*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Tôi tên là Khúc Tiểu Duẫn, là một cô nhi, từ lúc vẫn còn bọc tã lót thì tôi đã được sư phụ nhặt về nhà, cho tới nay đã được mười chín năm.
Sư phụ của tôi là một con sâu rượu, nhìn qua trông khùng khùng điên điên, thế nhưng lại rất có tài xem phong thủy và có tuyệt kỹ chọn huyệt đặt quan tài. Tại nơi đồng quê mười dặm tám thôn này chỉ cần là người có chút tiền, muốn tìm một nơi phong thủy tốt để đặt huyệt thì đều sẽ tìm đến ông, người ta gọi ông là Phùng đạo sĩ.
Lúc còn nhỏ sư phụ vốn định truyền lại tuyệt kỹ này cho tôi, thế nhưng tôi lại quá dốt nát, có làm thế nào cũng không thể nhớ nổi mấy cái thứ bát quái âm dương gì đó. Sau hai lần nỗ lực, sư phụ của tôi rốt cuộc cũng không bao giờ còn nhắc đến chuyện này nữa.
Ở cái nơi nhỏ bé này của chúng tôi, quanh đây người ở cũng không có nhiều lắm, tang sự tự nhiên cũng ít, mười ngày nửa tháng mới kiếm được một mối tàm tạm, bởi vậy tiền thu về cũng ít nốt, đã thế sư phụ tôi lại còn hay thích uống rượu, cứ kiếm được đồng nào là lập tức sẽ đi làm liền hai chai, thế thì bảo sao mà không có tiền dư dả. Mấy ngày nay cuộc sống cũng rất túng thiếu.
"Tiểu Duẫn, ăn ít tí đi, lớn tướng rồi mà sao lại cứ thích tranh ăn với ông già này vậy." Lão đạo sĩ điên (*) ôm lấy chai rượu tu một ngụm, sau đó lầu bầu cái miệng.
(*) Ở đây Tiểu Duẫn chơi chữ đồng âm.
冯 /féng/ họ Phùng.
疯 /fēng/: điên.
Tôi không thèm để ý đến ông ấy, cơm nước xong ông đây còn phải lên núi đốn củi, không ăn cơm thì lấy hơi sức đâu ra mà làm? Tôi ăn hết một bát, làm thêm một bát ngô với hạt phỉ, rồi lại bỏ thêm một miếng dưa muối vào trong mồm, cuối cùng chùi miệng một cái: "Sư phụ, con lên núi chẻ củi đây."
Lão đầu uống đến đỏ bừng cả mặt, mắt thì đỏ lòm, lúc nói còn chẳng thèm nâng mắt lên: "Đã mang theo phù đi chưa?"
Tôi sờ phù đeo ở trong ngực một cái, gật gật đầu: "Mang theo rồi."
"Ừm." Lão đầu "hừ" cái mũi một cái, sau đó liền ngủ luôn.
Lão đầu nói tôi trời sinh dương thể, dương khí tràn trề, từ bé đến lớn không bao giờ bị ốm đau gì cả. Đến mùa đông cả người đều nóng rực như một lò lửa. Còn nói lũ ma quỷ rất thích kiểu người trời sinh dương thể như tôi, lúc còn bé có không ít lần ông lấy chuyện này ra để hù dọa cho tôi sợ. Dù sao cho tới tận giờ tôi cũng chưa từng gặp qua ma quỷ bao giờ, cho nên ông đây căn bản cũng cóc sợ.
Tôi nhấc dao, đeo sọt lên lưng rồi bước ra ngoài cửa. Cửa nhà tôi không giống như cửa những nhà bình thường khác, nó có hai cánh. Một cánh là cửa gỗ, bình thường lúc đi ra ngoài đều là đi bằng cánh này. Một cánh là cửa đồng, từ trước đến giờ chưa bao giờ từng thấy cánh cửa này được mở ra, lão đầu nói, cửa này không dành cho người sống.
Tôi vẫn luôn không tin, cho đến khi được tận mắt nhìn thấy, bấy giờ tôi mới tin.
Hôm nay, sau khi chặt củi, ăn cơm tối xong xuôi, tôi rửa mặt rồi đi ngủ.
