoác áo len cài khuy e dè bước vào. Đôi mắt tròn to khiến người ta liên tưởng đến một giống mèo quý gây cho Tagawa ấn tượng sâu sắc. Có vẻ cô bé là học sinh cuối cấp I.
“Có chuyện gì vậy?” Tagawa hỏi, chính anh cũng cảm thấy giọng mình rất dịu dàng. Nếu người đẩy cửa bước vào là đám nhãi bẩn thỉu mắt la mày lét ở gần đấy, giọng anh ta chắc hẳn sẽ rất lạnh lùng hờ hững, không thể so với lúc này được.
“Chào chú ạ, cháu họ Nishimoto.”
“Nishimoto? Nishimoto nào nhỉ?”
“Nishimoto ở khu nhà Yoshida ấy ạ.”
Giọng cô bé rành rọt. Tagawa nghe rất lạ tai. Lũ trẻ con mà anh quen biết toàn những đứa cứ mở mồm ra là biết ngay rặt một lũ xấc xược con nhà thiếu giáo dục.
“Khu nhà Yoshida... à?” Tagawa gật gật đầu, rút ra tập hồ sơ ở giá sách bên cạnh. Khu nhà Yoshida có tám hộ gia đình, nhà Nishimoto thuê phòng 103 nằm ở chính giữa tầng một. Tagawa xác nhận nhà Nishimoto đã hai tháng chưa trả tiền nhà, cần phải gọi điện giục rồi. “Vậy là,” ánh mắt anh trở lại với cô bé “cháu là con gái của chị Nishimoto?”
“Vâng ạ.” Cô bé gật đầu.
Tagawa xem lại bản đăng ký thuê nhà, chủ hộ là Nishimoto Fumiyo sống chung với con gái tên Yukiho. Khi họ mới chuyển đến mười năm trước, còn có người chồng, nhưng không lâu sau đó thì anh ta qua đời.
“Cháu đến trả tiền thuê phòng à?” Tagawa hỏi.
Nishimoto Yukiho cụp mắt xuống, lắc lắc đầu. Tagawa thầm nghĩ, biết ngay mà. “Vậy cháu có việc gì?”
“Cháu muốn nhờ chú mở cửa.”
“Mở cửa?”
“Cháu không có chìa khóa nên không vào nhà được, cháu không mang chìa khóa.”
“À.” Tagawa rốt cuộc cũng hiểu cô bé muốn nói gì, “Mẹ cháu khóa cửa ra ngoài rồi à?”
Yukiho gật đầu, nét mặt cô bé khi cúi đầu ngước mắt lên có một vẻ đẹp khiến người ta quên bẵng cô chỉ là học sinh cấp I, nhất thời, Tagawa cũng không khỏi rung động.
“Cháu không biết mẹ đi đâu à?”
“Không ạ. Mẹ cháu bảo hôm nay không đi đâu... nên cháu mới không mang chìa khóa theo.”
“Vậy sao?”
Tagawa nghĩ, tính sao nhỉ, rồi nhìn đồng hồ, lúc này mà đóng cửa thì sớm quá. Bố anh hôm qua đã đi thăm người họ hàng, đến tối mới về. Nhưng cũng không thể đưa chìa khóa dự phòng cho Yukiho được. Lúc sử dụng chìa khóa dự phòng, nhất định phải có mặt người của công ty bất động sản Tagawa tại đó, đây là một điều khoản trong hợp đồng giữa họ và người sở hữu khu nhà cho thuê ấy.
Đợi lát nữa mẹ cháu sẽ về thôi... nếu là bình thường anh sẽ nói thế, nhưng thấy nét mặt bất an của Yukiho đang nhìn chăm chăm vào mình, anh thật khó thốt ra những lời hờ hững như vậy.
“Được rồi, chú sẽ đi mở cửa hộ cháu. Đợi chú một lát.” Tagawa đứng dậy, bước lại gần két bảo hiểm để chùm chìa khóa dự phòng của các căn hộ cho thuê.
Từ văn phòng bất động sản Tagawa đến khu nhà Yoshida mất chừng mười phút đi bộ. Tagawa Toshio vừa nhìn phía sau thân hình nhỏ nhắn của Nishimoto Yukiho vừa bước đi trong con ngõ nhỏ được lát gạch một cách sơ sài. Yukiho không đeo cặp sách của học sinh cấp I, mà chỉ xách một cái túi bằng nhựa dẻo màu hồng. Mỗi khi chuyển động, trên người cô bé lại ra tiếng chuông đinh đinh đang đang. Tagawa lấy làm tò mò không biết đó là chuông gì, bèn để ý quan sát, nhưng nhìn bề ngoài không nhận ra được. Để ý cách ăn mặc của Yukiho, biết ngay cô bé không phải con nhà giàu có. Giày thể thao đã mòn vẹt, áo len xù lên, còn có mấy chỗ bị rút sợi, cả chiếc váy kẻ ca rô cũng khá sờn cũ. Mặc dù vậy, trên người cô bé này lại toát ra một vẻ quý phái mà trước đây Tagawa hiếm có cơ hội được tiếp xúc. Anh cảm thấy hết sức khó tin, tại sao lại như vậy chứ? Anh biết rõ mẹ của Yukiho. Nishimoto Fumiyo là một người đàn bà trầm tính, chẳng có gì nổi bật. Vả lại chị ta giống như những người sống ở cùng khu, trong mắt lúc nào cũng thấp thoáng vẻ thô lậu tầm thường. Tagawa ngạc nhiên vì Yukiho lại được thế này dù sống bên một người mẹ như vậy.