Đang ngủ say, bỗng nhiên bị một trận kèn xô-na ầm ĩ đánh thức. Tôi mơ mơ màng màng mở mắt ra, muốn nhìn một chút xem có chuyện gì xảy ra. Chợt thấy lão đầu không biết từ bao giờ đã từ trong phòng của mình chạy sang rồi đi tới bên cạnh tôi. Thấy tôi há hốc mồm định nói thì lập tức bịt kín miệng tôi lại: "Đừng có lên tiếng, ở yên trong này, không được đi ra!" Dứt lời, ông khoác áo bước ra ngoài.
Bị lão đầu dọa sợ, tôi tỉnh ngủ hẳn, vội vàng ghé vào cửa sổ để nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Tiếng kèn xô-na càng lúc càng lớn, tôi nghe kỹ lại, hình như đây là nhạc hỉ thì phải? Không biết là nhà ai mà lại đi đón dâu vào giữa buổi tối thế này? Đúng là điên!
Tiếng nhạc hỉ càng lúc càng gần, có vẻ như đã ở ngay ngoài cửa, sau đó thì im bặt.
Tôi cảm thấy hơi sợ, nhưng lại không áp chế được sự hiếu kỳ ở trong lòng, thế là bèn lén đi xuống giường, trốn ở sau cửa, cẩn thận ngó ra nhìn sư phụ đang đứng ở trước cửa viện.
Một lát sau thì nghe được một giọng nữ lanh lảnh truyền đến: "Xin hỏi, đây có phải là nhà của Phùng đạo trưởng hay không?"
Người phụ nữ kia nói chuyện rất từ tốn, thoạt nghe có vẻ lạnh lẽo, khiến cho người ta phải sợ hãi.
"Xin hỏi là người từ phương nào tới vậy?" Sư phụ cao giọng hỏi.
Chưa bao giờ tôi thấy lão đầu nói chuyện với ngữ khí mạnh đến thế.
"Thiếp thân là Trần Lưu Thị đến từ trấn Trần gia, hôm nay đặc biệt tới đây để gặp mặt Phùng đạo trưởng."
Trấn Trần gia? Cách chỗ này phải tới hơn mười dặm, sao người phụ nữ này lại chạy được tới đây thế này? Lẽ nào đây lại chính là tình nhân già của lão đầu?
(*) 1 dặm (tính theo Trung Quốc) = 500 m.
Đợi đến khi tôi hồi thần thì lại nghe thấy lão đầu lớn tiếng nói: "Trần phu nhân, ta đã không còn nhận mấy vụ làm ăn kiểu này từ lâu lắm rồi, giảm thọ lắm, bà đi tìm người khác đi."
"Phùng đạo trưởng, con của tôi đã ngoài ba mươi rồi mà vẫn chưa lấy được vợ, bơ vơ một mình. Thân là một người mẹ, làm sao mà tôi có thể nhẫn tâm được đây? Van cầu ngài, xin ngài rủ lòng thương, giúp cho con trai tôi một mối hôn sự."
Tôi đứng ở phía sau nghe trộm, thật không ngờ lão đầu này lại còn làm cả mai mối. Không lẽ cái nhà này thực sự đã đến bước đường cùng rồi ư, cho nên lão đầu mới phải mở nghề phụ? Lòng hiếu kỳ của tôi lại nổi lên, bèn thăm dò bước lên phía trước mấy bước, lặng lẽ tới gần đại môn, muốn nghe được rõ ràng hơn một chút.
Người phụ nữ ở bên kia vẫn đang đau khổ cầu xin lão đầu giúp cho con trai của mình tìm được một mối hôn sự, thế nhưng lão đầu ở bên này thì vẫn khăng khăng không đồng ý. Tôi thầm nghĩ, sư phụ cũng sắp cạn túi rồi, mà người ta thì cũng đã tìm tới tận cửa, thế mà người vẫn còn làm kiêu, chẳng lẽ lại đang muốn lừa thêm một chút tiền nữa?
Tôi thấy sư phụ trầm ngâm một lúc, bóp bóp ngón tay, sau đó thở dài một tiếng: "Thôi được rồi thôi được rồi, ta biết mệnh số của ta vẫn còn thiếu nợ một việc nữa, đi vào đi."
Nói xong lão đầu mở cánh cửa bằng đồng kia ra.
Tôi kinh ngạc trợn tròn hai mắt, lão đầu này chẳng lẽ lại uống say quá rồi? Sao lại đi mở cánh cửa kia ra chứ, tuy rằng tôi cũng chẳng tin vào chuyện cửa sống cửa chết, thế nhưng ngày nào cũng nghe thấy lão đầu nhắc đến chuyện này, cho nên từ lâu tôi đã cho rằng, cánh cửa này không thể được mở ra.
Tôi vội vàng nhảy ra: "Lão đầu, người mở sai cửa rồi!" Vừa dứt lời, cửa đồng đã mở ra, nghe được tiếng, lão đầu quay lại nhìn về phía tôi. Đây là lần đầu tiên tôi được trông thấy vẻ mặt đó của lão đầu, khiếp sợ, hối hận, thậm chí là còn có một chút vẻ sợ hãi.
Không chờ tôi hồi thần lại, lão đầu đã quay người muốn đóng cánh cửa đồng kia lại, thế nhưng đã quá muộn.
Một trận cuồng phong từ bên ngoài cửa đột nhiên vọt vào bên trong, thổi mạnh đến mức tôi suýt chút nữa thì không thể mở được mắt ra nổi. Lúc mở mắt nhìn lại, đứng ở cửa là một đội ngũ đón dâu mặc đồ đỏ chót. Dẫn đầu là hai tiểu cô nương mặc váy dài màu đỏ, dáng vẻ phấn điêu ngọc mài trông rất đẹp, trên đầu có hai cái búi tóc, trên môi tô màu son đỏ tươi. Một tay xách giỏ, tay còn lại vung hoa giấy màu đỏ từ trong giỏ ra ngoài, mỉm cười chậm rãi bước qua ngưỡng cửa. Hoa giấy màu đỏ bay đầy trời, rơi xuống mặt đất, sau đó biến thành tiền giấy màu vàng sáng rọi. Quần áo trên người cũng nhanh chóng bị biến hóa, biến thành một thân đồ tang. Tiếng nhạc hỉ bên tai lúc này cũng biến đổi thành nhạc tang nốt. Đội chơi nhạc đi theo phía sau bọn họ mặt mày cứng đờ, lại bắt đầu chơi nhạc cụ, chậm chạp tiến về phía trước, kéo theo tiếng kèn xô-na vang lên vào giữa đêm khuya, nghe mà sởn hết cả gai ốc, nổi hết cả da gà.
Đi cùng với tiếng nhạc tang rợn người là một chiếc kiệu nhỏ làm bằng vải bố mềm mại đang lắc lư tiến vào trong sân. Thân kiệu được làm bằng vải bố màu trắng, ở phía trên có treo kim tuyến, kiệu được bốn người nâng lên. Đi ở phía sau kiệu là tám người đàn ông mặc áo trắng, cũng đang khiêng một chiếc hòm lớn hình chữ nhật màu đen. Lúc tôi nhìn kỹ lại, suýt chút nữa thì đái cả ra quần, mẹ nó kia chẳng phải là một cỗ quan tài lớn màu đen đấy à?! Ở phía trên còn đặt một vòng hoa lớn màu trắng, tiền giấy từ hai bên rơi xuống quan tài, rồi lại chậm rãi trượt xuống dưới mặt đất.
Tiếng nhạc tang dừng lại, cả đám người im bặt. Kiệu mềm nhẹ nhàng hạ xuống, một vị phu nhân mặc chiếc váy dài màu đen theo kiểu cổ xưa bước ra khỏi kiệu. Chân vừa duỗi ra, tôi liền nhận ra được ngay chân bà ấy là kiểu chân bó. Vừa ngẩng mặt lên, tôi lại toát hết mồ hôi ra thêm một lần nữa. Sắc mặt của bà ấy trắng bệch như một tờ giấy, môi đỏ như được bôi máu, trong mắt không hề có đồng tử, hốc mắt trông cứ như hai viên thủy tinh màu đen đang cứng nhắc nhìn chằm chằm vào người ta.
Vị phu nhân kia thi lễ với sư phụ của tôi: "Phùng đạo trưởng, nghe nói trước kia ngài có làm mai mối cho âm phủ, nếu có thể giúp cho con trai của nhà chúng tôi tìm được một mối duyên tốt, thì toàn bộ Trần gia nhà chúng tôi sẽ vô cùng cảm kích."
Nghe xong, tôi sợ đến mức ngồi phịch mông xuống dưới đất, đây có phải là làm mai mối cho người đâu, đây là lấy vợ cho quỷ thì có!