“Cháu học trường nào thế?” Tagawa hỏi vọng từ đằng sau.
“Trường cấp I Oe ạ.” Yukiho không dừng bước, hơi ngoảnh mặt lại trả lời.
“Oe? Chà...”
Tagawa thầm nghĩ, quả nhiên là vậy. Hầu hết trẻ con trong khu này đều học trường cấp I công lập Oe. Trường này mỗi năm đều có học sinh bị bắt vì tội trộm cắp, có mấy đứa chán cảnh nhà nên nửa đêm bỏ đi biệt tích. Buổi chiều đi qua đó, sẽ ngửi thấy mùi thức ăn thừa. Đến giờ tan học, sẽ có mấy tên không rõ lai lịch cưỡi xe đạp xuất hiện gạt tiền tiêu vặt của bọn trẻ. Chỉ có điều, trẻ con ở trường cấp I Oe không ngây thơ đến nỗi bị đám lừa đảo vớ vẩn ấy gạt gẫm. Nhìn Nishimoto Yukiho, Tagawa thực sự không cho rằng cô bé sẽ học ở loại trường như thế, nên mới mở miệng hỏi. Kỳ thực, chỉ cần nghĩ một chút, sẽ biết ngay với gia cảnh đó, cô bé không thể học trường tư được. Anh nghĩ, cô bé này ở trường hẳn là rất tách biệt với những đứa khác.
Đến khu nhà Yoshida, Tagawa đứng trứớc cửa phòng 103, gõ cửa mấy tiếng, rồi gọi “Chị Nishimoto”, nhưng không ai trả lời.
“Mẹ cháu hình như vẫn chưa về.” Anh nói với Yukiho.
Cô bé khẽ gật đầu, trên người lại vang lên tiếng chuông đinh đang. Tagawa cắm chìa dự phòng vào ổ khóa, vặn sang bên phải, tiếng ổ khóa vang lên lách cách. Đúng vào khoảnh khắc ấy, một cảm giác dị thường bùng nổ, dự cảm chẳng lành chợt lóe lên. Nhưng Tagawa vẫn tiếp tục vặn tay nắm mở cửa ra. Tagawa bước vào nhà, liền nhìn thấy một người đàn bà đang nằm trong phòng kiểu Nhật phía bên trong. Chị ta mặc áo len màu vàng nhạt và quần bò, nằm trên chiếu tatami, nhìn không rõ mặt mũi, nhưng chắc là Nishimoto Fumiyo.
Ồ thì ra chị ta ở nhà... vừa nghĩ đến đây, Tagawa bỗng ngửi thấy một mùi lạ.
“Hơi gas! Nguy hiểm!”
Anh vội đưa tay ra sau ngăn Yukiho đang định bước vào cửa, bịt chặt mũi miệng, rồi lập tức quay đầu sang nhìn kệ bếp bên cạnh. Trên bếp gas đặt một cái nồi, nút bếp được vặn mở, nhưng không thấy lửa. Tagawa nín thở vặn van gas tổng lại, mở cửa sổ phía trên kệ bếp, rồi đi vào phòng trong, vừa liếc nhìn Fumiyo đang nằm gục bên cạnh chiếc bàn thấp, vừa mở cửa sổ, sau đó thò đầu ra ngoài, há miệng hít thở mạnh, sâu trong óc vẫn cảm thấy tê tê. Anh ngoảnh đầu lại nhìn Fumiyo. Sắc mặt chị ta tím tái, làn da đã hoàn toàn không còn sinh khí. Không cứu được rồi... trực giác cho anh biết điều đó. Trong góc phòng có một chiếc điện thoại màu đen. Tagawa cầm ống nghe lên, bắt đầu quay số. Nhưng lúc này, anh lại do dự. Gọi 119 à? Không, tốt nhất vẫn cứ nên gọi 110 trước... đầu óc Tagawa hỗn loạn. Ngoài ông nội chết bệnh ra, anh chưa từng thấy cái xác nào khác. Sau khi quay số 11, anh do dự giây lát, rồi đưa ngón trỏ nhấn vào số 0. Đúng lúc ấy, có tiếng “Chết rồi ạ?” từ ngoài cửa vọng vào.
Nishimoto Yukiho đứng ở chỗ tháo giày. Cánh cửa mở ra, ánh sáng ngược khiến Tagawa không nhìn rõ được nét mặt cô bé.
“Mẹ cháu chết rồi ạ?” Cô bé lại hỏi thêm lần nữa, giọng nói đã pha lẫn tiếng khóc nghẹn ngào.
“Giờ vẫn chưa biết được.” Ngón tay Tagawa dịch từ số 0 sang số 9, dứt khoát quay số.
/13
|