-
1. Kèn xô-na
2. Hẳn là mọi người cũng biết về tục bó chân cho "đẹp" của phụ nữ TQ thời xưa rồi nhỉ
Tôi tên là Khúc Tiểu Duẫn, là một cô nhi, từ lúc vẫn còn bọc tã lót thì tôi đã được sư phụ nhặt về nhà, cho tới nay đã được mười chín năm.
Sư phụ của tôi là một con sâu rượu, nhìn qua trông khùng khùng điên điên, thế nhưng lại rất có tài xem phong thủy và có tuyệt kỹ chọn huyệt đặt quan tài. Tại nơi đồng quê mười dặm tám thôn này chỉ cần là người có chút tiền, muốn tìm một nơi phong thủy tốt để đặt huyệt thì đều sẽ tìm đến ông, người ta gọi ông là Phùng đạo sĩ.
Lúc còn nhỏ sư phụ vốn định truyền lại tuyệt kỹ này cho tôi, thế nhưng tôi lại quá dốt nát, có làm thế nào cũng không thể nhớ nổi mấy cái thứ bát quái âm dương gì đó. Sau hai lần nỗ lực, sư phụ của tôi rốt cuộc cũng không bao giờ còn nhắc đến chuyện này nữa.
Ở cái nơi nhỏ bé này của chúng tôi, quanh đây người ở cũng không có nhiều lắm, tang sự tự nhiên cũng ít, mười ngày nửa tháng mới kiếm được một mối tàm tạm, bởi vậy tiền thu về cũng ít nốt, đã thế sư phụ tôi lại còn hay thích uống rượu, cứ kiếm được đồng nào là lập tức sẽ đi làm liền hai chai, thế thì bảo sao mà không có tiền dư dả. Mấy ngày nay cuộc sống cũng rất túng thiếu.
"Tiểu Duẫn, ăn ít tí đi, lớn tướng rồi mà sao lại cứ thích tranh ăn với ông già này vậy." Lão đạo sĩ điên (*) ôm lấy chai rượu tu một ngụm, sau đó lầu bầu cái miệng.
(*) Ở đây Tiểu Duẫn chơi chữ đồng âm.
冯 /féng/ họ Phùng.
疯 /fēng/: điên.
Tôi không thèm để ý đến ông ấy, cơm nước xong ông đây còn phải lên núi đốn củi, không ăn cơm thì lấy hơi sức đâu ra mà làm? Tôi ăn hết một bát, làm thêm một bát ngô với hạt phỉ, rồi lại bỏ thêm một miếng dưa muối vào trong mồm, cuối cùng chùi miệng một cái: "Sư phụ, con lên núi chẻ củi đây."
Lão đầu uống đến đỏ bừng cả mặt, mắt thì đỏ lòm, lúc nói còn chẳng thèm nâng mắt lên: "Đã mang theo phù đi chưa?"
Tôi sờ phù đeo ở trong ngực một cái, gật gật đầu: "Mang theo rồi."
"Ừm." Lão đầu "hừ" cái mũi một cái, sau đó liền ngủ luôn.
Lão đầu nói tôi trời sinh dương thể, dương khí tràn trề, từ bé đến lớn không bao giờ bị ốm đau gì cả. Đến mùa đông cả người đều nóng rực như một lò lửa. Còn nói lũ ma quỷ rất thích kiểu người trời sinh dương thể như tôi, lúc còn bé có không ít lần ông lấy chuyện này ra để hù dọa cho tôi sợ. Dù sao cho tới tận giờ tôi cũng chưa từng gặp qua ma quỷ bao giờ, cho nên ông đây căn bản cũng cóc sợ.
Tôi nhấc dao, đeo sọt lên lưng rồi bước ra ngoài cửa. Cửa nhà tôi không giống như cửa những nhà bình thường khác, nó có hai cánh. Một cánh là cửa gỗ, bình thường lúc đi ra ngoài đều là đi bằng cánh này. Một cánh là cửa đồng, từ trước đến giờ chưa bao giờ từng thấy cánh cửa này được mở ra, lão đầu nói, cửa này không dành cho người sống.
Tôi vẫn luôn không tin, cho đến khi được tận mắt nhìn thấy, bấy giờ tôi mới tin.
Hôm nay, sau khi chặt củi, ăn cơm tối xong xuôi, tôi rửa mặt rồi đi ngủ.
Đang ngủ say, bỗng nhiên bị một trận kèn xô-na ầm ĩ đánh thức. Tôi mơ mơ màng màng mở mắt ra, muốn nhìn một chút xem có chuyện gì xảy ra. Chợt thấy lão đầu không biết từ bao giờ đã từ trong phòng của mình chạy sang rồi đi tới bên cạnh tôi. Thấy tôi há hốc mồm định nói thì lập tức bịt kín miệng tôi lại: "Đừng có lên tiếng, ở yên trong này, không được đi ra!" Dứt lời, ông khoác áo bước ra ngoài.
Bị lão đầu dọa sợ, tôi tỉnh ngủ hẳn, vội vàng ghé vào cửa sổ để nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Tiếng kèn xô-na càng lúc càng lớn, tôi nghe kỹ lại, hình như đây là nhạc hỉ thì phải? Không biết là nhà ai mà lại đi đón dâu vào giữa buổi tối thế này? Đúng là điên!
Tiếng nhạc hỉ càng lúc càng gần, có vẻ như đã ở ngay ngoài cửa, sau đó thì im bặt.
Tôi cảm thấy hơi sợ, nhưng lại không áp chế được sự hiếu kỳ ở trong lòng, thế là bèn lén đi xuống giường, trốn ở sau cửa, cẩn thận ngó ra nhìn sư phụ đang đứng ở trước cửa viện.
Một lát sau thì nghe được một giọng nữ lanh lảnh truyền đến: "Xin hỏi, đây có phải là nhà của Phùng đạo trưởng hay không?"
Người phụ nữ kia nói chuyện rất từ tốn, thoạt nghe có vẻ lạnh lẽo, khiến cho người ta phải sợ hãi.
"Xin hỏi là người từ phương nào tới vậy?" Sư phụ cao giọng hỏi.
Chưa bao giờ tôi thấy lão đầu nói chuyện với ngữ khí mạnh đến thế.
"Thiếp thân là Trần Lưu Thị đến từ trấn Trần gia, hôm nay đặc biệt tới đây để gặp mặt Phùng đạo trưởng."
Trấn Trần gia? Cách chỗ này phải tới hơn mười dặm, sao người phụ nữ này lại chạy được tới đây thế này? Lẽ nào đây lại chính là tình nhân già của lão đầu?
(*) 1 dặm (tính theo Trung Quốc) = 500 m.
Đợi đến khi tôi hồi thần thì lại nghe thấy lão đầu lớn tiếng nói: "Trần phu nhân, ta đã không còn nhận mấy vụ làm ăn kiểu này từ lâu lắm rồi, giảm thọ lắm, bà đi tìm người khác đi."
"Phùng đạo trưởng, con của tôi đã ngoài ba mươi rồi mà vẫn chưa lấy được vợ, bơ vơ một mình. Thân là một người mẹ, làm sao mà tôi có thể nhẫn tâm được đây? Van cầu ngài, xin ngài rủ lòng thương, giúp cho con trai tôi một mối hôn sự."
Tôi đứng ở phía sau nghe trộm, thật không ngờ lão đầu này lại còn làm cả mai mối. Không lẽ cái nhà này thực sự đã đến bước đường cùng rồi ư, cho nên lão đầu mới phải mở nghề phụ? Lòng hiếu kỳ của tôi lại nổi lên, bèn thăm dò bước lên phía trước mấy bước, lặng lẽ tới gần đại môn, muốn nghe được rõ ràng hơn một chút.
Người phụ nữ ở bên kia vẫn đang đau khổ cầu xin lão đầu giúp cho con trai của mình tìm được một mối hôn sự, thế nhưng lão đầu ở bên này thì vẫn khăng khăng không đồng ý. Tôi thầm nghĩ, sư phụ cũng sắp cạn túi rồi, mà người ta thì cũng đã tìm tới tận cửa, thế mà người vẫn còn làm kiêu, chẳng lẽ lại đang muốn lừa thêm một chút tiền nữa?
Tôi thấy sư phụ trầm ngâm một lúc, bóp bóp ngón tay, sau đó thở dài một tiếng: "Thôi được rồi thôi được rồi, ta biết mệnh số của ta vẫn còn thiếu nợ một việc nữa, đi vào đi."
Nói xong lão đầu mở cánh cửa bằng đồng kia ra.
Tôi kinh ngạc trợn tròn hai mắt, lão đầu này chẳng lẽ lại uống say quá rồi? Sao lại đi mở cánh cửa kia ra chứ, tuy rằng tôi cũng chẳng tin vào chuyện cửa sống cửa chết, thế nhưng ngày nào cũng nghe thấy lão đầu nhắc đến chuyện này, cho nên từ lâu tôi đã cho rằng, cánh cửa này không thể được mở ra.
Tôi vội vàng nhảy ra: "Lão đầu, người mở sai cửa rồi!" Vừa dứt lời, cửa đồng đã mở ra, nghe được tiếng, lão đầu quay lại nhìn về phía tôi. Đây là lần đầu tiên tôi được trông thấy vẻ mặt đó của lão đầu, khiếp sợ, hối hận, thậm chí là còn có một chút vẻ sợ hãi.
Không chờ tôi hồi thần lại, lão đầu đã quay người muốn đóng cánh cửa đồng kia lại, thế nhưng đã quá muộn.
Một trận cuồng phong từ bên ngoài cửa đột nhiên vọt vào bên trong, thổi mạnh đến mức tôi suýt chút nữa thì không thể mở được mắt ra nổi. Lúc mở mắt nhìn lại, đứng ở cửa là một đội ngũ đón dâu mặc đồ đỏ chót. Dẫn đầu là hai tiểu cô nương mặc váy dài màu đỏ, dáng vẻ phấn điêu ngọc mài trông rất đẹp, trên đầu có hai cái búi tóc, trên môi tô màu son đỏ tươi. Một tay xách giỏ, tay còn lại vung hoa giấy màu đỏ từ trong giỏ ra ngoài, mỉm cười chậm rãi bước qua ngưỡng cửa. Hoa giấy màu đỏ bay đầy trời, rơi xuống mặt đất, sau đó biến thành tiền giấy màu vàng sáng rọi. Quần áo trên người cũng nhanh chóng bị biến hóa, biến thành một thân đồ tang. Tiếng nhạc hỉ bên tai lúc này cũng biến đổi thành nhạc tang nốt. Đội chơi nhạc đi theo phía sau bọn họ mặt mày cứng đờ, lại bắt đầu chơi nhạc cụ, chậm chạp tiến về phía trước, kéo theo tiếng kèn xô-na vang lên vào giữa đêm khuya, nghe mà sởn hết cả gai ốc, nổi hết cả da gà.
Đi cùng với tiếng nhạc tang rợn người là một chiếc kiệu nhỏ làm bằng vải bố mềm mại đang lắc lư tiến vào trong sân. Thân kiệu được làm bằng vải bố màu trắng, ở phía trên có treo kim tuyến, kiệu được bốn người nâng lên. Đi ở phía sau kiệu là tám người đàn ông mặc áo trắng, cũng đang khiêng một chiếc hòm lớn hình chữ nhật màu đen. Lúc tôi nhìn kỹ lại, suýt chút nữa thì đái cả ra quần, mẹ nó kia chẳng phải là một cỗ quan tài lớn màu đen đấy à?! Ở phía trên còn đặt một vòng hoa lớn màu trắng, tiền giấy từ hai bên rơi xuống quan tài, rồi lại chậm rãi trượt xuống dưới mặt đất.
Tiếng nhạc tang dừng lại, cả đám người im bặt. Kiệu mềm nhẹ nhàng hạ xuống, một vị phu nhân mặc chiếc váy dài màu đen theo kiểu cổ xưa bước ra khỏi kiệu. Chân vừa duỗi ra, tôi liền nhận ra được ngay chân bà ấy là kiểu chân bó. Vừa ngẩng mặt lên, tôi lại toát hết mồ hôi ra thêm một lần nữa. Sắc mặt của bà ấy trắng bệch như một tờ giấy, môi đỏ như được bôi máu, trong mắt không hề có đồng tử, hốc mắt trông cứ như hai viên thủy tinh màu đen đang cứng nhắc nhìn chằm chằm vào người ta.
Vị phu nhân kia thi lễ với sư phụ của tôi: "Phùng đạo trưởng, nghe nói trước kia ngài có làm mai mối cho âm phủ, nếu có thể giúp cho con trai của nhà chúng tôi tìm được một mối duyên tốt, thì toàn bộ Trần gia nhà chúng tôi sẽ vô cùng cảm kích."
Nghe xong, tôi sợ đến mức ngồi phịch mông xuống dưới đất, đây có phải là làm mai mối cho người đâu, đây là lấy vợ cho quỷ thì có!
-
1. Kèn xô-na
2. Hẳn là mọi người cũng biết về tục bó chân cho "đẹp" của phụ nữ TQ thời xưa rồi nhỉ
/50
|